Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

(Luận văn thạc sĩ) - Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.33 KB, 76 trang )

1
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN ĐÌNH HỒNG

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TỪ
THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


2
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để thực hiện nhiệm vụ đảm bảo tình hình ANTT, bảo vệ chủ quyền quốc
gia, chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền, lợi ích của con người, từ đó tạo mơi
trường xã hội an toàn cho mọi người dân, thúc đẩy kinh tế thị trường định
hướng XHCN, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế của dân tộc Việt Nam.
Nhà nước phải sử dụng nhiều biện pháp, biện pháp hữu hiệu nhất là


công cụ pháp lý. Nếu muốn sử dụng công cụ pháp lý, phải có pháp luật, để
trên cơ sở đó áp dụng các hình phạt nhằm răn đe, giáo dục đối với những hành
vi phạm tội.
Trong các hình phạt, hình phạt tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc
nhất của Nhà nước. Đây là hình phạt chính được quy định trong Bộ luật hình
sự của Việt Nam.
Khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn (viết tắt HPTCTH) đối với những
hành vi vi phạm pháp luật, ít nhiều đã răn đe, ngăn ngừa tội phạm trong toàn
xã hội. Tuy nhiên, trong thực tiễn khi áp dụng HPTCTH cho thấy còn nhiều
vướng mắc, bất cập. Thực tiễn cho thấy, đơi lúc việc trừng trị bằng hình phạt khi
áp dụng phạt quá nhẹ dẫn đến việc áp dụng án treo khơng đúng, làm mất đi tính
giáo dục, phịng ngừa, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật. Trái lại, sẽ khơng
cịn mục đích giáo dục và tính nhân đạo của hình phạt nếu áp dụng q nặng, từ
đó dẫn đến phịng chống tội phạm khơng đạt được hiệu quả.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Áp dụng hình phạt tù có thời
hạn từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai" để nghiên cứu.
Tỉnh Đồng Nai là tỉnh thuộc khu Miền Đơng Nam Bộ, tỉnh có 11 đơn vị
hành chính cấp huyện, có có 136 xã, 29 phường và 06 Thị trấn; được xem là
một tỉnh cửa ngõ đi vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ- Vùng kinh tế phát triển
và năng động nhất cả nước, là một tỉnh nằm trong vùng quy hoạch phát triển
kinh tế trọng điểm khu vực phía Nam, có tốc độ tăng dân số cao, nhiều khu


3
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

cơng nghiệp, nhà máy, nên thu hút rất nhiều người lao động từ các tỉnh khác

đến làm việc, đặc biệt là dân nhập cư khơng có nơi ở hoặc khơng có việc làm
ổn định, dễ phát sinh tệ nạn xã hội, vì vậy tình hình vi phạm pháp luật hình sự
cũng gia tăng, ngày càng tinh vi và phức tạp.
Do đó, cần có sự nghiên cứu sâu sắc để giải quyết vấn đề cả về lý luận và
thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn của hệ thống tòa án hai cấp trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai.
Việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn
nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật hình sự nói
chung, áp dụng hình phạt tù có thời hạn nói riêng.


4
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện tại đã có nhiều cơng trình khoa học, bài viết về đề tài Áp dụng hình
phạt tù có thời hạn. Tác giả đã tham khảo và tâm đắc một số cơng trình, bài
viết, cụ thể là:
- Nguyễn Thành Chung (2018) với đề tài: “ Áp dụng HPTCTH theo
PLHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”, Viện Hàn lâm Khoa học Xã
hội Việt Nam -Hoc viện Khoa học Xã hội.
- Nguyễn Văn Doãn (2019) với đề tài: "Lịch sử phát triển các quy định
về HPTCTH trong PLHS Việt Nam từ năm 1945 đến nay", Viện Hàn lâm
KHXHVN –Học viện KHXH.
- Nguyễn Ngọc Đô (2019) với đề tài: “ Áp dụng HPTCTH từ thực tiễn
Tòa án nhân dân quận 7, thành phố Hồ Chí Minh”, Viện Hàn lâm KHXHVN
–Học viện KHXH.

- Võ Hồng Nam (2014) với đề tài: “Hình phạt tù có thời hạn theo PLHS
Việt Nam từ thực tiễn xét xử thành phố Hồ Chí Minh”, Viện Hàn lâm KHXHVN
–Học viện KHXH.
- Chu Thị Thu Trang (2019) với đề tài Luận án tiến sĩ: “Hoạt động áp
dụng pháp luật hình sự của các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt
Nam”, Khoa Luật của Đại học Quốc gia Hà Nội.
Những cơng trình nghiên cứu khoa học nêu trên có giá trị rất lớn trong
việc nghiên cứu, tạo ý tưởng mới cho tác giả. Đến thời điểm hiện tại, chưa có
cơng trình nghiên cứu độc lập nào về việc áp dụng HPTCTH của tòa án nhân
dân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nên việc nghiên cứu sẽ mang tới cái nhìn mới
mẻ về vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về
áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong hệ thống Tòa án trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai từ năm 2015 đến năm 2019. Thơng qua đó, làm sáng tỏ vấn đề về lý luận


5
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

cũng như thực tiễn của hình phạt tù theo pháp luật hình sự, từ đó xác định những
bất cập, hạn chế để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng hình phạt tù nhằm đảm bảo cơng lý, công
bằng xã hội, cải tạo, giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm, đồng
thời đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, bảo đảm áp dụng đúng hình
phạt tù có thời hạn của hệ thống tịa án hai cấp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận dựa trên quy định của pháp luật, khái niệm, đặc
điểm, nội dung và ý nghĩa của việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn của các tịa án
nhân dân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến năm 2019, nhằm tìm ra
nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, bảo đảm áp dụng đúng
HPTCTH, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết
số 49-NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận, pháp luật và thực tiễn
liên quan trực tiếp đến việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong cơng tác xét
xử hình sự của tịa án từ thực tiễn ở các tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn trong
việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong thời
gian 05 năm, từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
5.1 Phương pháp luận.


