Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (573.07 KB, 51 trang )


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM
CỦA LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ
1.1. Một số khái niệm liên quan đến việc làm của lao động qua đào tạo nghề
1.1.1. Việc làm
a. Khái niệm
Theo khái niệm được đưa ra trong từ điển tiếng Việt "Việc làm là công việc
được giao cho làm và được trả công" [65, tr.1076]. Khái niệm này tương đối rộng,
tuy nhiên còn một thuật ngữ chưa mang tính phổ biến đó là tính chất công việc
"được giao". Người lao động hoàn toàn có thể tự tạo ra việc làm để có thu nhập mà
không cần phải ai giao việc cho.
Theo giáo trình Kinh tế lao động của Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà
nội, khái niệm việc làm được hiểu là: "trạng thái phù hợp về mặt số lượng và chất
lượng giữa tư liệu sản xuất với sức lao động, để tạo ra hàng hóa theo nhu cầu của
thị trường". Hiểu rộng ra có thể gọi việc làm là hoạt động có ích (sản xuất, dịch vụ,
nghiên cứu, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật quản lý v.v..) tạo ra/có thu nhập [71,
tr.19].
Theo Đại từ điển Kinh tế thị trường: "Việc làm là hành vi của nhân viên, có
năng lực lao động thông qua hình thức nhất định kết hợp với tư liệu sản xuất, để
được thù lao hoặc thu nhập kinh doanh"[71]. Thực chất là người lao động và tư liệu
sản xuất kết hợp. Trong chế độ Xã hội chủ nghĩa, người lao động là chủ tư liệu sản
xuất, việc làm có nghĩa là thực hiện quyền làm chủ, vừa là lao động cho cá nhân
người lao động, cũng lại là lao động xã hội. Khu vực làm việc có thể là các cơ sở
sản xuất kinh doanh Nhà nước, tập thể, tư nhân, có vốn đầu tư nước ngoài v.v…
Phân theo tính chất công việc có thể chia ra nhân công ổn định, nhân công hợp
đồng, tạm thời.
Theo một quan điểm khá tổng quát về việc làm: "…Việc làm là một phạm trù
kinh tế, tồn tại ở tất cả mọi hình thái xã hội, đó là một tập hợp những mối quan hệ


8
kinh tế giữa con người về việc đảm bảo chỗ làm việc và tham gia của họ vào hoạt
động kinh tế…." [26, tr.313]. Việc làm cũng là một phạm trù của thị trường khi
thuê một chỗ làm việc nhất định và chuyển người thất nghiệp thành người lao động.
Theo Bộ Luật lao động nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam thì việc
làm được xác định là: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm".
Từ các quan điểm trên, tác giả thống nhất với khái niệm: Việc làm là hoạt
động lao động của các cá nhân trong xã hội nhằm mục đích tạo ra thu nhập
(được trả công bằng tiền, hiện vật, trao đổi công; tự làm để tạo thu nhập, tạo lợi
ích cho gia đình không hưởng tiền công/lương).
b. Phân loại việc làm
Có nhiều cách nhìn nhận và phân loại việc làm, nhưng cơ bản là đứng trên
góc độ chủ thể hoạt động của việc làm là người lao động. Những hoạt động của
người lao động thể hiện hình thức, tính chất, đặc điểm, yêu cầu và cả xu hướng của
việc làm. Việc làm vì thế có thể phân loại theo chủ thể hoạt động lao động là người
lao động và chủ thể tạo việc làm trong nền kinh tế.
Người có việc làm, theo ILO: "người có việc làm là những người đang làm
một việc gì đó được trả tiền công hoặc những người tham gia vào các hoạt động
mang tính chất tự thỏa mãn lợi ích thay thế thu nhập của gia đình".
Theo Tổng cục thống kê: "Người có việc làm là những người đang làm việc
trong thời gian quan sát và những người trước đó có việc làm nhưng hiện đang nghỉ
tạm thời vì các lý do như ốm đau, đình công, nghỉ hè, lễ, trong thời gian sắp xếp lại
sản xuất, do thời tiết xấu, máy móc hư hỏng…"
Người có việc làm là người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành
kinh tế quốc dân mà trong tuần lễ liền kề trước thời điểm điều tra (gọi tắt là tuần lễ
tham khảo) có thời gian làm việc không ít hơn mức chuẩn qui định (trường hợp của
Việt nam, mức chuẩn này là 8 tiếng) đối với người được coi là có việc làm. Người
có việc làm có thể chia thành 2 nhóm là người đủ việc làm và người thiếu việc làm.


9
Người đủ việc làm là người có số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo lớn
hơn hoặc bằng 36 giờ; hoặc những người có số giờ làm việc nhỏ hơn 36 giờ nhưng
bằng hoặc lớn hơn giờ chế độ qui định đối với các công việc nặng nhọc, độc hại.
Người thiếu việc làm là người có số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo dưới 36
giờ; hoặc ít hơn giờ theo chế độ qui định đối với các công việc nặng nhọc, độc hại
mà vẫn có nhu cầu làm đủ giờ.
Theo hoạt động của mỗi cá thể người lao động việc làm có thể chia ra thành:
việc làm chính, việc làm phụ. Việc làm chính là công việc mà người thực hiện dành
nhiều thời gian nhất so với công việc khác. Việc làm phụ là công việc mà người
thực hiện dành nhiều thời gian nhất sau công việc chính. Trong trường hợp việc
làm chính và phụ có thời gian bằng nhau thì việc làm nào có thu nhập cao hơn được
xem là việc làm chính. Xét về tính chất việc làm, việc làm có thể mang tính chất ổn
định hay tạm thời. Việc làm ổn định trong một năm đối với người lao động có thời
gian làm việc từ 6 tháng trở lên. Việc làm tạm thời là những công việc dưới 6 tháng.
Việc làm cũng có thể phân loại theo nhiều hình thức như làm công ăn lương,
tự tạo việc làm. Ở nước ta, thống kê lao động có việc làm phân ra thành 5 nhóm:
Việc làm được trả công khu vực công và khu vực tư nhân (người đang làm việc và
người học việc hiện đang làm việc được trả công bằng tiền mặt hoặc hiện vật); việc
làm tự tạo (tự tạo việc làm cho mình); những người làm việc trong gia đình không
được trả công; những người tham gia sản xuất cho tiêu dùng của bản thân.
Các nền kinh tế khác nhau có hình thức tổ chức khác nhau, nhưng thông
thường phân theo các tổ chức thuộc khu vực nhà nước, khu vực doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh, khu vực các tổ chức cộng đồng và khu vực có yếu tố nước ngoài.
Theo phân loại của cuộc điều tra thực trạng việc làm và thất nghiệp hàng năm của
Bộ LĐ-TB&XH phân ra, việc làm trong [18, tr.27]:
+ Khu vực hành chính: cơ quan tổ chức hành chính nhà nước (các cấp
Bộ/Ban/Ngành ở trung ương, tỉnh, huyện, xã…),
+ Khu vực sự nghiệp: các đơn vị sự nghiệp (Giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin,
truyền hình, thể thao v.v..) gồm cả công lập, bán công, tư thục và dân lập;


