Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Lỗi sai, nguyên nhân gây lỗi sai khi viết chữ Hán của sinh viên và biện pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.34 KB, 8 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 8, pp. 163-170
This paper is available online at

DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0157

LỖI SAI, NGUYÊN NHÂN GÂY LỖI SAI KHI VIẾT CHỮ HÁN CỦA SINH VIÊN
VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC

Trần Thị Yến
Bộ môn tiếng Trung Quốc, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Tóm tắt. Chữ Hán là văn tự của tiếng Trung Quốc (hay còn gọi là tiếng Hán), là một bộ
phận cấu thành nét đặc sắc của ngôn ngữ này. Lỗi sai trong việc thể hiện chữ Hán cũng là
lỗi cơ bản, thường thấy nhất của người học tiếng Trung Quốc. Bài báo này tập trung vào
lỗi sai khi viết, nguyên nhân gây lỗi sai và biện pháp khắc phục. Đây chính là tài liệu tham
khảo cho giảng viên trong quá trình giảng dạy nhằm giảm bớt khó khăn khi dạy học, tạo
hứng thú cho sinh viên khi học chữ Hán, nâng cao hiệu quả việc dạy và học tiếng Trung
Quốc.
Từ khóa: Dạy học chữ Hán, lỗi sai khi viết chữ Hán, nguyên nhân gây lỗi sai khi viết chữ
Hán, phương pháp dạy chữ Hán.

1.

Mở đầu

Dạy viết chữ Hán là một nội dung quan trọng trong dạy tiếng Trung Quốc. Nắm được hình
thể chữ Hán sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kĩ năng đọc và viết, cũng như ảnh hưởng đến việc nâng
cao trình độ tiếng Hán nói chung. Song hệ thống chữ Hán lớn, kết cấu phức tạp, hình dạng thay
đổi phong phú lại là một khó khăn lớn đối với người học và là khó khăn ảnh hưởng đến chất lượng
dạy. Tư Tự Hồng đã nhấn mạnh: “dạy học chữ Hán là một yếu tố quan trọng nhất” [1], Triệu Kim


Minh cũng chỉ ra: “dạy học tốt chữ Hán là yếu tố quan trọng tạo nên hiệu quả dạy tiếng Trung
Quốc, giảng viên phải nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy chữ Hán”[2]. Tại Trung Quốc
có các bài nghiên cứu về lỗi viết chữ Hán và phương pháp giảng dạy như: “Nghiên cứu lỗi sai chữ
Hán của sinh viên nước ngoài” của Lưu Hiểu Lam [3], “Đặc điểm nét chữ Hán và lỗi về nét của
sinh viên nước ngoài” của Quách Thánh Lâm [6], “Nguyên nhân gây lỗi chữ Hán của sinh viên
nước ngoài” của Vu Hiểu Vi [8], “Nghiên cứu dạy học chữ Hán cho sinh viên nước ngồi” của Lưu
Kiến Bình và Sở Kim Kim [4], “Phân tích lỗi về bộ thủ của sinh viên Việt Nam và cách dạy” của
Lương Hiểu Lệ [5]. Ở Việt Nam, các bài báo về lỗi sai và nguyên nhân gây lỗi sai hầu như chưa
có. Bài báo này nghiên cứu về lỗi sai và nguyên nhân gây lỗi sai khi viết chữ Hán, đồng thời đưa
ra phương pháp dạy chữ Hán hiệu quả, phù hợp với sinh viên Việt Nam.
Ngày nhận bài: 15/6/2015. Ngày nhận đăng: 10/10/2015.
Liên hệ: Trần Thị Yến, e-mail:

163


Trần Thị Yến

2.
2.1.

Nội dung nghiên cứu
Phân loại lỗi trong nhận thức và thể hiện chữ Hán

Lỗi về nét chữ: Nét chữ là những đường nét, là đơn vị nhỏ nhất cấu tạo nên hình thể chữ
Hán. Lỗi nét chữ bao gồm:
- Thiếu nét: Người viết làm mất, thiếu một hoặc vài nét.
Chữ đúng

Chữ sai


Chữ đúng

Chữ sai

Chữ sai







Chữ đúng

- Thừa nét: Người viết thêm vào một hoặc vài nét.
Chữ đúng

Chữ sai

Chữ đúng

Chữ sai





Chữ đúng


Chữ sai



- Lẫn lộn nét: Các nét hay lẫn lộn nhau là: chấm, ngang, phẩy, sổ, sổ móc cong.
Chữ đúng

