Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

“Mẫu thượng ngàn” và “đội gạo lên chùa” của nguyễn xuân khánh từ góc nhìn nữ quyền luận sinh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TẠ THỊ HIÊN

“MẪU THƯỢNG NGÀN” VÀ “ĐỘI GẠO LÊN CHÙA”
CỦA NGUYỄN XN KHÁNH TỪ GĨC NHÌN
NỮ QUYỀN LUẬN SINH THÁI

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TẠ THỊ HIÊN

“MẪU THƯỢNG NGÀN” VÀ “ĐỘI GẠO LÊN CHÙA”
CỦA NGUYỄN XN KHÁNH TỪ GĨC NHÌN
NỮ QUYỀN LUẬN SINH THÁI

Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8 22 01 21

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. CAO KIM LAN

HÀ NỘI, NĂM 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn
của TS. Cao Kim Lan. Đề tài do cá nhân tôi nghiên cứu; các số liệu, kết quả nêu
trong luận văn là trung thực và có nguồn trích dẫn; bố cục, phơng chữ của luận văn
đúng với quy định.
Hà Nội, ngày 20 tháng 8 năm 2020
HỌC VIÊN

Tạ Thị Hiên


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng cảm ơn sâu sắc tới cô giáo - TS. Cao Kim Lan, người đã
tận tâm chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong q trình thực hiện luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Viện Văn học Việt Nam,
trong khoa Văn học - Học viện Khoa học xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam đã nhiệt tình giảng dạy, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học
tập tại Học viện.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã ln động viên, giúp đỡ tơi trong
q trình hồn thành luận văn.
Hà Nội, ngày 20 tháng 8 năm 2020
Tác giả luận văn

Tạ Thị Hiên


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

Chương 1: KHÁI LƯỢC VỀ NỮ QUYỀN LUẬN SINH THÁI VÀ
HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH .................... 7
1.1. Khái lược về nữ quyền luận sinh thái ................................................... 7
1.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật Nguyễn Xuân Khánh........................ 12
Chương 2: VẤN ĐỀ PHỤ NỮ VÀ TỰ NHIÊN

TRONG

“MẪU

THƯỢNG NGÀN” VÀ “ĐỘI GẠO LÊN CHÙA” CỦA NGUYỄN
XUÂN KHÁNH ................................................................................................ 18
2.1. Hình tượng người phụ nữ Việt và tiếng nói của tự nhiên trong Mẫu
Thượng ngàn và Đội gạo lên chùa ............................................................ 18
2.2. Thế giới tự nhiên và những chất vấn sinh thái trong Mẫu Thượng
ngàn và Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh ................................ 32
2.3. Đạo Mẫu, Phật giáo và sự chi phối với vấn đề giới và tự nhiên ....... 39
Chương 3: MỘT SỐ BÌNH DIỆN TỰ SỰ NỮ QUYỀN LUẬN SINH
THÁI TRONG “MẪU THƯỢNG NGÀN” VÀ “ĐỘI GẠO LÊN
CHÙA”.............................................................................................................. 50
3.1. Người kể chuyện ................................................................................ 50
3.2. Biểu tượng .......................................................................................... 62
KẾT LUẬN....................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 79


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Bước sang thế kỉ XXI, khi khoa học kĩ thuật – công nghệ và văn minh nhân
loại đã đạt những thành tựu vượt bậc, con người trở thành “bá chủ” trên hành tinh Trái

đất, thì cũng chính là lúc nhân loại phải đối mặt với một vấn nạn bức thiết: Sự hủy
hoại môi trường sinh thái ngày càng tàn khốc. Kinh tế thế giới ngày càng phát triển
kéo theo nó là các nhà máy, khu công nghiệp, xưởng sản xuất ngày càng nhiều, đồng
nghĩa với việc mỗi ngày thải ra ngồi mơi trường hàng triệu tấn khói bụi và chất thải
độc hại. Mơi trường tồn cầu đang mang trong nó bao nguy cơ tiềm ẩn của hạn hán,
đói kém, thiên tai, lũ lụt. Những hiện tượng cực đoan ngày càng nặng nề và đáng lo
ngại, mà nguyên nhân sâu xa là do thiên nhiên đang bị khai thác và xâm hại một cách
nghiêm trọng. Xã hội tiến bộ, các đô thị, thành phố lớn với các tòa cao ốc dần thay thế cho
các cánh rừng, làng mạc khiến cho nhu cầu tiêu thụ nhu yếu phẩm, thực phẩm tăng lên,
con người tìm mọi cách để khai thác tự nhiên từ đất, nước và cả trong khơng gian. Thiên
nhiên - món q hữu hạn mà Thượng đế ban tặng cho con người, đang dần cạn kiệt, môi
trường sống đang dần bị huỷ hoại. Loài người đã nhận thức được rằng, tất cả sự thịnh
vượng và hạnh phúc trên hành tinh sẽ biến mất nếu như hệ thống tự nhiên khơng cịn tồn
tại. Vì thế, hiện nay sinh thái đã trở thành vấn đề nóng trên tồn cầu, một vấn đề được
quan tâm bởi nhiều ngành khoa học khác nhau, trong đó có cả văn học.
Thực tế, hiện nay trong nghiên cứu văn chương có nhiều lí thuyết khác nhau và
mỗi lí thuyết đều cung cấp một phương pháp tiếp cận nhất định hướng tới việc khám
phá vẻ đẹp của tác phẩm nghệ thuật nói riêng và những vấn đề của xã hội nói chung.
Tuy nhiên, trong xu thế liên ngành, mỗi phương pháp tiếp cận đều ẩn chứa trong đó
nhiều hệ tư tưởng khác nhau, có thể tương tác và bổ sung cho nhau ở nhiều cấp độ
khác nhau. Phê bình sinh thái và nữ quyền luận cũng vậy. Tồn tại như một nhánh của
phê bình sinh thái, nữ quyền luận sinh thái thực chất là hợp lưu của nữ quyền luận và
phê bình sinh thái. Ở đó các nhà sinh thái học đã nhìn thấy nhiều điểm tương đồng
giữa phụ nữ và tự nhiên, nhìn thấy khả năng cân bằng sinh thái trong vấn đề giới và
nhiều vấn đề khác xâm lấn và tương tác lẫn nhau giữa hai vấn đề này. Nó mở ra một
cách nhìn hồn tồn mới về vấn đề giới cũng như các vấn đề liên quan đến mơi trường
và sinh thái học. Vì thế, đọc tác phẩm văn chương từ nữ quyền luận sinh thái sẽ là một
hướng nghiên cứu hứa hẹn có những kiến giải mới đối với những hiện tượng văn
chương tưởng đã được khai thác đến cạn kiệt.


1


1.2. Nguyễn Xuân Khánh – một nhà văn có một sức sáng tác bền bỉ, khỏe
khoắn, giàu sức sáng tạo với nhiều băn khoăn, trăn trở về thân phận con người nói
chung và về người phụ nữ nói riêng. Có thể nói, ơng là một hiện tượng khá đặc biệt
khi xuất hiện trên văn đàn, khi được biết đến ở cái tuổi “xưa nay hiếm”. Bằng lối viết
mang đậm chất truyền thống, kết hợp tài năng và vốn hiểu biết un bác của mình, ơng
đã khiến những người đọc phải ngưỡng phục. Khi phiêu lưu cùng tiểu thuyết của
Nguyễn Xuân Khánh, bằng ma lực đặc biệt, ông đã đưa người đọc vào thế giới cổ kính
mang đậm những nét văn hoá cổ truyền, nhưng cũng đồng thời hướng người đọc tìm
và khám phá vào những con đường mới trong khơng gian ấy. Bối cảnh lịch sử, khơng
gian văn hố, nhân vật, sự kiện dường như là một chỉnh thể đầy sống động, nói chuyện
“xưa cũ” nhưng lại có sức gợi đến những vấn đề đương thời mang tính thời sự. Tác
phẩm của Nguyễn Xuân Khánh đã được tiếp cận từ nhiều góc độ và phạm vi khác
nhau, tuy nhiên khảo sát và tìm hiểu chúng từ góc nhìn nữ quyền luận sinh thái thì
chưa có cơng trình nào. Vì thế, đây sẽ là khoảng trống và cũng là cơ hội để đề tài có
thể tiếp cận tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ một điểm nhìn mới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Về phê bình nữ quyền sinh thái
Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái (ecofeminism) là một phong trào chính trị - xã
hội ở phương tây ra đời từ thập niên 70 của thế kỉ XX và nở rộ mạnh mẽ từ khoảng
những năm 90. Đây là sự kết hợp của dòng chảy nghiên cứu chủ nghĩa nữ quyền và
sinh thái học. Đặc biệt chủ nghĩa nữ quyền nhấn mạnh vào mối liên hệ giữa phụ nữ với
các phạm trù sinh thái, đó là cặp quan hệ thống trị và bị trị song song giữa nam giới
với nữ giới; giữa con người với tự nhiên. Nền tảng cơ bản và mối quan tâm chủ yếu
của lý thuyết này là sự tương đồng giữa phụ nữ với thiên nhiên, kết quả của nền văn
hố phụ quyền hình thành từ thời nguyên thuỷ và phát triển đến đỉnh cao trong chủ
nghĩa nhị nguyên nhận thức và chủ nghĩa công cụ cấp tiến vào những cuộc cách mạng
khoa học công nghệ trong lịch sử nhân loại. Khuynh hướng nghiên cứu mới này đã thu

