Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai từ thực tiễn tại tòa án nhân dân quận bình tân, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.39 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HUY HÙNG PHONG

HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI - NĂM 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HUY HÙNG PHONG

HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐẶNG VŨ HUÂN

HÀ NỘI, NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN



Tôi cam đoan đây là Luận văn do tơi tự nghiên cứu. Những số liệu
thống kê và trích dẫn trong luận văn là trung thực đảm bảo tính khách quan
và phù hợp với tình hình thực tiễn. Những kết luận khoa học của luận văn là
do tôi tự nghiên cứu rút ra và kế thừa những cơng trình nghiên cứu trước đó.
Tơi đã hồn thành chương trình các mơn học và các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Học viện khoa học xã hội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị khoa Luật Học viện khoa học xã
hội xem xét để tơi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
TÁC GIẢ

TRẦN HUY HÙNG PHONG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬTVỀ HÒA GIẢI
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI TỊA ÁN NHÂN
DÂN.....................................................................................................................13
1.1. Một số vấn đề về hịa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai..................... 13
1.2. Một số vấn đề về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án
nhân dân...............................................................................................................21
Kết luận chương 1..............................................................................................33
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI
HÀNH PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP ĐÁT ĐAI TẠI TỊA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.........................................................................34
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về hòa giải trong giải quyết tranh chấp
đất đai tại Tòa án nhân dân.................................................................................. 34

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất
đai tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh.......................47
Kết luận chương 2..............................................................................................65
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM.........67
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật
về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân ở Việt
Nam......................................................................................................................67
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về
hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân ở Việt Nam ... 72
Kết luận chương 3..............................................................................................77
KẾT LUẬN.........................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................80


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
- TAND

: Tòa án nhân dân

- TA

: Tòa án

- VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
- UBND: Ủy ban nhân dân
- GCNQSDĐ : Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
- BLDS: Bộ luật Dân sự
- BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự

- LĐĐ
- LNƠ

: Luật Đất đai
: Luật Nhà ở

- LKDBĐS

: Luật Kinh doanh bất động sản

- VBQPPL : Văn bản quy phạm pháp luật
- BTP: Bộ Tư pháp
- GCN: Giấy chứng nhận
- TTLT: Thông tư liên tịch
- QĐ

: Quyết định

- GQTC: Giải quyết tranh chấp
- HĐXX

: Hội đồng xét xử


DANH MỤC BẢNG THỐNG KÊ, BIỂU ĐỒ
Bảng 1: Bảng số liệu thống kê công tác giải quyết các tranh chấp tại
Tịa án nhân dân quận Bình Tân từ 2015-2019;
Bảng 2: Bảng số liệu thống kê các tranh chấp đất đai được hòa giải ở
cấp sơ thẩm tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân từ 2015-2019;
Bảng 3: Bảng thống kê kết quả hòa giải các tranh chấp đất đại ở cấp sơ

thẩm tại Tịa án nhân dân quận Bình Tân từ 2015-2019;
Bảng 4: Bảng số liệu thống kê số vụ án tranh chấp đất đai được Tòa án
nhân dân quận Bình Tân xét xử sơ thẩm từ 2015-2019;
Bảng 5: Bảng thống kê số vụ tranh chấp đất đai có kháng cáo, kháng
nghị tại quận Bình Tân từ 2015-2019.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong những năm gần đây, tranh chấp đất đai là một trong những tranh
chấp xảy ra phổ biến, rất phức tạp và gay gắt, mà hậu quả khi xảy ra tác động
xấu đến các mối quan hệ trong xã hội như: từ huyết thống, hơn nhân gia đình
và tình làng nghĩa xóm cho đến xã hội nó cịn gây mất trật tự và an tồn xã
hội. Rất khó để hạn chế tranh chấp, khi tranh chấp xảy ra rồi thì làm thế nào
để hóa giải tranh các chấp đó là vấn đề được nhiều cá nhân cũng như các cơ
quan có thẩm quyền quan tâm. Hòa giải là một trong những biện pháp hữu
hiệu để giải quyết tranh chấp đất đai, tuy nhiên, pháp luật về hòa giải đối với
tranh chấp đất đai hiện nay chưa có sự thống nhất, chưa có quy định cụ thể, từ
đó, gây khó khăn cho việc giải quyết tranh chấp đất đai trên thực tế. Việc giải
thích hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền cũng chưa đầy đủ và kịp thời,
vẫn cịn có những thẩm phán chưa xác định đúng vị trí, vai trò, ý nghĩa của
hòa giải trong tố tụng dân sự; chưa coi trọng đúng mức cơng tác hịa giải; kinh
nghiệm, kỹ năng, phương pháp hịa giải cịn có những hạn chế, thiếu hiệu quả;
công tác tập huấn, đào tạo chuyên sâu về kỹ năng hòa giải chưa được tổ chức
thường xun v.v...Vì vậy, việc hịa giải tranh chấp đất đai của Tòa án nhân
dân (TAND) trong những năm qua vừa khơng thống nhất, vừa khơng đạt hiệu
quả cao. Có nhiều vụ án vì hịa giải mà kéo dài trong nhiều năm, khiếu kiện
kéo dài và làm giảm lòng tin của người dân đối với đường lối chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
Hòa giải tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân là một giai đoạn của