6
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự


Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận khoa học của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước về tội phạm, về hình phạt, về đấu tranh phịng,
chống tội phạm, về cải cách tư pháp…
5.2 Phương pháp nghiên cứu.
Đồng thời, đề tài còn được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương
pháp nghiên cứu cụ thể khác nhau như: Phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp nghiên cứu điển hình
nhằm làm rõ nội dung các vấn đề cần trình bày nêu trên và đưa ra các giải
pháp để nâng cao việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
6.1. Ý nghĩa lý luận.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu sẽ được đề cập tồn diện trong q trình áp
dụng HPTCTH thơng qua thực tiễn xét xử hình sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai,
qua đó làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận về áp dụng HPTCTH theo pháp luật hình
sự Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn.
Ý nghĩa về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu đề tài có thể được Tồ án
các cấp xem xét, tham khảo để áp dụng đúng HPTCTH trong hoạt động xét xử,
góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh, phịng, chống tội phạm và thể
hiện tính cơng bằng, nghiêm minh của pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn.
Kết cấu Luận văn được phân thành ba chương chính và các phần phụ gồm
phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt tù có thời hạn.


7

Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Chương 2: Hoạt động thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn của
các Tịa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tù có
thời hạn.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA ÁP DỤNG HÌNH PHẠT
TÙ CĨ THỜI HẠN
1.1. Cơ sở lý luận của áp dụng hình phạt tù có thời hạn.
1.1.1. Khái niệm áp dụng hình phạt tù có thời hạn:
Hình phạt là một trong những chế định quan trọng, nghiêm khắc của Nhà
nước được quy định trong pháp luật hình sự. Về khái niệm hình phạt, Điều 26
BLHS năm 1999 quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm
tội. Khung hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự và sẽ do Tồ án
quyết định mức hình phạt cụ thể”. [17]
Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung thêm đối tượng chịu TNHS là các
pháp nhân thương mại; do vậy BLHS 2015 cũng đã bổ sung thêm khái niệm
hình phạt như sau: ”Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối
với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế
quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó.” (Điều 30, BLHS 2015)
[24, tr.12]
Quy định Hình phạt trong hệ thống PLHS Việt Nam bao gồm hình
phạt chính và hình phạt bổ sung. Hình phạt chính là hình phạt được áp dụng

chính cho một tội phạm và được tuyên độc lập [Tr.353 Luật Hình sự Việt
Nam phần chung]. Theo khoản 1, Điều 32 Bộ luật hình sự năm 2015, quy định


8
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

về hình phạt chính, bao gồm: a) Cảnh cáo; b) Phạt tiền; c) Cải tạo không giam giữ;
d) Trục xuất; đ) Tù có thời hạn; e) Tù chung thân; g) Tử hình. [24, tr.12].
Hình phạt bổ sung bao gồm: a) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định; b) Cấm cư trú; c) Quản chế; d) Tước một số
quyền công dân; đ) Tịch thu tài sản; e) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình
phạt chính; g) Trục xuất, khi khơng áp dụng là hình phạt chính…”. (khoản
2, 3 Điều 32 BLHS 2015), [24, tr.12]
Hình phạt tù có thời hạn là việc cách ly người phạm tội ra khỏi đời sống
cộng đồng trong một thời gian nhất định và tước bỏ quyền tự do của họ. Hình
phạt tù có thời hạn được quy định tại Điều 38 BLHS 2015 như sau: “Tù có thời
hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ
trong một thời hạn nhất định. Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có
mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm…” [24, tr.14-15].
Nguyên tắc áp dụng HPTCTH đối với trường hợp một người phạm nhiều
tội được PLHS quy định như sau: “Khi xét xử cùng 01 lần một người phạm
nhiều tội, Tịa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt
…Nếu các hình phạt đã tun cùng là cải tạo khơng giam giữ hoặc cùng là tù
có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình
phạt chung khơng được vượt q 03 năm đối với hình phạt cải tạo khơng giam
giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn…”. (Điều 55 BLHS 2015) [24,

tr.21].
Như vậy, có thể thấy để đạt được mục đích vừa trừng trị người phạm tội,
vừa giáo dục người phạm tội phải biết tuân thủ pháp luật và thượng tôn pháp
luật là rất quan trọng.
Hình phạt nói chung, hình phạt tù có thời hạn rói riêng được quyết định
áp dụng thơng qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân danh nước Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam - Cơ quan thay mặt Nhà nước nhằm khôi phục
trật tự nếu nó bị xâm phạm, hoặc nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính
đáng của cơng dân, của tập thể, của quốc gia và xã hội. Hoạt động xét xử của


9
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Tịa án phải tn thủ nghiêm theo quy định của BLTTHS kể từ khi bắt đầu
thụ lý hồ sơ, đưa vụ án ra xét xử và ban hành ra bản án, quyết định.
Từ những phân tích trên thì khái niệm áp dụng HPTCTH được hiểu như
sau: Áp dụng HPTCTH là hoạt động áp dụng PLHS sau khi đã định tội danh,
trên cơ sở hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại Tịa, xác định các tình tiết của
vụ án, Hội đồng xét xử căn cứ quy định của Bộ luật hình sự lựa chọn mức hình
phạt tù có thời hạn để áp dụng đối với người bị kết tội và ra phán quyết kết tội
trong bản án.
1.1.2. Đặc điểm áp dụng hình phạt tù có thời hạn
- Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự
Đối với hồ sơ vụ án hình sự, xuất phát từ nguyên tắc Tòa án chỉ xét xử
những hành vi, những bị can theo tội danh mà cơ quan công tố đã truy tố và
Tịa án đã đưa ra xét xử, thơng thường người áp dụng pháp luật phải ngay từ