hút được nhiều sự quan tâm của giới phê bình thế giới trong đó có cả ở Việt Nam.
Năm 1974, nữ học giả Fracoise Eaubonne người Pháp lần đầu đưa ra thuật ngữ
“nữ quyền sinh thái” trong cuốn Chủ nghĩa nữ quyền hay cái chết với mục đích nhấn
mạnh khả năng của nữ giới trong việc giải quyết các vấn đề sinh thái toàn cầu. Thêm
nữa, Carolyn Merchant trong Cái chết của tự nhiên: Phụ nữ, sinh thái học và cách
mạng khoa học đã miêu tả lại q trình tiến hố từ sự coi trọng đến sự thống trị tự

2


nhiên và phụ nữ như sau: Quan niệm tự nhiên như là một thể tự nhiên vốn có từ xa
xưa, mà trung tâm mà đặt tự nhiên, đặc biệt là trái đất ngang hàng với hình tượng
người mẹ. Trong khi đó, Cheryll Glotlty thì lại cho rằng, “chủ nghĩa nữ quyền sinh
thái là một diễn ngôn lý thuyết. Tiền đề của nó là nối kết sự áp bức phụ nữ và sự thống
trị tự nhiên của chế độ phụ quyền”. Ở Việt Nam, nữ quyền luận sinh thái và việc
nghiên cứu phê bình văn học xuất phát từ quan điểm cũng như phương pháp tiếp cận
này đã được đề cập ít nhiều. Chẳng hạn, có thể kể đến một số cơng trình dịch của các
tác giả nước ngồi in trong cuốn Lý thuyết và ứng dụng trong các nghiên cứu văn học
(do Trần Hải Yến tổ chức bản thảo và biên tập); Phê bình sinh thái là gì (Hồng Tố
Mai tổ chức biên soạn và dịch thuật); cuốn Kỉ yếu Hội thảo Phê bình sinh thái: Tiếng
nói bản địa, tiếng nói tồn cầu (Nguyễn Đăng Điệp chủ biên, 2017). Bên cạnh đó, một
số bài nghiên cứu khác như “Phê bình từ chủ nghĩa nữ quyền sinh thái: sự kết hợp
giữa “cách mạng giới” và “cách mạng xanh” trong nghiên cứu văn học của tác giả
Nguyễn Thị Tịnh Thy- trên tạp chí Sơng Hương 2017; “Tìm về với mẹ thiên nhiên:
Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn nữ quyền luận sinh thái” của tác
giả Phạm Ngọc Lan trên Văn hoá Nghệ An; “Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái hướng tới
giải phóng đạo đức” tác giả Viên Linh Hồng trên Diễn đàn văn nghệ Việt Nam….vv.
Có thể nhận thấy, khuynh hướng nghiên cứu văn học này đang dịch chuyển và có
những thay đổi mạnh mẽ, tác động đến hầu hết các các quốc gia trên thế giới. Ở đây,
song song với những tiêu chí của một nhà phê bình sinh thái thuần túy, các nhà phê

bình nữ quyền luận sinh thái tập trung nghiên cứu nhiều vấn đề liên quan đến mơi
trường và sinh thái tồn cầu, song cơng việc này gắn chặt với bản chất nữ tính và các
vấn đề nữ quyền, vấn đề giới và con người văn hóa.
2.2. Về các cơng trình nghiên cứu tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh
Nguyễn Xuân Khánh và những tác phẩm của ông khi xuất hiện đã thu hút đông
đảo dư luận, của bạn đọc và giới truyền thông và đặc biệt là từ giới nghiên cứu phê
bình văn học. Ở mỗi khía cạnh và mức độ khác nhau, các nhà nghiên cứu đều khẳng
định giá trị cũng như những nét độc đáo trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh.
Trong bài nghiên cứu Ngôn ngữ thân thể trong tiểu thuyết “Mẫu Thượng
Ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, Trịnh Thị Lan cho rằng “hiện tượng độc đáo hợp quy
luật phát triển của tư duy tiểu thuyết hiện đại …nó mang tính chất lưỡng tính, vừa là
thân thể, vừa là tâm hồn”. Tác giả bài nghiên cứu muốn khẳng định, ở nhà văn
Nguyễn Xuân Khánh tốt lên một cái nhìn đầy tính nhân văn, tức nhà văn đã nhìn ra

3


vẻ đẹp trần gian nơi con người mà bấy lâu nó cịn ẩn chìm trong bề sâu của nền văn
hóa Việt tràn đầy sức sống.
Đỗ Hải Ninh lại khai thác vấn đề này khá cụ thể qua bài nghiên cứu Quan niệm
về lịch sử trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh. Bài nghiên cứu khai thác vấn đề
trong mối tương quan giữa hai tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh là Hồ Quý Ly và
Mẫu Thượng Ngàn. Bài viết “Tinh thần Phật giáo trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa
của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh” của tập thể ba tác giả Phùng Nga, Lưu Vân và
Đồn Đức Hải thì chỉ ra sự quan tâm tới Phật giáo của Nguyễn Xuân Khánh.
Trong những cơng trình nghiên cứu này, các tác giả đã đưa ra nhiều lý giải thú
vị, sâu sắc về cả phương diện nội dung và nghệ thuật trong tiểu thuyết của ơng. Ngồi

ra cịn một số tiểu luận, luận văn chuyên sâu như : Suy nghĩ từ những tiểu thuyết
mang chủ đề lịch sử (Phạm Xuân Thạch, 2006) Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh

(Đinh Công Vĩ, 2006), Đọc Hồ Quý Ly (Phạm Xuân Nguyên, 2006); bài phỏng vấn
“Mẫu thượng ngàn – nội lực văn chương của Nguyễn Xuân Khánh” (2006); “Một
cuốn tiểu thuyết thật hay về văn hoá Việt”(2006) của nhà văn Nguyên Ngọc…vv. Tiểu
thuyết Nguyễn Xuân Khánh cũng trở thành đề tài nghiên cứu của nhiều luận văn, luận
án tiến sĩ. Chẳng hạn, luận án tiến sĩ Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa qua
trường hợp tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh (2017) của Phùng Phương Nga; Một số
vấn đề lý luận về tiểu thuyết lịch sử qua “Hồ Quý Ly” của Nguyễn Xuân Khánh và
“Sông Côn mùa lũ” của Nguyễn Mộng Giác của Nguyễn Thị Liên ở Đại học khoa học
xã hội và nhân văn; năm 2010 luận văn thạc sĩ Những đóng góp của Nguyễn Xuân
khánh vào tiến trình đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại (qua hai tác phẩm “Hồ
Quý Ly” và “Mẫu thượng ngàn”) của Thống Thị Thanh trường Đại học khoa học xã
hội và nhân văn; năm 2011 với luận văn thạc sĩ Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân
Khánh của Ngô Thị Thuyết Nhung ở Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh; năm
2012 với luận văn thạc sĩ Hình tượng tác giả trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân
Khánh ở Đại học Vinh; Năm 2015 với luận văn thạc sĩ Tiểu thuyết Đội gạo lên chùa
của Nguyễn Xuân Khánh nhìn từ tâm thức Phật giáo của Nguyễn Danh Thực ở Đại
học Quốc gia Hà Nội; năm 2016 với luận văn thạc sĩ Motif và biểu tượng trong “Hồ
Quý Ly” của Nguyễn Xuân Khánh của Lê Thị Huế ở Đại học Khoa học xã hội và nhân
văn… Hầu hết các cơng trình này đã có những phát hiện và đánh giá về tài năng của
Nguyễn Xuân Khánh từ những góc nhìn khác nhau tạo nên cái nhìn đa chiều và tồn
diện hơn khi nhắc đến tiểu thuyết của ơng.