quá trình tố tụng dân sự và đồng thời là phương thức giải quyết tranh chấp đất
đai có hiệu quả mà khơng cần phải thực hiện việc xét xử. Về bản chất, nó là
biện pháp hòa giải nhưng do thẩm phán trực tiếp thực hiện và được bảo đảm
thực thi như một quyết định của Tòa án. Ở giai đoạn hiện nay, khi đời sống,


kinh tế, xã hội ngày càng phát triển sẽ kéo theo nhiều tranh chấp, phức tạp
phát sinh trên nhiều lĩnh vực, trong đó tranh chấp đất đai là một điển hình.
Thực trạng này địi hỏi hệ thống pháp luật áp dụng giải quyết cần phảiđược bổ
sung và hồn thiện. Vì vậy, đặt vấn đề nghiên cứu các quy định pháp luật về
hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai và thực trạng giải quyết tranh chấp
đất đai thông qua hòa giải tại Tòa án nhân dân để đề xuất những giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích cho cơng dân là vấn đề
có tính cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Hòa giải trong
giải quyết tranh chấp đất đai từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân quận Bình
Tân, thành phố Hồ Chí Minh”làm Luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Qua tìm hiểu và xuất phát từ nhu cầu thực tế để giải quyết tranh chấp
đất đai, trong thời gian qua đã có một số tác giả có các cơng trình nghiên cứu
khoa học đề cập và nghiên cứu về hòa giải tranh chấp đất đai. Cụ thể:Các
cơng trình nghiên cứu, khóa luận, luận văn, luận án chuyên đề như:
Sách chuyên khảo “Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt
Nam hiện nay ” do TS. Phạm Thị Hương Lan biên soạn;
Luận án Tiến sĩ luật học“Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam - Cơ sở lý luận và thực tiễn”, của tác giả Trần Văn Quảng, Đại
học Luật Hà Nội, năm 2008;
Luận văn Thạc sĩ luật học “Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất
đai” của tác giả Nguyễn Thị Hảo, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm
2014;

Khóa luận tốt nghiệp Đại học “ Đánh giá thực trạng công tác giải
quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn huyện Tủa Chùa, tỉnh Điện Biên giai
đoạn 2012-2014” của tác giả Mùa A Tùng, Đại học Nông lâm – Đại học Thái


Nguyên, năm 2015;
Luận văn thạc sĩ luật học “ Pháp luật hòa giải trong giải quyết tranh
chấp đất đai từ thực tiễn huyện Chương Mỹ” của tác giả Nguyễn Văn Hoàng,
Học viện khoa học xã hội năm 2017;
Luận án Tiến sĩ luật học “Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Phạm Thị Hương Lan, Học viện Khoa học
Xã hội, năm 2017;
Luận văn Thạc sĩ luật học “ Hòa giải tranh chấp đất đai tại cấp chính
quyền cơ sở từ thực tiễn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội” của tác giả Đỗ
Hải Long, Học viện Khoa học Xã hội, năm 2018;
Luận văn thạc sĩ luật học “ Thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất từ thực tiễn huyện Eahleo, tỉnh Đăk Lăk”, của tác giả Phan Thanh Tùng,
Học viện Khoa học Xã hội, năm 2019.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã giải quyết và tiếp cận ở nhiều khía
cạnh và góc nhìn khác nhau về hịa giải nói chung và hịa giải trong giải quyết
tranh chấp đất đai nói riêng. Vấn đề đặt ra trong đề tài tuy không mới, nhưng
trong thực tế hiện nay, khi mà LĐĐ2013, BLTTDS 2015 và Quốc hội vừa
thơng qua Luật Hịa giải, đối thoại tại TAcó những quy định về hịa giải nói
chung và hịa giải tranh chấp đất đai nói riêng, thì việc tiếp tục nghiên cứu
nhằm làm sáng tỏ dưới góc độ lý luận và thực tiễn hòa giải tranh chấp đất đai
và hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại TA trong điều kiện có sự ra
đời của những chế định mới là rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và

thực tiễn pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại TAND,
từ đó, đề xuất các giải pháp góp phần hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu


quả hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại TAND cấp sơ thẩm ở Việt
Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu ở trên, luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận pháp luật về hòa giải trong giải
quyết tranh chấp đất đai tại TAND;
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh
chấp đất đai tại TAND cấp sơ thẩm và đánh giá thực trạng thi hành chế định
pháp luật này tại TAND quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh;
- Đưa ra định hướng và giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp
đất đai tại TAND cấp sơ thẩm từ thực tiễn TAND quận Bình Tân, thành phố
Hồ Chí Minh.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượngnghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận và thực tiễn
pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đaitại TAND; các quy
định pháp luật của Việt Nam hiện hành về hòa giải trong giải quyết tranh chấp
đất đai tại TAND; thực tiễn thi hành pháp luật về hòa giải trong giải quyết
tranh chấp đất đai tại TAND quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, Luận văn đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực tiễn
pháp luật và thực tiễn tổ chức hoạt động hòa giải trong giải quyết tranh chấp
đất đai tại TAND cấp sơ thẩm qua thực tiễn của TAND quận Bình Tân, thành
phố Hồ Chí Minh. Từ đó mở rộng phạm vi nghiên cứu hoạt động hòa giải các

