Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

tiểu luận quản lý nhà nước đối với hoạt động y tế tư nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.94 KB, 21 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đang
tạo ra thế và lực mới cho Việt Nam hội nhập sâu rộng nhằm giữ vững ổn định an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội; xây dựng và phát triển ổn định nền kinh tế; đáp ứng
ngày càng tốt hơn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của nhân dân; tạo ra cơ hội cho
việc tiếp cận các khoa học công nghệ tiên tiến và hiện đại của các nước phát triển
phục vụ cho các lĩnh vực kinh tế-xã hội; văn hoá; khoa học; giáo dục, y tế;... Song,
cũng có nhiều thách thức tiềm ẩn những nguy cơ đe doạ đến an ninh quốc phịng,
truyền thống văn hố dân tộc, nền tảng đạo đức xã hội chủ nghĩa,... Chính sự chưa
thích ứng của nền hành chính cơng truyền thống khi Nhà nước chuyển đổi nền kinh tế
không những khơng tạo ra động lực phát triển mà cịn là thách thức trong hội nhập.
Khi kinh tế thị trường phát triển, điều kiện sống của người dân được nâng lên,
đòi hỏi những nhu cầu cao hơn về vật chất và tinh thần. Trong đó, nhu cầu ăn ngon,
mặc đẹp, làm đẹp,... trở thành xu hướng chung của mọi lứa tuổi, đặc biệt là thanh,
thiếu niên. Trong khi đó, mặt trái của nền kinh tế thị trường làm một bộ phận khơng
nhỏ chạy theo lợi ích vật chất, coi vật chất lên trên hết,... dùng mọi thủ đoạn để đem
lại lợi ích cho cá nhân và gia đình. Thực trạng, nhiều cơ sở y tế tư nhân lợi dụng chính
sách xã hội hoá y tế của Đảng để thu lợi bất chính đã làm “mờ” đi những định hướng
tốt của Đảng. Mặt khác, tình trạng bng lỏng quản lý, tính thụ động, ỷ lại của đội ngũ
cán bộ, công chức, nhất là thanh tra y tế địa phương đã làm cho tình hình hoạt động
trong lĩnh vực y tế tư nhân càng trở nên phức tạp. Chẳng hạn như, nhiều phòng khám
không đáp ứng được cơ sở vật chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, y, bác sỹ,... nhưng
vẫn quảng cáo ở trình độ cao, xử lý nhiều vấn đề mà đến ngay các cơ sở y tế công lập
lớn như Bệnh viện vẫn chưa xử lý nổi như: Phẫu thuật thẩm mỹ mặt, săm môi-mắt,
bơm ngực, hút mỡ,... làm ảnh hưởng tới sức khoẻ, tính mạng của người dân.
Đứng trước thực trạng trên, theo tinh thần Nghị quyết số 17/NQ-TW Hội nghị
lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X, ngày 1/8/2007 về đẩy mạnh cải
cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, nhất là


trong lĩnh vực y tế nhằm khắc phục những khuyết tật của bộ máy hành chính nhà nước


trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, cùng với những kiến thức lý luận quản lý
nhà nước được trang bị ở Nhà trường và kinh nghiệm thực tiễn của bản thân, tiểu luận
lựa chọn “Quản lý nhà nước đối với hoạt động y tế tư nhân” làm nội dung để nghiên
cứu.


NỘI DUNG
1. Thực trạng của vấn đề
Trong những năm qua kể từ khi thực hiện đường lối “đổi mới”, nhiều chính
sách mới được ban hành như: cho phép hành nghề y dược tư nhân, kể cả cho phép cán
bộ y dược nhà nước được làm tư ngoài giờ, thu viện phí; tổ chức và phát triển bảo
hiểm y tế; mở rộng quyền chủ động của các xí nghiệp, cơng ty dược, trang thiết bị; bỏ
độc quyền xuất nhập khẩu thuốc của công ty quốc doanh; bệnh viện công được mở
các khoa “theo yêu cầu”, “khoa bán công”,... đã tạo ra luồng gió mới cho cơng tác
chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Tuy các cơ sở khám chữa bệnh tư nhân ngày càng
nhiều lên nhưng chất lượng dịch vụ không đáp ứng được yêu cầu chuyên môn nghề y
và đạo đức nghề nghiệp. Trong khi đó, quản lý nhà nước về y tế, là một lĩnh vực rộng
có nhiều nội dung phức tạp, như: cụ thể hố chính sách y tế; ban hành văn bản pháp
quy; tiến hành tổ chức và quản lý hoạt động y, dược công; y dược tư nhân; thanh tra,
kiểm tra;... Do vậy, để phù hợp với khả năng và chun mơn của mình, tiểu luận giới
hạn trong phạm vi: “Quản lý nhà nước đối với các cơ sở phẫu thuật thẩm mỹ tư nhân
ở địa phương” thơng qua tình huống được đăng trên báo ViệtNamnet ngày 02/03/2009
như sau:
“... Chị Phạm Thị D, 32 tuổi (ngụ ở Biên Hòa, Đồng Nai) đã đến để phẫu thuật
thẩm mỹ tại cơ sở của bác sĩ Nguyễn Xuân Ái (116A Cao Thắng, Q.3, TPHCM) vào
ngày 26/9. Theo chị D và gia đình, chị chỉ có nhu cầu căng da vùng bụng, và theo tư
vấn tại đây, công việc này mất khoảng 2 giờ đồng hồ, nên chị D bảo xe taxi đợi bên
ngoài. Giá làm thẩm mỹ là gần 21 triệu đồng. Thế nhưng, sau khi vào phịng, khơng
biết bác sĩ Ái đã làm gì, mà mổ một đường mổ ngang, dài nơi gần xương mu, rồi chị
D phải ở đó ln cho đến hơm nay. Từ đó đến nay chị chỉ mặc duy nhất một bộ quần