4


Có thể thấy, tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh đã trở thành đối tượng quan
tâm của nhiều bài viết, nhiều cơng trình nghiên cứu. Tuy nhiên, từ góc nhìn nữ quyền
luận sinh thái thì chưa có luận văn, luận án hoặc bài viết nào đề cập đến. Vì vậy, ở
luận văn này, chúng tôi sẽ tập trung vào đề tài: “Mẫu Thượng ngàn” và “Đội gạo lên
chùa” của Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn nữ quyền luận sinh thái với mong muốn

có những khám phá nhất định góp phần vào việc khẳng định tài năng cũng như đóng góp
của Nguyễn Xuân Khánh khi nhìn vào diện mạo văn học ở Việt Nam hiện đại.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài hướng trọng tâm tìm hiểu những đặc điểm về tiểu thuyết của Nguyễn
Xuân Khánh từ góc nhìn nữ quyền luận sinh thái.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn, đề tài này sẽ tập trung vào khảo sát hai tiểu
thuyết tiêu biểu của Nguyễn Xuân Khánh:
- Nguyễn Xuân Khánh (2006), Mẫu thượng ngàn, NXB Phụ nữ.
- Nguyễn Xuân Khánh (2012), Đội gạo lên chùa, NXB Phụ nữ
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
`Chỉ ra sự tương đồng giữa phụ nữ và tự nhiên trong hai tiểu thuyết của Nguyễn
Xuân Khánh. Sự tương đồng này không chỉ giúp chúng ta nhận ra sợi dây kết nối giữa
thế giới nhân loại và thế giới phi nhân, giữa vấn đề giới và tự nhiên, mà điều quan
trọng, chính từ sự tương đồng và ngang hàng này sẽ minh chứng cho mối quan hệ
ngang hàng, phụ thuộc lẫn nhau giữa con người và tự nhiên. Nó thay thế hoàn toàn cho
mối quan hệ thống trị lấy con người làm trung tâm trước đây. Và đây chính là cơ sở để
xây dựng một hệ thống sinh thái bền vững và lành mạnh giữa con người với các thực
thể khác trong tự nhiên.
Từ đó, luận văn có cơ sở để khẳng định tài năng cũng như những đóng góp thực
sự của tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn “Mẫu Thượng ngàn” và” Đội gạo lên chùa” của Nguyễn Xn
Khánh từ góc nhìn nữ quyền luận sinh thái sử dụng nhiều phương pháp để thực
hiện mục tiêu nghiên cứu đặt ra, trong đó có thể kể đến những phương pháp nghiên
cứu chính như sau:

5



Phương pháp nữ quyền luận: Đánh giá sự áp chế của nam với nữ giới, và sự
phản ứng từ giới nữ để từ đó thiết lập nên tiêu chí riêng trong việc cảm thụ và đánh giá
các hiện tượng văn học.
Phương pháp phê bình sinh thái: Nghiên cứu ảnh hưởng qua lại giữa một cá
thể sinh vật với môi trường xung quanh, đặc biệt là tìm ra mối liên kết giữa giới nữ và
giới tự nhiên trong việc chống lại những thế lực áp chế, thống trị họ.
Phương pháp so sánh : So sánh, đối chiếu giữa các tác phẩm của Nguyễn Xuân
Khánh để khái quát thành các luận điểm và so sánh Nguyễn Xuân Khánh với một số
nhà văn khác để thấy được nét chung và riêng.
Phương pháp cấu trúc: Xem xét, đánh giá các bình diện trong cấu trúc tổng thể
của chúng.
Phương pháp hệ thống : Thiết lập và sắp xếp các vấn đề một cách logic, khoa học.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành : Tìm hiểu về lịch sử, văn hóa các giai
đoạn mà tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh phản ánh ; nghiên cứu các tài liệu về văn
hóa Việt Nam làm cơ sở tìm hiểu tư tưởng Nguyễn Xuân Khánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn bước đầu nghiên cứu các vấn đề của phụ nữ và sinh thái trong hai
tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh một cách có hệ thống.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Khái lược về nữ quyền luận sinh thái và hành trình sáng tác của
Nguyễn Xuân Khánh
Chương 2: Vấn đề phụ nữ và tự nhiên trong Mẫu Thượng ngàn và Đội gạo lên
chùa của Nguyễn Xuân Khánh
Chương 3: Một số bình diện tự sự nữ quyền luận sinh thái trong Mẫu thượng
ngàn và Đội gạo lên chùa

6



Chương 1
KHÁI LƯỢC VỀ NỮ QUYỀN LUẬN SINH THÁI VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC
CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH
1.1. Khái lược về nữ quyền luận sinh thái
1.1.1. Khái niệm và lịch sử phát triển của nữ quyền luận sinh thái
Chủ nghĩa nữ quyền luận sinh thái (ecofeminism) được biết đến như một phong
trào chính trị - xã hội được ra đời ở phương Tây từ những năm 1970 và được phát triển
mạnh mẽ từ những năm 1980 đến nay. Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái tập trung nghiên
cứu những trào lưu lý thuyết liên kết nữ quyền với những vấn đề sinh thái tự nhiên.
Khuynh hướng này tìm hiểu về mối liên hệ giữa người phụ nữ với những vấn đề về
môi trường tự nhiên và đặt ra câu hỏi: liệu rằng giữa những đứa con của Mẹ thiên
nhiên như đất, nước, cây cối, muôn thú với những vấn đề của chúng như hạn hán, lũ
lụt, ơ nhiễm mơi trường… có liên quan gì đến phụ nữ? Có thể nói rằng đây chính là
hợp lưu giữa hai dịng chảy sinh thái học và chủ nghĩa nữ quyền. Chủ nghĩa nữ quyền
sinh thái được biết đến với hai cách gọi: Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái (The feminism
of ecology) và Sinh thái học chủ nghĩa nữ quyền (The ecology of feminism). Các đại
biểu tiêu biểu là Karen J.Warren(1947- ), Francoise d’Eabonne (1920-2005), Vandana
Shiva (1952-), Karolyn Mercant (1936-? ). Trong quá trình hình thành và phát triển ý
thức nữ quyền thì nữ quyền luận sinh thái (Ecofeminism) có thể xem là nhân tố chủ
yếu tạo nên bước ngoặt của phê bình nữ quyền. Thuật ng Ecofeminism do nh vn,
nh trit hc ngi Phỏp Franỗoise d'Eaubonne đề cập đến lần đầu năm 1974, khi bà
kêu gọi phụ nữ tổ chức một cuộc cách mạng sinh thái để cứu trái đất trong cuốn sách
Le Féminisme ou la Mort ( Chủ nghĩa nữ quyền hay là chết). Trong cuốn sách này, bà
đã lập luận và chỉ ra sự kết nối đặc biệt giữa phụ nữ và thiên nhiên, bởi lẽ phụ nữ và
thiên nhiên đều có đặc điểm chung là họ phải chịu sự đàn áp, bóc lột, thống trị của một
nền tảng xã hội gia trưởng phương Tây. Từ đó bà đã kêu gọi phụ nữ tham gia vào công
cuộc đấu tranh bảo vệ môi trường tự nhiên cũng như việc xây dựng mối quan hệ bình
đẳng giữa con người với thiên nhiên; giữa nam giới và nữ giới. Bởi lẽ hơn ai hết, phụ
nữ phù hợp và có khả năng thực hiện tốt nhất trách nhim ny. Qua ú Franỗoise

d'Eaubonne khng nh v trớ v tầm quan trọng cũng như khả năng của giới nữ trong
vấn đề giải quyết những nguy cơ sinh thái mang tính chất tồn cầu. Mối quan hệ của
nữ giới và sinh thái cũng được đề cập đến trong một số cơng trình như: Staying alive:
women, ecology, and development(1988) - (Duy trì sự sống: phụ nữ, sinh thái và phát