tranh chấp đất đai tại TAND các cấp trên phạm vi cả nước. Các vấn đề liên


quan đến lý luận về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai nói chung chỉ
là tiền đề hoặc có tính chất tham khảo và so sánh để làm sáng tỏ nội dung
nghiên cứu nội hàm đề tài luận văn.
Về không gian và thời gian, Luận văn nghiên cứu và đánh giá thực
trạng pháp luật kể từ khi LĐĐ 2013 và BLTTDS 2015 có hiệu lực thi hành và
thực tiễn thi hành pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại
TAND nói chung và TAND quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và Pháp luật; đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về
vấn đề đất đai trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp phân tích, luận giải, bình luận,… được sử dụng trong
Chương 1 khi nghiên cứu cơ sở lý luận pháp luật về hòa giải trong giải quyết
tranh chấp đất đai tại TAND cấp sơ thẩm;
- Phương pháp phân tích, đánh giá, diễn giải, so sánh, tổng hợp, quy
nạp… được sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu thực trạng pháp luật hiện
hành và thực tiễn thi hành pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp
đất đai tại TAND quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh.
- Phương pháp bình luận, tổng hợp… được sử dụng trong Chương 3 khi
nghiên cứu các định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
tại TAND từ thực tiễn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần vào việc xây



dựng các luận cứ khoa học trong q trình hồn thiện những vấn đề lý luận
pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại TAND cấp sơ
thẩm ở Việt Nam hiện nay;
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần giúp chính
quyền và các cơ quan ban ngành nghiên cứu hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thi hành pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại
TAND cấp sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về hòa giải trong giải quyết
tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về hòa
giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân,
thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hồn thiện pháp luật, nâng cao
hiệu quả hịa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân ở
Việt Nam.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI TRONG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

1.1. Một số vấn đề về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hòa giải trong giải quyết tranh
chấp đất đai
1.1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử với những chính sách, pháp luật đất đai

khác nhau, cho dù đất đai là tài sản thuộc sở hữu tư nhân, hay chỉ được giao
quyền sử dụng cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân,… thì ở nước ta, hiện tượng
tranh chấp đất đai vẫn xảy ra phổ biến, diễn biến phức tạp, ảnh hưởng xấu đến
công tác quản lý nhà nước về đất đai nói chung và việc sử dụng đất nói riêng,
gây ra nhiều bất ổn nhất định đối với đời sống kinh tế-xã hội. Nhà nước phải
ban hành nhiều quy định pháp luật để giải quyết mâu thuẩn, tranh chấp. Vậy,
tranh chấp đất đai là gì? Khái niệm này tưởng chừng đơn giản nhưng lại có
nhiều ý nghĩa trong việc phân định thẩm quyền, xác định nội dung cần giải
quyết đối với các tranh chấp đất đai trong thực tiễn hiện nay.
Trong thực tiễn xã hội hiện nay thì có rất nhiều loại tranh chấp xảy ra
như: tranh chấp dân sự, tranh chấp thương mại, tranh chấp hành chính,…
Trong quan hệ đất đai có thể phát sinh tranh chấp đất đai, tranh chấp quyền sử
dụng đất, tranh chấp quyền định đoạt đất, tranh chấp quyền sở hữu nhà và tài
sản gắng liền với đất, tranh chấp về xác định ranh giới đất, tranh chấp giữa cá
nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tổ chức và tổ chức với tổ chức,…Vì vậy,
tranh chấp đất đai rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Hiện nay có rất nhiều
khái niệm liên quan đến tranh chấp đất đai, các khái niệm này được nhìn nhận
dưới nhiều góc độ, quan điểm:


Theo Từ điển tiếng Việt – Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2010, “tranh
chấp là đấu tranh, giằng co khi có ý kiến bất đồng thường là trong vấn đề
quyền lợi giữa hai bên” [39]. Theo khái niệm này, thì tranh chấp đất đai là
việc đấu tranh giằng co khi có bất đồng trong lĩnh vực đất đai liên quan đến
quyền lợi như quyền sử dụng, quyền chuyển nhượng, quyền sở hữu nhà và tài
sản gắn liền với đất,…
Theo giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội thì:“Tranh chấp đất
đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ
giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai,… các chủ thể
tranh chấp đất đai chỉ là chủ thể quản lý và sử dụng đất, khơng có quyền sở