đầu nắm vững nội dung cáo trạng. Bản cáo trạng trong hồ sơ vụ án hình sự như
là một chiếc "chìa khóa" để mở hồ sơ vụ án về các vấn đề: ai đã thực hiện hành
vi bị truy tố, hành vi bị truy tố là hành vi gì, tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi bị truy tố ra sao, động cơ của hành vi đó là gì, người bị truy
tố có lỗi hay khơng có lỗi, nếu có lỗi thì lỗi cố ý hay vơ ý; nhân thân người bị
truy tố có đặc điểm gì cần lưu ý; hành vi bị truy tố xâm phạm đến quan hệ xã
hội nào mà pháp luật hình sự bảo vệ; điều luật mà bản cáo trạng viện dẫn để
buộc tội là điều luật nào của Bộ luật hình sự... Trên cơ sở đó, người áp dụng
pháp luật đối chiếu với bản kết luận điều tra của cơ quan điều tra để tìm hiểu
xem vì sao cáo trạng chấp nhận tồn bộ hoặc một phần nội dung của bản kết
luận điều tra. Tiếp theo đó là việc nghiên cứu lời khai của bị can, bị cáo, người
làm chứng, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, các tài liệu giấy tờ liên quan,
kết quả giám định, bản ảnh, biên bản khám nghiệm hiện trường... Trong trường
hợp vụ án có đồng phạm thì cần lưu ý đến sự giống nhau và khác nhau giữa các
lời khai của các bị can, bị cáo, các biên bản đối chất về những vấn đề khác nhau
thể hiện qua các lời khai và chứng cứ của hồ sơ vụ án. Qua nghiên cứu hồ sơ,


10
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

người áp dụng pháp luật cần hệ thống lại một cách logic các chứng cứ gỡ tội,
các chứng cứ buộc tội để đưa ra nhận định công tác điều tra, thu thập chứng cứ
đã đi đến cùng hay chưa, đã thu thập đủ các chứng cứ cần thiết để chứng minh
việc buộc tội và gỡ tội hay chưa; có những vấn đề gì đã rõ hoặc chưa rõ v.v...
Để xác định và áp dụng hình phạt tù, thì người áp dụng pháp luật cần phải
nắm rõ các quy định pháp luật về các loại tội phạm, đây là hoạt động cơ bản

và quan trọng nhất trong toàn bộ các hoạt động áp dụng hình phạt và Nhà nước
có thể ngày càng hoàn thiện hệ về thống pháp luật này cũng phải thông qua hoạt
động này.
- Chủ thể áp dụng HPTCTH là Hội đồng xét xử:
Hiến pháp năm 2013 đã quy định: TAND là cơ quan xét xử và thực hiện
quyền tư pháp. Tịa án, cụ thể là HĐXX, thơng qua hoạt động xét xử để thực
hiện quyền lực nhà nước, và HĐXX nhân danh nhà nước ra bản án quyết định
một tổ chức, cá nhân có tội hay khơng có tội; qua đó thể hiện ý chí, thái độ,
sức mạnh của bộ máy nhà nước đối với người phạm tội.
Trong quá trình xét xử Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét
xử của Thẩm phán, Hội thẩm. (Điều 23 Bộ luật tố tụng hình sự)
Cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội
thẩm dưới bất kỳ hình thức nào thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý
kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
quy định của luật” [19].
Pháp luật TTHS quy định Hội thẩm nhân dân (HTND) ngang quyền
với Thẩm phán, và HĐXX thảo luận và quyết định theo đa số. Đối với hoạt
động xét xử các vụ án hình sự thì quyết định áp dụng hình phạt của HĐXX là
trọng tâm của hoạt động tố tụng hình sự.
- Được thực hiện sau khi định tội danh.
Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp
chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi tội phạm cụ thể đã dược thực hiện với


11
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự


các dâu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm pháp
luật hình sự. [30].
Để hoạt động áp dụng PLHS được hiệu quả thì hoạt động định tội danh phải
được tiến hành cùng lúc cả ba quá trình: Một là xác định đúng, khách quan các
tình tiết thực tế của vụ án. Hai là nhận thức đúng nội dung của các quy định
trong BLHS. Ba là lựa chọn đúng quy phạm PLHS tương ứng để đối chiếu
chính xác, đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định với các tình
tiết của hành vi được thực hiện trong thực tế. Trên cơ sở đó đưa ra kết luận có
cơ sở, có căn cứ đồng nhất giữa hành vi thực tế cấu thành tội phạm được quy
định trong điều, khoản của Luật.
- Hình phạt được áp dụng là hình phạt tù có thời hạn.
Khi xác định được tội danh, HĐXX sẽ lựa chọn và áp dụng một hình phạt
phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo. Bộ luật HS quy định hình phạt gồm
hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Trường hợp hình phạt được áp dụng là
hình phạt tù có thời hạn thì buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại
cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định.(Điều 38 BLHS 2015).
Đối với người phạm một tội thì tù có thời hạn có mức tối thiểu là 03 tháng
và mức tối đa là 20 năm; nếu người bị kết án đã bị tạm giam, tạm giữ, thì thời
hạn này được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù theo nguyên tắc 01 ngày
tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù.
Đối với trường hợp phạm nhiều tội thì Tịa sẽ áp dụng hình phạt tù có thời
hạn đối với từng tội, nhưng khi tổng hợp các hình phạt và thời gian áp dụng
hình phạt tù có thời hạn được cộng lại thành hình phạt chung thì khơng được
vượt q ba mươi năm. Đây là hình phạt khá phổ biến trong thực tiễn xét xử
của tòa án. (căn cứ Điều 55 BLHS năm 2015) [24].
- Bản án kết tội của Hội đồng xét xử chính là văn bản áp dụng hình phạt
tù có thời hạn:
Pháp luật hình sự đã quy định là người bị buộc tội được coi là khơng có tội
cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và