7


triển) của tác giả Shiva Vandana. Trong tác phẩm của mình, Shiva Vandana khẳng
định rằng phụ nữ và mơi trường có mối quan hệ đặc biệt thơng qua các tương tác hàng
ngày giữa họ, đặc biệt trong nền kinh tế tự cung tự cấp. Bà cũng chỉ ra nguyên nhân
dẫn đến sự xâm phạm tự nhiên và bóc lột với nữ giới, từ đó đề ra giải pháp giải quyết
các vấn đề đó chính bằng con đường sinh thái hài hoà, bền vững và đa dạng.
Trong cuốn Ecofeminism: Sociology and environementalism-(Nữ quyền luận
sinh thái: Xã hội học và chủ nghĩa môi trường) của Kathryn Miles, tác giả cũng khẳng
định mối quan hệ mật thiết giữa nữ giới với thiên nhiên và vai trò sinh học đặc biệt của
họ. Bà còn nhấn mạnh đến sự nhạy cảm của họ với sự thiêng liêng và xuống cấp của
môi trường.
Tác giả Carolyn Merchant trong cơng trình nghiên cứu The Death of Nature:
Women, Ecology, and Scientific revolution(1990) (Cái chết của tự nhiên: Phụ nữ, sinh
thái học và cách mạng khoa học) đã phân tích sâu sắc vấn đề “cái chết của tự nhiên”
khi khoa học kỹ thuật phát triển đã làm nảy sinh “thuyết cơ giới” thay thế cho quan
niệm tự nhiên của “thuyết hữu cơ”.
Greta Gaard trong cơng trình nghiên cứu Ecofeminism: Women, animals,
nauture( Nữ quyền sinh thái: Phụ nữ, động vật, thiên nhiên) đã nói rằng: “Chủ nghĩa
nữ quyền sinh thái kêu gọi chấm dứt tất cả các áp bức, lập luận rằng khơng một nỗ lực
giải phóng phụ nữ (hoặc bất kỳ nhóm bị áp bức khác) có thể thành cơng nếu khơng có
một nỗ lực bình đẳng để giải phóng tự nhiên” [28, tr.766-780]
Cheryll Glotfelty trong Introduction: Literary Studies in an Age of Environmental
Crisis (Dẫn luận nghiên cứu văn học trong thời kỳ khủng hoảng môi trường) cũng

khẳng định chủ nghĩa nữ quyền luận sinh thái là một dấu mốc quan trọng trong sinh
thái học: “chủ nghĩa nữ quyền sinh thái là một diễn ngôn lý thuyết. tiền đề của nó là sự
nối kết sự áp bức phụ nữ và sự thống trị tự nhiên của chế độ phụ quyền”[44].
Theo S.B. Ortner trong cơng trình nghiên cứu Is female to male as nature is to
culture? (Phải chăng quan hệ giữa nữ giới và nam giới cũng tương tự như quan hệ
giữa tự nhiên và văn hoá”) đã chỉ ra: “nguyên nhân tình trạng phổ quát của sự bất
bình đẳng, xem phụ nữ như một sinh vật hạng hai, Ortner lý giải rằng các tâm thức văn
hoá nhân loại thường đồng nhất nữ giới với cái tự nhiên, đồng nhất nam giới với cái xã
hội hoá, cái văn hoá và xem cái văn hoá, cái xã hội hoá, cái nhân sinh cao hơn, có giá
trị hơn cái tự nhiên.” [33, tr.1316-1331].

8


Cịn theo tác giả Nguyễn Thị Tịnh Thy: “phê bình văn học chủ nghĩa nữ quyền
hiểu theo nghĩa rộng là một diễn ngơn gắn với chính trị”, “phân tích những kết nối
mang tính khái niệm giữa việc đối xử với phụ nữ và thế giới phi nhân”... Phê bình văn
học chủ nghĩa nữ quyền sinh thái sử dụng phương pháp phê bình nữ quyền và phê
bình sinh thái để nghiên cứu mối quan hệ giữa tự nhiên và nữ giới trong lĩnh vực văn
học từ góc nhìn tự nhiên và nữ giới. Nó nhấn mạnh mối quan hệ thống nhất giữa con
người và tự nhiên, giải cấu trúc phương thức tư duy đối lập nhị nguyên giữa nam
giới/nữ giới, văn hố/tự nhiên, tinh thần/ thể xác, lý trí/ tình cảm…”[45,tr.51]. Nhìn
các tác phẩm văn học dưới lăng kính phê bình nữ quyền luận sinh thái cho ta cái nhìn
tồn diện hơn về bức tranh song trùng đối với tự nhiên và phụ nữ, đào sâu giá trị sinh
thái, đặc trung văn học và nội hàm thẩm mỹ mang trong nó.
Tóm lại, không giống như các lý thuyết khác, chủ nghĩa nữ quyền sinh thái không
bắt nguồn từ công thức đơn lẻ nào là sự hợp nhất của tư tưởng nữ quyền luận và phê
bình sinh thái, trong đó phương pháp tiếp cận của nó được bắt đầu với nữ quyền luận.
Trào lưu chính trị xã hội này đã góp phần lật đổ những giá trị truyền thống nhân loại
về vấn đề sự thống trị tự nhiên và nữ giới tồn tại từ trước đến nay.

1.1.2. Nữ quyền luận sinh thái trong văn học Việt Nam hiện đại
Nữ quyền luận sinh thái là một khuynh hướng nghiên cứu mới và đầy tính khả
dụng. Nguyễn Thị Tịnh Thy cho rằng phê bình văn học từ chủ nghĩa nữ quyền sinh
thái – kết tinh của cuộc hôn phối giữa “cách mạng giới” và “cách mạng xanh” trong
phê bình văn học. Đây là một sự kết hợp như là một sợi dây vơ hình gắn bó chặt chẽ
giữa thiên nhiên và giới nữ. Trong thời đại ngày nay, vấn đề môi trường và vấn đề về
sự đấu tranh bảo vệ, địi quyền bình đẳng cho nữ giới đang được đặt lên hàng đầu. Sản
phẩm kết hợp với phê bình nữ quyền luận sinh thái đã tạo nên những tác phẩm văn học
có giá trị nhân văn và ý nghĩa giáo dục sâu sắc, là hướng đi mới nhằm giáo dục nhận
thức về bình đẳng giới và vấn đề bao tồn tự nhiên của con người. Như vậy, phê bình
sinh thái có sứ mệnh đặc biệt, nó “tác động đến nhận thức, văn hóa của con người
hiện đại theo hướng kìm hãm những dục vọng cùng suy nghĩ và hành động phi lý của
con người hiện đại trong quan hệ với tự nhiên” [39, tr. 138]. Văn học Việt Nam cũng
có những tác phẩm tiêu biểu, có sức ảnh khơng nhỏ trong việc bảo vệ nguồn tài
nguyên thiên nhiên với vẻ đẹp đầy nội lực, mang đậm thiên tính nữ. Trong truyện ngắn
Xuân nữ của Dạ Ngân, tác giả đã thể hiện vẻ đẹp căng tràn đầy sức sống của Xuânngười phụ nữ tuổi quá tứ tuần. Vẻ đẹp người đàn bà ấy lấn át đi mọi khơng khí ảm

9


đạm, chết chóc của chiến tranh và được hồ quyện, nâng đỡ cùng với vẻ đẹp hùng vĩ,
nguyên sơ, mượt mà của rừng núi đại ngàn:“Một gương mặt có cạnh hàm hơi vng
nếu nhìn nghiêng… Du kích sống rải rác trong những căn chòi thấp phủ bằng những
tàu lá chết, tất cả sự sống phải bị che đậy bằng cái chết của cả một biền lá để qua mắt
lũ máy bay các loại quần thảo suốt ngày” [51,tr. 831-832].
Nếu như phụ nữ ln hồ hợp với thiên nhiên, là sứ giả của tự nhiên, luôn bảo vệ,
nuôi dưỡng thiên nhiên và ngược lại thì đàn ơng ln trong thế muốn “áp chế” cả hai
vẻ đẹp đó. Beauvoir đã từng nhận định: “Đàn ơng muốn tìm thấy ở sự chiếm đoạt phụ
nữ một cái gì khác, ngồi u cầu thỏa mãn một bản năng: phụ nữ là một đối tượng
đặc thù, qua đó đàn ơng nơ dịch Thiên nhiên” [37, tr.194]. Và rằng: “Trong lúc tạo ra

các giá trị, hoạt động của đàn ông tạo nên bản thân cuộc sống với tư cách một giá trị;
nó chiến thắng các lực lượng hỗn độn của cuộc sống; nó chinh phục Thiên nhiên và
người Phụ nữ”[37, tr.85]. Người phụ nữ luôn mang trong mình thiên tính bảo vệ,
nâng đỡ tự nhiên. Họ có thể lắng nghe, thấu hiểu và coi thiên nhiên như những người
bạn tâm giao, họ yêu thiên nhiên, yêu nơi mình sinh ra và lớn lên - nơi quê hương cội
nguồn của mình. Nhà văn Quế Hương đã từng chia sẻ: “Tôi viết bằng những mẩu thời
gian vun vặt nhặt được. Viết ít thơi khi có cảm xúc bởi cịn có thời gian để làm vợ, làm
mẹ, yêu thương cây cỏ, con chó đói, mèo hoang…” [28tr.766-780]. Tính nhân văn
được thể hiện rõ nét qua sự kết nối giữa tự nhiên vơ sinh cũng như hữu sinh mà chỉ có
người phụ nữ với bản năng mới có được. Các câu chuyện của cô như bức thông điệp
cảnh tỉnh về sự thống trị tự nhiên đã tồn tại từ lâu, con người và những chủng loại
khác có mặt trên Trái đất này đều là những sinh mệnh bình đẳng, có sự gắn kết và ảnh
hưởng lẫn nhau không phân chia cấp độ cao thấp. Đó là một tư tưởng cốt lõi trong nữ
quyền luận sinh thái. Trong Tre nở hoa- Tú dành tình u cho những con vật “Tơi đi
đâu chó mèo theo đó. Chúng nhận ra tơi” và được chúng bảo vệ trước kẻ thù. Trong
khi đó, những người đàn ông lại coi con vật là đối tượng phục tùng, vụ lợi vì “nghề
bn chó sống bán chó chết” được “một vốn bốn lời”[53]. Như thế, ta có thể dễ dàng
nhận ra giữa những người phụ nữ và tự nhiên ln có sự đồng điệu trong cách ứng
xử:“số phận người đàn bà là phục tùng, là bị chiếm hữu, bị khai thác như giới Tự
nhiên mà mình là hiện thân của sự phì nhiêu huyền diệu bị khai thác” [37,tr.98]. Theo
Beauvoir, vai trò của người mẹ rất quan trọng bởi phụ nữ cũng là một “giống lồi” của
tự nhiên, có chức năng y như Mẹ thiên nhiên với thiên chức không thể thay thế:
“Người mẹ là cái rễ cắm sâu trong lòng vũ trụ, và hút nhựa của vũ trụ, là cái giếng