10
+ Khu vực cộng đồng: các cơ quan đảng, đoàn, tổ chức chính trị, các hiệp hội;
+ Khu vực sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp trong nước: các doanh nghiệp
Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh
và doanh nghiệp tư nhân;
+ Khu vực hợp tác xã: hiện đang hoạt động theo luật hợp tác xã;
+ Khu vực kinh tế hộ: kinh tế cá thể, hộ gia đình;
+ Khu vực có yếu tố nước ngoài: việc làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài và trong các cơ quan, tổ chức và cá nhân nước ngoài khác.
1.1.2. Lao động qua đào tạo nghề
a. Đào tạo nghề
Khái niệm đào tạo thường đi liền với giáo dục và thành một cặp đôi là giáo
dục - đào tạo. Giáo dục được hiểu là các hoạt động và tác động hướng vào sự phát
triển và rèn luyện năng lực (bao gồm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo...) và phẩm chất
(niềm tin, tư cách, đạo đức...) ở con người để có thể phát triển nhân cách đầy đủ
nhất và trở nên có giá trị tích cực đối với xã hội.
Khái niệm đào tạo, theo từ điển tiếng Việt được hiểu là việc: "làm cho trở
thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định" [65,tr.279]. Cắt nghĩa
động từ đào tạo này là hoạt động trang bị cho người lao động năng lực (kiến thức,
kỹ năng, thái độ) theo một tiêu chuẩn định trước để cho người lao động có năng lực
và trở nên hữu ích trong một số công việc hoặc hoạt động xã hội.
Từ góc nhìn của các nhà giáo dục và đào tạo Việt nam, khái niệm tương đối
đầy đủ là: "Đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm đạt được
các kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo trong lý thuyết và thực tiễn, tạo ra năng lực để
thực hiện thành công một hoạt động xã hội (nghề nghiệp) cần thiết [39].
Theo giáo trình Kinh tế lao động của Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà
nội, khái niệm đào tạo là: "Quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn,
nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận được một công việc nhất
định" [83, tr.54]. Theo một khái niệm khác về đào tạo lao động kỹ thuật: "là quá

trình hoạt động đào tạo có mục đích, có tổ chức và có kế hoạch trong hệ thống đào

11
tạo kỹ thuật thực hành nhằm hình thành và phát triển kiến thức, kỹ năng, thái độ
cho mỗi cá nhân người lao động ở các cấp trình độ để có thể hành nghề, làm công
việc phức tạp với năng suất và hiệu quả cao, đồng thời có năng lực thích ứng với sự
biến đổi nhanh chóng của kỹ thuật và công nghệ trong thực tế" [30, tr.29].
Theo ILO: "Những hoạt động nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng và thái độ
cần có cho sự thực hiện có năng suất và hiệu quả trong pham vi một nghề hoặc
nhóm nghề. Nó bao gồm đào tạo ban đầu, đào tạo lại, đào tạo nâng cao, cập nhật và
đào tạo liên quan đến nghề nghiệp chuyên sâu" [94, tr.174].
Luật Dạy nghề đưa ra khái niệm như sau: "Dạy nghề là hoạt động dạy và học
nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học
nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa
học." [70, tr.9]. Luật cũng qui định có ba cấp trình độ đào tạo là sơ cấp nghề, trung
cấp nghề, cao đẳng nghề và về hình thức của hoạt động dạy nghề bao gồm cả dạy
nghề chính qui và dạy nghề thường xuyên.
Theo tác giả thì khái niệm đào tạo nghề như sau: "Đào tạo nghề là hoạt động
trang bị năng lực (tri thức, kỹ năng và thái độ) hành nghề cho người lao động để
người lao động có thể hành nghề hoặc tự tạo việc làm".
b. Lao động qua đào tạo nghề
Theo khái niệm đào tạo nghề nói trên thì một lao động được tính là lao động
đã qua đào tạo nghề khi lao động đó đã hoàn thành/trải qua ít nhất một hoạt động
đào tạo nghề. Khi xem xét việc lao động đã từng được đào tạo (đã từng trải qua),
thì không xem xét về mặt năng lực thực tế, không xem nặng vấn đề văn bằng chứng
chỉ, mà chủ yếu trên góc độ người đó đã từng được/tham gia học nghề. Thông
thường lao động qua đào tạo nghề là người đã trải qua (được học) lớp/khóa/chương
trình đào tạo nghề với nghề thuộc danh mục nghề đào tạo được ban hành.
Để đảm bảo đạt được kiến thức và kỹ năng nghề cần thiết cần qui định thời
gian tối thiếu đối với một khóa đào tạo nghề để được coi là đã qua đào tạo nghề.

Qua ý kiến của các chuyên gia và các nhà quản lý thì thời gian để có thể truyền đạt
kiến thức và kỹ năng nghề đơn giản phải cần tối thiểu một tháng. Kết thúc khóa

12
học, người học được thi hoặc kiểm tra đánh giá về kiến thức và kỹ năng nghề và
được cấp văn bằng, chứng chỉ nghề theo qui định.
Thông thường có ba nhóm cung cấp lao động qua đào tạo nghề đó là đào tạo
chính thức trong các trường thuộc hệ thống giáo dục kỹ thuật và dạy nghề, đào tạo
nghề nghiệp trước khi làm việc và đào tạo tại chức (tại chỗ) cho công nhân [128,
tr.15]. Việc xác định các khóa học, chương trình đào tạo không chỉ loại hình đào
tạo chính thức, mà tất cả các loại hình đào tạo khác nhau (Luật dạy nghề công nhận
các cơ sở dạy nghề bao gồm cả các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh). Lao
động qua đào tạo nghề được cung cấp từ nhiều nguồn khác nhau và được hiểu rộng
là đối tượng đã được trải qua học nghề dưới nhiều hình thức khác nhau.
Qua các tiêu chí trên, có thể đưa ra khái niệm: "Lao động qua đào tạo nghề
là những người đã hoàn thành ít nhất một chương trình đào tạo của một nghề
tại một cơ sở dạy nghề (gồm cả các cơ sở sản xuất kinh doanh) và được cấp văn
bằng chứng chỉ nghề hoặc được thừa nhận theo các qui định hiện hành".
Như vậy, lao động qua đào tạo nghề hiện không chỉ có nhóm CNKT được đào
tạo chính qui từ trường, lớp dạy nghề (quan niệm cũ), mà bao gồm lao động được
đào tạo ở cả ba cấp trình độ (theo Luật Dạy nghề) trong nhà trường và được dạy
nghề bởi doanh nghiệp, các cơ sở dạy nghề ngoài nhà trường hoặc tự học, được
truyền nghề và được thừa nhận bởi các qui định hiện hành.
Nhóm lao động chưa qua đào tạo được hiểu là những người chưa có bất kỳ
một loại văn bằng hoặc chứng chỉ nghề nào và thực tế cũng không đảm nhận một
công việc nào đòi hỏi chuyên môn/kỹ thuật từ 3 năm trở lên hoặc công việc đòi hỏi
chuyên môn/kỹ thuật nhưng kinh nghiệm chưa đủ 3 năm [18, tr.21].
Nhóm CNKT không bằng thường là đối tượng khó xác định. Theo thống kê
lao động việc làm hàng năm của Bộ LĐ-TB&XH thì CNKT không bằng, chứng chỉ
là những người tuy chưa qua một trường lớp đào tạo nào nhưng do tự học, do được

truyền nghề hoặc vừa làm vừa học nên họ đã có được kỹ năng, tay nghề tương
đương với bậc 1 của CNKT có bằng cùng nghề và thực tế đã làm công việc đang
làm từ 3 năm trở lên [18, tr.21].

13

Theo cách phân loại trước đây, xuất phát từ nguồn gốc đào tạo, lao động được
đào tạo ra gồm hai nhóm là công nhân kỹ thuật và cán bộ chuyên môn. Công nhân
kỹ thuật là người được đào tạo và được cấp bằng, chứng chỉ của bậc giáo dục
nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục để có năng lực thực hành, thực hiện các
công việc phức tạp do sản xuất yêu cầu. Những người được đào tạo ở cấp trình độ
khác như trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học thì xếp vào
nhóm `cán bộ chuyên môn’. Cán bộ chuyên môn là những người được đào tạo ở
các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, có trình độ học vấn cao,
có khả năng lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo một chuyên môn, nghiệp vụ nào đó.
Khi thống kê lao động, việc làm thường phân ra làm hai nhóm lớn là lao động
chưa qua đào tạo (không có CMKT) và lao động đã qua đào tạo (đồng nghĩa với có
CMKT). Lao động có chuyên môn kỹ thuật là cách gọi chung trên thị trường lao
động đối với lao động đã qua đào tạo bao gồm lao động qua đào tạo nghề và lao
động là cán bộ chuyên môn. Lao động có chuyên môn kỹ thuật không trùng với cán
bộ chuyên môn mà rộng hơn và lao động qua đào tạo nghề không trùng với công
nhân kỹ thuật mà rộng hơn.
Lao động phổ thông
Trung cấp nghề
Cao đẳng nghề
Cao đẳng