12
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 13 BLTTHS 2015).
Do vậy, Hội đồng xét xử khi áp dụng hình phạt đối với hành vi của bị cáo gây
ra phải thể hiện rõ trong Bản án, chẳng hạn như: xác định bị cáo có tội, tội gì,
theo điểm, khoản, điều nào của Bộ luật HS và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, mức hình phạt cụ thể được áp dụng… và phải ghi nhận
đầy đủ quan điểm của những người tham gia tố tụng và nhận định của Hội đồng
xét xử.
Bản án là văn bản thể hiện rõ tính nhân đạo, quyền lực nhà nước khi trừng
phạt đối với người phạm tội, buộc phải chịu hình phạt tù cho hành vi vi phạm
pháp luật hình sự mà mình đã gây ra.
Để bản án đảm bảo đầy đủ về nội dung và hình thức phù hợp với quy định,
TANDTC đã ban hành Văn bản số 155/TANDTC ngày 28/7/2017 về việc áp
dụng thống nhất kỹ thuật trình bày các văn bản tố tụng trong đó có bản án và
Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/07/2017 về việc Ban hành một số
biểu mẫu trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của BLTTHS.
1.2. Cơ sở pháp luật của áp dụng hình phạt tù có thời hạn.
1.2.1. Xác định các tình tiết có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt
- Tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm được thực hiện.
Các nhà làm luật phân loại tội phạm và xác định khung hình phạt cho từng
tội phạm sẽ căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành
vi phạm tội để xác định.

Theo khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 2015, người có “…hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình sự” được xem là tội phạm
[24, tr 4]. Trong thực tiễn khi xét xử, các Tòa án thường chú ý đến nhân thân
người phạm tội, để xem xét các tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết giảm nhẹ, nên
rất ít có bản án phân tích được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội. Chẳng hạn như thay vì đánh giá hành vi nguy hiểm cho xã
hội như thế nào, mức độ nguy hiểm ra sao thì thường bản án chỉ nhận xét chung


13
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

chung “hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội”. Có nhiều trường
hợp Tịa án chỉ dựa vào các tình tiết này để quyết định hình phạt, dẫn đến quyết
định hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ, chưa đúng với tính chất và mức độ của
hành vi phạm tội; và theo quy định thì mặc dù một hành vi tuy có dấu hiệu của
tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội khơng đáng kể thì khơng phải
là tội phạm (khoản 2 Điều 8 BLHS hiện hành 2015) [24, tr 4]
Tùy thuộc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
tội phạm được chia thành bốn loại: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Và ngay
trong mỗi nhóm tội phạm nêu trên thì tính chất và mức độ nguy hiểm của hành
vi phạm tội của từng loại tội cụ thể cũng khác nhau, và tương ứng thì các mức
hình phạt trong một khung hình phạt cũng khác nhau. Do vậy khi quyết định
hình phạt cần phải xác định đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội trong cùng một khung hình phạt, vì nếu xác định khơng đúng
khung hình phạt tức là đã xác định sai pháp luật, là đã khơng căn cứ vào các

quy định của Bộ luật hình sự.
Cần phải xem xét một cách toàn diện các yếu tố liên quan khi cân nhắc
đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội như: mục
đích, động cơ của người phạm tội, hành vi phạm tội và hậu quả của hành vi gây
ra, và cần đặc biệt lưu ý đến các tình tiết có liên quan đến nhân thân người phạm
tội, vì đây là một căn cứ đã được pháp luật quy định để áp dụng tăng nặng hay
giảm nhẹ khi quyết định hình phạt.
Mức độ lỗi của hành vi phạm tội cũng là căn cứ để xác định tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong một khung hình phạt. Ví
dụ cùng là lỗi cố ý trực tiếp, nhưng nếu người phạm tội quyết tâm thực hiện
hành vi phạm tội đến cùng thì sẽ nguy hiểm hơn đối với người phạm tội khơng
thể hiện ý chí quyết tâm phạm tội đến cùng.
Một yếu tố nữa gây ảnh hưởng tới việc quyết định hình phạt đó là hậu
quả do tội phạm gây ra sau khi thực hiện hành vi phạm tội, là hậu quả nguy


14
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

hiểm. Các nhà làm luật chia hậu quả nguy hiểm thành hai nhóm: hậu quả được
quy định là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm và hậu quả không được quy
định là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Việc xác định hậu quả có hay
không là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm có ảnh hưởng rất quan trọng
đối với việc quyết định hình phạt, là căn cứ để xác định tính chất tăng nặng của
hành vi hay khơng.
Có thể thấy được việc xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm
có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc quyết định hình phạt. Tịa án phải đánh

giá một cách tồn diện, khách quan để quyết định loại hình phạt, khung hình
phạt phù hợp. Hai yếu tố này ln song hành và bổ trợ cho nhau trong việc xác
định về mặt “chất” – tính chất và “lượng” – mức độ. Nếu việc đánh giá mang
tính khiên cưỡng, nặng về hình thức, hoặc thiên lệch (tức là coi nặng mặt chất,
coi nhẹ mặt lượng hoặc ngược lại) thì sẽ rất nguy hiểm bởi lẽ khi có sự biến đổi
về lượng trong một khung hình phạt đến một mức độ nhất định sẽ dẫn đến sự
biến đổi về chất, nghĩa là khi hành vi nguy hiểm của người bị kết án biến đổi
đến một mức độ nhất định nào đó (tăng lên hoặc giảm đi ở một mức độ đáng
kể nhất định) thì sẽ cho phép Tịa án chuyển khung hình phạt (lên khung tăng
nặng hoặc xuống khung giảm nhẹ liền kề hoặc xuống khung giảm nhẹ không
bắt buộc phải liền kề). Do vậy, đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội sẽ là căn cứ quan trọng để xác định có hay khơng việc quyết
định hình phạt nhẹ hơn luật định, để quyết định hình phạt tù có thời hạn cho
phù hợp, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.
- Xác định nhân thân người bị kết tội.
Các yếu tố về nhân thân người phạm tội là những tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt, được quy định cụ thể trong
BLTTHS; do vậy việc xác định nhân thân người phạm tội có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc định khung hình phạt.
Pháp luật hình sự quy định cụ thể về nhân thân của người bị kết tội như:
hoàn cảnh gia đình, tuổi đời, … của người phạm tội. Do vậy khi quyết định