áo mang theo, và tinh thần rất suy sụp. Khi cơ quan chức năng đến đưa chị D ra ngoài,
với vẻ mặt thất thần, chị vừa kể, vừa run: "Bây giờ mà nhìn thấy bóng dáng ơng Ái là
tơi run, rất sợ! Khi thấy phịng mổ khơng có gì hết tơi rất lo, nhưng khơng dám nói vì
bị ơng Ái qt nạt, chửi bới. Sau mổ, tôi rất muốn được chuyển đến bệnh viện khác để


xem mình có bị gì khơng, nhưng khơng thể liên lạc được với gia đình. Tơi xin gọi điện
thoại về nhà họ cũng không cho, mãi đến thứ bảy (ngày 07/03) tơi mới liên lạc được
với mẹ mình tại Đồng Nai". Khi nhận được tin, bà Lan mẹ chị D đã báo ngay cho
người nhà ở TPHCM đến để đưa chị về. Thế nhưng, khi người nhà chị D đến, vẫn
khơng thể đưa chị ra được, đành phải đến trình báo sự việc với công an địa phương và
nhờ luật sư can thiệp. Khi được đưa ra ngoài, một lúc sau thì chị D bị ngất vì kiệt sức
và được xe cấp cứu đưa vào Bệnh viện Chợ Rẫy lúc 19h45. Trước đó (ngày 04/03), cơ
quan chức năng cũng đã kiểm tra đột xuất hai cơ sở thẩm mỹ khác cũng của ông Ái tại
số 350 Trần Phú và 40 Trần Hưng Đạo B (cùng thuộc P.7, Q.5, TPHCM) và phát hiện
tại đây một số loại thuốc tân dược đã hết hạn sử dụng, trong đó có loại đã hết hạn từ
tháng 10/2006. Điều đáng nói là từ rất lâu nay, những cơ sở giải phẫu thẩm mỹ của
bác sĩ Nguyễn Xuân Ái (được mở ra ở rất nhiều nơi), và theo quy định, những nơi này
không được phép làm các đại phẫu như phẫu thuật nâng ngực, hút mỡ... (chỉ bệnh viện
có chun mơn mới được phép làm), nhưng ông Ái vẫn ngang nhiên làm các loại phẫu
thuật này, ngang nhiên quảng cáo vượt quá chức năng một cách cơng khai, rất xem
thường cơ quan chức năng”.
Tình huống trên phản ánh đúng thực trạng về xu hướng muốn làm đẹp của
những người có “phiếm khuyết” trên cơ thể, sự thiếu hiểu biết của người dân và sự
xuống cấp về đạo đức của một số y, bác sỹ đã làm cho nhiều người dân lâm vào tình
trạng “tiền mất”, sắc đẹp khơng những khơng được nâng lên mà tình trạng sức khoẻ bị
giảm sút, thậm chí gây nguy hiểm đến tính mạng của con người. Hiện thành phố có
khơng q 10 bệnh viện được phép thực hiện giải phẫu thẩm mỹ tồn thân và 40 cơ sở
được phẫu thuật ít phức tạp trên vùng mặt. Nhưng thực tế, hàng trăm trung tâm thẩm
mỹ đang trưng biển sẵn sàng can thiệp dao kéo bất cứ trường hợp nào. Chỉ cần dạo

qua hai con đường Nguyễn Trãi và Trần Hưng Đạo, quận 1, có thể đếm được vài chục
trung tâm tự giới thiệu là có thể thực hiện "giải phẫu thẩm mỹ tồn diện". Có nơi cịn
cam đoan sẽ chuyển giao cơng nghệ và sáng kiến trong lĩnh vực này. Khơng ít cơ sở
khơng có cả phương tiện cấp cứu đơn giản nhất như bình ơxy, túi đựng dụng cụ cấp
cứu khi bệnh nhân bị sốc phản vệ (là trường hợp rất dễ gặp trong giải phẫu thẩm
mỹ)... Cả những phòng mạch chỉ đăng ký hoạt động chữa bệnh thông thường cũng


tham gia vào giải phẫu thẩm mỹ. Chánh thanh tra Sở Y tế TP HCM Nguyễn Đức An
cho biết: "Đợt thanh tra cuối năm 2008 cho thấy, tất cả các cơ sở giải phẫu thẩm mỹ
trên địa bàn được thanh, kiểm tra nếu khơng vi phạm mặt này thì cũng vi phạm mặt
khác, nhất là vi phạm các quy chế chun mơn". Do đó, theo bác sĩ Lê Hành, Trưởng
khoa Giải phẫu thẩm mỹ Bệnh viện Chợ Rẫy cho biết: thời gian gần đây Khoa thường
xuyên phải tiếp nhận các ca cấp cứu do bị tai biến do giải phẫu thẩm mỹ từ bên ngoài
chuyển đến. Tương tự, tại một số bệnh viện khác, tình trạng cấp cứu kiểu như trên
cũng khá phổ biến. Các trường hợp thường bị tai biến như sụp mi do "nhà phẫu thuật"
làm đứt dây thần kinh khi cắt mí mắt; bị méo miệng hoặc liệt mặt khi căng da mặt, tắc
mạch máu khi hút mỡ, nâng mũi thì bị sưng lên..., nhiều trường hợp thậm chí đã tử
vong. Gần đây nhất một phụ nữ 41 tuổi, ở quận Tân Bình đã thiệt mạng sau khi đến
phòng mạch tư của bác sĩ Lê Hùng trên đường Nguyễn Cảnh Chân, quận 1. Giả thiết
ban đầu cho thấy, nạn nhân này chết do sốc phản vệ khi phẫu thuật lấy túi nâng ngực
đã đặt trước đó.
Sau một số vụ giải phẫu thẩm mỹ gây tử vong cho nạn nhân, cơ quan chức
năng đã đưa ra nhiều biện pháp chấn chỉnh. Trưởng phòng nghiệp vụ y, Phan Văn
Nghiệm, cho biết: "Các cơ sở giải phẫu thẩm mỹ khi hoạt động phải niêm yết công
khai giấy phép, ghi rõ chức năng hoạt động và bảng giá. Nếu nơi nào không thực hiện
đúng như vậy, chắc chắn là đang hoạt động q chức năng cho phép hoặc khơng có
giấy phép". Phòng quản lý dịch vụ y tế đang đề xuất với Sở lập ra Hội hành nghề y tế
tư nhân. Hội viên là những chuyên gia y tế đã về hưu hoặc đang hành nghề. Họ sẽ
được mời phối hợp với cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra các cơ sở khác theo hình