10


phun ra dòng nước sống vốn là một dòng sữa ni dưỡng, một dịng suối nóng, một
lớp bùn làm bằng đất và nước, giàu những sức lực sinh sản” [37,tr.187]. Bởi vậy
“người ta vẫn thừa nhận rằng phụ nữ có một vai trị quan trọng, che chở và ni

dưỡng mầm giống. Bởi vậy, mọi người phải tơn kính đất, người mẹ” [37, tr.96].
Trong phương diện sự kết hợp giữa vai trò của tự nhiên với sinh mệnh của phụ
nữ, Nguyễn Thị Tịnh Thy cho rằng:“Trong văn hoá truyền thống, nhân loại ln ví
người mẹ với trái đất” [44]. Nếu người mẹ tảo tần, vất vả, “hao mòn” sức khỏe bởi
những đứa con, thì thiên nhiên cũng đang dần suy kiệt khốc liệt bởi bàn tay tàn phá
của con người. Dù vậy, người mẹ và thiên nhiên vẫn luôn dang rộng bàn tay đầy bao
dung, vị tha cho những lỗi lầm về sự vô tâm, hờ hững và cả những sự ích kỷ cá nhân
của con người: “Thậm chí tôi đã khai thác sức lực của bà một cách vô tư và tự nhiên
như dịng nước vẫn vơ tư và tự nhiên chảy trong dòng suối kia để đến một nơi nào đó?
Tơi đã quen được mế chiều chuộng. Tơi đã dựa vào bà quá lâu” [47, tr.112]. Dường
như phụ nữ ln tìm thấy niềm vui, niềm hạnh phúc khi sống hài hồ và bảo vệ tự
nhiên bởi trong nó là cả một sự tương đồng, cảm thông và thấu hiểu. Trong truyện
ngắn Gốc gội xù xì của Hà Thị Cẩm Anh, chúng ta nhận thấy mối ràng buộc giữa tự
nhiên và nữ giới: “Tơi chăm sóc cho cả khu rừng mà tơi đang phải sống nhờ. Rừng
chính là ngơi làng của tơi. Cây cối là hàng xóm láng giềng, là bạn bè là cậu mợ, cơ dì
chú bác là người già đáng kính của tơi … Chúng tơi đã thật sự không thể tách rời
nhau ra được nữa. Chúng tôi bao dung nhau, che chở cho nhau để cùng nhau mà tồn
tại” [47, tr.358]
Thiên nhiên chính là mối liên hệ gần gũi nhất để người phụ nữ thể hiện tất cả
những vẻ đẹp hoang sơ đầy thiên tính nữ. Thiên nhiên luôn lắng nghe và thấu hiểu;
luôn chở che, bảo vệ những người phụ nữ một cách trân trọng và đầy yêu thương.
Thay vào đó, phụ nữ cũng thấy sự đồng cảm và thương yêu, cùng chung niềm đau, mất
mát và cả những niềm hân hoan, hạnh phúc với mẹ tự nhiên. Nữ quyền luận sinh thái
đã thể hiện vai trị quan trọng khơng thể thay thế của người phụ nữ bởi “người phụ nữ
thâu tóm Thiên nhiên với tư cách người Mẹ, người Vợ và Khái niệm” [37, tr.185]. Đó
cũng chính là lời kêu gọi con người cùng chung sức bảo vệ và gìn giữ mơi trường
sống: “con người hãy biết ứng xử thân thiện, hài hòa với thiên nhiên thì Mẹ thiên
nhiên sẽ ln mở rộng tấm lịng bao dung chữa lành mọi vết thương trong tâm hồn
con người” [47, tr.24]; Là lời cảnh tỉnh con người: “Tự nhiên ln có những logic
huyền bí của nó, nếu con người có cư xử ngỗ ngược thì sẽ bị trừng phạt thê thảm”


11


[32]. Tự nhiên và giới nữ là những thực thể bình đẳng, có sinh mệnh riêng nên nếu
như nam giới hành xử với họ như “giới thứ hai” thì ắt sẽ phải nhận sự phản ứng của
họ. Nữ quyền luận sinh thái chính là tiếng nói của việc “đưa ra những luận điểm phản
tỉnh để thúc đẩy sự công bằng không chỉ với tự nhiên mà với cả những số phận gần
gũi, bảo vệ, che chở cho tự nhiên, kêu gọi một sự công bằng xã hội” [32].
Lấy nền tảng từ phê bình văn học nữ quyền, nữ quyền luận sinh thái là xu hướng
tất yếu của văn học. Nữ quyền luận sinh thái trong văn học Việt Nam đương đại có ý
nghĩa to lớn trong cuộc đấu tranh vì bình đẳng giới và việc gìn giữ các giá trị tốt đẹp
của tự nhiên. Giải phóng giá trị tinh thần, đạo đức,tiếng nói bình đẳng giữa giới tự
nhiên và con người, giữa nam giới và nữ giới. Phê bình văn học kết hợp với nữ quyền
luận sinh thái đã tạo nên những tác phẩm truyện ngắn trong văn học Việt Nam những
dấu ấn về giá trị nhân văn và ý nghĩa giáo dục sâu sắc, giá trị thực tiễn cao, là hướng đi
mới nhằm giáo dục nhận thức về việc gìn giữ, tơn tạo tự nhiên và bình đẳng giới.
1.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật Nguyễn Xuân Khánh
1.2.1. Vài nét về cuộc đời, sự nghiệp
Nguyễn Xuân Khánh sinh năm 1933 có bút danh là Đào Nguyễn. Để có nghiệp lớn
ở dốc bên kia cuộc đời với một sự nghiệp văn chương gây lên tiếng vang lớn ở văn đàn
trong nước, ông đã phải đánh đổi bằng cả máu và nước mắt. Nguyễn Xuân Khánh có
một cuộc đời sóng gió và đầy rẫy những biến động. Ông lớn lên trong nỗi đau khi vừa
lên 7 đã phải chứng kiến cái chết của cha khi mẹ mới 30 tuổi. Quanh ông là cả thế giới
tồn phụ nữ, ơng sống cùng ba người mẹ (bố ơng có ba vợ),với bác gái và người dì.
Sớm thấu hiểu những nỗi đau vơ hình của họ: là sự cô đơn của người bác gái không
lấy chồng ở vậy nuôi cháu; là nỗi buồn thấu tâm can của người dì có chồng mất sớm
và đó cũng là nỗi đau của chính người mẹ. Tuổi thơ Nguyễn Xuân Khánh chìm vào thế
giới trong những trang sách và những buổi theo mẹ đi hầu đồng nơi cửa Phật. Ngắm
mẹ lên đồng cùng những bước nhảy mê đắm mà man dại nơi linh thiêng, ông đã lặng

lẽ gặm nhấm một cách mặn chát nhất, rợn ngợp nhất và cũng hồn chỉnh nhất về nỗi
cơ liêu của những người phụ nữ, hiểu thấu những khát vọng buồn bã và sâu thẳm của
những người đàn bà xinh đẹp mà bất hạnh. Những cảm nhận sâu sắc từ trái tim đã làm
cho tác phẩm của ông đến gần hơn với đạo Mẫu, với cõi thiền. Nó bao chứa một sự
tĩnh tại triền miên, một thăng bằng vững chãi trong suốt cuộc đời mình. Với ơng, viết
văn là một cuộc vật lộn khổ ải, một sự giãy giụa như không thể khác để vượt lên chính
mình. Sau này truyện ngắn Một đêm của ông đã giành được giải nhì một cách đầy tình