THCN
LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG


LAO

ĐỘNG



CMKT


qua
Đào
tạo
nghề
Sơ cấp nghề

Đại học & trên đại học
Nghề
không có
tính chất
kỹ thuật

Nghề có
tính chất
kỹ thuật

Sơ đồ 1.1: Minh họa phạm vi lao động qua đào tạo nghề


14
Thống kê lao động qua đào tạo nghề hiện nay với nhiều quốc gia có những

cách thức khác nhau. Đa phần các nước gọi là công nhân kỹ thuật/công nhân lành
nghề để chỉ các đối tượng làm công việc của người công nhân và có các trình độ
đào tạo nghề khác nhau. Kỹ thuật viên chủ yếu chỉ đối tượng lao động là công nhân
kỹ thuật được đào tạo nghề trình độ cao (tương tự cao đẳng nghề). Ở nước ta, lao
động qua đào tạo nghề được thống kê cho đến năm 2007 được hiểu là những lao
động thuộc lực lượng lao động có trình độ CNKT không bằng, chứng chỉ; CNKT
có chứng chỉ và sơ cấp, CNKT có bằng, chứng chỉ. Hiện tại, số liệu và những tính
toán đang dựa trên cách phân loại này mà chưa thay đổi dựa trên phân loại cấp trình
độ đào tạo trong Luật Dạy nghề.
1.2. Kết cấu việc làm và cung-cầu việc làm của lao động qua đào tạo nghề
1.2.1. Việc làm trong các lý thuyết kinh tế
Khi xem xét quan hệ cung - cầu và sự biến động của lực lượng lao động nói
chung và lao động qua đào tạo nghề nói riêng có thể vận dụng các mô hình việc
làm, cung cầu, dịch chuyển lao động, gia tăng và biến động việc làm. Các mô hình
kinh tế có liên quan đến việc làm, thất nghiệp nổi tiếng như trường phái cổ điển (A.
Smith và D. Ricardo), lý thuyết việc làm và thất nghiệp của C. Mác, lý thuyết việc
làm của J.M. Keynes mà ngày nay còn ảnh hưởng đến các chính sách việc làm của
các nền kinh tế.
A. Smith cho rằng trong điều kiện thị trường cạnh tranh tự do, bàn tay vô hình
đảm bảo quân bình và hoàn hảo trong xã hội, đạt được phúc lợi cá nhân và phúc lợi
chung. Ricardo và A. Marshall cũng cùng quan điểm khi cho rằng nền kinh tế thị
trường là nền kinh tế tự điều tiết và không thấy sự cần thiết điều tiết của Nhà nước
[26, tr.256]. Mô hình cổ điển có 4 hướng để làm tăng việc làm, đó là (i) cải tiến tổ
chức, dự báo tốt để tránh thất nghiệp cơ cấu; (ii) hạ thấp độ phi thỏa dụng biên của
lao động qua tiền lương thực tế; (iii) tăng thêm năng suất biên vật chất của lao động
trong các ngành sản xuất hàng hóa cho người ăn lương; và (iv) tăng giá hàng hóa
không giành cho người ăn lương so với giá các hàng hóa khác [51, tr.43].

15
Việc làm chiếm vị trí quan trọng và đầy ý nghĩa trong tác phẩm "Tư bản" của

Các Mác. C.Mác dựa trên các lý luận căn bản về giá trị thặng dư, qui luật dân số và
đặc biệt là cấu trúc hữu cơ của vốn. Công thức cơ bản về giá trị hàng hóa (c + v +
m), được cấu thành từ tư bản cố định (c), tư bản lưu động (v) và giá trị thặng dư
(m). C.Mác cho rằng cấu trúc hữu cơ của tư bản thay đổi trong quá trình tích lũy là
nguyên nhân căn bản của gia tăng hay giảm dần việc làm tương đối (tư bản lưu
động), so với tư bản cố định. Trong quá trình làm thay đổi cấu trúc hữu cơ của tư
bản, người công nhân vô hình dung đang làm giảm việc làm và đang tự biến mình
thành nhân khẩu thừa tương đối.
Jonh Meynard Keynes được biết đến như một nhà kinh tế lỗi lạc với công
trình nổi tiếng là Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ, xuất bản năm
1936 [51]. Keynes cho rằng tăng đầu tư làm tăng tổng cầu tăng và việc làm và Nhà
nước có vai trò chủ động can thiệp đến tổng cầu, sản lượng và việc làm của nền
kinh tế. Đồng thời khuynh hướng tiêu dùng biên và lãi suất cũng ảnh hưởng tới tập
hợp cầu và xác định mức việc làm. Dẫn đến, để kích thích kinh tế, thứ nhất, giảm
lãi suất cho phép tăng tín dụng; thứ hai, xã hội hóa đầu tư (đầu tư rộng và đúng);
thứ ba, những biện pháp không ngừng tăng tiêu dùng (kích cầu) [26, tr.273].
Mô hình Harrod - Domar xây dựng mối quan hệ giữa tăng trưởng sản lượng,
đầu tư và việc làm. Giữa gia tăng việc làm và sản lượng có mối quan hệ được thể
hiện bằng hệ số lao động-sản lượng, sự gia tăng việc làm về bản chất là một hàm số
của các mức khả năng tăng sản xuất phụ thuộc vào vốn đầu tư. Công thức phổ biến
của mô hình này là g=s/k, trong đó g là tỷ lệ tăng trưởng sản lượng, k tỷ số gia tăng
vốn/sản lượng, k được gọi là hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn đầu ra) [66, tr.83].
Về tăng trưởng và sự đóng góp của lao động, trường phái tân cổ điển (đại diện
chính là Robert Solow) đã lấy hàm sản xuất của Cobb-Gouglas làm cơ sở (hàm sản
xuất giản đơn: Y= KαL1-α, trong đó Y, K và L lần lượt là sản lượng, vốn và lao
động). A. Samuelson cũng thống nhất với các nhà kinh tế tân cổ điển khi cho rằng
tổng mức cung của nền kinh tế được xác định bởi các yếu tố đầu vào của sản xuất
là vốn, lao động, tài nguyên và công nghệ.

16

Mô hình nổi tiếng nghiên cứu sự dịch chuyển việc làm từ khu vực nông thôn
nghèo, lạc hậu (khu vực truyền thống) sang khu vực thành thị, công nghiệp (khu
vực hiện đại) là của Arthur Lewis (sau này được Fei và Ranis hoàn thiện). Mô hình
này giả định nền kinh tế có hai khu vực chính là nông nghiệp với đặc trưng lạc hậu
và dư thừa lao động; và công nghiệp đại diện cho khu vực hiện đại đang thu hút lao
động dịch chuyển từ nông nghiệp sang. Nhờ có quá trình dịch chuyển lao động này
việc làm ở nông thôn giảm đi, việc làm trong ngành công nghiệp hiện đại tăng lên.
Mô hình của H.T. Oshima coi trọng thúc đẩy việc làm ở cả hai khu vực. Quá
trình phát triển chia thành ba giai đoạn phù hợp với các nước đang phát triển là giai
đoạn bắt đầu, giai đoạn hướng tới việc làm đầy đủ và giai đoạn phát triển kinh tế
chiều sâu. Xét về dịch chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công
nghiệp và dịch vụ, hai mô hình cùng mang đến những chính sách phát triển kinh tế
dựa căn bản trên hai khu vực. Xuất phát từ mô hình Lewis với khu vực công nghiệp
là 'đầu kéo' hút lao động từ nông nghiệp sang, đến mô hình Oshima với giai đoạn
đầu lấy nông nghiệp là 'đầu đẩy' làm cho lao động dư thừa ở khu vực này dẫn đến
sự dịch chuyển sang khu vực công nghiệp, khu vực dịch vụ.
Kinh tế học hiện đại sau này xuất hiện khái niệm mới về nguồn vốn nhân lực.
Vốn nhân lực là toàn bộ trình độ chuyên môn mà một người lao động tích lũy được.
Nó được đánh giá cao vì có tiềm năng đem lại thu nhập trong tương lai [31,
tr.282]. Cung lao động không chỉ đơn thuần là việc người lao động có mặt trên thị
trường lao động mà còn bao gồm các kỹ năng mà họ có. Những kỹ năng này người
lao động thu được từ khả năng bẩm sinh, những gì người lao động được đào tạo và
kinh nghiệm họ đã trải qua.
Vốn nhân lực giả thiết rằng các mức chênh lệch của tiền lương phản ảnh sự
chênh lệch về năng suất lao động. Người có năng suất lao động cao hơn sẽ có được
thu nhập và tiền lương cao hơn. Và một lý luận cơ bản là giáo dục, đào tạo tạo ra
năng suất lao động cao hơn. Thu nhập và tiền lương phụ thuộc vào hai nhân tố
chính là tuổi tác và trình độ đào tạo. Những người có trình độ cao hơn có mức thu
nhập cao hơn và mức chênh lệch này càng lớn cùng với tuổi tác và kinh nghiệm.