thức kiểm tra chéo. Những người này chịu trách nhiệm kiểm tra về chun mơn, cịn
cơ quan chức năng kiểm tra về mặt quản lý nhà nước. Mặc dù Sở y tế Thành phố đã
đưa ra nhiều biện pháp tích cực nhằm làm chuyển biến về nhận thức của người dân
Thành phố về thiết bị, điều kiện cơ sở vật chất, trình độ chun mơn, y đức của các cơ
sở làm thẩm mỹ tư nhân trên địa bàn. Đồng thời, chủ động thanh tra, kiểm tra định kỳ
và đột xuất nhiều cơ sở trên địa bàn;... nhưng rất khó để có thể kiểm sốt được các cơ
sở mới mọc, tự mọc hay dùng các thủ đoạn để chốn tránh các cơ quan chức năng khi
thanh tra, kiểm tra. Do vậy, khả năng kiểm sốt bằng hình thức quản lý nhà nước đã


gặp nhất nhiều khó khăn và hiệu quả cịn rất hạn chế. Quả thực, theo lời của Phó
phịng quản lý dịch vụ y tế Đặng Văn Quỳ thùa nhận: “Chúng tôi thật sự chưa kham
nổi việc quản lý hoạt động của các cơ sở giải phẫu thẩm mỹ chui, ngoại trừ khi có đơn
tố cáo của người dân.
Vậy, nguyên nhân của thực trạng người dân vẫn tiếp tục vào các cơ sở y tế tư
nhân để khám, chữa bệnh, trong đó có nhu cầu làm đẹp; tình trạng quản lý khơng hiệu
quả của Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh trước những thủ đoạn lừa bịp của các chủ cơ
sở thẩm mỹ tư nhân;... có thể được đánh giá theo nhiều góc độ khác nhau tuỳ thuộc
vào từng lĩnh vực nghiên cứu cụ thể. Song, dưới góc độ quản lý nhà nước, có thể lý
giải các hiện tượng trên theo những nguyên nhân khách quan và chủ quan như sau:
Thứ nhất, những nguyên nhân khách quan trực tiếp hoặc gián tiếp làm phát
sinh các hiện tượng tiêu cực trong hoạt động thẩm mỹ tư nhân và quản lý nhà nước ít
hiệu quả. Trước hết, xét về lý luận kinh tế thị trường có những tác động tích cực và
tiêu cực đến xã hội; cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng cả về nội dung lẫn
hình thức thì những yếu tố năng động của nền kinh tế đã tạo ra nhiều tiêu cực khi kiến
trúc thượng tầng khơng thích ứng, chậm thay đổi. Tình hình đời sống vật chất của
nhân dân được nâng cao thì nhu cầu về tinh thần, nhất là nhu cầu về sức khoẻ và sắc
đẹp là một tất yếu mang tính khách quan. Như vậy, vấn đề đặt ra là cung ứng dịch vụ
có chất lượng cho người dân. Nếu như trong thời kỳ bao cấp, mọi dịch vụ y tế đều do
nhà nước cung cấp và quản lý thì việc quản lý, đảm bảo và trách nhiệm thuộc về nhà

nước. Nhưng, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp, cá nhân được
tự do mở các cơ sở thẩm mỹ theo quy định của pháp luật. Nếu pháp luật phù hợp với
điều kiện khách quan của nền kinh tế thì những hiện tượng tiêu cực được hạn chế và
ngược lại, pháp luật không phù hợp, không đáp ứng được các yêu cầu năng động của
nền kinh tế lại trở thành ngun nhân tạo ra các hiện tượng “lách luật”, “khơng
luật”,...có điều kiện phát triển. Nguyên nhân khách quan khác là điều kiện, sự non trẻ
trong quản lý của bộ máy nhà nước, chính quyền địa phương trong điều kiện hội nhập
và nền kinh tế thị trường đã tạo ra những khuyết tật khá cơ bản là tính thụ động, ỷ lại
của cơ chế cũ;... nên tính năng động và quyết đốn, dám làm, dám chịu khơng phải là


một nguyên tắc cơ bản của hoạt động công vụ ở chính quyền địa phương. Điều đó
càng làm cho hoạt động quản lý mang tính cứng nhắc, máy móc và thậm chí cả sự thờ
ơ, vơ cảm trước những hiện tượng tiêu cực của xã hội.
Thứ hai, những nguyên nhân chủ quan. Nếu các nguyên nhân khách quan là
những nhân tố khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người làm phát sinh các
hiện tượng trên thì các yếu tố chủ quan lại là những tác nhân phụ thuộc vào ý chí chủ
quan của con người trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên các hiện tượng trên. Về cơ
bản có thể đánh giá thơng qua những ngun nhân chủ quan sau:
Một là, những hạn chế về mặt thể chế pháp luật với điều kiện cơ cấu tổ chức
cơ quan chuyên môn ở địa phương. Theo quy định, cơ quan quản lý (Phòng dịch vụ y
tế) sẽ kiểm tra định kỳ các cơ sở này hai lần/năm và kiểm tra đột xuất các điểm có dấu
hiệu vi phạm. "Nhưng trên thực tế rất khó thực hiện theo đúng quy định", ơng Quỳ
nói. "Cả phịng quản lý dịch vụ của Sở chỉ 5 người có chun mơn y tế mà phải quản
lý 22 bệnh viện và hơn 12.000 cơ sở y tế tư nhân có phép. Mặc dù đã phân công cơ sở
y tế tư nhân của quận huyện nào thì do nơi đó quản lý. Nhưng những người này cũng
chỉ làm công tác kiêm nhiệm chứ không phải là chuyên trách nên khả năng quản lý
chưa tốt lắm. Hơn nữa, các cơ sở khi mới thành lập thì đều đạt tất cả điều kiện theo
quy định. Họ chỉ vi phạm trong q trình hoạt động nên rất khó kiểm soát". Như vậy,
mối quan hệ giữa cơ cấu tổ chức cán bộ, công chức và số lượng các cơ sở thẩm mỹ tư

nhân hiện có là khơng tương xứng cả về số lượng và chất lượng. Một lý do đơn giản là
khi thanh tra viên kiểm tra, thanh tra không chỉ cần kiến thức và kỹ năng quản lý nhà
nước mà cịn phải có đầy đủ những kiến thức chuyên môn ngành y. Nếu không đảm
bảo các yếu tố này sẽ là điều kiện để cho các cơ sở y tế tư nhân “tự tung, tự tác” hoành
hành; “qua mặt cơ quan chức năng”;...
Hai là, nhận thức người dân về y tế tư nhân. Bản thân người dân cũng chưa
hiểu đúng về chức năng của cơ sở y tế tư nhân. Về thực chất cơ sở giải phẫu thẩm mỹ
cũng giống như phịng mạch cá thể. Vì thế chỉ được phép hoạt động sửa sang nhan sắc
cho khách hàng ở vùng mặt với các giải phẫu không quá phức tạp. Nhiều người đã quá