hữu đối với đất đai” [31]. Cịn theo giáo trình của Trường Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh ghi nhận: “Tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn
giữa các chủ thể (sử dụng đất) trong việc xác định ai là người có quyền sử
dụng đối với một hoặc những thửa đất nhất định. Tranh chấp đất đai có thể
bao hàm cả tranh chấp về địa giới các đơn vị hành chính,…”[31].
Như vậy có thể nói rằng đứng trên các quan điểm khác nhau thì khái
niệm về tranh chấp đất đai được hình thành và được diễn giải khác nhau. Vì
vậy, khái niệm tranh đất đai hiện nay rất đa dạng trong cách hiểu, quy định
pháp luật và thực tiễn đời sống.
Khoản 24 Điều 3 LĐĐ 2013 đã quy định về khái niệm tranh chấp đất
đai như sau: “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người
sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Có thể thấy, khái
niệm tranh chấp đất đai quy định trong LĐĐ là một khái niệm mang tính pháp
lý, bao trùm cả tranh chấp về quyền sử dụng đất, tranh chấp về tài sản gắn liền
với đất, tranh chấp về địa giới hành chính. Đất đang có tranh chấp về tài sản
gắn liền với đất, tranh chấp về địa giới hành chính. Đất đang có tranh chấp
được hiểu là loại đất mà giữa người sử dụng hợp pháp đất đó với các cá


nhân khác, với Nhà nước hoặc giữa những người sử dụng chung mảnh đất đó
với nhau đang có tranh chấp về quyền sử dụng đất, về tài sản gắn liền với đất,
về ranh giới, mục đích sử dụng đất hoặc về quyền, nghĩa vụ phát sinh trong
quá trình sử dụng đất,… Đất đang có tranh chấp cũng có thể hiểu là đất tranh
chấp giữa các chủ thể chưa xác định được chủ thể nào là người sử dụng đất
hợp pháp [19].
Ở nước ta hiện nay, đất đai là tài nguyên đặc biệt thuộc quyền sở hữu
của toàn dân, người dân chỉ có quyền sử dụng đất do Nhà nước cấp đất, giao
đất và cho th đất, chứ khơng có quyền sở hữu đối với đất. Đất đai thuộc
quyền sở hữu chung của toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Đất đai
là tài nguyên và là nguồn lực quan trọng trong phát triển đất nước, đóng vai

trị quan trọng trong an ninh quốc phòng, đảm bảo chủ quyền quốc gia và toàn
vẹn lãnh thổ. Theo quy định của LĐĐ 2013, thì đất đai thuộc sở hữu của toàn
dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao
quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Vì vậy,
tranh chấp đất đai nói chung mang tính thường xuyên và phức tạp cần phải có
sự quản lý, điều hành, giải quyết các tranh chấp phát sinh của cơ quan nhà
nước trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực
đất đai.
1.1.1.2. Khái niệm hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
Hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai tại TA được hiểu là quá trình
giải quyết các tranh chấp đất đai tại cơ quan tiến hành tố tụng là TAND, bằng
hình thức hòa giải hoặc đưa tranh chấp ra xét xử theo quy định pháp luật. Sau
khi thụ lý vụ án, Tòa ánsẽ tiến hành mời các đương sự lên hòa giải, đây là giai
đoạn bắt buộc do Tòa án tiến hành và chủ trì. Theo đó, nếu hịa giải thành, mà
sau 07 ngày các bên khơng có ý kiến gì về việc này nữa thì tranh chấp chính
thức kết thúc, trường hợp nếu hịa giải khơng thành thì Tịa án sẽ đưa ra xét


xử. Trong quá trình xét xử, các bên vẫn được quyền thỏa thuận với nhau để có
thể giải quyết vụ án. Và vẫn có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.Điều
này khẳng định vai trò quan trọng của cơ quan tố tụng trong việc giải quyết
các tranh chấp về đất đai đảm bảo quyền tự quyết nhưng cũng phải tuân theo
quy định pháp luật. Để hiểu rõ hơn công tác hòa giải trong giải quyết tranh
chấp đất đai tại TAND, tác giả đã nghiên cứu và làm rõ các khái niệm như
sau:
Theo Từ điển tiếng Việt ghi nhận: “Hòa giải là thuyết phục các bên
tranh chấp tự giải quyết tranh chấp của mình một cách ơn hịa, việc hịa giải
được tiến hành sau khi thương lượng giữa các bên đã khơng đạt được kết
quả. Việc hịa giải thường được thơng qua bên thứ ba gọi là bên hịa giải”
[39].

