Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tải Phân tích bài thơ “Dọn về làng” của Nông Quốc Chấn - Phân tích bài thơ “Dọn về làng”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.11 KB, 21 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Phân tích bài thơ “Dọn về làng” của Nông Quốc Chấn - Ngữ văn </b>
<b>12</b>


<b>Dàn ý chi tiết</b>
<b>1. Mở bài</b>


- Sơ lược về nhà thơ Nông Quốc Chấn và phong cách sáng tác.


- Dọn về làng viết về quê hương của tác giả trong những năm tháng chiến đấu
đau thương mà anh dũng, đồng thời nêu lên những ý nghĩa của kháng chiến
thắng lợi đối với đời sống cũng như con người Tây Bắc.


<b>2. Thân bài</b>


a. Niềm hân hoan chiến thắng trong 4 dòng thơ đầu "Mẹ!...như củi":


- Kết quả của cuộc chiến được diễn tả bằng hình ảnh sống động, đậm lối tư
duy, diễn đạt của người miền núi, một vẻ rất chất phác, rất hồn hậu.


- Cao Bằng, Lạng Sơn đã giải phóng, quê hương đã yên bình, đối với mỗi
người dân miền núi là niềm hạnh phúc khôn tả, cuối cùng họ cũng có thể trở lại
ngơi làng u dấu để "sửa nhà phát cỏ/Cày ruộng vườn, trồng lúa ngô khoai".
b. Hồi tưởng về quá đau thương mà anh hùng của nhân dân miền núi trong
kháng chiến:


* "Mấy năm qua...vắt bám đầy chân": Bằng những biết thực tế Nông Quốc
Chấn đã diễn tả chân thực nỗi khổ chạy giặc của đồng bào miền núi, những nỗi
khổ băng rừng, lội suối trong kháng chiến vẫn cịn in hằn trong trí nhớ.


* "Súng nổ kia...lối bước đi":



- Sự cướp phá tàn bạo, điên cuồng giặc, phá lán, cướp quần áo.


- Hình ảnh người phụ nữ miền núi mạnh mẽ, kiên cường, nhạy bén hiện lên rõ
ràng, một mình gánh vác cả gia đình trong q trình chạy giặc hung hiểm.
* "Làm sao bây giờ...khơng biết nói nữa rồi":


- Sự hi sinh mất mát đau thương đang diễn ra ngay trước mắt, khắc sâu vào
trong lòng những người dân nơi đây, từng người cha, người anh, người con
đang bị bị giặc bắt đi, họ bị đánh đập dã man, nhưng trái tim những con người
anh hùng ấy vẫn thét lên những tiếng lòng yêu nước, căm ghét lũ giặc khơn
cùng.


=> Lịng căm thù lũ giặc cướp nước, khiến nhân dân phải lầm than đã trở thành
nguồn động lực, là sức mạnh to lớn để đồng bào miền núi kiên quyết đứng dậy
đấu tranh giải phóng quê hương.


* "Chúng con còn thơ...ta mới hả":


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

=> Tất cả những nỗi khổ, nỗi gian lao chạy giặc vượt núi băng rừng, cùng
những hi sinh mất mát đẫm máu đã tụ lại thành nỗi căm hờn sâu sắc, đến bực
này rồi đồng bào ta sẽ không nhẫn nhịn chịu đựng nữa, phải biến nỗi oán hận
này thành sức mạnh để giết hết bọn giặc Tây cướp nước "Mày sẽ chết! Thằng
giặc Pháp hung tàn/Băm xương thịt mày, tao mới hả".


* "Hôm nay Cao-Bắc-Lạng...từng vũng":


- Khung cảnh hồi sinh, vươn dậy mạnh mẽ với sức sống tiềm tàng mạnh mẽ
của con người và mảnh đất Tây Bắc.


- Người dân miền núi bắt đầu xây dựng cuộc sống mới, sau bao nhiêu đau


thương mất mát, bao lần mưa bom bão đạn, bầu trời Tây Bắc nay đã xanh trở
lại, khắp Cao-Bắc-Lạng chỉ có tiếng cười vang, giịn giã, hân hoan niềm vui
chiến thắng.