17
1.2.2. Kết cấu việc làm và việc làm của lao động qua đào tạo nghề
Việc làm là phạm trù chỉ sự phù hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất
bao gồm cả về số lượng, chất lượng và các đặc điểm. Một đơn vị sức lao động có
thể vận hành/thực hiện bao nhiêu đơn vị tư liệu sản xuất hay còn được phản ảnh
bằng quan hệ hữu cơ C/V. Quan hệ hữu cơ giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến
dưới sự tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật dẫn đến sự thay đổi trạng thái và
mức độ phù hợp giữa trang bị vốn, công nghệ, máy móc thiết bị cho một chỗ làm
việc, ngoài ra còn phụ thuộc vào việc tổ chức lao động.
Theo quan điểm và giả thuyết của Keynes khi tính số lượng việc làm: việc
làm tương đương với đơn vị việc làm được chia nhỏ bằng các đơn vị công việc của
công việc giản đơn (không có kỹ năng) và tiền lương/tiền công xác định bằng đơn
vị tiền công cho một đơn vị việc làm giản đơn (w). Khi đó công thức tính tổng tiền
lương sẽ là: W= N x w, trong đó N là khối lượng việc làm. Giả thuyết như vậy cho
phép đo lường khối lượng việc làm mà không quan tâm đến vấn đề chất lượng lao
động trình độ, kỹ năng kỹ thuật của lao động, mức độ phức tạp, trang bị vốn…..
Việc làm = Chỗ làm việc (công việc) + sức lao động (lao động)
Chỗ làm việc = vốn đầu tư + công nghệ + tổ chức sản xuất + điều kiện khác
Sức lao động = sức khỏe thể lực + năng lực (kiến thức, kỹ năng, thái độ...)
Từ góc độ đầu tư Từ góc độ lao động


Chỗ làm việc/công việc Người lao động/Sức LĐ




Sơ đồ 1.2: Kết cấu một việc làm
1. Người lao động
2. Sức khỏe

3. Tri thức/kỹ
năng/thái độ
4. Tiền lương
5. Thời gian
6. Điều kiện lao
động

1. Vốn đầu tư
2. Nhà xưởng
3. Máy móc
4. Công nghệ
5. Tổ chức SX
6. Môi trường,
điều kiện làm
việc
1
việc làm


18
Thống kê việc làm nếu tính theo chỗ làm việc, trong trường hợp một chỗ làm
việc có 2 lao động trở lên làm thay ca. Nếu thống kê theo người lao động có việc
làm có thể dẫn đến thiếu việc làm nếu một lao động làm từ 2 công việc trở lên (tính
cả số việc làm bán thời gian). Tuy nhiên, các thống kê đều tính đủ theo người lao
động dù họ làm 2 công việc cùng một lúc vì chủ yếu thống kê theo lao động chứ
không thống kê theo chỗ làm việc. Do đó, tính số lượng việc làm theo lao động
đảm bảo được các yêu cầu (i) chính xác hơn khi so với tính theo chỗ làm việc, (ii)
phù hợp hơn vì nghiên cứu chủ yếu về nhóm đối tượng có kỹ năng cụ thể và (iii)
thuận lợi hơn vì đo theo người lao động với các đặc tính kèm theo không phức tạp
như tính các chỗ làm việc.

Chất lượng việc làm dưới giác độ xã hội, yếu tố quan trọng là việc toàn dụng
nhân công, mọi người đều có việc làm và có được việc làm phù hợp với luật pháp,
việc làm nhân văn, việc làm tử tế v.v.... Chất lượng việc làm dưới góc độ người lao
động gồm các yếu tố cơ bản là có thu nhập/tiền lương/tiền công cao (lợi ích từ việc
làm lớn); các chế độ bảo đảm việc làm và linh hoạt việc làm (an ninh việc làm); sự
phù hợp với năng lực và sở thích cá nhân; và có các điều kiện phát triển (đào tạo,
thăng tiến nghề nghiệp).
Cụ thể với một chỗ việc làm, vốn đầu tư thấp đòi hỏi người lao động phải có
sức khỏe, trình độ CMKT phù hợp. Vốn đầu tư lớn, công nghệ cao, máy móc thiết
bị hiện đại đòi hỏi người lao động phải có CMKT cao tương ứng. Trong ngắn hạn
sự phù hợp là tương đối, có thể có những điểm chưa phù hợp hoặc từ phía chỗ việc
làm hoặc từ phía người lao động. Sự phù hợp là trạng thái cân bằng dài hạn giữa
yêu cầu của chỗ làm việc và năng lực người lao động.
Trong dài hạn, chi phí tiền lương cho một chỗ làm việc theo lợi ích của người
sử dụng lao động thì chỉ trả đúng theo yêu cầu CMKT và sức lao động cần thiết
tương ứng và không trả cao hơn để đảm bảo thu được lợi ích cho đầu tư lớn nhất.
Nếu lao động không đáp ứng được yêu cầu CMKT của vị trí việc làm, người chủ sẽ
sớm sa thải để tìm người lao động khác phù hợp với chi phí tiền công, tiền lương
bỏ ra cho chỗ làm việc đó. Ngược lại, nếu người lao động có CMKT cao hơn yêu
cầu công việc và tiền lương chi trả cho chỗ làm việc (trong một thị trường lao động

19
linh hoạt), anh ta sẽ sớm rời bỏ chỗ làm đó để tìm việc làm khác đòi hỏi CMKT cao
hơn để có tiền lương và thu nhập cao hơn.
Điểm căn bản là trạng thái phù hợp trong kết hợp xảy ra khi người tạo ra việc
làm kết hợp được tối ưu để sử dụng triệt để khả năng của người lao động với các
điều kiện trang bị sẵn có/đã đầu tư với mức chi phí lao động thấp nhất. Nếu người
lao động thừa năng lực thì việc làm không/chưa hiệu quả hoặc chưa tối ưu đối với
người lao động, nhưng người chủ vẫn đạt được hiệu quả tối ưu nếu chi phí tiền
lương và các điều kiện chi trả khác không phải tăng lên.

Như vậy về dài hạn, việc làm của một nhóm lao động có kỹ năng nhất định có
thể đo bằng số lượng lao động có kỹ năng đó hiện đang có việc làm. Việc làm của
lao động qua đào tạo nghề là việc làm của lao động có việc làm thuộc nhóm đối
tượng đã được đào tạo nghề. Điểm khác biệt là kỹ năng của người lao động thuộc
về nhóm đối tượng đã được đào tạo nghề.
Các nghiên cứu nói chung về lao động và việc làm đều xuất phát/tiếp cận từ
góc độ lao động. Nghiên cứu việc làm chủ yếu là trên cơ sở nghiên cứu các đặc
điểm làm việc của người lao động (số lượng việc làm, cơ cấu, qui mô, ngành, nghề,
lĩnh vực, kỹ năng, tiền lương, thu nhập, điều kiện lao động,...). Nghiên cứu việc
làm của lao động qua đào tạo nghề vì thế chủ yêú gắn với khía cạnh kỹ năng và các
điều kiện làm việc của người lao động, các nội dung chủ yếu là:
+ Số lượng/cơ cấu theo cấp trình độ, theo ngành nghề, vùng, khu vực sở hữu
+ Cơ hội việc làm và việc làm phù hợp.
+ Chính sách và các vấn đề trong sử dụng lao động qua đào tạo nghề.
+ Chất lượng việc làm: tiền lương, thu nhập, điều kiện làm việc,
+ Đào tạo, phát triển lực lượng lao động qua đào tạo nghề;
1.2.3. Cung – cầu việc làm của lao động qua đào tạo nghề
Về bản chất, cung cầu việc làm của lao động qua đào tạo nghề biểu hiện trên
thị trường lao động là cung cầu kỹ năng. Sự vận động của các yếu tố cung và cầu
kỹ năng cũng phải tuân theo qui luật vận động chung của thị trường.