tin vào các trung tâm thẩm mỹ mà sẵn sàng chấp nhận các ca phẫu thuật nguy hiểm,
dẫn đến hậu quả đáng tiếc. Các cơ sở thẩm mỹ tư nhân chỉ cần dùng hình thức quảng
cáo “hấp dẫn” là có thể thu hút được lượng khách hàng. Điều này chứng tỏ, sự hiểu
biết của người dân về khám chữa bệnh nói chung và các cơ sở y tế tư nhân nói riêng
vẫn cịn q hạn chế. Bởi lẽ, nếu có sự hiểu biết thì những cơ sở thẩm mỹ dù có quảng
cáo như thế nào cũng khơng thể qua mắt được người dân.
Ba là, đạo đức và năng lực của y, bác sỹ và một bộ phận không nhỏ bộ, công
chức bị xuống cấp. Thực trạng trên cho thấy, sự hám lợi và khơng có chun mơn của
các y, bác sỹ như bác sỹ Ái, mặc dù đã bị thu giấy phép hành nghề nhưng vẫn mở
phòng thẩm mỹ ở Thành phố Hồ Chí Minh hay tình trạng cán bộ, cơng chức, nhất là
thanh tra viên có những biểu hiện tiêu cực bằng cách này hay cách khác để bao che,
tiếp tay cho các hoạt động thẩm mỹ tư nhân khơng đủ điều kiện thành lập cũng được
thành lập; có vi phạm trong hoạt động không được chấn chỉnh kịp thời;... là những lý
do giải thích tại sao đa số các cơ sở thẩm mỹ tư nhân quảng cáo quá so với năng lực
của họ; hoạt động không đúng theo giấy phép; khơng đăng ký;...
Ngồi những ngun nhân khách quan và chủ quan trên, những yếu tố như:
điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện, máy móc phục vụ cho hoạt động quản
lý nhà nước; các bệnh viện cơng về thẩm mỹ cịn q ít; tốc độ đơ thị hoá nhanh;.... đã
tạo ra những tác động tiêu cực không nhỏ đến các hiện tượng tiêu cực trong hoạt động

thẩm mỹ tư nhân và hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước trong những năm qua.
2. Cơ sở lý luận, pháp lý
2.1. Cơ sở lý luận
Sức khỏe nói chung, sắc đẹp nói riêng là một hàng hố đặc biệt, nên trên thế
giới người ta coi chăm sóc sắc đẹp, sức khoẻ là quyền của mỗi người phải được hưởng
cũng giống như quyền sống của mỗi người. Nhà nước phải có trách nhiệm chính trị
đối với quyền và cung cấp dịch vụ cho loại hàng hoá đặc biệt này. Theo lý luận về vai


trò của nhà nước trong cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ nói chung và các dịch vụ
y tế khác nói riêng thì vai trị của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường là: “Chính
phủ khơng làm những cái mà tư nhân đang làm dù làm tốt hơn hay xấu hơn một chút,
nhưng phải làm những cái mà không ai làm cả, nhưng cần thiết cho xã hội”[1]. Trong
y tế cũng có dịch vụ chỉ do nhà nước làm, như phòng chống dịch, tuyên truyền giáo
dục sức khoẻ, vệ sinh môi trường, chống ô nhiễm, vệ sinh và an toàn thực phẩm,
khám chữa bệnh cho người nghèo, vùng nghèo, chăm sóc người tàn tật, người già cơ
đơn, .. Những dịch vụ ấy tư nhân khơng làm vì quy mơ và chi phí lớn hơn nhiều so
với lợi nhuận thu được. Trong dịch vụ thẩm mỹ, do điều kiện vật chất của con người
ngày càng được nâng cao, nhu cầu làm đẹp cũng tăng lên về số lượng và chất lượng
nhưng nguồn lực thực tế của Nhà nước chỉ có hạn và giới hạn trong chính sách chăm
sóc xã hội đối với sức khoẻ nên sự tham gia của y tế tư nhân vào hệ thống y tế quốc
gia là cần thiết.
Trên cơ sở Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đề cập đến
vấn đề “xã hội hoá các dịch vụ y tế, giáo dục,..” với chủ trương: “Tách cơ quan hành
chính cơng quyền với tổ chức sự nghiệp. Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt
động khơng vì lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân; tạo điều kiện thuận
lợi cho các tổ chức thực hiện một số dịch vụ công với sự giám sát của cộng
đồng,...”[2] đã đặt vấn đề xã hội một số lĩnh vực trong đó có y tế. Theo đó, các dịch
vụ y tế tư nhân, thẩm mỹ tư nhân được mở ra một mặt đáp ứng các nhu cầu bức thiết
của xã hội, mặt khác, phản ánh đúng quy luật phát triển khách quan của nền kinh tế thị

trường.
Vấn đề đặt ra giữa việc chuyển giao dịch vụ do nhà nước cung cấp trước đây
cho tư nhân thì vai trị điều tiết, quản lý của nhà nước đối với các cơ sở này như thế
nào nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ, giá cả và công bằng trong xã hội. Song, sự
không rành mạch về mặt lý luận giữa: “công và tư” “nửa công, nửa tư” và “lợi nhuận
và kinh doanh”; “tư nhân và xã hội hoá”;.... đã làm cho hoạt động quản lý nhà nước
thiếu đi những cơ sở lý luận căn bản trong việc xác định nội hàm và xây dựng phương
thức tác động, điều chỉnh;... Điều này cũng đồng nghĩa với việc làm cho một số dịch