15
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

hình phạt tù có thời hạn, Tịa án xác định, cân nhắc nhân thân người bị kết tội,

các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng được quy định tại Điều 51, 52 của BLHS năm
2015 để làm cơ sở xác định và đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của người
bị kết tội. Ngoài ra, một số trường hợp những đặc điểm, đặc tính khơng được
chỉ ra trong luật, nhưng chúng có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt thì
cũng thường được HDXX cân nhắc.
Các đặc điểm về nhân thân người phạm tội tác động đến việc quyết định
hình phạt ở nhiều góc độ khác nhau: Ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy
hiểm của tội phạm như tái phạm, tái phạm nguy hiểm,...; khả năng cải tạo và
giáo dục của người phạm tội để đạt được mục đích hình phạt...; thể hiện tính
nhân đạo của pháp luật, của Nhà nước đối với những trường hợp có nhân thân
tốt, người có thành tích cao...
Riêng đối với Pháp nhân thương mại, mặc dù cũng là chủ thể thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng khi xét xử thì Tịa án khơng đưa ra yếu
tố nhân thân, mà chỉ căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (căn cứ Điều 83 BLHS 2015).
Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ.
Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ không phải là yếu tố quyết định đến tính
chịu trách nhiệm hình sự của người bị kết án nhưng lại là yếu tố có tính ảnh
hưởng cao đến việc quyết định hình phạt đối với người bị kết án. Thơng thường
khi quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định, người có thẩm quyền tố tụng chỉ
quan tâm đến các tình tiết giảm nhẹ, tuy nhiên, vấn đề này cần phải được loại
bỏ bởi quyết định hình phạt là một hoạt động tư duy pháp luật có chủ đích của
Tịa án đối với người bị kết án, trên cơ sở toàn bộ nội dung vụ án và sự đánh
giá tồn diện các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng để từ đó quyết định áp dụng hay
khơng áp dụng quy định này.
Một lưu ý quan trọng là khi quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định, phải
hiểu đúng và đủ về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, có nghĩa là phải tuân thủ tuyệt
đối nguyên tắc có từ 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 BLHS mới được



16
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định bất kể trường hợp nào thuộc Điều 54
BLHS. Do vậy, dù người bị kết án có rất nhiều tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2
Điều 51 nhưng chỉ có một tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 thì được xác định là
khơng đủ điều kiện và khơng được quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định. Điều
này sẽ tránh tình trạng lợi dụng pháp luật để áp dụng tràn làn, thiếu căn cứ trong
thực tiễn xét xử.
Tuy nhiên, cũng không nhất thiết là cứ đủ 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản
1 điều 51 BLHS là phải quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định mà phải cân
nhắc một cách thận trọng trong tương quan với các yếu tố khác, như tổng số
tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng; tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội;
nhân thân người bị kết án, khả năng thi hành hình phạt… để áp dụng pháp luật
chính xác, đảm bảo quyền lợi của người bị kết án. Bên cạnh đó, thực tiễn hoạt
động xét xử cho thấy do nhiều yếu tố tác động nên những người tiến hành tố
tụng đã hiểu sai hoặc cố tình hiểu sai về định lượng các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ tại mỗi điểm của điều luật.
Ví dụ như coi điểm s khoản 1 Điều 51 (người phạm tội thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải) là hai tình tiết giảm nhẹ để quyết định hình phạt nhẹ hơn
luật định cho người bị kết án hoặc coi điểm x khoản 1 Điều 51 là 01 tình tiết
giảm nhẹ để khơng quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định cho người bị kết án.
Vì vậy, khi áp dụng pháp luật cần lưu ý nắm chắc về kỹ thuật lập pháp của điều
luật để nhận định chính xác đâu là tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ độc lập hoặc
đâu là các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ ghép.
Thực tiễn xét xử cho thấy trong nhiều vụ án luôn tồn tại cùng lúc cả tình
tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, trong các trường hợp

này HDXX phải đánh giá, cân nhắc các tình tiết đó để có thể quyết định một
hình phạt thể hiện sự cơng bằng, hợp lý, đúng quy định pháp luật và phù
hợp với lỗi của hành vi phạm tội.
1.2.2. Cơ sở pháp lý của áp dụng hình phạt tù có thời hạn.
- Hình phạt tù có thời hạn.


17
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Tù có thời hạn được quy định tại Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 như
sau: “Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở
giam giữ trong một thời hạn nhất định”. Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt
nghiêm khắc, vì người bị kết án bị tước quyền tự do, bị cách ly với xã hội,
người phạm tội phải lao động cải tạo trong trại giam dưới sự quản lý và giám
sát của lực lượng chức năng. Việc chấp hành hình phạt tù có thời hạn ln phải
tuân thủ theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Tính nhân văn của pháp luật Việt Nam thể hiện: Mặc dù hình phạt tù có
thời hạn là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc, nhưng không mang tính chất trả
thù hay hành hạ người bị kết án mà có ý nghĩa cải tạo giáo dục họ trở thành
người có ích cho xã hội. Trong thời gian chấp hành hình phạt, những phạm
nhân thể hiện sự tiến bộ thì được xét giảm mức hình phạt, thực tế thì rất nhiều
những người bị phạt tù có thời hạn đã được giảm và được trả lại tự do trước
thời hạn.
Pháp luật có quy định về thời gian chấp hành hình phạt tù, đối với người
phạm một tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm (Điều 38
BLHS năm 2015). Mức tối thiểu và tối đa đối với hình phạt tù có thời hạn