20
a) Cung việc làm hay cầu lao động kỹ năng và các nhân tố ảnh hưởng
Trên giác độ đầu tư sản xuất kinh doanh (tạo chỗ làm việc): đầu tư và tổ chức
tạo ra các vị trí, chỗ làm việc. Biểu hiện là số vốn/máymóc thiết bị và các điều kiện
cho một chỗ làm việc và các điều kiện khác như môi trường, tổ chức, không gian
và các yếu tố điều kiện xã hội (hội, công đoàn v.v..). Trong đó yếu tố vốn đầu tư để
tạo nên một chỗ làm việc (công việc) thường được quan tâm và làm cơ sở tính toán.
Khi đó các biểu hiện, thông số để xem xét về việc làm sẽ là: (i) lượng vốn đầu tư
tạo 1 chỗ việc làm (suất đầu tư); (ii) các điều kiện tổ chức sản xuất kinh doanh; (iii)

điều kiện cần thiết để có thể thuê lao động.
Điều kiện quan trọng là các yếu tố tạo nên sự kích thích đầu tư tạo chỗ làm
việc đó là lợi ích của người sử dụng lao động (chủ doanh nghiệp). Việc làm tạo ra
trên cơ sở theo đuổi mục tiêu lợi nhuận của người chủ thu lại được từ đầu tư và sự
kết hợp với lao động (không tính toán các yếu tố thương mại để bán sản phẩm).
Quyết định tạo thêm một chỗ việc làm của doanh nghiệp khi sự kết hợp tối ưu
giữa C và V và khi chi phí biên cho sức lao động bằng doanh thu biên của sản
phẩm đồng thời khi đó tiền công bằng sản phẩm giá trị biên của lao động.
Tiền công
Tiền công
Wo E

NSLĐ biên

L* Số lượng nhân công
Biểu đồ 1.1: Quyết định số lượng việc làm của doanh nghiệp
Qui luật năng suất lao động biên giảm dần làm đường năng suất lao động
giảm dần. Phía trái L*, việc thuê thêm nhân công có lợi cho hãng vì tăng doanh thu
cao hơn là chi phí cho lao động. Phía phải L*, việc thuê thêm nhân công sẽ làm
tăng chi phí hơn là tăng doanh thu. L* là mức thuê nhân công tối ưu.

21
Về cơ bản tạo chỗ việc làm hay cầu kỹ năng trên thị trường lao động sẽ do
yếu tố kinh tế quyết định. Các chủ thể sản xuất là các doanh nghiệp, người sử dụng
lao động sẽ là người có nhu cầu thuê/mua các kỹ năng của người lao động có kỹ
năng. Nhu cầu phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, nhưng cơ bản là phụ thuộc
tăng trưởng kinh tế và đầu tư sản xuất và đặc điểm công nghệ sản xuất.
Các nhân tố ảnh hưởng đến tập hợp cung việc làm như: tăng trưởng và phát
triển kinh tế, tăng đầu tư, thay đổi cấu trúc sản xuất trong nền kinh tế, thay đổi cấu
trúc ngành, dịch chuyển lao động, thay đổi công nghệ, các yếu tố chi phí sản xuất,

tư liệu sản xuất hay tiền lương thay đổi. Tập hợp cung việc làm có thể được biểu
diễn bằng hàm sau: Y = f (C, V, X, ....) trong đó các nhân tố cơ bản là vốn đầu tư
và công nghệ quyết định cả về số lượng và sự kết hợp giữa vốn và lao động đồng
thời với các yếu tố tổng hợp khác tạo nên số lượng và kết cấu việc làm.
c) Cầu việc làm hay cung lao động có kỹ năng và các nhân tố ảnh hưởng
Xuất phát từ góc độ người lao động, nhu cầu làm việc của các cá nhân thông
thường xuất phát từ các nhu cầu: tạo và có thu nhập, phù hợp về sức khỏe, đặc
điểm và năng lực cá nhân (tri thức, kiến thức, kỹ năng, thái độ); điều kiện lao động
(môi trường/luật pháp, quan hệ lao động và tổ chức lao động).
Các nhân tố tác động đến tập hợp cầu việc làm gồm: Số lượng lao động (L),
chất lượng hay năng lực lao động T (kiến thức, kỹ năng, sức khỏe...), tiền lương/thu
nhập (S) và các điều kiện làm việc khác (O) (điều kiện học tập, thăng tiến, môi
trường làm việc, tổ chức xã hội và các quyền của người lao động). Khi đó tập hợp
cầu việc làm có thể được biểu diễn dưới dạng hàm sau: Y = f (L, T, S, O....).
Cầu việc làm của lao động qua đào tạo nghề về cơ bản không có sự khác biệt
vì cũng là cầu việc làm, nhưng chỉ khác nhóm đối tượng lao động có CMKT cụ thể
là đã qua đào tạo nghề. Trong dài hạn, cầu việc làm sẽ tương ứng với lao động có
việc làm với các đặc điểm việc làm hiện tại của lao động qua đào tạo nghề tương
đương cung lao động qua đào tạo nghề (không tính thất nghiệp).
Về cơ bản cung lao động qua đào tạo nghề do ba bộ phận chủ yếu trong nền
kinh tế (gồm cả hệ thống giáo dục và khu vực sản xuất kinh doanh) đảm nhận, đó là

22
đào tạo chính thức trong các trường thuộc hệ thống giáo dục kỹ thuật và dạy nghề,
đào tạo nghề nghiệp trước khi làm việc thường là ngoài nhà trường; và đào tạo tại
chức (tại chỗ) cho người lao động.
Cả ba bộ phận của hệ thống cung cấp có mục tiêu: (i) thu hút, hứng và đỡ
những học sinh không học được lên hơn nữa và học sinh bỏ học không bị 'đào thải'
ra khỏi hệ thống giáo dục, đào tạo; (ii) giữ cho người lao động tránh khỏi bị lạc
hậu, không bị `bật khỏi’ thị trường lao động do thiếu kỹ năng; và (iii) cung cấp cho

người sử dụng những công nhân và kỹ thuật viên có tay nghề, kỹ thuật. Ngoài ra,
còn có các mục tiêu khác như đảm bảo cho học sinh, sinh viên và người học những
kỹ năng nghề nghiệp phổ biến làm hành trang cho việc học tập suốt đời [128, tr.15].
Các mục tiêu nói trên, nhìn chung là để đảm bảo cung cấp kỹ năng cho thị trường
lao động. Nhưng không phải bao giờ cũng đảm bảo cung ứng đầy đủ, phù hợp (số
lượng, cơ cấu, chất lượng) với nhu cầu thị trường.
Trên thị trường lao động với một lượng lao động hiện hữu có cùng một kỹ
năng hoặc tập hợp một lượng lao động với các kỹ năng khác nhau sẽ tạo nên một
lượng cung. Tương ứng với nó là tập hợp lượng cầu kỹ năng từ khu vực sản xuất và
nền kinh tế. Trong ngắn hạn và trung hạn, sự vận động của cung cầu phụ thuộc chủ
yếu vào mức tiền lương, tiền công trả cho người lao động ở mỗi mức kỹ năng khác
nhau. Khi có sự gia tăng về cầu lao động ở một mức kỹ năng cụ thể, trong khi
lượng cung dài hạn trên thị trường chưa có sự thay đổi, tiền lương sẽ là biến điều
chỉnh quan hệ tương quan cung cầu này. Về dài hạn, khoảng cách và sự khác biệt
về tiền lương sẽ dẫn đến tăng lượng cung cho mức và loại kỹ năng mà thị trường
đang có nhu cầu cao.
Trong mối tương quan với sản xuất của nền kinh tế, khi năng lực sản xuất
được mở rộng, những nhu cầu lao động được mở rộng theo hướng làm dịch chuyển
đường cầu từ D1 sang D2 thay vì thay đổi tiền lương, tiền công đối với điều chỉnh
tạm thời trên thị trường lao động.
Trong tương quan trên thị trường lao động với phân khúc việc làm có kỹ năng
thì đào tạo là yếu tố cơ bản chủ yếu làm tăng cung lao động có kỹ năng ở một mức