vụ y tế tư nhân hoạt động không theo đúng nghĩa với điều kiện kinh doanh trong nền
kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Do vậy, những quan niệm trên cần phải được tiếp
tục nghiên cứu và làm sáng tỏ trong điều kiện của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
để có phương pháp điều chỉnh phù hợp hơn.
2.2. Cơ sở pháp lý
Như trên đã phân tích, “xã hội hoá” trong điều kiện nền kinh tế thị trường và
những vấn nạn các cơ sở thẩm mỹ kém chất lượng gây ảnh hưởng và tác động xấu đến
tâm lý, sức khoẻ, trật tự, an toàn xã hội của cộng đồng dân cư, nhất là ở TP. Hồ Chí
Minh đã phản ảnh sự cụ thể hố chính sách của Đảng thành các quy định của pháp
luật Nhà nước và quá trình tổ chức hoạt động chấp hành và điều hành của cơ quan
hành chính nhà nước các cấp cịn nhiều vướng mắc và hạn chế.
Để điều chỉnh hoạt động y tế tư nhân nói chung, thẩm mỹ nói riêng Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về hành nghề y, dược tư nhân ngày
13/10/1993 và sau đó được thay thế bằng Pháp lệnh về hành nghề y, dược tư nhân số
07/2003/PL-UBTVQH11 ngày 25/02/2003. Trên cơ sở Pháp lệnh này, nhiều văn bản
quy phạm pháp luật của Chính phủ, Bộ Y tế được ban hành nhằm xác định về cơ cấu
tổ chức cơ quan chuyên môn; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền; thủ tục đăng ký và cấp phép mở các cơ sở giải phẫu thẩm mỹ; hoạt động
thanh tra, kiểm tra; xử phạt vi phạm hành chính;... nhằm đảm bảo cho hoạt động giải
phẫu thẩm mỹ trong phạm vi cả nước nói chung, địa bàn TP. Hồ Chí Minh nói riêng đi

vào nề nếp và hoạt động theo đúng mục tiêu, chính sách mà Đảng và Nhà nước đã đặt
ra. Tuy nhiên, những bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo của các quy định pháp luật hiện
hành được đánh giá thông qua tình huống xảy ra tại cơ sở phẫu thuật chỉnh hình của
bác sĩ Ái như sau:
Một là, chính quyền địa phương cơ sở làm ngơ, bỏ mặc,... các cơ sở phẫu thuật
tư nhân hoạt động trái pháp luật trên địa bàn. Tình huống trên nêu lên một nghịch lý
là cơ sở phẫu thuật tư nhân của bác sĩ Ái hoạt động khơng có thiết bị y tế cần thiết,


không đủ điều kiện kinh doanh; khi chị D bị thiệt hại về sức khoẻ, tinh thần và vật
chất; gia đình nhưng cũng khơng đưa được chị D ra khỏi phịng phẫu thuật; chỉ khi gia
đình trình báo cơng an địa phương và luật sư, chị D mới được giải cứu;... đã cho thấy
“sự vơ can” của chính quyền cơ sở (phường Cao Thắng) đối với hoạt động của phòng
phẫu thuật bác sỹ Ái là có cơ sở. Bởi lẽ, theo quy định hiện hành tại các Điều 88; 102
và 109 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 26/11/2003 và
khoản 15 Điều 8 Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các
cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:
“Sở Y tế tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về: chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, gồm: y tế dự phòng; khám, chữa
bệnh; phục hồi chức năng; y dược cổ truyền; thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người;
mỹ phẩm; vệ sinh an toàn thực phẩm;...”; Khoản 8, Điều 7 Nghị định số 14/2008/NĐCP của Chính phủ ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc
Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh: “Phòng Y tế: tham mưu,
giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chăm sóc
và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, gồm: y tế cơ sở; y tế dự phòng; khám, chữa bệnh, phục
hồi chức năng; y dược cổ truyền; thuốc phòng bệnh, chức bệnh cho người; mỹ phẩm;
vệ sinh an toàn thực phẩm;...” cho thấy sự phân cấp chức năng nhiệm vụ quản lý nhà
nước giữa cơ quan chuyên môn với Uỷ ban nhân dân cùng cấp và cơ quan cấp dưới
với cơ quan cấp trên mang tính hình thức và chồng chéo. Ở đây, trong mối quan hệ
giữa Uỷ ban nhân dân và cơ quan chun mơn Sở, Phịng Y tế thì Uỷ ban nhân dân là
cơ quan quản lý nhà nước còn Sở, Phòng Y tế chỉ là cơ quan chuyên môn tham mưu

cho Uỷ ban nhân dân nhằm thực hiện chức năng quản quản lý nhà nước trên địa bàn.
Điều này đã tạo ra sự mập mờ về trách nhiệm quản lý nhà nước và tính phải chịu trách
nhiệm. Mặt khác, sự phân cấp của Uỷ ban nhân dân Thành phố cho Uỷ ban nhân dân
huyện cũng không xác định được “ranh giới” quản lý đến mức độ nào ? loại hình
nào ? hoặc cơ sở y tế ở điều kiện nào ?... Đồng thời, khơng có sự phân cấp cho chính
quyền cơ sở (cấp xã). Nếu xét về lý luận và thực tiễn thì chính quyền cơ sở là nơi gần
dân nhất, trực tiếp với nhân dân, với cơ sở thẩm mỹ có phịng phẫu thuật,... nhưng lại
khơng phân cấp bất kỳ một chức năng hay một nhiệm vụ nào trong quá trình quản lý
hoạt động. Khi đăng ký mở các cơ sở phẫu thuật thẩm mỹ thì do các cơ quan ở tận cấp


tỉnh (Sở Y tế xét) nên việc xác định các điều kiện pháp lý đối với một cơ sở phẫu thuật
thẩm mỹ có đủ điều kiện về giấy tờ và thực tế hay không là một vấn đề đặt ra đối với
cách phân cấp này. Mặt khác, quá trình hoạt động có đúng như đăng ký hay khơng ?
và giữa thanh tra Sở[3]với cán bộ, công chức phường cơ quan nào quản lý, theo dõi có
hiệu quả hoạt động thực tế của các cơ sở phẫu thuật thẩm mỹ ?. Tình huống của chị D
với phịng phẫu thuật thẩm mỹ của bác sỹ Ái ở phường Cao Thắng, quận 3, TP. Hồ
Chí Minh cho thấy sự phân cấp của cấp trên cho cấp dưới còn “e dè”; “thiếu thực
tế”;... nên dẫn đến tình trạng khơng quản lý, hoặc quản lý không nổi các hoạt động của
các cơ sở thẩm mỹ viện.
Hai là, điều kiện xem xét thủ tục mở thẩm mỹ viện và các quy định về thanh tra
hiện hành cịn mang tính hình thức chưa phù hợp với thực tế. Nếu căn cứ vào Điều 4,
Nghị định số 103/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/09/2003 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Pháp lệnh hành nghề y, dược tư nhân về điều kiện hành nghề y
dược tư nhân và Thông tư số 01/2004/TT-BYT ngày 06/01/2004 của Bộ Y tế về hướng
dẫn về hành nghề y, dược tư nhân: “Người đứng ra xin cấp phép phải là bác sĩ có kinh
nghiệm 5 năm thực hành, trong đó có 3 năm chuyên ngành về giải phẫu thẩm mỹ; bác
sĩ đó bắt buộc phải có hộ khẩu tại địa phương nơi xin mở phòng phẫu thuật thẩm mỹ.
Về cơ sở vật chất, phịng giải phẫu phải có diện tích tối thiểu là 10 m2, được trang bị
đầy đủ các điều kiện an toàn y khoa như thiết bị cấp cứu, chống nhiễm khuẩn, đơn