* "Mặt trời lên sáng ...con sẽ về trơng mẹ":


- Hình ảnh mặt trời lên "sáng rõ" đó là tượng trưng cho một khởi đầu mới đầy
hy vọng, người con lớn lên theo ánh mặt trời cách mạng mà ra chiến trường,
chiến đấu bảo vệ quê hương, cùng lời hứa chân thành, sâu sắc mang đậm âm
hưởng của dân tộc miền núi: "Ðuổi hết nó đi, con sẽ về trơng mẹ".


- Đó là niềm tin về một chiến thắng không xa, niềm tin về một một đất hồn
tồn sạch bóng qn thù, nhân dân nơi nơi đều được hưởng cuộc sống n vui,
thái bình, sẽ khơng cịn chết chóc chiến tranh.


<b>3. Kết bài</b>


- Tổng kết nội dung tác phẩm và nêu cảm xúc cá nhân.
<b>Bài làm</b>


Nông Quốc Chấn là nhà thơ, nhà hoạt động văn hóa, người dân tộc Tày ở Bắc
Kạn. Từ một ông giáo hiền lành, sớm được giác ngộ cách mạng, được rèn
luyện trong khói lửa chiến tranh, ơng trở thành một cán bộ trung kiên, một nhà
hoạt động văn hóa, một nhà thơ xuất sắc của Đảng và dân tộc.


Bài thơ "Dọn về làng ”được sáng tác trong chiến dịch Biên giới thu - đông
1950, là tác phẩm tiêu biểu nhất của Nông Quốc Chấn. Nguyên tác bằng tiếng
Tày, sau đó được tác giả dịch ra tiếng phổ thông theo thể thơ tự do. Năm 1951,
tại Đại hội liên hoan học sinh sinh viên thế giới tại Béc-lin, bài thơ đã được
tặng giải Nhì, đã được dịch sang tiếng Pháp, giới thiệu trên Tạp chí Châu Âu.


Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tương phản giữa quá khứ đau thương với niềm
vui chiến thắng và giải phóng để ca ngợi sự hồi sinh, sự vươn dậy của quê
hương và của đồng bào các dân tộc Cao-Bắc-Lạng.


Mở đầu bài thơ "Dọn về làng” là tiếng gọi mẹ cất lên; gọi mẹ để báo tin vui, tin
mừng chiến thắng:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn</i>
<i>Vệ quốc quân chiếm lại các đồn</i>
<i>Người đông như kiến, súng đầy như củi”</i>


Đoạn thơ làm sống lại cảnh tượng chiến trường Biên giới năm 1950. Gọng kìm
đường số Bốn của giặc bị chặt đứt, bị phá tung. Quân ta đánh chiếm đồn Đông
Khê, tiêu diệt hai binh đồn Sác-tơng và Lơ-pa, hàng ngàn giặc Tây “bị chết bị
bắt sống”. Hai so sánh “Người đông như kiến, súng đầy như củi” đã nói lên
thật hay sức mạnh và khí thế chiến đấu, chiến thắng của quân và dân ta thuở ấy.
Từ niềm vui chiến thắng, đứa con đau đớn nhớ lại những năm dài gian khổ, đau
thương dưới ách kìm kẹp, chiếm đóng của lũ giặc Pháp hung tàn.


Trên bước đường trở về làng cũ để “sửa nhà phát cỏ”, để “Cày ruộng vườn
trồng lúa ngô khoai”, đứa con bồi hồi nhớ lại:


<i>“Mấy tháng năm qua quên tết tháng giêng, quên rằm tháng bảy</i>
<i>Chạy hết núi khe. Cay đắng đủ mùi”.</i>


Những lễ tết lâu đời phải “quên” đi! Những phong tục tập quán tốt đẹp của dân
tộc phải “quên” đi. Bàn thờ tổ tiên nguội lạnh hương khói. Trải bao cay đắng vì
phải chạy giặc triền miên: “Chạy hết núi lại khe,cay đắng đủ mùi”


Quên sao được những kỉ niệm thương đau một thời gian khổ với bao thiên tai,


địch họa. Mưa rừng mù mịt, gió bão, sấm sét, lán sụp, cửa nát, vắt bám đầy
chân. Giặc lùng sục, đốt lán, cướp bóc, gây ra bao thảm cảnh:


<i>“Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng</i>
<i>Từng cái lán nó đốt đi trơ trụi</i>
<i>Nó vơ hết áo quần trong túi…”</i>