Theo Từ điển Luật học ghi nhận: “Hòa giải là sự chấm dứt việc xích
mích, tranh chấp giữa các bên bằng sự thương lượng với nhau hoặc qua sự
trung gian của một người khác. Hịa giải thành thì giữ gìn được sự đoàn kết
giữa các bên, tránh được việc kiện tụng kéo dài, tốn kém và những trường
hợp chỉ vì mâu thuẩn nhỏ mà biến thành việc hình sự”[12].
Từ cách hiểu về hịa giải, có thể thấy rằng, hịa giải tranh chấp đất đai
được hiểu theo nghĩa là hòa giải các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng
đất. Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai là biện pháp pháp lý giải
quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, theo đó bên thứ ba độc
lập giữ vai trị trung gian trong việc giúp các bên có tranh chấp tìm kiếm
những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết các tranh chấp về quyền, lợi ích
liên quan đến quyền sử dụng đất và thương lượng với nhau về việc giải quyết
quyền lợi của mình.
1.1.1.3. Đặc điểm của hịa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
Có thể nói, tranh chấp đất đai là một dạng đặc biệt của tranh chấp dân


sự, do có đối tượng của tranh chấp là quyền sử dụng đất. Do vậy, bên cạnh
những đặc điểm chung của hịa giải tranh chấp dân sự, thì việc hịa giải tranh
chấp đất đai cịn có những đặc trưng riêng như đối tượng của tranh chấp gắn
liền với quyền sử dụng đất nên việc hòa giải thường phải do cơ sở hoặc Tịa
án nơi có tài sản tranh chấp tiến hành; đối tượng của tranh chấp có thể trải qua
nhiều biến động theo thời gian với các chính sách pháp luật khác nhau, do
vậy, nội dung của tranh chấp thường phức tạp, đòi hỏi người hòa giải phải
nắm vững nguồn gốc, q trình sử dụng đất và chính sách pháp luật về đất đai
trong từng thời kỳ lịch sử. Cụ thể:
(i) Việc hòa giải được tiến hành tại địa bàn nơi có đất tranh chấp. Tranh
chấp đất đai ln gắn liền với quyền sử dụng đất nên việc hòa giải thường
phải được tiến hành tại nơi có tài sản tranh chấp. Thơng thường tổ hịa giải,
chính quyền địa phương hoặc Tịa án nơi có tranh chấp đất đai sẽ có điều kiện

tốt nhất để tìm hiểu về nguồn gốc, lịch sử và hiện trạng pháp lý cũng như thực
tế của tài sản tranh chấp. Do vậy, các chủ thể này sẽ có điều kiện tốt nhất để
tiến hành hịa giải một cách có hiệu quả.
(ii) Việc hịa giải tranh chấp đất đai phải do các chủ thể am hiểu pháp
luật về đất đai, nắm vững nguồn gốc, quá trình sử dụng đất và nguyên nhân
tranh chấp giữa các bên tiến hành. Tranh chấp đất đai thường là tranh chấp về
tài sản có giá trị lớn, quyền sử dụng có thể đã được dịch chuyển qua nhiều chủ
thể, có nguồn gốc phức tạp nên mức độ tranh chấp thường quyết liệt, do vậy,
chủ thể trung gian tiến hành hòa giải phải là người am hiểu pháp Luật Đất đai
và các ngành luật có liên quan, nắm vững nguồn gốc, q trình sử dụng đất và
nguyên nhân tranh chấp giữa các bên.
(iii) Chủ thể tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai có thể là tổ hịa giải,
Ủy ban nhân dân (UBND) hoặc Tịa án. Tranh chấp đất đai có thể gắn với
dòng họ, những người dân trong cùng một địa phương nên để việc hịa giải có


hiệu quả thì tùy theo trường hợp mà hịa giải có thể được trao cho cộng đồng,
chính quyền địa phương hoặc cơ quan tư pháp. Vấn đề quan trọng là cần phải
thiết lập được cơ chế chuyển hóa giữa kết quả hịa giải cơ sở, chính quyền địa
phương và quyết định tư pháp do Tịa án thực hiện có giá trị cưỡng chế thi
hành.
Theo quy định của pháp luật đất đai, thì hịa giải trong giải quyết tranh
chấp đất đai là phương thức bắt buộc đầu tiên trong quá trình giải quyết tranh
chấp đất đai. Đặc biệt hòa giải tại cấp chính quyền cơ sở chính là điều kiện
tiền đề để TAND thụ lý vụ án tranh chấp đất đai. Do đó, vai trị của hịa giải
hết sức quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp tại UBND và TAND.
Căn cứ quy định tại Điều 202, Luật Đất đai 2013, thì “Nhà nước
khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh
chấp đất đai thơng qua hịa giải ở cơ sở”[19]. Tuy nhiên, đối với trường hợp
tranh chấp đất đai mà đương sự có giấy chứng nhận hoặc có một trong các

loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của LĐĐ 2013 gồm: Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc
có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính trước ngày 15/10/1993; giấy tờ
hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất;
giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; giấy tờ mua nhà ở thuộc sở
hữu nhà nước theo quy đinh pháp luật,…Và tranh chấp về tài sản gắn liền với
đất thì đương sự gửi đến TAND giải quyết.
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của hịa giải trong giải quyết tranh chấp đất
đai
Trong các phương thức giải quyết tranh chấp dân sự nói chung và tranh
chấp trong lĩnh vực đất đai nói riêng thì giải quyết bằng hịa giải là hiệu quả
nhất, tốt nhất, nhanh nhất và tránh lãng phí nhất. Bởi hịa giải thành sẽ chấm
dứt mâu thuẫn, xung đột hoặc xích mích, kết thúc tranh chấp sớm, ổn thỏa