được quy định trong các điều luật và trong từng khung hình phạt cụ thể khơng
hồn tồn giống với mức tối thiểu và tối đa quy định cho loại hình phạt này, mà
tùy thuộc và từng tội phạm, từng trường hợp phạm tội cụ thể mà nhà làm luật
quy định mức tối thiểu và tối đa cho phù hợp. Người bị kết án bị Tịa án áp
dụng hình phạt tù có thời hạn, nếu trước đó họ đã bị tạm giữ hoặc tạm giam, thì
thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ
một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù.
Tù có thời hạn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, do vậy nó chỉ
được áp dụng trong trường hợp khi thấy cần thiết phải cách ly người phạm tội
ra khỏi xã hội trong khoảng thời gian nhất định. Khi quyết định hình phạt, Tịa
án chỉ được phép áp dụng hình phạt tù có thời hạn khi khung hình phạt của điều
luật mà người phạm tội bị kết án có quy định hình phạt này. Đối với người


18
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

dưới 18 tuổi phạm tội, Tịa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời khi xét thấy các
hình phạt và biện pháp giáo dục khác khơng có tác dụng răn đe, phòng ngừa
(khoản 6 Điều 91 BLHS 2015). Như vậy, trường hợp mục đích của hình phạt có
thể đạt được mà không cần phải cách ly người phạm tội ra khỏi đời sống xã hội
bình thường thì cần áp dụng hình phạt khơng phải hình phạt tù.
- Chế tài các quy phạm quy định tội phạm.
Theo quy định trong quy phạm pháp luật hình sự, Chế tài hình sự có thể
áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội khi xác định loại và giới hạn
mức độ hình phạt.
Nhận thức chính xác về các chế tài lựa chọn, chế tài bắt buộc, chế tài tùy

nghi; nhận thức về điều kiện, phạm vi áp dụng hình phạt và tổng hợp hình
phạt trong trường hợp phạm nhiều tội quy định trong BLHS nhằm để hình
phạt được áp dụng không trái pháp luật, đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Khi Tồ án quyết định hình phạt thì phải căn cứ vào loại và khung
hình phạt được quy định đối với tội cụ thể mà bị cáo đã thực hiện, để lựa chọn
những chế tài và mức hình phạt phù hợp nhất, được pháp luật quy định cụ
thể đối với tội phạm cụ thể.
Như vậy, Toà án khi quyết áp dụng hình phạt từ có thời hạn, cần phải căn
cứ vào tất cả các quy định của BLHS năm 2015 có liên quan trực tiếp đến việc
quyết định một hình phạt cụ thể đối với một bị cáo cụ thể [ 2].
- Các quy định liên quan đến áp dụng hình phạt.
Khi áp dụng hình phạt cho người phạm tội đang bị xét xử, do Bộ luật
Hình sự và Bộ luật Tố tụng Hình sự khơng có chương riêng quy định, hướng
dẫn, Hội đồng xét xử phải nghiên cứu, tìm hiểu quy định của BLHS để quyết
định mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi nguy hiểm của
người bị kết tội, đúng với quy định của pháp luật hình sự, và tuân thủ các quy
định liên quan đến áp dụng hình phạt, Cụ thể:


19
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

+ Đối với người bị kết án phạm nhiều tội thì tổng hợp hình phạt chung
khơng q 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn (Điều 55 BLHS 2015) [24,
tr.21]
+ Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ áp dụng hình phạt tù có thời
hạn khi xét tấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác khơng có tác dụng

răn đe, phịng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tịa án cho người dưới 18
tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ
18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng với thời hạn thích hợp ngắn nhất (khoản
6 Điều 91 BLHS 2015).
+ Đối với người chưa thành niên, Tịa án phải cân nhắc khi áp dụng
hình phạt, vì quy định khoản 1 Điều 103 BLHS năm 2015 quy định người
dưới 18 tuổi phạm nhiều tội và bị đưa ra xét xử cùng một lần “…nếu hình phạt
chung là hình phạt tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng
khơng được vượt q 18 năm đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi khi phạm
tội và 12 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội” [24,
Tr.43] . Trường hợp phải bắt buộc áp dụng hình phạt tù có thời hạn thì phải cân
nhắc khi hình phạt và biện pháp giáo dục khác khơng có tác dụng trong việc răn
đe, phòng ngừa.
1.2.3. Xác định sự tương thích của Bộ luật hình sự qua các quy định
đối với các tình tiết vụ án được xác định để quyết định biện pháp trách
nhiệm hình sự; biện pháp chấp hành hình phạt tù, loại, và mức hình phạt.
Hội đồng xét xử cần phải tìm sự phù hợp giữa các quy định của Bộ luật
hình sự với các tình tiết vụ án dựa trên cơ sở nhận thức, cơ sở pháp lý các quy
định của Bộ luật hình sự khi áp dụng hình phạt. Bởi các tình tiết có lợi hay bất
lợi khơng phải do quyết định cảm tính của HĐXX, mà phải dựa trên cơ sở quy
định của luật. Vì điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến người bị kết án theo xu
hướng tiêu cực hay tích cực khi bị kết án. Trường hợp bị cáo bị đưa ra xét xử
là người dưới 18 tuổi, HĐXX phải xem xét độ tuổi là tình tiết giảm nhẹ đối với
việc quyết định hình phạt tù.