23
kỹ năng và loại kỹ năng cụ thể. Tuy nhiên đào tạo là yếu tố cung mang tính dài hạn,
không phản ứng tức thì trên thị trường lao động mà phải có quá trình và thời gian
để đào tạo, thời gian để người lao động trau dồi kỹ năng, thời gian để chuyển đổi
nghề nghiệp, công việc và đào tạo lại v.v.....
Tiền lương
D1 D2 S1 S2


W2
W1

0 L1 L2 Lao động
Biểu đồ 1.2: Cung cầu kỹ năng trên thị trường lao động
Trong dài hạn khi đào tạo tăng nhanh mức cung lao động có kỹ năng ra thị
trường sẽ làm dịch chuyển đường cung từ S1 sang S2. Khi cân đối cung cầu đảm
bảo và đào tạo đáp ứng tốt nhu cầu nền sản xuất thì về cơ bản tiền lương, tiền công
(thực tế) không có sự thay đổi lớn.
Về cơ bản có thể phân tích mối quan hệ đào tạo, việc làm trên thị trường lao
động thông qua phân tích quan hệ cung cầu lao động có kỹ năng. Xem xét vai trò
chủ động của hệ thống đào tạo nghề trong cung ứng lao động có kỹ năng, một số
nhân tố chủ yếu tác động đến cung lao động qua đào tạo nghề như: (i) Đầu vào là
học sinh với trình độ khác nhau (Chất lượng dân số, kết quả giáo dục và phân luồng
đào tạo); và (ii) Năng lực cung đào tạo của hệ thống đào tạo nghề.
Trong trường hợp một số nền kinh tế chuyển đổi (trường hợp của Cộng hòa
Séc), có một hệ thống đào tạo với tỷ lệ lớn học sinh trung học (60-85%) vào luồng
đào tạo nghề. Cung lao động qua đào tạo nghề quá nhiều tạo sức ép lớn về giải
quyết việc làm cho người lao động. Các nền kinh tế này sẽ buộc phải cải cách
thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô và cải cách thị trường lao động để gia tăng

24
sức hút, tạo việc trong khu vực tư nhân nhằm điều chỉnh cơ cấu lao động. Sau đó đa
dạng hóa chương trình đào tạo, giúp người lao động thay đổi kỹ năng cho phù hợp.
Khi nền kinh tế có tốc độ tăng lực lượng lao động lớn hơn nhiều so với tốc độ
gia tăng việc làm, áp lực tạo việc làm gia tăng, áp lực cạnh tranh tìm kiếm việc làm
cũng tăng, dẫn tới xu hướng gia tăng thất nghiệp. Một số quốc gia đã phải điều
chỉnh thông qua chính sách giáo dục, đào tạo bằng cách tăng thời gian học tập
THCS, THPT, tăng lượng học sinh học nghề thay vì đi làm ngay bằng cách giảm

chi phí giáo dục, và tránh cho học sinh bỏ học. Thời gian đi học kéo dài hơn đối với
toàn bộ lực lượng lao động sẽ giảm bớt số lượng học sinh bỏ học, nghỉ học và tham
gia lao động sớm, làm giảm áp lực việc làm.
Tăng thời lượng đào tạo, kéo dài thời gian học tập để giảm áp lực cung lao
động và cung lao động có trình độ thấp là chính sách mà nhiều quốc gia đã áp dụng
(Hy Lạp, Malaysia). Một số quốc gia điều chỉnh cơ cấu cung bằng cách tạo điều
kiện tăng cung lao động qua đào tạo nghề mà giảm cung lao động có trình độ đại
học (Hy lạp) bằng cách tăng chi phí đào tạo đại học để nắn dòng chảy học sinh vào
học nghề. Cách thức chính phủ mở rộng đào tạo nghề thông qua chính sách tài
chính không phải là mở rộng tín dụng cho đào tạo nghề, học nghề mà thắt chặt tín
dụng đối với đào tạo đại học [128, tr.16]. Có quốc gia lại sử dụng chính sách tạo cơ
hội tốt hơn và tăng kỳ vọng việc làm của người lao động qua đào tạo nghề. Kết quả
là tăng số người đi học nghề và giảm bớt áp lực việc làm đối với lao động trẻ.
Thiếu hụt cung kỹ năng cũng là trường hợp phổ biến của nhiều nền kinh tế.
Các nước có tốc độ tăng trưởng nền kinh tế quá nhanh dẫn đến tăng nhu cầu lao
động qua đào tạo nghề trong khi lượng cung đối tượng này trong nền kinh tế không
kịp đáp ứng. Hệ quả là gia tăng mức tiền lương đối với lao động có tay nghề cao,
khoảng cách tiền lương giữa lao động không có tay nghề và lao động qua đào tạo
nghề tăng mạnh. Cung lao động qua đào tạo nghề và các kỹ thuật viên trên thị
trường trở nên không co dãn đối với tiền lương so với nhóm chưa qua đào tạo nghề
hoặc không có nghề. Một số quốc gia đã trải qua tình trạng này như Hàn quốc và
Malaysia những năm 1980-1990, Chile những năm 1980, khi nhu cầu lao động qua
đào tạo nghề rất lớn so với lao động không nghề. Hàn quốc đã giải quyết bằng cách

25
tăng cung của hệ thống đào tạo nghề nghiệp lên và tiền lương thực tế tăng lên nhiều
trong giai đoạn 1975-1993. Khoảng cách tiền lương giữa qua đào tạo nghề và lao
động không nghề giảm từ 2,5 lần xuống còn 1,5 lần. Để đáp ứng cầu lao động qua
đào tạo nghề tăng nhanh như vậy việc quan trọng là phải làm sao khuyến khích,
động viên và thúc đẩy đào tạo của doanh nghiệp đặc biệt là loại hình đào tạo tại

chức, kèm cặp tại chỗ [128, tr.8].
1.3. Vai trò và đặc điểm của lao động qua đào tạo nghề
1.3.1. Vai trò của lao động qua đào tạo nghề
Việc làm biểu hiện chỗ, vị trí, yêu cầu kỹ năng của người lao động. Mỗi chỗ
việc làm xác định bởi tập hợp các yêu cầu về hạ tầng, máy móc thiết bị, công nghệ,
điều kiện làm việc, các chính sách, thiết chế ràng buộc và yêu cầu về kỹ năng của
người lao động. Cơ cấu việc làm về dài hạn được phản ảnh vào kết cấu của lực
lượng lao động có việc làm trong nền kinh tế. Các nền kinh tế có trình độ sản xuất,
trình độ công nghệ khác nhau và mức độ công nghiệp hóa khác nhau, qui mô và vai
trò của đội ngũ và việc làm của lao động qua đào tạo nghề khác nhau.
Cấu trúc trình độ CMKT của lực lượng lao động có xu hướng tăng dần tỷ lệ
lao động có CMKT bậc cao so với các cấp trình độ CMKT thấp hơn. Quá trình
phân hóa CMKT của lực lượng lao động dần dần hình thành và phát triển nhanh đội
ngũ lao động là công nhân 'cổ trắng' so với lớp công nhân 'cổ xanh'. Theo số liệu
của ILO, ở các nước phát triển đội ngũ công nhân bán lành nghề chiếm khoảng 5-
15%, công nhân lành nghề chiếm khoảng 30-50%, kỹ sư kỹ thuật và công nghệ
chiếm khoảng 36-40%, lao động quản lý khoảng 22%, các nhà nghiên cứu và phát
minh khoảng 14%. Trong khi đó ở các nước đang phát triển tỷ lệ tương ứng là
60%, 22%, 9%, 6,5% và 2,5% [38, tr.16]. Khác biệt lớn là sự thay đổi cơ cấu ngay
trong nhóm lao động qua đào tạo nghề giữa hai trình độ phát triển kinh tế khác
nhau. Các nền kinh tế phát triển thì tỷ lệ công nhân lành nghề cao (50-70%) so với
tỷ lệ này ở các nền kinh tế đang phát triển (20-30%). Những nền kinh tế đang trong
quá trình công nghiệp hóa như Malaysia, Indonesia, Thái lan v.v... tỷ trọng lao
động qua đào tạo nghề đang tăng lên nhanh chóng và chiếm khoảng 50%.