Chữ sai



Chữ đúng

Chữ sai



Chữ đúng

Chữ sai



Lỗi về bộ thủ: Bộ thủ là đơn vị lớn hơn nét, do các nét tạo nên, là đơn vị cấu tạo chữ. Lỗi
về bộ thủ có:
- Thay đổi bộ thủ: làm thay đổi bộ thủ ban đầu của chữ bằng bộ thủ gần giống hoặc bộ thủ
khác.
Chữ đúng

Chữ sai


Chữ đúng

Chữ sai

Chữ đúng







环境

清静

地方

Chữ sai

- Thêm bộ: Các bộ thường được thêm vào 氵(thủy), 讠(ngôn) và 辶(xước).
Chữ đúng

Chữ sai



Chữ đúng


Chữ sai

Chữ đúng

Chữ sai





- Bớt bộ: Bộ thường bị bỏ đi: 讠(ngôn) , 冫(băng), 心( tâm), 土(thổ).
Chữ đúng


164

Chữ sai

Chữ đúng


Chữ sai

Chữ đúng
愿意

Chữ sai


Lỗi sai, nguyên nhân gây lỗi sai khi viết chữ hán của sinh viên và biện pháp khắc phục





- Biến hình của bộ: Dùng “KK” thay thế cho bộ trúc “ ”, dùng chữ “Z” thay thế cho chữ
”, dùng chữ “B” thay thế cho bộ ấp “ ”, dùng chữ “ ” thay thế cho bộ ngôn “讠”, dùng chữ
” thay cho chữ “比” .
Chữ đúng

Chữ sai

Chữ đúng

Chữ sai

Chữ đúng













Chữ sai


Lỗi kết cấu: Chữ Hán có kết cấu trái - phải, trên - dưới, bao quanh, nhưng sinh viên thường
đều viết thành kết cấu trái - phải.
Chữ đúng

Chữ sai

Chữ đúng

Chữ sai

Chữ đúng













Chữ sai

Lỗi chữ hoàn chỉnh: Lỗi chữ hoàn chỉnh thường xuất hiện ở ba dạng:
- Lỗi do chữ đồng âm
Chữ đúng


Chữ sai

Chữ đúng

Chữ sai

文化

城市

Chữ đúng

Chữ sai

天气

- Lỗi do chữ gần giống
Chữ đúng

Chữ sai

Chữ đúng

Chữ sai

已经

东西


Chữ đúng

Chữ sai

夏天

- Lỗi do viết tách rời các bộ phận của chữ
Chữ đúng

Chữ sai

Chữ đúng



2.2.



Chữ sai

Chữ đúng

Chữ sai



Nguyên nhân gây lỗi sai

2.2.1. Nguyên nhân gây lỗi sai về nét

Chữ Hán do các nét tạo nên, chỉ cần thêm hay bớt một nét cũng tạo nên sự khác biệt lớn,
dẫn tới lỗi sai. Nguyên nhân gây lỗi sai về nét là do:
Thứ nhất, chữ Tiếng Việt do các đường cong, vòng tạo nên. Độ cong và vịng khơng ảnh
hưởng đến chữ. Chữ Hán do các nét (chấm, ngang, phảy, sổ, hất, mác, móc) tạo nên, vì thế sinh
viên Việt Nam khi viết chữ Hán dễ bị thêm, bớt nét, viết nét tùy tiện. Ví dụ: “认真” viết thành
165


Trần Thị Yến



”, “房间” viết thành “
” , “冷” viết thành “ ” , “讠” viết thành “ ”.
Thứ hai, khi học sinh viên không chú ý đến số lượng nét, cách viết từng nét. Khi chữa bài
tập giảng viên chưa nhấn mạnh lỗi thừa thiếu nét, sinh viên dễ sai theo thói quen. Điển hình nhất
là chữ “真” thiếu một nét bên trong “ ”。