20
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04


Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Hội đồng xét xử phải xem xét nhân thân của cùng các tình tiết giảm nhẹ
của bị cáo để quyết định hình phạt tù có thời hạn phù hợp với quy định của
pháp luật căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 65 BLHS năm 2015, và Nghị
quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 05 năm 2018 hướng dẫn áp dụng
Điều 65 Bộ luật hình sự về án treo, để cho bị cáo được hưởng án treo và ấn
định thời gian thử thách …, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình
phạt tù.
1.2.4. Ban hành bản án áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người
bị kết tội
Pháp luật (Điều 13 BLTTHS) quy định người bị coi là có tội khi được
chứng minh theo trình tự, thủ tục của Bộ luật tố tụng hình sự và có bản án kết
tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy Bản án chính là văn bản kết
tội bị cáo và buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội do mình
gây ra.
Bản án phải tuân thủ hình thức và đầy đủ các nọi dung theo luật định.
Bản án hợp pháp chỉ khi được các thành viên HĐXX thảo luận và ký thơng qua
tại phịng nghị án; nhận định của HĐXX được nêu trong bản án phải phân tích
những chứng cứ xác định có tội hoặc khơng có tội. Trường hợp xác định có
tội, thì phải xác định tội danh chính xác theo các điều luật cụ thể của BLHS.
Nếu xác định khơng có tội, thì bản án phải ghi rõ những căn cứ xác định bị
cáo khơng có tội và việc giải quyết khơi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp
pháp của họ theo quy định của pháp luật; phải phân tích được lý do mà hội đồng
xét xử khơng chấp nhận chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, yêu cầu, đề nghị
của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác; Phân tích tính
hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; Quyết định về từng vấn đề phải giải
quyết như: tội danh, loại hình phạt tù có thời hạn, mức hình phạt tù có thời
hạn, biện pháp chấp hành hình phạt tù.

1.3. Ý nghĩa của áp dụng hình phạt tù có thời hạn


21
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

1.3.1. Ý nghĩa chính trị - xã hội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính
trị - xã hội. Việc xét xử các vụ án hình sự đối với các bị can, bị cáo luôn nhận
được sự quan tâm của người dân, qua đó đánh giá năng lực của đối ngũ cán
bộ, hiệu quả trong công tác của cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ giải
quyết vụ án cụ thể là Tòa án, củng cố niềm tin vào chủ trương, đường lối của
Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước.
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đúng, ít nhiều sẽ có tác động tích cực đến
người bị kết án, mức hình phạt đúng pháp luật, phù hợp sẽ là động lực để
người bị kết án cố gắng phấn đấu, cải tạo tốt để về hòa nhập cuộc sống,
sinh sống ổn định, hướng thiện và không tái phạm. Ngược lại, sẽ làm mất niềm
tin của người dân vào cơ quan thực thi pháp luật, tính nghiêm minh của pháp
luật. Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đúng pháp luật sẽ bảo đảm quyền con
người đươc bảo vệ, thể hiện công lý, lẽ phải, tăng cường pháp chế, trật tự pháp
luật và kỷ cương xã hội.
1.3.2. Ý nghĩa pháp lý
Qua hoạt động áp dụng hình phạt tù có thời hạn, đã thể hiện tính hiệu quả
của trình tự, thủ tục tố tụng, đáp ứng được nhu cầu của các cơ quan có thẩm
quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy
vẫn còn những thiếu sót, bất cập của các quy phạm pháp luật hình sự để đưa
ra các biện pháp bảo đảm áp dụng thống nhất trên thực tế; do vậy, cần phải

ban hành án lệ hoặc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của BLHS. Trong
mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội đều có sự thay đổi, kéo theo sự
thay đổi về kinh tế, văn hóa, pháp luật. Nhiều quy định của pháp luật hình sự
khơng cịn phù hợp, trình tự thủ tục cần sửa đổi, bổ sung cho chặt chẽ, phù hợp.
1.4.3. Ý nghĩa giáo dục, phòng ngừa.
Ý nghĩa của việc giáo dục phòng ngừa là làm sao để cải tạo người phạm tội,
ngăn ngừa phạm tội mới. Do vậy, việc áp dụng hình phạt tù sao cho thật chính
xác và cơng bằng thì mới đạt được ý nghĩa.


22
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Bên cạnh đó, mục đích của hình phạt tù có thời hạn cịn là giáo dục người
phạm tội ý thức tuân theo pháp luật, quy tắc của cuộc sống, đồng thời ngăn ngừa
phạm tội mới và lấy đó làm bài học cho người khác.
Khi hình phạt tù có thời hạn được áp dụng quá nhẹ so với tính chất, mức
độ nguy hiểm của hành vi phạm tội sẽ làm nảy sinh tâm lý xem thường pháp
luật ở người phạm tội, người dân khơng cịn tin tưởng vào cơ quan tư pháp.
Khi hình phạt tù có thời hạn được áp dụng quá nghiêm khắc so với tính
chất nguy hiểm của hành vi phạm tội sẽ tạo ra cho người bị kết án tâm lý tiêu cực,
chán nản trong cải tạo giáo dục, khơng tin tưởng vào tính cơng bằng, cơng minh
của pháp luật và các cơ quan tiến hành tố tụng. Từ đó dẫn đến làm giảm ý nghĩa
phịng ngừa riêng và phịng ngừa chung của hình phạt. [2].
Nếu muốn được sự tin tưởng vào pháp luật của toàn xã hội, thì pháp luật
phải cơng bằng. Việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đúng pháp luật, phù hợp
sẽ tạo sự tin tưởng của người dân đối với cơ quan xét xử của nước ta, tạo

ra hiệu ứng tích cực để tồn xã hội tham gia tích cực vào cơng cuộc đấu tranh
phịng ngừa tội phạm, phịng chống tội phạm.