cũng như sau này khơng có sự phản đối, khiếu nại, khiếu kiện về sau.
Hiện nay thì tranh chấp đất đai thường xuyên diễn ra, nhiều tranh chấp
hết sức phức tạp, giá trị tranh chấp lớn, nhiều vấn đề phát sinh và liên quan
đến nhiều người, nhiều tổ chức, quy trình thủ tục giải quyết thì phức tạp và có
thể kéo dài thời gian. Trong khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp đất đai thì cịn nhiều khó khăn và hạn chế như: quy định tố
tụng, năng lực, trình độ chun mơn, cơ sở vật chất, đội ngủ nhân sự hạn chế,
… Vì vậy, hịa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai đóng vai trị quan trọng,
đem lại nhiều hiệu quả tích cực vì:
- Hịa giải giúp gìn giữ mối gắn kết, củng cố phát huy những tình cảm
và đạo lý truyền thống tốt đẹp của gia đình, cộng đồng;
- Giúp rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp, chi phí, giảm tải áp lực
giải quyết án cho TAND trong giải quyết các tranh chấp đất đai;
- Giải quyết tranh chấp đạt hiệu quả nhất khi được sự đồng thuận của
các bên tham gia tranh chấp và tránh được những khiếu nại, khiếu kiện về

sau;
- Hịa giải có ý nghĩa rất lớn, nó làm cho những tranh chấp, xung đột,
mâu thuẫn, xích mích được dập tắt hoặc không vượt qua giới hạn sự nghiêm
trọng, giúp các bên tránh được xung đột được giải quyết bằng một hình thức
giải quyết đem lại hậu quả xấu và thiệt hại;
- Hịa giải góp phần giải quyết mâu thuẫn, điều chỉnh các mâu thuẫn
trong xã hội ổn định, góp phần bảo đảm an ninh trật tự, an tồn xã hội, góp
phần phát triển kinh tế đất nước;
- Đối với TA thì việc Hịa giải các tranh chấp đất đai giúp TA giảm bớt
được nhiều thời gian, công sức cho việc giải quyết vụ án, rút ngắn thời gian,
thủ tục, nâng cao hiệu quả cơng tác;
- Hịa giải tại TA giúp các đương sự hiểu biết và thông cảm với nhau


góp phần khơi phục lại tình đồn kết, hợp tác giữa họ. Giúp họ cùng nhau giải
quyết tranh chấp trên tinh thần cởi mở, sang sẻ quyền và lợi ích. Hòa giải giúp
nâng cao ý thức pháp luật của các đương sự. Thơng qua việc giải thích pháp
luật của Tịa án trong phiên hòa giải, các đương sự sẽ phần nào hiểu được quy
định của pháp luật về vấn đề mà họ đang tranh chấp. Từ đó, các bên có thể
hiểu và tự quyết định về việc giải quyết tranh chấp, khơng mắc sai lầm về sau;
- Hịa giả đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên tranh chấp, quyền tự
định đoạt và hướng giải quyết các tranh chấp đúng pháp luật, đúng đạo đức xã
hội.
1.1.3. Thủ tục hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
Việc giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay thông qua hai thủ tục như
sau:
Thứ nhất là hòa giải: Các bên tranh chấp tự hịa giải với nhau, nếu hịa
giải khơng thành thì yêu cầu UBND cấp xã hòa giải;
+ Nếu hòa giải thành: UBND cấp xã lập biên bản hòa giải. Nếu hòa giải
mà làm thay đổi hiện trạng sử dụng đất ban đầu thì UBND cấp xã phải gửi

biên bản cho Phịng Tài ngun & Mơi trường hoặc Sở Tài ngun & Môi
trường để được thông qua và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai mới.
+ Nếu hòa giải khơng thành: Đối với tranh chấp có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì các bên yêu cầu TAND giải quyết. Cịn nếu khơng có
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì u cầu UBND có thẩm quyền giải
quyết hoặc khởi kiện ra TAND theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Thứ hai là giải quyết tranh chấp: Tùy vào từng vụ việc mà sẽ do
UBND cấp huyện hay UBND cấp tỉnh giải quyết:
+ UBND cấp huyện: Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân,
cộng đồng dân cư với nhau thì chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết. Nếu
khơng đồng ý với quyết định thì có quyền khiếu nại đến chủ tịch UBND cấp