2.2.2. Nguyên nhân gây lỗi sai về bộ thủ
Bộ thủ là đơn vị lớn hơn nét và nhỏ hơn chữ hoàn chỉnh, là phần trung tâm tạo nên chữ Hán.
Bộ thủ khác nhau tạo nên chữ Hán khác nhau. Lỗi sai là do:
Thứ nhất, có nhiều bộ thủ gần giống nhau, chỉ khác nhau về một nét nhỏ. Quan sát không
kĩ sẽ dễ viết sai. Ví dụ “那” viết thành “ ”, chữ “觉” viết thành “ ”.
Thứ hai, do bị ảnh hưởng bởi chữ trước và sau nên khi viết lấy bộ của chữ trước viết vào
chữ sau, hoặc lại viết bộ của chữ sau viết cho chữ trước. Ví dụ “清净” viết thành “

”, “地方”

viết thành “
” , “环境” viết thành “

”。
Thứ ba, chữ Hán khơng hồn tồn chỉ là chữ tượng hình, cịn có chữ hội ý, hình thanh, chỉ
sự. Giảng viên khi dạy chỉ chú trọng đến giải thích chữ hình thanh, sinh viên dễ suy luận tương
” thì thường có liên quan đến “đi lại” nên khi viết
đương cho tất cả các chữ. Ví dụ: chữ có bộ “
”, suy luận chữ “离” có liên quan đến “việc đi
chữ “离” (rời đi) thường viết thành chữ sai “
lại”. Chữ “风景” (phong cảnh) viết thành “
”, trước chữ “景” thêm bộ “氵”, cho rằng “phong
cảnh” có liên quan đến “sơng nước”.
Thứ tư, do trong tiếng Việt có một số chữ gần giống hình dạng của một số bộ thủ của chữ
Hán, khi viết sinh viên thường dùng văn tự của tiếng Việt để thay thế. Viết chữ “ ” thay cho chữ
“下”, “ ” thay cho bộ trúc “ ”, “ ” thay cho chữ “了” , “ ” thay cho “阝”.

2.2.3. Nguyên nhân gây lỗi sai về kết cấu
Do chưa nắm được kết cấu của chữ Hán, nên người học bị lộn xộn về kết cấu hoặc kết cấu
khơng chính xác. Nguyên nhân do:
Thứ nhất, hầu hết chữ Hán viết theo kết cấu trái - phải, chữ viết theo kết cấu trên - dưới thì
ít. Vì thế sinh viên mặc định chữ Hán viết theo kết cấu trái - phải, các chữ theo kết cấu trên - dưới
hoặc theo kết cấu bao quanh thì thường bị sinh viên viết thành kết cấu trái - phải. Ví dụ: chữ “帮”
” , chữ “想” viết thành “ ” .
viết thành “
Thứ hai, khi giảng về chữ Hán, giảng viên thường chỉ dạy theo kiểu tách các bộ, giải thích
chữ Hán phần nào biểu âm, phần nào biểu ý, hầu như khơng nói đến kết cấu của chữ, dẫn đến khi
viết sinh viên chỉ chú ý đến ghép cho đủ bộ thủ mà ít quan tâm đến kết cấu chữ.

2.2.4. Nguyên nhân gây lỗi chữ hoàn chỉnh
Lỗi chữ hoàn chỉnh thường do đặc trưng hiện tượng chữ đồng âm, chữ gần giống nhau và
do hiện tượng viết tách các thành phần gây ra.
Rất nhiều chữ Hán âm đọc giống nhau, chữ viết và ngữ nghĩa cũng khác nhau. Ví dụ: “城

市” viết thành “成市”, “朋友” viết thành “朋有”. . . .
Sinh viên không nắm được yếu tố biểu âm và biểu ý của chữ, nên khơng hiểu được cách cấu
tạo chữ hồn chỉnh. Một số chữ Hán chỉ cần thêm hoặc bớt một nét đã tạo nên chữ khác. Ví dụ “已
经” viết thành “
166

”, “材料” viết thành “

”. . . .


Lỗi sai, nguyên nhân gây lỗi sai khi viết chữ hán của sinh viên và biện pháp khắc phục

Khi viết chữ Hán có thể viết thay đổi hình dạng của chữ, nhưng các thành phần cấu tạo nên
chữ như nét, bộ luôn luôn phải đảm bảo viết theo đúng kết cấu. Nếu tách các thành phần cấu tạo
nên chữ ra thì một chữ sẽ trở thành hai hoặc nhiều chữ. Ví dụ “难” viết thành “
” , “理” viết
thành “

2.3.