Đoạn thơ như một đoạn phim ghi lại cảnh chạy loạn giữa rừng sâu của đồng
bào các dân tộc vùng biên giới phía Bắc đất nước ta trong những năm đầu
kháng chiến chống Pháp. Biện pháp liệt kê và tự sự mở ra một không gian nghệ
thuật với bao chi tiết hiện thực rất sống và cảm động. Cảnh người mẹ chạy
giặc, vừa địu con, vẫy em, vừa “Tay dắt bà, vai đeo đầy tay nải - Bà lịa mắt
khơng biết lối bước đi”. Cảnh người cha bị giặc bắt, “Cha chửi Việt gian, cha
đánh lại Tây” rồi bị giặc giết một cách dã man:


<i>“Súng nổ ngay đì đùng một loạt,</i>
<i>Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất”</i>
Cảnh chôn cất người chồng, người cha thân yêu đầy nước mắt:


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng,</i>
<i>Con cởi áo liệm thân cho bố,</i>
<i>Mẹ con ẵm cha đi nằm chân rừng</i>
<i>Máu đầy tay, nước tràn đầy mặt…”</i>


Tất cả những cảnh đau đớn và thương tâm ấy được nhà thơ tái hiện lại một
cách chân thực với nhiều máu và nước mắt. Sau tiếng khóc nghẹn ngào là tiếng
thét căm thù uất hận vang lên:


<i>“Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn</i>
<i>Băm xương thịt mày, tao mới hả”</i>



Qua đó, ta càng thấy rõ: máu khơng thể nào dìm được chân lý; súng đạn của
quân giặc cướp nước không thể nào khuất phục được nhân dân ta.


Phần thứ hai của bài thơ nói lên niềm vui giải phóng, quê hương được hồi sinh,
sức sống của dân tộc trỗi dậy vô cùng mạnh mẽ.


Có bao âm thanh giữa khơng gian rộng lớn Cao - Bắc - Lạng. Có tiếng “cười
vang”,tiếng “người nói”, tiếng cười con trẻ “ríu rít” cắp sách đến trường. Có
tiếng ô tô “kêu vang”; có tiếng gà gáy, tiếng chó sủa. Có bao hình ảnh náo nức
đáng u:


<i>“Hơm nay, Cao-Bắc-Lạng cười vang,</i>
<i>Dọn lán, rời rừng, người xuống làng.</i>


<i>Người nói cỏ lay trong ruộng rậm</i>
<i>Cuốc đất dọn cỏ mẹ khuyên con”</i>


Cuộc sống hồi sinh, cuộc sống bình yên đã trở lại với bà con làng bản: “Mờ mờ
khói bếp bay trên mái nhà lá". Phải nhiều máu đổ xương tan mới có ngọn khói
lam chiều đáng yêu ấy.


Nếu ở phần đầu bài thơ, tác giả nhắc lại sáu ẩn chữ “không" (khơng biết lối
bước đi, cha khơng biết nói dối, không ai chống gậy khi bà cụ qua đời, không
biết nơi tìm, khơng ván khơng người đưa cha đi chôn cất) để phản ánh bao nỗi
đau đè nặng lịng người, thì ở đoạn hai, điệp ngữ “khơng” bốn lần xuất hiện để
làm nổi bật một hiện thực kháng chiến, đó là sự hồi sinh và sự vươn mình đứng
thẳng dậy của dân tộc ta, của đồng bào các dân tộc Cao - Bắc - Lạng


- Từ nay không ngập cỏ lối đi.



- Hổ không dám đẻ con trong vườn chuối.
- Quả trong vườn khơng lo tự chín, tự rụng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Một lần nữa, Nông Quốc Chấn đã thành công ở phép liệt kê, nêu lên hàng loạt
chi tiết rất thực, rất sống để thể hiện niềm vui chiến thắng và sự hồi sinh của
quê hương sau ngày được giải phóng.


Bốn câu thơ cuối bài là lời từ biệt mẹ già của đứa con lên đường đi chiến đấu.
Mẹ ở lại hậu phương, còn ra tiền tuyến với quyết tâm “đuổi hết” giặc Pháp,
giặc Mỹ. Hình ảnh “Mặt trời lên sáng rõ” mang hàm nghĩa nói về sự thắng lợi
của kháng chiến, của cách mạng, sự đổi thay to lớn và niềm vui dâng lên trong
lòng người.