12


cờ trong cuộc thi truyện ngắn đầu tiên của Tạp chí Văn nghệ Qn đội, điều này đã
kéo ơng đến gần hơn với nghiệp bút sách văn chương. Từ đó, ơng gắn bó với văn học
như dun nghiệp mà tình cờ số phận với những ngã rẽ bất ngờ đã đặt nó vào lịng tay.
Khoảng năm 1960, ơng làm biên tập ở Tạp chí Văn Nghệ Quân đội cùng thời với
Thanh Tịnh, Vũ Cao, Nguyễn Khải, Võ Minh Châu, Xuân Thiều, Xn Sách... Năm
1965, ơng được chuyển về làm phóng viên của Báo Thiếu niên Tiền phong. Đến năm
1969, ông về hưu non, sáng tác ít đi vì thời buổi đó ơng phải lao vào vịng xốy mưu
sinh với gánh nặng cơm áo gạo tiền nuôi mẹ già, con nhỏ. Để trang trải cho cuộc sống,
ông vật lộn với đủ nghề từ những nghề “cao sang” như dịch thuật, rồi làm thợ may,
cho đến những nghề lao động chân tay nặng nhọc, ông cũng nuôi lợn, nhận gác nhà
kho thuê, thậm chí có những khi ơng phải bán máu để đổi lại vài hào bạc... tất cả vì
miếng cơm manh áo cho gia đình nghèo với bảy miệng ăn.
Văn chương đối với Nguyễn Xuân Khánh là “một khu đền đài linh thiêng”, mà khi
đã lỡ bước chân vào đó thì khó mà quay trở lại. Nên dù bao năm vật lộn với cuộc sống
mưu sinh nhưng với tình yêu và nhiệt huyết, ơng vẫn chờ đợi, vẫn hồi thai cho những
đứa con tinh thần. Bởi ông biết, cơ duyên của mình nằm trọn ở đó. Giờ đây cái tên
Nguyễn Xn Khánh đã lại được trả về nguyên vẹn dưới tác phẩm của chính ơng sau
bao nhiêu năm khơng được thừa nhận. Lúc này người đọc đã lại chào đón, lại chấp
nhận và dành sự ưu ái và trân trọng những tác phẩm ông viết, với những thông điệp mà

ông gửi gắm. Từ đó, người ta cũng dần ngộ ra chân lý về cuộc sống, đó là một chuỗi
vận động và biến thiên, nó sẵn sàng sàng lọc và loại bỏ tất cả những cái trì trệ, cái ấu
trĩ, bảo thủ và lạc hậu. Cái đích sẽ tới bao giờ cũng là nơi tươi đẹp hơn, sáng sủa hơn
cũng như những cố gắng của Nguyễn Xuân Khánh đã được đền đáp một cách xứng
đáng. Ở trong Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa, người đọc có thể dễ dàng nhận
ra thơng điệp về tình u mà ơng nhắn nhủ. Dường như, tác phẩm của ông khiến người
đọc bị cuốn vào dịng máu nóng tràn đầy năng lượng và nhiệt huyết, ta thấy yêu hơn
dân tộc mình, đất nước mình, gắn bó sâu sắc hơn với nền văn hóa Việt thuần khiết, và
đặt mỗi người trước một trách nhiệm lớn lao là hãy giữ gìn văn hóa Việt trong thời đại
ngày nay.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ơng để lại nhiều tác tác phẩm với nhiều thể loại
phong phú. Nguyễn Xuân Khánh sáng tác từ những năm năm mươi Làng nghèo
(1958), nhưng tác phẩm đầu tay của ông không được in ấn và đón nhận. Vắng bóng
trên văn đàn suốt 20 năm (1969 – 1989), đến năm 1990, Nguyễn Xuân Khánh mới cho

13


ra đời cuốn tiểu thuyết Miền hoang tưởng; nhưng khi sách vừa in, tác giả bị phê phán
kịch liệt. Ông viết tiếp cuốn tiểu thuyết Trư cuồng năm 2005. Biết bao nhiêu tâm huyết
ở đó, nhưng đáng buồn là cuốn tiểu thuyết của ông không được xuất bản, đến nay vẫn
chỉ có bản thảo trơi nổi trên internet. Nhưng đời khơng phụ người có tâm, bộ ba cuốn
tiểu thuyết Hồ Quý Ly năm 2000; Mẫu Thượng ngàn năm 2006, Đội gạo lên chùa
năm 2011 ra đời đã được độc giả chào nồng nhiệt. Nó trở thành một hiện tượng văn
học. Khi đó, các nhà văn, nhà báo, nhà phê bình, cả chuyên nghiệp lẫn nghiệp dư dành
hết lời khen ngợi. Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà văn Hà Nội lần lượt tổ chức trao
giải thưởng cho các tác phẩm này của ông. Hồ Quý Ly giành được 4 giải: – Giải
thưởng Cuộc thi tiểu thuyết (1998 – 2000) của Hội Nhà văn Việt Nam, – Giải thưởng
của Hội Nhà văn Hà Nội, 2001, – Giải thưởng Mai vàng của báo Người lao động,
2001, – Giải thưởng Thăng Long của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, 2002. Mẫu

thượng ngàn giành được 2 giải: – Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội, 2006, – Giải
thưởng văn hoá Doanh nhân, 2007. Đội gạo lên chùa xuất bản đầu năm 2011, đầu
năm 2012 đã được trao ngay Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam.
Cùng sự nghiệp sáng tác, các tác phẩm dịch thuật nổi tiếng của ông như: Những
quả vàng (tiểu thuyết của Nathalie Sarraute, Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, 1996);
Chuông nguyện cầu cho kẻ đã khuất (tiểu thuyết của Taha Ben Jelloun, Trung tâm Văn
hóa - Văn minh Pháp và Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, 1998); Bảy ngày trên khinh khí
cầu (Jules Verne, Nhà xuất bản Kim Đồng, Hà Nội, 1998); Hoàng hậu Sicile (tiểu
thuyết của Pamela Schoenewaldt, Nhà xuất bản Kim Đồng, Hà Nội, 1999); Tâm lý học
đám đông (tiểu luận của Gustave le Bon, Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội, 2006); Sự
hình thành biểu tượng ở trẻ nhỏ (Jean Piaget).... cũng gây được nhiều tiếng vang lớn.
1.2.2. Quan niệm về thế giới nghệ thuật của Nguyễn Xuân Khánh
Lý luận văn học truyền thống thường xem tác phẩm là tấm gương phản chiếu hiện
thực, và giá trị của tác phẩm văn học là phải nói đúng sự thật đang diễn ra hoặc đã
từng xảy ra trong đời sống. Nhà văn là “người thư ký trung thành của thời đại”. Cuộc
sống là một quá trình vận động không ngừng nghỉ và nghệ thuật cũng không nằm
ngồi quy luật đó. Lý luận văn học ở nước ta giai đoạn nửa cuối thế kỷ XX, nhiệm vụ
tất yếu của văn học vẫn có nhiệm vụ tất yếu là phản ánh chân thật lịch sử. Theo Lê
Ngọc Trà những quan niệm này xuất phát từ tư tưởng văn nghệ Diên An (Trung
Quốc), nhưng thật ra nó có cội nguồn từ trong “phản ánh luận” của lý luận mác xít mà
người hồn thiện là Lenin.

14


Bước sang thế kỷ XXI, quan niệm của giới nghiên cứu văn học, mà đặc biệt là của
chính những nhà văn về vấn đề văn học phản ánh hiện thực và tái hiện chân thực lịch
sử đã có sự thay đổi nhanh chóng, và khá tồn diện. Trương Đăng Dung nhận định:
“Tiêu chí để đánh giá một tác phẩm nghệ thuật không phụ thuộc vào sự so sánh, đối
chiếu tác phẩm với hiện thực khách quan để xem hiện thực đã “ngang tầm” với hiện