”, “样” viết thành“

”. . .

Biện pháp khắc phục

Để giảm thiểu việc viết sai chữ Hán của người học thì giảng viên ngoài việc nắm chắc
những phương pháp, kĩ năng dạy học cần thiết, còn phải nắm được những lỗi sai của sinh viên, từ
đó có những cách dạy phù hợp, đạt hiệu quả cao. Dưới đây là một số phương pháp dạy cơ bản khắc

phục được lỗi sai của sinh viên khi viết chữ Hán.

2.3.1. Dạy theo nét
Dạy học chữ Hán phải được bắt đầu từ đơn vị nhỏ nhất là nét chữ. Đối với sinh viên mới
học chữ Hán mà tiếng mẹ đẻ được ghi bằng các kí tự, thì nét chữ của chữ Hán là rất phức tạp, khó
học. Việc dạy nét chữ đúng, khoa học, sẽ là khởi đầu tốt cho dạy chữ Hán. Có thể dạy theo thứ tự
sau: nét cơ bản/hình nét cơ bản → biến hình của nét → nét ghép.
Khi bắt đầu dạy chữ Hán sẽ dạy các nét cơ bản: ngang 一, sổ丨, phẩy丿, chấm丶, mác ,
hất . Dạy nét ghép phải thông qua các chữ cụ thể: sổ cong , sổ móc , sổ cong móc , ngang gập
, ngang gập móc , ngang gập cong móc , phẩy chấm , cong móc đứng , cong móc nghiêng
. . . Tên gọi của nét và thứ tự nét phải được dạy đồng thời. Ví dụ: nét ngang gập cong móc phải
được dạy là ngang trước, sau đó gập rồi đến cong và cuối cùng là móc.
Sự biến hình của các nét cần được giải thích là để nhường chỗ cho phần bên phải. Các dạng
biến hình: nét ngang biến thành nét hất: 功, 站, 孔; nét mác biến thành nét chấm: 灯, 刘; nét móc
biến thành nét phẩy: 看, 着, 差; nét sổ móc sẽ biến thành sổ: 尖, 尘, 党; nét ngang gập cong móc
biến thành nét ngang gập cong: 设, 朵, 铅.
Quy tắc viết thuận cũng cần nhấn mạnh: (1) Ngang trước sổ sau: 十; (2) Trên trước dưới
sau: 三, 干; (3) Phẩy trước mác sau: 人, 木; (4) Trái trước phải sau: 川, 洲; (5) Ngoài trước trong
sau: 月, 向; (6) Giữa trước hai bên sau: 小, 水; (7) Vào trước đóng sau: 日, 田. Viết theo đúng qui
tắc thuận khơng những viết dễ, viết nhanh mà cịn dễ viết đẹp, cân đối, giảm viết sai.
Muốn dạy viết chữ Hán đẹp thì hơn ai hết giảng viên phải viết chữ Hán đẹp, cân đối. Như
thế vừa là tấm gương để sinh viên học tập, vừa tạo hứng thú về loại văn tự này.

2.3.2. Dạy theo bộ thủ
Dạy học bộ thủ nên tiến hành kết hợp dạy song song cả hình, âm và ý.
Dạy tên gọi của bộ
Mỗi loại bộ thủ có tên và ý nghĩa khác nhau. Nắm được tên bộ thủ thông dụng, nắm được
ý nghĩa bộ sẽ giảm sự nhầm lẫn giữa những bộ gần giống nhau. Nếu tìm ra những cách gọi tên dễ
nhớ, dễ học thuộc thì càng thuận lợi cho người học.
Các bộ thủ có thể nằm ở nhiều vị trí khác nhau:

- Các bộ thường nằm bên trên gồm: 艹, 广, 冖, 宀, 父, 西, 四, 山. . . 草, 安
- Các bộ thường nằm bên dưới gồm: 灬, 心, 系, 卄. . . 照, 德
- Các bộ thường nằm bên trái gồm:冫, 氵, 亻, 彳, 衤, 日, 目, 木, 土, 王. . . 他, 明
- Các bộ thường nằm ở bên phải gồm: 女, 欠, 支, 隹, 鸟, 羽, 页, 头. . . 鸡, 欢
- Các bộ thường nằm xung quanh gồm: 冂, 匚, 凵, 囗. . . 医, 网, 凶, 圆
167