thuốc, sổ sách ghi tình trạng bệnh. Xét cấp giấy phép hành nghề cho các cơ sở này là
một hội đồng tư vấn cấp Sở và các nhà chun mơn. Hội đồng xét duyệt căn cứ vào
q trình công tác và văn bằng của người đăng ký, nếu khơng có gì trái quy định sẽ
đồng ý cấp phép. Sau đó, cơ quan quản lý đều đến tận cơ sở kiểm tra các điều kiện vật
chất, các quy chế chuyên môn... Giấy phép chỉ cấp cho cơ sở nào đạt tất cả các quy
định của Bộ” là những quy định khá đầy đủ về các điều kiện nhằm đảm bảo an tồn
cho tính mạng và sức khoẻ của người dân. Song, thực tế cho thấy một số điều kiện
pháp lý đặt ra không đảm bảo được yêu cầu thực tế như: “phải có 3 năm chuyên ngành
về giải phẫu thẩm mỹ” là điều kiện không rõ ràng cụ thể như: việc chứng nhận kinh
nghiệm này phải ở đâu, do đâu cấp,... ? Nếu khơng quy định rõ thì việc xin giấy chứng
nhận này của một số cá nhân tại các cơ sở trong nước và ngoài nước chỉ mang tính


hình thức và khơng đánh giá được chất lượng. Thực tế, bác sỹ Ái phải là người có đẩy
đủ điều kiện theo quy định trên mới được phép mở phòng phẫu thuật thẩm mỹ, nhưng
vì sao lại có một chút kiến thức nào về thẩm mỹ mà thậm chí cả kiến thức về y tế ?
Điều này cho thấy, việc thành lập hội đồng xem xét cũng chỉ xem xét các điều kiện
trên giấy tờ chứ không phải các điều kiện “thực tiễn năng lực” của người mở phòng
phẫu thuật thẩm mỹ. Nên xảy ra tình trạng “thuê chứng chỉ”; “thuê bằng”;... để đăng
ký là một thực tế phổ biến.
Mặt khác, công tác thanh tra và kiểm tra không được theo dõi, tiến hành thường
xuyên. Như trên đã phân tích do lực lượng thanh tra của Sở Y tế mỏng, số lượng
phòng phẫu thuật nhiều. Điều này cho thấy cơ cấu tổ chức thanh tra Y tế còn nhiều bất
cập. Nếu theo Nghị định số 77/2006/NĐ-CP của Chính phủ thì thanh tra ở địa phương
chỉ được tổ chức ở Sở Y tế Thành phố nên để tiến hành kiểm tra định kỳ cũng khơng
đủ thời gian, chưa nói đến phải tiến hành các cuộc thanh tra đột xuất. Do vậy, phòng
phẫu thuật thẩm mỹ của bác sỹ Ái mặc dù có một mình nhưng đứng tên mở ở nhiều
nơi trong Thành phố không cũng không biết. Mặt khác, việc tổ chức thanh tra đột xuất
nếu theo thủ tục hiện hành phải được tiến hành qua nhiều khâu, nhiều thủ tục,... mới
tiến hành thanh tra được và chi phí cho thanh tra cũng không nhỏ,... đã tạo ra nhiều

hạn chế trong thanh tra thường xuyên và thanh tra đột xuất.
Ba là, chế tài xử phạt vi phạm còn quá nhẹ chưa đủ sức răn đe. Xét theo quy
định tại Mục 4, Điều 25, 26, 27 Nghị định số 45/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày
06/04/2005 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế, thì mức xử phạt cao nhất
đối với vi phạm về chứng chỉ hành nghề từ 1 triệu đến 3 triệu đồng; về điều kiện hành
nghề từ 300 nghìn đến triệu đồng; vi phạm về chun mơn kỹ thuật phạt từ 500 nghìn
đồng đến 1 triệu đồng;... Như vậy, với một vết rạch không đảm bảo kỹ thuật, chuyên
môn của bác sỹ Ái thu được 21 triệu đồng so với số tiền bị xử phạt nếu bị phát hiện thì
khơng biết liệu có nên vi phạm hay khơng vi phạm ? Với mức phạt nêu trên đã nêu lên
câu trả lời cho những cơ sở phẫu thuật thẩm mỹ tư nhân hiện nay.
3. Một số kiến nghị, đề xuất dưới góc độ quản lý nhà nước


Việc lựa chọn vấn đề thẩm mỹ tư nhân để phân tích, đánh giá trong hoạt động
quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay còn quá mới về phương diện lý luận và thực tiễn.
Các báo cáo số liệu thống kê khơng đầy đủ, bởi vì sự gia tăng của các cửa hàng
“không đăng ký”, “xin phép”, “mở chui”,... là quá lớn so với thực tế báo cáo của Sở Y
tế Thành phố. Để làm sáng tỏ vấn đề về lý luận và thực tiễn địi hỏi phải có kỹ năng,
kiến thức đầy đủ về khoa học quản lý nhà nước và khả năng nắm bắt, tiếp cận và thâm
nhập thực tế thường xuyên. Như vậy, phần phân tích, đánh giá thực trạng và các nội
dung mà tiểu luận nêu lên sẽ khơng tránh khỏi những sai sót, phiếm khuyết từ những
hạn chế của bản thân và sự vận động, phát triển không ngừng của các quan hệ xã hội.
Song, về cơ bản tiểu luận cũng đã nêu lên được những vấn đề bức xúc nhất của xã hội,
của vấn đề đạo đức của những người tham gia hoạt động “thẩm mỹ viện tư nhân” và
tình trạng quản lý của nền hành chính cơng truyền thống của nước ta hiện nay.
Để tiến hành giải quyết các câu trả lời mà tình huống nêu lên, cũng đồng thời là
thực trạng quản lý hành nghề phẫu thuật thẩm mỹ ở TP. Hồ Chí Minh hiện nay, tiểu
luận xác định các đề xuất sau:
Bước 1, Uỷ ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh cần tiến hành ban hành Chỉ thị
tăng cường công tác quản lý, xử lý các cơ sở phẫu thuật thẩm mỹ trên địa bàn Thành