thực bên ngoài chưa, mà chủ yếu là tác phẩm có giúp ta nhận thức về hiện thực, có tạo
ta được tư tưởng gì mới mẻ để ta cải tạo hiện thực hay không?” [12 ,tr.150]. Trong
những bài nghiên cứu của các nhà lý luận, phê bình đã khơng cịn thấy xuất hiện nhiều
những câu nói mang tính chất như “kim chỉ nam” của Lenin, Tolstoi hay Balzac nữa,
thay vào đó là câu nói nổi tiếng của A.Dumas: “Lịch sử là gì? Đó chỉ là cái đinh để tôi
treo các bức họa của tôi thôi”. Hiểu đơn giản là họ xem những sự kiện, nhân vật lịch
sử và sự thật lịch sử chỉ là cái cớ cho nhà văn sáng tạo nên tác phẩm của mình.
Nguyễn Xuân Khánh sinh ra ở Cổ Nhuế là một vùng đất cổ với nhiều di tích tâm
linh như đình thơn Viên (thờ thành hồng Đơng Chinh Vương), đền Bà Chúa, đình thờ
cơng chúa Tả Minh Hiến (con thứ tư của vua Lý), chùa Sùng Quang (có xuất hiện lại
trong Mẫu thượng ngàn)... Ông từng chia sẻ “Mẫu Thượng Ngàn là câu chuyện của
làng q tơi….Có những cuốn tiểu thuyết mà muốn viết thì mình phải trải nghiệm. Và
đó hồn tồn là mảng sống thật. Nhưng cũng có những cuốn tiểu thuyết hoàn toàn hư
cấu, nhưng cũng lại rất thật, y như đời sống.... Làm một nghề để cho tinh đã khó rồi,
nữa là nghề tạo ra văn hóa - nghề viết văn. Viết văn có nghĩa là tổng hợp, nhìn từ đời
sống mà rút những cái tinh túy từ đời sống ra thì mình phải có đào luyện và cẩn
thận”[17]. Với. Ơng đã dùng chính vốn sống cùng sự trải nghiệm về về văn hóa,
phong tục tập quán, văn học cổ kim trong ngoài nước để viết. Những đứa con tinh thần
của ơng được cơng chúng đón nhận vì ngồi cái tơi bản ngã rất riêng cịn là những
phong vị, truyền thống dân tộc thấm đẫm trong mỗi trang sách. Người đọc đón nhận vì
dường như họ thấy mình ẩn khuất đâu đó trong từng trang sách ấy. Chẳng phải ngẫu
nhiên mà Mẫu Thượng Ngàn; Đội gạo lên chùa lại mang trong mình nhiều tầng văn
hố đến thế. Nguyễn Xn Khánh đã phải dày cơng tìm hiểu về những nền tảng của
văn hóa làng của người Việt; về Nho giáo, đạo Mẫu, Phật giáo; hay đến tín ngưỡng
đạo Mẫu là riêng của Đơng Nam Á trong đó có Việt Nam.
Nguyễn Xuân Khánh viết không để cầu danh, cũng chẳng cầu vinh. Ông viết như
một nhu cầu tự thân, viết để “di dưỡng tâm hồn”. Với ông, văn chương trước khi là vũ
khí, là tiếng nói tố cáo, thì đó phải là nơi người viết có cảm xúc và người đọc có rung

15



động. Xuất hiện vào đầu những năm 90, văn đàn nói Nguyễn Xuân Khánh là “người
mới” cũng đúng, mà có người nói ơng “cũ” cũng khơng sai. Lúc bấy giờ, người đọc
đang dần quen với lối viết dòng ý thức, cấu trúc phân mảnh, đa tuyến, đa thanh, tự sự
nhiều điểm nhìn. Họ cũng đang quen dần với lối đọc phản biện, hoài nghi, chất vấn,
những vận động đa chiều trong chiều sâu tâm lý nhân vật, của những cái tơi bản thể
mà đơi khi phải “vắt óc” mới có thể cảm nhận được. Đương khi ấy, Nguyễn Xuân
Khánh đột ngột xuất hiện, ngỡ ngàng với bộ ba tiểu thuyết có độ dài đều ngót nghét cả
nghìn trang - chẳng phải dễ đọc, nhưng điều lạ là khi bộ ba cuốn tiểu thuyết của ông ra
đời ai cũng hồ hởi đón nhận, hồ hởi nghiên cứu. Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng ngàn, Đội
gạo lên chùa nhanh chóng trở thành hiện tượng best seller (sách bán chạy nhất) và
Best criticize (phê bình tốt nhất). Có người đã hóm hỉnh ví von rằng sự hào hứng của
Nguyễn Xuân Khánh mang lại như người ta thèm cảm giác ngọt bùi, nóng sốt, bình dị
của “cơm” khi đang quen cảm giác ngọt ngào, lỏng lảnh từ “phở”. Nhưng chính cái lạ
kia lại đến từ bề sâu của những trải nghiệm văn hố mà ơng dành cả cuộc đời, tâm
huyết để nghiền ngẫm, suy tư và trân q nó.
Nói Nguyễn Xn Khánh lạ thơi cịn chưa đủ, ơng cịn mới. Cái mới của ơng lại
xuất phát từ chính những thứ có từ ngàn đời - là lịch sử, là văn hố bản địa. Ơng say
mê với truyền thống văn hố dân tộc, ơng đã tìm tịi và xâu chuỗi nó một cách có ý
thức tất cả lịch sử, phong tục, tập quán, văn hóa, thiên nhiên trở thành nhân vật chính,
chủ đề chính, giá trị chính chứ khơng phải là phơng nền hay sự điểm xuyết.

16


Tiểu kết chương
Chủ nghĩa nữ quyền luận sinh thái xem xét mối quan hệ qua lại giữa sự thống
trị từ nền tảng quan hệ xã hội trong đó tự nhiên và nữ giới ln chịu sự đàn áp, bóc lột
và ln hứng chịu những thiệt thịi. Trong khi con người đang phải hứng chịu những

ảnh hưởng suy thối từ mơi trường, thì trẻ em, người nghèo và đặc biệt là người phụ
nữ phải gánh chịu những nguy cơ ấy cao hơn. Người phụ nữ mang trong mình thiên
tính chở che, giữ gìn và bảo tồn sự sống trong khi đàn ông thường đối xử một cách thô
bạo, chuyên quyền, độc đốn với phụ nữ và cả tự nhiên. Từ đó, các nhà nghiên cứu đã
kêu gọi phụ nữ hãy đấu tranh để bảo vệ và giữ gìn mơi trường sinh thái cũng như thiết
lập mối quan hệ bình đẳng giữa con người với tự nhiên, giữa nam giới và nữ giới và đề
cao vai trò của nữ giới trong vấn đề giải quyết các vấn đề sinh thái mang tính toàn cầu.
Chủ nghĩa nữ quyền luận sinh thái là một bước khai phá và phát triển sâu hơn, cao hơn
so với chủ nghĩa nữ quyền và phê bình sinh thái.
Khảo sát hai cuốn tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn và Đội gạo lên chùa dưới góc
nhìn nữ quyền luận sinh thái, luận văn này hi vọng sẽ mở ra những tầng nghĩa mới về
mối quan hệ của tự nhiên và nữ giới, về mối tương đồng giữa vẻ đẹp mẫu tính với sức
sống tiềm tàng trong họ. Giữa tự nhiên và giới nữ luôn tồn tại một mối liên hệ chặt chẽ
trong quá trình phản kháng lại chế độ nam quyền gia trưởng với những áp bức cả vật
chất lẫn tinh thần. Với cái nhìn bình đẳng, nhân ái về giới tự nhiên hữu sinh cũng như
vô sinh, Nguyễn Xuân Khánh phần nào góp phần giải quyết những khủng hoảng của
cuộc sống con người thời hiện đại từ việc sống gần gũi, hoà hợp với tự nhiên để được
yêu thương, sẻ chia và bảo vệ môi trường sống. Đồng thời xác lập những giá trị mới
phù hợp với xu thế toàn cầu và làm phong phú thêm thực tiễn lý luận văn học.

17


Chương 2
VẤN ĐỀ PHỤ NỮ VÀ TỰ NHIÊN TRONG “MẪU THƯỢNG NGÀN” VÀ
“ĐỘI GẠO LÊN CHÙA” CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH
2.1. Hình tượng người phụ nữ Việt và tiếng nói của tự nhiên trong Mẫu Thượng
ngàn và Đội gạo lên chùa
Trong khuôn khổ xã hội nam quyền với tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, giới nữ
ln bị trói buộc trong phạm vi gia đình và hồn tồn bị lệ thuộc vào nam giới. Chính