Trần Thị Yến

- Các bộ thường nằm bên trong gồm: 矢, 玉... 医, 国
Trường hợp bộ khơng có tên thì có thể dựa vào hình dạng hoặc nét để đặt tên. Ví dụ “ ”
(dê ko đi): “美”, “糕”; “ ” (dê lệch đuôi): “差”, “着”; “巛” xuyên cong: “巡”, “巢”
Khi dạy nên kết hợp đọc âm đọc tiếng Trung Quốc và tên bộ theo âm Hán Việt, sẽ giúp cho
viêc ghi nhớ bộ nhanh chóng. Ví dụ 冖(mì, bộ mật), 忄(x¯ın, bộ tâm đứng)
Giảng giải ý nghĩa bộ thủ
Khi giảng giải ý nghĩa bộ thủ, bộ thủ dễ thì giải thích đơn giản, bộ thủ khó thì giải thích cụ
thể chi tiết để sinh viên dễ hiểu. Hiểu được ý nghĩa bộ thủ, sẽ khắc phục được tình trạng học chữ
thuộc vẹt, sao chép chữ Hán một cách cứng nhắc, đồng thời giảm chữ sai, giảm áp lực học chữ.
Có thể phân nhóm các bộ thủ dựa vào ý nghĩa của các bộ thủ. Bài này tác giả chủ yếu phân
loại đối với chữ tượng hình, vì bộ thủ trong chữ tượng hình chiếm tỉ lệ rất cao.
(1) Bộ thủ tượng hình chỉ con người và bộ phận cơ thể người
Con người: 人, 亻,女, 儿, 子; bộ phận trên cơ thể: 目, 口; cơ thể: 身; tứ chi: 又, 止
(2) Bộ thủ tượng hình chỉ động vật và liên quan đến động vật
Xúc vật: 牛, 羊; gia cầm, cá: 隹, 鱼, động vật: 彡, 爪
(3) Bộ thủ tượng hình chỉ thực vật: 艹, 木
(4) Bộ thủ tượng hình chỉ hiện tượng tự nhiên:日, 月, 雨; 水, 巛,冫; 山, 石, 田
(5) Bộ thủ tượng hình chỉ cơng trình kiến trúc: 广, 宀, 门, 户, 瓦
(6) Chữ tượng hình chỉ dụng cụ: 车, 舟; 匚, 豆, 缶; 斤, 弓; 衣, 巾, 纟; 文, 弋
Ngoài ra các bộ thủ của chữ chỉ sự, hội ý, hình thanh cũng có năng cấu tạo chữ tương đương,

khi dạy cũng cần được quan tâm.
Hướng dẫn cách viết bộ thủ
Viết bộ thủ cần phải đảm bảo tính chính xác. Khi dạy cần đặc biệt chú ý phân biệt những
bộ thủ gần giống nhau. Khi phân tích cần tập trung ba yếu tố hình, âm, nghĩa. Mắt nhìn vào
chữ, miệng đọc, đầu nghĩ đến ý nghĩa. Các cặp bộ thủ gần giống nhau nhưng ý nghĩa khác
nhau hồn tồn có: 冫b¯ıng/氵shuˇı, 冖mì /宀mián, 日rì/目mù/曰yu¯e, 厂chˇang/广guˇang/疒chng,
亻rén/彳chì,卩jié/阝, 廴yˇın /辶ch, 饣shí/钅j¯ın, 艹cˇao/竹zhú. . . Ví dụ “礻”/“衤”: “礻”có 4 nét,
gọi là bộ “lễ”, ý nghĩa liên quan đến thần linh: 神, 祝...“衤” có 5 nét, gọi là bộ “y”, liên quan đến
y phục: 衬衫, 裤子. . .