tỉnh hoặc khởi kiện tại TAND theo quy định pháp luật về tố tụng hành chính.
+ UBND cấp tỉnh: Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ
chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngồi, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi thì chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết. Nếu không
đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên & Môi trường hoặc khởi kiện tại TAND theo quy định pháp luật về tố
tụng hành chính
Như vậy có hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai là theo thủ tục
hành chính tại UBND và theo thủ tục tố tụng dân sự tại TAND và cả hai hình
thức giải quyết này đều có quy định ưu tiên phải thơng qua thủ tục hịa giải
tranh chấp đất đai. Đối với giải quyết tranh chấp đất đai bằng việc khởi kiện
ra TAND, thì TA sẽ tiến hành cho các bên hòa giải, nếu hòa giải thành TA sẽ
lập biên bản công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, cịn nếu hịa giải
khơng thành sẽ tiến hành đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
1.2. Một số vấn đề về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
tại Tòa án nhân dân
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hòa giải trong giải quyết tranh

chấp đất đai tại Tòa án nhân dân
Thủ tục hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án được coi
là một thủ tục tố tụng bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp đất
đai. Hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án phải tuân theo những
nguyên tắc do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Tại Chương II Những
nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) có quy định về hịa
giải trong tố tụng dân sự. Theo đó, hịa giải là trách nhiệm của Tịa án nhằm
giúp đỡ đương sự thỏa thuận với nhau. Theo truyền thống tố tụng dân sự ở
Việt Nam, thì hịa giải có tính bắt buộc phải tiến hành trước khi mở phiên tịa
sơ thẩm, trừ những vụ án khơng được tiến hành hịa giải hoặc khơng hịa giải


được và ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo nếu thấy có khả năng hịa giải, thì
Tịa án cũng tiến hành hòa giải. Hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự nói
chung, trong tranh chấp đất đai nói riêng là trách nhiệm của Tòa án, được Tòa
án thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án tranh chấp đất đai, nhằm đảm
bảo cho đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của mình. Thực hiện hịa giải
cũng là việc tận dụng tối đa cơ hội rút ngắn quá trình tố tụng, nâng cao hiệu
quả hoạt động xét xử, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, đồng thời còn mang ý nghĩa xã hội
sâu sắc trong việc củng cố tình tương thân, tương ái, giữ gìn khối đồn kết
cộng đồng. Sự có mặt của Tịa án trong hịa giải khẳng định vị trí trung gian
của Tịa án đối với việc hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai.
Đây cũng là đặc điểm riêng, là dấu hiệu để phân biệt hòa giải trong giải
quyết tranh chấp đất đai với hịa giải ngồi tố tụng và trường hợp các đương
sự tự hòa giải, cụ thể là:
+ Trong quá trình tiến hành tố tụng dân sự để giải quyết tranh chấp đất
đai, thủ tục hòa giải là do Tòa án phải chủ động tổ chức và trực tiếp tham gia
với vai trị giải thích, động viên các đương sự tự thỏa thuận. Thủ tục hòa giải
do Tòa án tiến hành cũng khác trường hợp đương sự tự thỏa thuận. Trường

hợp đương sự tự thỏa thuận là việc các bên chủ động thương lượng, thỏa
thuận mà khơng có sự tham gia của Tòa án.
+ Kết quả hòa giải được Thẩm phán lập biên bản, nếu các đương sự
thỏa thuận được với nhau về tồn bộ nội dung vụ án thì Thẩm phán ra quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Còn trong trường hợp các
bên tự hòa giải và khơng u cầu Tịa án tiếp tục giải quyết thì Tịa án có thể
ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Hòa giải tranh chấp đất đai được tiến hành trên cơ sở tôn trọng quyền
định đoạt của các đương sự có tranh chấp. Mặc dù hịa giải tranh chấp đất đai


là một hoạt động do Tòa án tiến hành, nhưng về bản chất hòa giải vẫn dựa
trên cơ sở tự thỏa thuận của các đương sự. Tòa án chỉ giữ vai trị trung gian
hướng dẫn, chủ trì và ghi nhận việc hịa giải. Chỉ có các đương sự là các bên
trong quan hệ tranh chấp mới có quyền thỏa thuận, thương lượng với nhau về
tất cả những vấn đề đang cần giải quyết trong vụ tranh chấp, bởi đương sự là
những người có quyền lợi đang bị xâm hại hoặc tranh chấp. Họ là người hiểu
rõ hơn ai hết mâu thuẫn của chính họ. Khi tham gia vào q trình hịa giải
tranh chấp đất đai, các đương sự có quyền thương lượng, thỏa thuận với nhau
để giải quyết những bất đồng về quyền lợi của mình trên cơ sở tự do, tự
nguyện ý chí, thỏa thuận. Mọi sự tác động từ bên ngoài trái với ý muốn của
các đương sự đều bị coi là trái pháp luật và không được cơng nhận.Trong q
trình các bên thỏa thuận, hịa giải, Tịa án khơng được can thiệp vào ý chí tự
nguyện của bất kỳ bên nào hoặc cưỡng ép, bắt buộc đương sự thỏa thuận với
nhau về giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp giữa họ.
1.2.2. Bản chất pháp lý của hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất
đai tại Tòa án nhân dân
Nội dung cơ bản pháp lý của hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất
đai tại TA dựa trên cơ sở pháp lý: LĐĐ 2013; Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP;
BLTTDS 2015; và Luật Hòa giải, đối thoại tại TA. Nội dung pháp lý như sau:

Theo quy định của LĐĐ 2013 thì tranh chấp đất đai là tranh chấp
quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ
đất đai. Có rất nhiều tranh chấp liên quan đến đất đai. Tuy nhiên,theo quy
định của pháp luật, không phải tất cả các tranh chấp có liên quan đến đất đai
đều phải được hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp trước khi khởi
kiện ra TA giải quyết. Việc tiến hành hòa giải phải theo đúng quy định của
pháp luật. Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP


về điều kiện khởi kiện:Đối với tranh chấp có quyền sử dụng đất mà chưa được
hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202
LĐĐ 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015.
Theo đó, các tranh chấp mà ai là người có quyền sử dụng đất bắt buộc
phải được hịa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp.Các tranh chấp này
chủ yếu đến từ tranh chấp về ranh giới giữa các thửa đất liền kề, tranh chấp về
chủ sở hữu của đất có tranh chấp. Đây là thủ tục hòa giải tiền tố tụng bắt buộc
trước khi tiến hành khởi kiện ra TA để giải quyết tranh chấp. Trong trường
hợp hịa giải thành, thì UBND cấp xã có thẩm quyền lập biên bản hịa giải
thành, các bên thực hiện nghĩa vụ theo cam kết trong biên bản hòa giải thành
và tranh chấp giữa các bên sẽ kết thúc. Trong trường hợp hịa giải khơng
thành, UBND sẽ lập biên bản hịa giải khơng thành. Biên bản hịa giải không
thành được lập là căn cứ để một trong các bên nộp đơn khởi kiện đến TAND
có thẩm quyền giải quyết.
Cơ sở của hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai là quyền tự định
đoạt của các đương sự. Để giải quyết tranh chấp đất đai bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, Tịa án khơng chỉ xét xử mà cịn có trách nhiệm
tiến hành hòa giải giữa các bên trong quan hệ tranh chấp đất đai. Điều 10 Bộ
luật Tố tụng dân sự hiện hành quy định, Tịa án có trách nhiệm tiến hành hòa
giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc

giải quyết vụ án dân sự (trong đó có tranh chấp đất đai) theo quy định của Bộ
luật này.
Hoạt động hòa giải được tiến hành trước khi xét xử sơ thẩm vụ tranh
chấp đất đai. Tuy vậy, theo các Điều 246, 278 BLTTDS thì tại phiên tịa sơ
thẩm, phúc thẩm, Tịa án cũng có trách nhiệm phải hỏi các đương sự có thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết vụ tranh chấp đất đai hay không? Nếu


các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ tranh chấp đất
đai, thì Tồ án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Như vậy, việc hòa giải trước khi xét xử sơ thẩm là thủ tục bắt buộc, trừ
những việc khơng hịa giải được hoặc pháp luật quy định khơng được hịa giải
.Quy định này xuất phát từ tầm quan trọng của hịa giải. Nếu hịa giải thành
cũng có nghĩa là Tịa án đã hoàn thành việc giải quyết vụ tranh chấp đất đaimà
khơng cần mở phiên tịa.
Trong thời gian qua, Nhà nước ln khuyến khích các bên tranh chấp
đất đai tự hịa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thơng qua hòa giải ở cơ
sở và hòa giải ở TAND. Hiện nay, cả nước đã thực hiện thí điểm thành lập
trung tâm hòa giải, đối thoại tại 16 tỉnh, thành phố và đã đem lại nhiều hiệu
quả trong công tác giải quyết tranh chấp, giảm áp lực cho TA. Theo đề án thí
điểm, trung tâm hịa giải đối thoại có nhiệm vụ thực hiện hòa giải các tranh
chấp dân sự, kinh doanh, thương mại, hơn nhân gia đình, lao động; đối thoại
giải quyết các khiếu kiện hành chính trước khi TA thụ lý. Theo Luật Hòa giải,
đối thoại tại TA, trung tâm hòa giải, đối thoại được đặt trụ sở tại các TA,
nhưng khơng phải là một tổ chức có cơ cấu, bộ máy riêng, không thuộc biên
chế của TAND. Đây là một tổ chức tự quản của các hòa giải viên, đối thoại
viên, có chức năng điều phối hoạt động hòa giải vụ việc dân sự, đối thoại
khiếu kiện hành chính, được TAND hỗ trợ một số hoạt động. Về kinh phí hoạt
động của trung tâm này, các quy định sẽ do TAND tối cao và UBND hỗ trợ.
Hòa giải viên, đối thoại viên chính là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên

đã nghỉ hưu, các cán bộ đã từng tham gia công tác hội thẩm nhân dân và các
luật sư có phẩm chất đạo đức, uy tín, kỹ năng hòa giải, đối thoại. Hiện nay, tại
thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai thí điểm trung tâm hịa giải đối thoại tại
TAND thành phố Hồ Chí Minh, TAND quận 1, TAND quận 2, TAND quận 9,
TAND quận Bình Thạnh, TAND quận Bình Tân, TAND quận


×