23
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Tiểu kết Chương 1
Nội dung chương này tác giả trình bày về cơ sở lý luận về Áp dụng hình
phạt tù có thời hạn. Cụ thể: trước hết tác giả trình bày một số vấn đề chung về
khái niệm. Các nội dung liên quan đến khái niệm “Áp dụng hình phạt tù có thời
hạn” xuất phát từ khái niệm áp dụng hình phạt và hình phạt tù có thời hạn.
Trình bày các đặc trưng của hoạt động áp dụng hình phạt tù có thời hạn, làm cơ
sở phân biệt với các hoạt động áp dụng hình phạt khác.
- Tiếp đó là các căn cứ áp dụng hình phạt tù có thời hạn, quy định của luật
hình thức (cụ thể là BLTTHS) hướng dẫn Tịa án trình tự, thủ tục việc áp dụng hình
phạt tù có thời hạn đối với người bị kết tội. Việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn
được thực hiện theo trình tự nhất định, đảm bảo về cả quy định của luật nội
dung và luật hình thức.
- Cuối cùng là nghiên cứu trình bày về ý nghĩa của áp dụng hình phạt tù có thời
hạn, những bất cập, vướng mắc khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Đưa ra giải
pháp để tạo được sự tin tưởng vào cơ quan xét xử là Tịa án, tạo ra hiệu ứng
tích cực để tồn xã hội tham gia vào cơng tác phịng, chống tội phạm trên toàn
lãnh thổ đất nước chúng ta.


24

Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CĨ THỜI HẠN Ở CÁC
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
2.1. Khái quát về tội phạm, việc thụ lý, xét xử ở tỉnh Đồng Nai
2.1.1. Khái quát về tội phạm ở tỉnh Đồng Nai
Tỉnh Đồng Nai nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có diện tích
tự nhiên là 5.907,2 km². Đồng Nai có vị trí địa lý:
Phía đơng giáp tỉnh Bình Thuận
Phía tây giáp tỉnh Bình Dương và thành phố Hồ Chí Minh
Phía nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Phía bắc giáp các tỉnh Lâm Đồng và Bình Phước.
Phía Đơng Nam giáp Nha Trang.
Đồng Nai có vị trí hết sức quan trọng, là cửa ngõ phía đơng Thành phố Hồ
Chí Minh và là một trung tâm kinh tế lớn của cả phía Nam, nối Nam Trung Bộ,
Nam Tây Ngun với tồn bộ vùng Đơng Nam Bộ. Đồng thời, Đồng Nai là một
trong ba góc nhọn của tam giác phát triển Thành phố Hồ Chí Minh - Bình
Dương - Đồng Nai. Dân cư tập trung phần lớn ở TP. Biên Hịa với hơn 1 triệu
dân





2


huyện

Trảng

Bom,

Long

Thành.

(Nguồn:

Nai)
Đồng Nai hiện có 32 khu công nghiệp và 36 cụm công nghiệp với quy mơ
hơn 55.000 ha, là địa phương có nhiều khu công nghiệp nhất cả nước và được
mệnh danh là thủ phủ công nghiệp. Yếu tố này làm cho kinh tế địa phương phát
triển, tạo công ăn việc làm và thu hút dân nhập cư của rất nhiều tỉnh thành trong
nước đến làm ăn, sinh sống, gây khó khăn cho cơng tác quản lý dân cư, dẫn đến
tỷ lệ phạm tội gia tăng. Thêm vào đó, tội phạm ở thành phố Hồ Chí Minh và
các tỉnh lân cận chọn Đồng Nai làm nơi hoạt động, dẫn đến tình hình tội phạm
trên địa bàn tỉnh diễn biến hết sức phức tạp.
Từ đầu năm 2015 đến cuối năm 2019, số vụ án các TAND tỉnh Đồng
Nai phải giải quyết là 8.372, với 10.078 bị cáo. Trong đó, gồm: Tội giết người


25
Trần Đình Hồng
MS: 8.38.01.04

Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự


349 vụ; Tội cố ý gây thương tích 869 vụ; Tội cướp tài sản 417 vụ ; Tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản 238 vụ; Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 456 vụ; Tội
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm 284 vụ; Tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt ma túy 2.811 vụ; Tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ 669 vụ; Tội đánh bạc 431 vụ; Tội trộm cắp
tài sản 1.315 vụ; Tội cưỡng đoạt tài sản 323 vụ;
Qua số liệu trên có thể thấy một số loại tội phạm diễn ra phức tạp, có số
vụ lớn như: Tội trộm cắp tài sản; Tội cố ý gây thương tích; Tội vận chuyển,
tàng trữ, mua bán chất ma túy,...
2.1.2. Khái quát kết quả thụ lý, xét xử.
Tại Đồng Nai, hệ thống Tòa án nhân dân gồm 01 Tòa án nhân dân tỉnh
và 11 đơn vị Tòa án nhân dân cấp huyện, thành phố, thị xã. Trong đó, số
lượng biên chế của Tịa án 287 người, gồm có 123 Thẩm phán; 25 Thẩm tra
viên và chuyên viên; 116 Thư ký và 23 ngạch cơng chức khác).
Ngồi nhiệm vụ về chun mơn, nhiệm vụ chính trị tại địa phương thì
TAND hai cấp tỉnh Đồng Nai cịn tham gia hoàn thiện hệ thống pháp luật; thực
hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp; tiếp tục kiện toàn đội ngũ cán bộ, thẩm phán và
tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc.
Được sự quan tâm, chỉ đạo của TAND tối cao, cấp ủy, chính quyền địa
phương và sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, ban ngành, tập thể lãnh đạo
và cán bộ, cơng chức Tịa án trong tồn tỉnh Đồng Nai ln thể hiện tinh thần
trách nhiệm và quyết tâm cao trong công việc. Từ năm 2015 đến năm 2019,
TAND hai cấp tỉnh Đồng Nai đã hồn thành tốt các nhiệm vụ trọng tâm, góp
phần khơng nhỏ trong công tác cải cách tư pháp, thực hiện chỉ tiêu về xét xử
cho tỉnh nhà nói riêng, trong hệ thống Tịa án cả nước nói chung
Tình hình thụ lý, xét xử các vụ án hình sự được thống kê từ năm 2015
đến năm 2019 của TAND hai cấp tỉnh Đồng Nai, thể hiện qua bảng tổng hợp
sau đây:



×