2.3.3. Dạy theo kết cấu
Dạy chữ độc thể
Số lượng chữ độc thể không nhiều, nhưng khả năng cấu tạo từ mạnh, thuận lợi cho sinh viên
nắm được hình, âm, nghĩa. Vì thế dạy chữ độc thể là vô cùng quan trọng. Dạy chữ độc thể có thể
dạy theo ba phương pháp sau:
(1) Dạy chữ độc thể biểu ý
Hình ảnh và ý nghĩa của chữ biểu hình có quan hệ mật thiết với nhau. Nhìn vào chữ đã thấy
được đó là chữ tượng hình: 日, 月, 山, 水 hay là chữ chỉ sự: 上, 下, 一, 二, 三. Khi dạy những chữ
này nên tận dụng ý nghĩa biểu ý của nó, tiến hành phân tích chữ, để sinh viên cảm nhận và hiểu
được sự khác biệt của chữ Hán so với văn tự của các ngơn ngữ khác. Ví dụ: dạy chữ tượng hình
“水” có thể cho sinh viên nhìn thấy chữ giáp cốt “ ” để sinh viên dễ đoán được ý nghĩa. Giải thích
chữ chỉ sự “上”, “下”, nét ngang tượng trưng cho mặt phẳng, nằm trên nét ngang đó chính là phần
ở trên, nằm dưới là phần ở dưới.
(2) Dạy chữ độc thể biểu âm
168


Lỗi sai, nguyên nhân gây lỗi sai khi viết chữ hán của sinh viên và biện pháp khắc phục

Đưa ra các chữ có âm đọc gần giống nhau có cùng bộ thủ, cho sinh viên đọc, quan sát, tự

tìm ra âm đọc gần giống, phán đốn. Ví dụ khi dạy “把”, giảng viên liệt kê ra chữ “爸”, “吧”, sinh
viên sẽ phát hiện ra âm gần giống nhau của “巴”, sau đó lại đưa ra âm “疤”,“罢” để sinh viên phán
đốn, kết luận. Cách dạy này khơng thể dạy chữ riêng lẻ, cần có sự liên hệ với các chữ khác, từ
khác, thậm chí là câu.
(3) Dạy chữ độc thể chỉ sự
Chữ chỉ sự khơng có sự liên hệ giữa hình ảnh, ý nghĩa với âm đọc nên rất khó tìm ra sự liên
hệ. Khi dạy loại chữ này chủ yếu nhấn mạnh vào nét chữ, thứ tự nét và phân tích chữ gần giống. Ví
dụ: chữ “八” cho biết được nét phẩy, mác và thứ tự viết là phẩy trước mác sau. Chữ “小” cho biết
thứ tự viết giữa trước hai bên sau. . .
Dạy học thông qua phân tích chữ gần giống nhau cũng là phương pháp dạy rất quan trọng,
đưa ra những chữ độc thể gần giống nhau để sinh viên quan sát, tìm ra những điểm khác nhau.
Cách này không chỉ cần chú ý đến phân tích hình chữ mà cịn phải chú ý đến ý nghĩa của chữ. Ví
dụ: “少” và “小”; “人” và “入”; “儿” và “几” . “少” shˇao [thiểu] (ít), “小xiˇao [tiểu] (nhỏ) ”; “人”
rén [nhân] (người), “入” rù [nhập] (vào) ; “儿” ér [nhi] (con), “几” jˇı [kỉ] (mấy).
Dạy chữ hợp thể
Để dạy được chữ hợp thể có hiệu quả, giảng viên phải nắm được nguyên tắc tách chữ hợp
thể, sau đó dạy chữ theo cách tách bộ. Phương pháp dạy chữ hợp thể là tách chữ thành các phần
theo cấp độ tách cấp một hay cấp hai. Việc tách chữ thành các bộ phận sẽ thuận lợi cho việc tiến
hành dạy học, dễ hiểu cho người học, tạo cho người học dần có tính liên tưởng tư duy, nhận biết
để đọc chữ Hán. Chữ 健phân tách cấp một thành “亻” và “建”. Nếu chữ có hình ảnh, kết cấu đặc
biệt thì có cách dạy đặc biệt. Chữ “裹” theo kết cấu trên giữa dưới, có thể tách cấp một thành chữ
“衣” và “果”, sau đó tách cấp hai đưa “果” vào giữa chữ 衣. Loại đặc biệt kiểu này thì ít.

3.