26
Việc làm của lao động qua đào tạo nghề đóng vai trò quan trọng trong tổng
thể việc làm của lực lượng lao động và trong kết cấu lao động có CMKT. Biểu hiện
thông qua mức độ tập trung việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở các khu vực
công nghiệp, dịch vụ, khu vực kinh tế hiện đại. Trong tương lai, khi khu vực nông

nghiệp thu hẹp dần, lao động qua đào tạo nghề sẽ là lực lượng lao động chính tạo ra
của cải vật chất cho nền kinh tế. Xét trên góc độ người tiêu dùng trong nền kinh tế
thì lực lượng lao động qua đào tạo nghề là những công dân tầng lớp trung lưu đông
đảo và là những người tiêu dùng chính trên thị trường hàng hóa, dịch vụ.
Lực lượng lao động đang tham gia sản xuất chính trong nền kinh tế là đội ngũ
công nhân, những người trực tiếp sản xuất trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề của
nền kinh tế. Lao động qua đào tạo nghề vì thế sẽ là lực lượng tiên phong trong quá
trình chuyển giao công nghệ, nắm bắt các công nghệ tiên tiến và là biểu tượng của
giai cấp công nhân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Lao động qua đào tạo nghề đang là nhóm được quan tâm nhiều trong cạnh
tranh nguồn nhân lực giữa các nước trong khu vực có nền kinh tế phát triển tương
đồng. Cạnh tranh có thể là gián tiếp thông qua hàng hóa xuất nhập khẩu hoặc cạnh
tranh trực tiếp thông qua cung cấp kỹ năng trên thị trường lao động quốc tế. Các
nước phát triển tỷ trọng lao động làn nghề cao lớn hơn so với lao động có trình độ
tay nghề thấp và không có tay nghề. Ở nước ta, tỷ trọng lao động có trình độ
CMKT bậc trung sẽ tăng nhanh. Trong đó, nhóm lao động qua đào tạo nghề sẽ là
lực lượng chủ đạo, biểu trung cho chất lượng nguồn nhân lực trong thời gian tới.
1.3.2. Một số đặc điểm chủ yếu về việc làm của lao động qua đào tạo nghề
a) Việc làm của lao động qua đào tạo nghề mang tính chất thực hành và
gắn với hoạt động sản xuất trực tiếp
Theo danh mục nghề nghiệp làm việc cho thấy một số đặc điểm cơ bản là:
việc làm mang tính chất thực hành, phân bố vị trí công việc gắn với khu vực trực
tiếp sản xuất kinh doanh hoặc cung ứng dịch vụ, đại bộ phận việc làm này là công
việc làm thuê, trình độ kỹ năng kỹ thuật mức trung bình, thu nhập và điều kiện lao
động ở mức trung bình của xã hội.

27
Việc làm của lao động qua đào tạo nghề thường là những công việc trong các
công xưởng, nhà máy chế biến, chế tạo, công nhân trong các công trường xây dựng,
vận hành máy móc thiết bị, lái xe trong các doanh nghiệp vận tải, công nhân sửa

chữa bảo trì các thiết bị máy cơ khí, công nghệ kỹ thuật điện, điện tử v.v.... một bộ
phận khác nằm trong nhóm lao động phục vụ như lái xe, kỹ thuật viên số liệu, kế
toán, hành chính văn phòng, lễ tân trực điện thoại v.v...
Nhóm nghề nghiệp việc làm chủ yếu của lao động qua đào tạo nghề tập trung
vào nhóm việc làm có trình độ CMKT bậc trung. Trong số những công việc phân
loại (theo danh mục nghề nghiệp do Tổng cục Thống kê) thì lao động qua đào tạo
nghề tập trung rất nhiều vào các công việc thuộc nhóm 6,7,8 (Nhóm6: nhóm lao
động có kỹ thuật trong nông nghiệp; nhóm 7: thợ thủ công có kỹ thuật và các thợ có
kỹ thuật khác có liên quan và nhóm 8: thợ kỹ thuật vận hành và lắp ráp máy móc
thiết bị).

Tất cả những loại việc làm thuộc các nhóm này, phần lớn là loại hình công
việc thực hành đúng như tên gọi của nó ví dụ: thợ sơn, thợ gia công kim loại, thợ
làm khuôn đúc, thợ rèn, thợ cơ khí và lắp ráp v.v...
Việc làm của lao động qua đào tạo nghề tập trung nhiều trong các khu vực
công nghiệp với các nền kinh tế đang trong quá trình công nghiệp hóa. Các nước
phát triển càng ngày càng rút được nhiều lao động ra khỏi khu vực sản xuất công
nghiệp nhờ công nghệ tự động hóa, công nghệ thông tin để chuyển sang khu vực
dịch vụ. Việc làm trong khu vực dịch vụ đòi hỏi những giao tiếp và sự hiện diện
của con người khó thay thế. Với các nền kinh tế đã phát triển như các nước Mỹ,
Anh, Pháp, Đức.... thì khu vực dịch vụ là khu vực thu hút nhiều lao động qua đào
tạo nghề (chiếm trên 50% lực lượng lao động và 70% lao động qua đào tạo nghề).
Quá trình đào tạo nghề cũng phản ảnh tính chất công việc của người lao động
sau khi tốt nghiệp đó là thời lượng đào tạo lý thuyết thường ít so với thực hành
(thực hành khoảng 70-80% thời lượng đào tạo). Với các loại hình đào tạo kèm cặp,
đào tạo tại doanh nghiệp thời lượng thực hành thậm chí lên đến 90-95% tùy loại
hình công việc và mức độ yêu cầu đối với người lao động. Những kiến thức, tri
thức và kỹ năng người lao động thu nhận được trong quá trình đào tạo thông qua
phương pháp quan sát, thực hành, thực tập, thử làm là chính kết hợp với lý thuyết


28
cơ bản được trang bị. Một trong những tính chất công việc thường gắn liền với việc
làm của lao động qua đào tạo nghề là những việc làm trực tiếp, gián tiếp tham gia
sản xuất kinh doanh và thiên về thực hành (trong sản xuất, kinh doanh dịch vụ, kỹ
thuật phục vụ đời sống v.v...).
b) Việc làm của lao động qua đào tạo nghề gắn với kỹ thuật và công nghệ
Với các nền kinh tế hiện đại, sản xuất công nghiệp đã được tự động hóa nhiều,
hàm lượng công nghệ và vốn trong sản xuất lớn thì yêu cầu về số lượng lao động ít
nhưng yêu cầu về chất lượng, trình độ lao động và năng suất lao động cao. Những
lĩnh vực thu hút lao động qua đào tạo nghề có kỹ thuật cao như chế tạo máy móc,
lắp ráp máy, kỹ thuật viên cơ khí, điện tử trong các ngành.
Những ngành nghề có việc làm đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật thấp hơn và số lượng
lao động qua đào tạo nghề nhiều hơn điển hình như ngành xây dựng, các ngành
dịch vụ phục vụ cá nhân. Tùy theo mức công nghệ sử dụng thiên về lao động hay
vốn, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề được sử dụng là khác nhau. Trong nhóm
ngành kinh tế công nghiệp chế biến tỷ trọng sử dụng lao động qua đào tạo nghề
thường lớn nhất sau đó đến các ngành dịch vụ.
Mức công nghệ khác nhau phản ảnh mức huy động lao động khác nhau. Cùng
một trình độ công nghệ của một quốc gia thì sự khác biệt về tương quan công
nghệ/lao động cũng rất khác nhau giữa các ngành. Thông thường ngành công
nghiệp và dịch vụ có nền công nghệ cao hơn khu vực nông nghiệp. Trong đó công
nghiệp sản xuất, chế tạo các thiết bị điện, linh kiện điện tử, viễn thông, tin học v.v...
có tương quan công nghệ/lao động lớn hơn các ngành như xây dựng, chế biến sản
phẩm nông nghiệp v.v... Khu vực, ngành nào có công nghệ sản xuất mức trung
bình, sử dụng nhiều nhân công thường mang lại nhiều việc làm cho lao động qua
đào tạo nghề. Những ngành sản xuất có trình độ công nghệ cao đòi hỏi ít lao động
qua đào tạo nghề hơn, nhưng yêu cầu về trình độ kỹ năng, tay nghề cao hơn. Một
số ngành thu hút nhiều lao động qua đào tạo nghề như công nghiệp chế biến (dệt
may, giày da, chế biến thủy sản v.v...) công nghiệp khai khoáng, công nghiệp chế
tạo máy móc thiết bị, xây dựng và lao động có kỹ thuật trong nông nghiệp.