những định kiến về giới đã hình thành nên tính gia trưởng của đàn ơng khiến cho họ
mặc nhiên tự tăng thêm uy quyền của mình ngồi xã hội và uy lực trong gia đình khi
đối xử với phụ nữ. Nam giới nghiễm nhiên coi người phụ nữ là tài sản như mọi vật
chất khác trên trái đất này, kể cả thiên nhiên cũng đều thuộc quyền sở hữu của họ. Vì
thế, ta thấy ngự trị trên đỉnh Olempo là thần Zues- người đàn ông Phương Tây mang
sức mạnh tối thượng; thì ở phương Đơng cũng khơng ngoại lệ, đó là hình ảnh của
Ngọc Hồng mặc áo bào vàng với quyền năng tối cao. Trong thế giới tinh thần, những
cuộc thù tạc, đàm đạo văn chương chỉ diễn ra giữa những người đàn ơng với nhau, nó
khơng có chỗ cho “nữ nhi thường tình”, thậm chí hình bóng những người phụ nữ cũng
xuất hiện với tần số không nhiều trong những tác phẩm văn học. Đặc biệt, văn hố Khổng
giáo Phương Đơng khơng chỉ ở Trung Quốc hay Việt Nam mà cịn ở nhiều quốc gia Đơng
Á khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaisia hay Singapore…quy định rất rõ nét những
khắc chế đối với đàn bà. Vai trò thống trị của đàn ông được sự ủng hộ của thiết chế xã hội
đã trở thành một nét tâm lí phổ biến kéo dài từ thời này qua thời khác.
Tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội của người Việt.
Trong cuốn Nho giáo xưa và nay ,Vũ Khiêu nhận định: “Ở Việt Nam, những mối quan
hệ giữa vua tôi, cha con, vợ chồng, bè bạn, anh em trong một thời gian hàng nghìn
năm đều rập khuôn theo Nho giáo”. Đến thời điểm hiện tại, một trong những giá trị
vẫn cịn tồn tại và có ảnh hưởng sâu sắc nhất của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam đó
là quan niệm về đạo đức gia đình. Quan niệm “Tam tịng, Tứ đức” của Nho giáo khiến
cho vị thế, vai trị của người phụ nữ ln bị hạ thấp. Chính tư tưởng này dẫn đến bất
bình đẳng giới. Trong khi người phụ nữ ln có gánh nặng của “Tam tịng”, người phụ
nữ bị đóng khn vào tư tưởng: khi còn ở nhà với cha mẹ nhà thì nhất thiết phải nghe
lời cha; xuất giá đi lấy chồng phải nghe lời chồng; chồng chết phải nghe lời con. Như
vậy, ở bất cứ nơi đâu người phụ nữ đều bị lệ thuộc. Không chỉ vậy, người phụ nữ cũng

18


phải chịu những yêu cầu khắt khe. Trong công việc, họ phải thật khéo léo với những

đường cày thẳng tắp, lúa cấy thẳng hàng nhưng việc bếp núc nột trợ, sắp xếp vun vén gia
đình cũng phải thật chu tồn. Rồi, lời ăn tiếng nói trong ứng xử hàng ngày, với mọi thứ
bậc và mọi mối quan hệ gia đình, xã hội cũng phải cẩn trọng để làm vừa lòng người khác.
Người phụ nữ luôn được đặt vào thế nhún nhường trước nam giới. Khái niệm
nữ quyền (Feminism, women’s right) ra đời gắn liền với những hoạt động chính trị và
xã hội, sinh ra từ ý thức về sự bình đẳng trên phương diện giới. Nói một cách khái
quát, khái niệm này chỉ quyền lợi về chính trị và xã hội của người phụ nữ. Thông qua
những hoạt động đấu tranh chính trị và xã hội, giới nữ địi lại những lợi ích chính đáng
của mình để đạt đến sự bình đẳng với nam giới. Đây là một khái niệm tiến bộ địi
quyền bình đẳng cho người phụ nữ. Đã đến lúc phụ nữ phải cất lên tiếng nói đấu tranh
cho quyền bình đẳng giới của mình. Ý thức nữ quyền đã bước vào văn chương với
nhiều hoạt động mạnh mẽ. Các nhà văn nữ gửi gắm vào những đứa con tinh thần
không những nhằm bày tỏ những tâm tư tình cảm của mình mà cịn để đấu tranh địi
bình đẳng về giới, đòi quyền sống cơ bản của người phụ nữ. Trong bài viết “Không chỉ
là yếm thắm bỏ bùa” Nguyễn Khắc Phê đã nhận định: “Đội gạo lên chùa là một cuốn
sách có sức nặng, rất nặng- cả về nghĩa đen và nghĩa bóng... và qua số phận hàng
chục nhân vật ở một làng quê quanh chùa Sọ, tác giả miêu tả những biến động của xã
hội Việt Nam suốt từ thời chống Pháp cho đến sau ngày đất nước thống nhất, đụng
chạm đến rất nhiều vấn đề văn hóa - xã hội, triết lý nhân sinh … Trong “Đội gạo lên
chùa”, tác giả còn dành nhiều tâm huyết để miêu tả vẻ đẹp của người phụ nữ và vẻ
đẹp của trí tuệ, của con người có văn hóa...” [34]. Có thể nói Nguyễn Xuân Khánh
dành sự ưu ái đặc biệt cho các nhân vật nữ, mà qua mỗi nhân vật đó, ơng đều thể hiện
một vẻ đẹp cá tính và mang sứ mệnh chuyển tải thơng điệp riêng tạo thành sự đa dạng,
phong phú trong hệ thống nhân vật.
2.1.1. Phụ nữ Việt trong Mẫu Thượng ngàn và Đội gạo lên chùa: Biểu tượng của
nữ quyền luận
2.1.1.1. Vài nét về chủ nghĩa nữ quyền trong văn học Việt Nam
Hòa chung dòng chảy văn học trên thế giới, văn học Việt Nam cũng sản sinh ra
dòng văn học mang tư tưởng nữ quyền. Dịng văn học này có sự phát triển từ những
tác phẩm văn học cổ, ta có thể bắt gặp trong dòng văn học dân gian, văn học trung đại.

Sự xác lập ý thức nữ quyền trong nền văn học nước nhà được thể hiện qua dòng văn
hóa Mẫu hệ - nền tảng của ý thức nữ quyền trong dòng chảy văn học. Đạo Mẫu lan tỏa

19


và ngày càng được mở rộng cùng với bước chân và tấm lòng hướng đạo của những
người phụ nữ Việt. Đạo Mẫu là nơi chắp cánh cho ước vọng, khát khao của người phụ
nữ, đồng hành cùng với họ trên con đường hướng đến những khát vọng may mắn,
bình an. Gắn liền với cội nguồn văn hóa Mẫu, ý thức nữ quyền đã dần được người phụ
nữ Việt Nam xác lập.
Tuy nhiên, nếu như đạo Mẫu tồn tại trong cộng đồng như một tác nhân nuôi
dưỡng đời sống tâm linh của con người Việt thì Nho giáo lại hiện diện đậm nét và tác
động trực tiếp đến cuộc sống của con người trần thế ở hiện tại. Người phụ nữ sống
trong xã hội chịu sự áp chế của Nho giáo, họ vẫn ln được khuyến khích cam chịu
thân phận, an phận thủ thường, gìn giữ phẩm hạnh. Có lẽ, vì thế, hình bóng của những
người phụ nữ trong những bài ca dao vẫn là những con người tảo tần, cam chịu, vất vả.
Họ chỉ dám cất tiếng than thân trách phận và gửi gắm nỗi niềm riêng vào những câu
ca, lời hát chứ chưa biết cách cải hóa số phận. Một thời gian dài trong văn học, về cơ
bản giới cầm bút vẫn thuộc về đàn ông. Tuy nhiên, nền văn học cũng bắt đầu xuất hiện
những tài nữ như Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan và đặc biệt là Hồ Xuân
Hương. Những tên tuổi đó đã tạo ra bước đột phá trong văn học, khẳng định những
tiếng nói của người phụ nữ trong văn học Việt Nam. Phong cách thơ của của họ gây ấn
tượng và tạo nên nét độc đáo bởi sự phản kháng, chống lại chế độ xã hội trọng nam
khinh nữ, chống lại chế độ đa thê, một cách quyết liệt, đặc biệt với Hồ Xuân Hương.
2.1.1.2. Tiếng nói của phụ nữ trong Mẫu Thượng ngàn và Đội gạo lên chùa
Trong văn học Việt Nam truyền thống, các tác giả hầu hết đều là nam giới, họ
mặc nhiên được hàng rào lễ giáo phong kiến vững chắc bảo vệ những giá trị nam
quyền. Vì thế cuộc sống phản ánh trong văn chương thời kì đó ln được nhìn qua con
mắt phái nam. Cịn ở văn học hiện đại, cái nhìn nữ quyền làm cho cách nhìn về những

vấn đề văn hóa, xã hội trong tác phẩm đã có sự thay đổi. Tuy là một nhà văn nam
nhưng Nguyễn Xuân Khánh đã đặt mình vào vị trí, cái nhìn của nữ giới để cảm nhận
cuộc sống. Qua góc nhìn mới về văn hóa Việt, tác phẩm của ơng được xem là dung
chứa một nền văn hóa mang đậm yếu tố nữ tính. Tất cả đời sống của con người từ
những lễ nghi, phong tục và huyền thoại dân gian đều có bóng dáng của người phụ nữ.
Trong Mẫu Thượng ngàn và Đội gạo lên chùa, Nguyễn Xuân Khánh đã khai
thác những mảng hiện thực gần như vắng bóng trong văn học Việt Nam đương đại.
Hơn thế nữa, cái độc đáo cịn thể hiện trong “cái nhìn thế giới” của người viết khi tái
hiện những mảng đề tài này chính là cái nhìn của nữ giới với mối liên hệ với tự nhiên.

20


×