phố. Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân Thành phố là cơ sở pháp lý để Sở Y tế tiến hành xây
dựng các biện pháp cần thiết nhằm rà soát, đánh giá hiện trạng của các cơ sở y tế tư
nhân nói chung, phẫu thuật thẩm mỹ nói riêng trên địa bàn theo quy định của pháp
luật hiện hành. Nếu, cơ sở nào có dấu hiệu vi phạm, không đảm bảo các điều kiện
được quy định thì tiến hành xử phạt hành chính và kiên quyết thu hồi giấy phép hoạt
động. Điều này sẽ tạo điều kiện chấn chỉnh các hoạt động đã cấp phép, hoạt động
không phép và chưa được cấp phép,... theo trật tự, kỷ cương mà pháp luật quy định.
Bước 2: Uỷ ban nhân dân Thành phố cần tiến hành mạnh dạn phân cấp chức
năng giám sát, quản lý cho chính quyền quận, huyện và đặc biệt là chính quyền
phường, xã, thị trấn. Đây là nội dung quan trọng giải quyết được tình trạng “đầu voi,


đuôi chuột” của các cơ sở phẫu thuật thẩm mỹ. Để phân cấp tốt, Uỷ ban nhân dân cần
giao cho Sở Y tế tiến hành phân loại nhiệm vụ, chức năng quản lý, thanh tra trong lĩnh
vực này để tiến hành phân cấp một số nhiệm vụ và nguồn lực tài chính cần thiết tương
ứng. Chẳng hạn như, cho phép Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường
có quyền kiểm tra và kiểm chứng các thơng tin dư luận về các cơ sở phẫu thuật thẩm
mỹ trên địa bàn, theo đó có thể phối hợp với Cơng an xã lập biên bản, tạm đình chỉ,...
chờ cấp có thẩm quyền giải quyết.
Để hoạt động quản lý nhà nước có hiệu quả cao hơn trong những năm tới, tiểu
luận mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị như:
Một là, Chính phủ cần ban hành mới hoặc sửa đổi các Nghị định quy định về tổ
chức thanh tra; về xử phạt hành chính trong lĩnh vực y, dược tư nhân cho phù hợp với
điều kiện kinh tế-xã hội ở trong giai đoạn hiện nay và những năm tới.
Hai là, Bộ Y tế cần sớm sửa đổi lại Thông tư số 01/2004/TT-BYT, chủ yếu về
xác định lại điều kiện xin phép, thành lập và đăng ký hoạt động phẫu thuật thẩm mỹ
của các cơ sở y tế tư nhân. Tránh tình trạng khó kiểm sốt chất lượng về trình độ,
chun mơn, kỹ thuật và phương tiện cơ sở vật chất,...
Ba là, Uỷ ban nhân dân các cấp, Sở Y tế, Phòng Y tế cần tiến hành các hoạt
động như:

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật
của Chính phủ, Bộ Y tế, Uỷ ban nhân dân Thành phố, Sở Y tế một cách sâu rộng trên
địa bàn, các cụm dân cư nhằm nâng cao nhận thức của người dân về chính sách, điều kiện
khám chữa bệnh của Nhà nước, của các cơ sở y tế tư nhân. Đặc biệt, đưa ra những
khuyến cáo chính thức làm cơ sở cho người dân phòng, tránh và cách giải quyết khi đến
các cơ sở thẩm mỹ viện tư nhân.


- Phối hợp có hiệu quả và đồng bộ giữa cơ quan chức năng với các tổ chức
chính trị-xã hội, các hội, đoàn thể nhằm một mặt tuyên truyền kiến thức hiểu biết cho
các hội viên vừa là kênh thông tin ngược giúp cơ quan quản lý nhà nước nắm bắt, tiếp
thu và điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế.
- Tiến hành sắp xếp, đổi mới công tác quản lý theo nền nếp, trật tự, kỷ cương
đối với các cơ sở y tế tư nhân, các cơ sở tham gia phẫu thuật thẩm mỹ buộc họ phải
cam kết trách nhiệm với chính quyền địa phương khi khám, chữa bệnh, phẫu thuật
thẩm mỹ ở cơ sở mình.
Theo yêu cầu về nội dung, tiểu luận lựa chọn văn bản pháp quy do Uỷ ban
nhân dân Thành phố ban hành như sau:
U

CỘNG HÒA

Ỷ BAN NHÂN DÂN

XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc


MINH
Số: 3806/KH-UBND

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 16 tháng 03 năm 2009

KẾ HOẠCH
TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỢT CAO ĐIỂM THỰC HIỆN CHỈ THỊ CỦA UBND
THÀNH PHỐ VỀ CHẤN CHỈNH QUẢNG CÁO CỦA CÁC CƠ SỞ PHẪU THUẬT
THẨM MỸ NĂM 2009
Để các cơ sở y tế tư nhân hoạt động đúng với đăng ký kinh doanh về lĩnh vực
khám, chữa bệnh và giải phẫu thẩm; quán triệt nghiêm Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân
Thành phố về chấn chỉnh các cơ sở khi quảng cáo, Uỷ ban nhân dân xây dựng kế
hoạch cụ thể sau:


I. MỤC ĐÍCH, U CẦU:
1. Tập trung đẩy mạnh cơng tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục gắn liền với
việc tổ chức học tập quán triệt và triển khai Chỉ thị số 21/2009/CT-UBND về "Chấn
chỉnh các hoạt động quảng cáo của các cơ sở y tế tư nhân trên địa bàn thành phố trong
tình hình mới" đến tồn thể cán bộ Đảng viên, công nhân viên chức và mọi tầng lớp
nhân dân.
2. Nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác quản lý, của các cơ quan
chuyên môn, các cơ quan chức năng và sự phối hợp của các tổ chức chính trị-xã hội
trên địa bàn.
II. NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM:
Nâng cao nhận thức về ý nghĩa tầm quan trọng của các cơ sở y tế tư nhân trong
việc khám, chữa bệnh, phẫu thuật thẩm mỹ cho nhân dân trên địa bàn theo chính sách của
Đảng, Nhà nước và Thành phố. Đồng thời, tiến hành quản lý, kiểm tra các cơ sở y tế tiến
hành quảng cáo không đúng giấy phép đăng ký.
III. NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN:

1. Nội dung tuyên truyền giáo dục:
2. Tập trung kiểm tra, rà soát các cơ sở thẩm mỹ tư nhân trên thuộc địa bàn
quản lý về treo biển quảng cáo, nội dung quảng cáo, giấy phép đăng ký, cơ sở vật
chất, thiết bị phục vụ thẩm mỹ.
Biện pháp thực hiện:


- Xây dựng kế hoạch phối hợp đồng bộ giữa các Sở ban ngành và Đoàn thể xác
định địa bàn trọng điểm, đồng loạt ra quân kiểm tra trên mỗi địa phương (quận huyện, phường - xã, thị trấn) chọn địa bàn trọng điểm có nhiều cơ sở phẫu thuật thẩm
mỹ.
- Tiến hành kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời các cơ sở vi phạm các điều
kiện đăng ký phẫu thuật thẩm mỹ.
- Tổ chức sơ, tổng kết đánh giá sau đợt cao điểm, ....
IV. PHÂN CÔNG THỰC HIỆN:
1. Sở Y tế Thành Phố chủ trì, phối hợp với các Sở, ban ngành khác; Chỉ đạo các
Phòng Y tế quận, huyện và chính quyền cấp xã để tiến hành bố trí, xác định lực lượng
tiến hành tổ chức kiểm tra.
2. Phối hợp với các tổ chức chính trị-xã hội trên địa bàn thực hiện các vai trò tổ
chức, động viên nhân dân trên địa bàn.
V. TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN:
- Từ ngày 18 tháng 03 năm 2009: các Sở ban ngành, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các
đoàn thể thành phố, Uỷ ban nhân dân quận - huyện xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện
"Đợt cao kiểm tra các cơ sở phẫu thuật thẩm mỹ tư nhân".
- Ngày 25 tháng 03 năm 2009: các Sở ban ngành, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các
đoàn thể, Uỷ ban nhân dân quận - huyện tổ chức sơ kết công tác kiểm tra.
- Ngày 30 tháng 03 năm 2009: Sở Y tế báo cáo tình hình, trình Thường trực Uỷ
ban nhân dân Thành phố.


Căn cứ vào nội dung trên Thủ trưởng các Sở ban ngành, Uỷ ban Mặt trận Tổ

quốc, các đoàn thể thành phố, Uỷ ban nhân dân quận - huyện tổ chức triển khai.
Nơi nhận:
- TV.T ủy, TT.HĐND, TT.UBND

KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH THƯỜNG TRỰC

TP;
- Cục Kiểm tra văn bản quy

(đã ký)

phạm pháp luật - Bộ Tư pháp;
- Trang web Chính phủ;
- Bộ Thông tin và Truyền thông

Nguyễn Thành Tài

(để b/c);
- Đoàn Đại biểu Quốc hội TP;
- Các ban Đảng, Đoàn thể TP;
- Các sở, ban, ngành cấp TP;
- UBND các quận, huyện, thị;
phường, xã, thị trấn.
- Công báo TP- Báo TP.HCM,
Đài PTvà TH Tp. HCM(đưa tin);
- Lưu KT, VHXH, VT.

KẾT LUẬN
Thành phố Hồ Chí Minh, hiện có hàng trăm cơ sở thẩm mỹ, chăm sóc sắc đẹp

đang hoạt động. Để hút khách, những cơ sở này đã quảng cáo thật đặc biệt. Mặc cho
cơ sở không đảm bảo vệ sinh, nhân viên làm thẩm mỹ khơng có chun mơn... đã làm
cho khách hàng bị "xấu đi ...vì làm đẹp". Theo quy định của ngành y tế, các phẫu thuật
thẩm mỹ gây chảy máu như hút mỡ, nâng ngực... phải được sở y tế thẩm định, cấp
phép mới được hành nghề. Hà Nội mới chỉ có 20 cơ sở phẫu thẩm mỹ được ngành y tế


cấp phép và chịu sự quản lý, thanh kiểm tra thường xun. Cịn các cơ sở thẩm mỹ,
chăm sóc sắc đẹp khơng gây chảy máu lại do chính quyền địa phương quản lý và cấp
phép hành nghề, người đứng tên cơ sở này khơng cần có chun mơn về y. Trên thực
tế, rất nhiều cơ sở thẩm mỹ khơng có chức năng phẫu thuật vẫn cố tình thực hiện các
kỹ thuật làm đẹp có chảy máu đã dẫn đến tình trạng nguy hiểm cho sức khoẻ của con
người. Trước tình hình này, các cơ quan chức năng, nhất là Sở Y tế Thành phố cần chủ
động xây dựng các biện pháp nhằm quản lý, kiểm tra có hiệu quả các cơ sở này góp
phần nâng cao sức khoẻ cho nhân dân và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội trên địa
bàn trong những năm tới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo thơng kê-Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Báo ViệtNamnet ngày 02/03/2009.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam-Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.217.
4. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày
26/11/2003.
5. Nghị quyết số 17/NQ-TW Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành
Trung ương Đảng khoá X, ngày 1/8/2007 về đẩy mạnh cải cách


hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà

nước.
6. Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các
cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương.
7. Nghị định số 14/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/02/2008 quy
định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
8. Nghị định số 77/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/8/2006 quy
định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra y tế.
9. Nghị định số 103/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/09/2003 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh hành nghề y, dược
tư nhân về điều kiện hành nghề y dược tư nhân.
10 Nghị định số 45/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 06/04/2005 quy
. định xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế.
11. Pháp lệnh về hành nghề y, dược tư nhân số 07/2003/PL-UBTVQH11
ngày 25/02/2003.
12 Thông tư số 01/2004/TT-BYT ngày 06/01/2004 của Bộ Y tế về
. hướng dẫn về hành nghề y, dược tư nhân.



×