29
Nhiều quốc gia, hệ thống đào tạo nghề có tên gọi là hệ thống đào tạo công
nghệ kỹ thuật thực hành, các cơ sở đào tạo nghề có tên gọi như trường kỹ thuật
hoặc trường cao đẳng công nghệ v.v.... Hệ thống đào tạo nhắm vào mục tiêu là đào
tạo ra một đội ngũ công nhân kỹ thuật các bậc khác nhau về kỹ thuật, công nghệ.
Đội ngũ lao động được đào tạo ra phân ra là công nhân kỹ thuật ’cổ xanh’ tập trung
vào nhóm công việc trực tiếp sản xuất, gắn với máy móc thiết bị, gắn với nhà
xưởng, công trường. Đội ngũ công nhân cổ trắng gắn với các loại hình việc làm có
yếu tố công nghệ cao, các dây chuyền sản xuất tự động, các hệ thống công nghệ
hiện đại. Gần đây có thuật ngữ công nhân ‘cổ vàng’ để chỉ đội ngũ lao động kỹ
thuật tham gia vào quá trình nghiên cứu và phát triển (R&D). Ngoài việc trực tiếp
tham gia sản xuất các chế phẩm cao cấp, sản xuất đồng thời nghiên cứu thử
nghiệm, đội ngũ này thường là các kỹ thuật viên cao cấp, các kỹ sư thực hành.
c) Việc làm của lao động qua đào tạo nghề thuộc nhóm dễ bị tổn thương
Đặc trưng chung của việc làm của lao động qua đào tạo nghề gắn với sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Bất cứ sự biến động nào của các thị trường ảnh
hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều tác động đến việc làm của
lao động qua đào tạo nghề. Các tác động, ảnh hưởng có thể trực tiếp đến qui mô, số
lượng việc làm hoặc chất lượng việc làm (thời gian, tiền lương, các điều kiện làm
việc). Các tác động thông qua ba thị trường cơ bản là thị trường lao động (trực
tiếp), thị trường hàng hóa, dịch vụ và thị trường tài chính (còn nhiều nhân tố khác
như thị trường công nghệ, thị trường nguyên liệu, các vấn đề thể chế, pháp lý).
Khi có những biến động trên thị trường hàn hóa và dịch vụ làm cho đình trệ
sản xuất, việc làm của lao động qua đào tạo nghề bị thu hẹp. Thị trường lao động
và thị trường tài chính biến động dẫn đến những thu hẹp và sa thải lao động đặc
biệt lao động có tính thời vụ. Trong tất cả các cuộc khủng hoảng và đình trệ sản
xuất kinh doanh, lao động có CMKT thấp hơn luôn gặp rủi ro hơn, bị tổn thương
nhiều hơn. Ngoài ra lao động qua đào tạo nghề thường chiếm một tỷ trọng lớn
trong lực lượng lao động công nghiệp và tập trung vào các nhóm ngành nghề chịu

nhiều tác động của nền kinh tế thế giới nên dễ bị những biến động lớn mang tính xã
hội và có ảnh hưởng đến nhiều tầng lớp trong xã hội.

30
Biến động kinh tế, tái cấu trúc (CNH-HĐH, cải cách doanh nghiệp nhà nước
v.v...) đều tác động đến việc làm của lao động qua đào tạo nghề. Những tác động
chủ yếu đó là sự tăng/giảm hay dịch chuyển việc làm từ khu vực/ngành kinh tế này
sang khu vực/ngành kinh tế khác. Việc làm có thể được tạo ra nhiều hơn ở một số
khu vực năng động, nhưng nhìn chung các quá trình tái cấu trúc thường dẫn đến
đào thải lao động qua đào tạo nghề. Để tái hòa nhập việc làm, thường phải thông
qua các chương trình việc làm kết hợp đào tạo lại tay nghề cho người lao động.
Xét trên giác độ lao động, đây là nhóm lao động làm công ăn lương nguồn
sống phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập từ việc làm. Thu nhập và tiền lương đủ sống
và không giàu có, không nhiều tài sản tích lũy nên những thay đổi việc làm, thu
nhập dễ dẫn đến những tổn thương, ảnh hưởng đến cuộc sống của họ.
1.4. Mối quan hệ giữa đào tạo và việc làm của lao động qua đào tạo nghề
1.4.1. Mối quan hệ giữa đào tạo, việc làm và phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực, không phải là vốn, không phải thu nhập, không phải là
nguồn lực vật chất mà là sự hợp nhất mang tính nền tảng cơ bản của tài nguyên của
một quốc gia. Vốn và tài nguyên là những nhân tố mang tính thụ động của quá trình
sản xuất, con người là nhân tố tích cực sẽ tích tụ vốn, khai thác tài nguyên thiên
nhiên, xây dựng xã hội, kinh tế và tổ chức xã hội hướng tới sự phát triển và phồn
thịnh của một quốc gia.
Quan niệm của Liên hợp quốc cho rằng, phát triển nguồn nhân lực theo nghĩa
rộng, bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy
phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Với khái niệm này,
giữa đào tạo với sử dụng lao động có quan hệ mật thiết với nhau, mà kết quả là
người lao động có việc làm để có thu nhập đảm bảo cuộc sống.
Phát triển nguồn nhân lực, thực chất là quá trình làm thay đổi về số lượng,
chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực đáp ứng tốt hơn yêu cầu của xã hội. Đào tạo

và sử dụng lao động là cặp bộ đôi trong một thể thống nhất của quá trình phát triển
nguồn nhân lực. Các hoạt động phát triển nguồn nhân lực, vốn nhân lực đều phải
trải qua chu trình khép kín như sau: con người sinh ra, lớn lên phải có thời gian để

31
học tập, đây là quá trình khởi thủy để tích lũy vốn nhân lực cho cá nhân người lao
động. Khi trưởng thành con người phải lao động và làm việc. Thành quả lao động,
một phần được bù đắp để tái sản xuất giản đơn sức lao động, phần nữa để tái sản
xuất mở rộng và hưởng thụ của người lao động. Quá trình đầu tư mở rộng cho giáo
dục và học tập, tiếp tục tích lũy thêm năng lực và tham gia vào sản xuất để biến
năng lực thành thành quả lao động cao hơn.






Sử dụng Đầu tư



Cung cấp

Sơ đồ 1.3: Chu trình phát triển nguồn nhân lực và tích lũy vốn nhân lực
Sử dụng và đào tạo là hai mặt của phát triển nguồn nhân lực. Trên quan điểm
duy vật biện chứng đây là quá trình lặp lại, phát triển theo hình xoáy 'trôn ốc'.
Năng lực cá nhân (vốn nhân lực) tích tụ qua đào tạo  đưa vào sản xuất, tạo
thu nhập  tái sản xuất giản đơn và mở rộng (chất lượng cuộc sống) và đầu tư
thông qua đào tạo  tiếp tục tích lũy vào thành vốn nhân lực. Đây là mối quan hệ
hữu cơ không thể tách rời trong chu trình khép kín của phát triển nguồn nhân lực,

vốn nhân lực.
Việc làm đòi hỏi phải có sức khỏe và năng lực, kỹ năng  Năng lực làm việc
(kiến thức, kỹ năng và thái độ)  Giáo dục và đào tạo tạo ra năng lực cho người
lao động  Giáo dục và đào tạo cần chi phí đầu tư  thu nhập từ việc làm.

VỐN NHÂN
LỰC

VIỆC
LÀM

ĐÀO
TẠO

×