Kết luận

Dạy học chữ Hán là một nhiệm vụ quan trọng khi dạy tiếng Trung Quốc. Bản thân chữ Hán
khó, người học chủ quan chưa thực sự tập trung, chịu ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ, người dạy chưa
chú trọng khi dạy sẽ là những nguyên nhân chính gây ra lỗi chữ. Lỗi chữ sai liên tục, không sửa

chữa kịp thời sẽ dễ trở thành lỗi hệ thống, khó sửa, ảnh hưởng đến cả q trình học ngơn ngữ. Làm
thế nào để dạy tốt chữ Hán cũng là một vấn đề được giảng viên luôn luôn rất quan tâm. Việc tìm
ra lỗi sai, nguyên nhân gây lỗi sai và đưa ra giải pháp là việc làm cấp thiết đối với giảng viên. Hi
vọng bài viết này sẽ là căn cứ khoa học và tài liệu tham khảo có giá trị cho giảng viên dạy tiếng
Trung Quốc, Trường Đại học Sư phạm nói riêng và giảng viên dạy tiếng Trung Quốc nói chung tại
các cơ sở đào tạo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]

Dạy học chữ Hán là yếu tố quan trọng nhất. Tạp chí Khoa học, Học viện nhân dân Quế Châu,
4/2009.
Khát quát dạy học chữ Hán cho sinh viên nước ngoài. Ngoại thương xuất bản xã (Trung
Quốc), 2007.
Lưu Hiểu Lam, 2005. Nghiên cứu lỗi sai chữ Hán của sinh viên nước ngoài. Tạp chí Khoa
học Học viện Nghi Tân, 2005(11), tr. 58-59.
刘晓岚, 2005. 《留学生汉字偏误研究综述》. 宜宾学院学报,2005(11), 页58-59.
Lưu Kiến Bình, Sở Kim Kim, 2011. Nghiên cứu về phương pháp dạy chữ Hán cho sinh viên
nước ngồi. Tạp chí Dạy học và Nghiên cứu ngữ văn, 2011(49), tr. 44 - 46.
169


Trần Thị Yến

刘 建 平, 楚 金 金, 2011. 《 对 外 汉 语 汉 字 教 学 方 法 之 探 讨 》. 语 文 教 学 与 研
究,2011(49),页44-46.
[5] Lương Hiểu Lệ, 2011. Phân tích lỗi về bộ thủ của sinh viên Việt Nam và cách dạy. Tạp chí
Giáo dục, Học viện Tứ Xuyên, 9.2011, tr. 71-72.

梁晓丽, 2011. 《越南留学生的部件偏误分析现象极其对策》. 四川学院学报,9,
页71-72
[6] Quách Thánh Lâm, 2008. Đặc điểm nét chữ Hán và lỗi về nét của sinh viên nước ngồi. Tạp
chí Khoa học, Học viện Tiếng Hoa, Đại học Tế Nam, 4.2008, tr. 63 - 65.
郭圣林,《汉字的笔画特点与外国学生汉字笔画偏误》,暨南大学华文学院学报,4,
页63-65.
[7] Quản Quốc Nhân, 2011. Nghiên cứu phương pháp dạy chữ Hán cho sinh viên Việt Nam. Luận
văn thạc sĩ Trường Đại học Khoa học kĩ thuật Hoa Trung, tr. 65 - 67.
管国仁, 2011. 《越南的汉字教学方法研究》. 华中科技大学,硕士学位论文, 页65-67.
[8] Vu Hiểu Vi, 2010. Nguyên nhân gây lỗi chữ Hán của sinh viên nước ngồi. Tạp chí Khoa
học, Học viện kĩ thuật Tương Phàn, 9.2010, pp 74-76.
于晓薇, 2010. 《留学生汉字偏误探源》. 襄樊职业技术学院学报, 9,页74-76.
[9] Tôn Đức Kim, 2006. Nghiên cứu dạy học chữ Hán cho người nước ngoài. Nxb Ngoại thương.
[10] Trần Hồng Anh, 2007. Tình hình dạy chữ Hán hiện đại và ý nghĩa của việc nghiên cứu trong
việc dạy chữ Hán. Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại
học quốc gia Hà Nội.
ABSTRACT
Chinese character writing errors, the causes of these writing errors
and teaching methodology
Chinese characters of the Chinese script, known as Hanyu, are a distinctive feature of this
language. Errors in writing Chinese characters are common to learners. This article focuses on
errors made in writing Chinese characters, the reasons these errors are made and Chinese character
teaching methodologies. This is meant to be a reference for lecturers and students that will make
it easier to teaching and learning Chinese, increase interest in Chinese characters and improve the
effectiveness of teaching and learning Chinese.
Keywords: Chinese character teaching, Chinese character writing errors, the causes of
Chinese character writing errors, Chinese character teaching methodology.

170




×