Lời mẹ dặn biết bao yêu thương thiết tha, đằm thắm. Cuộc lên đường đầy khí
thế và dào dạt niềm tin:


<i>“Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ!</i>
<i>Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà</i>


<i>Giặc Pháp, Mỹ còn giết người, cướp của trên đất ta</i>
<i>Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ”</i>


Cái hay của “Dọn về làng ”là ở giọng thơ mộc mạc bình dị với bao chi tiết
chọn lọc cảm động. Nỗi đau thương thời giặc giã, hình ảnh người bà, người
cha, người mẹ trong khói lửa đau thương, niềm vui giải phóng và hình ảnh q
hương hồi sinh được nói lên một cách thật giản dị, cảm động đáng yêu. “Dọn
về làng” là một trong những thành tựu đáng tự hào của thơ ca kháng chiến thời
chống Pháp. Tự hào hơn nữa vì đó là lời ca, bơng hoa rừng đẹp và thơm của
đứa con thân yêu người dân tộc Tày. Hơn nửa thế kỷ sau, bài thơ vẫn để lại cho


chúng ta nhiều xúc động.


<b>Bài làm 2</b>


Bài thơ được viết sau chiến thắng giải phóng biên giới, một chiến thắng có ý
nghĩa đối với cuộc kháng chiến chống Pháp: mở thông chiến khu với các nước
xã hội chủ nghĩa. Song bài thơ không đi vào ý nghĩa chính trị ấy. Ở đây, bài thơ
nói về ý nghĩa giải phóng đối với cuộc đời của bà con người dân tộc. Ý nghĩa
toát ra từ bài thơ qua bút pháp kể chuyện, miêu tả. Tác giả không dùng bút
pháp chính luận.


Nét đặc sắc đầu tiên là giọng kể: chất phác, sinh động, cụ thể. Mở đầu là
một hình ảnh tiêu biểu của chiến thắng được đặc tả chân thật và độc đáo:


Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng đầy như củi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

của con dân tộc miền núi, ở kề với rừng, nơi củi rất quen thuộc trong đời sống.
Người quen dùng bếp ga chắc khơng có cách ví von này.


Bố cục bài thơ sát với kiểu tư duy của người dân thường. Sau tiếng reo là sự
ai ốn những cay cực khi giặc chiếm đóng và cuối cùng là quang cảnh sinh
hoạt của bây giờ, của giải phóng. Người đọc, ngay cả người ít học miền rừng,
cách bố cục này tiếp nhận bài thơ sẽ rất dễ dàng. Đặc điểm nổi bật của bài thơ
này là cách diễn tả các chi tiết. Cảnh chạy giặc: quên tết tháng giêng, quên rằm
tháng bảy, rồi đường đi lại vắt bám, rồi gió bão sấm sét, cây đổ, cay đắng đủ
mùi… Rồi cảnh giặc càn: nó đốt, nó vét, mẹ địu em, bà bị lồ mắt... Diễn biến
tình cảm của người con trước cái chết bi thương và anh dũng của người cha.
Tác giả mượn lời người con kể chuyện cũng là giãi bày nỗi lòng (tự sự kết với


trữ tình):


Mẹ ngồi khóc con cúi đầu cũng khóc
Sợ Tây nghe, mẹ dỗ “nín ”, con im


Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng
Con cởi áo liệm thân cho bố


Người chết thảm, người sống cũng thảm, cảnh sống cùng cực đau đớn đã
lên cao trào dâng sơi sục. Giải phóng đã thành một yêu cầu bức xúc của mỗi
người dân. Đánh giặc là đòi hỏi tất yếu của cuộc sống cực khổ ấy. Bài thơ có
nhiều chi tiết và hay nhất là những chi tiết ở đoạn cuối - quang cảnh dọn về
làng và cảnh sinh hoạt ở bản làng sau ngày giải phóng:


Người nói cỏ lay trong rừng rậm
Cuốc đất dọn cỏ mẹ khuyên con
Đường cái kêu vang tiếng ô tô
Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ


Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá.


Khung cảnh làng no ấm... Từng nét từng nét hiện dần lên. Tác giả vẫn
khơng bình luận hay ca ngợi lộ liễu. Ơng cứ tả, tả thống mà đủ. Mỗi mặt cuộc
sống chỉ nói bằng một nét, rất gợi: Người nói cỏ lay là cảnh ruộng rẫy, khói
bếp bay trên mái nhà lá là cảnh thanh bình no ấm. Tiếng ô tô, tiếng cười con trẻ
cho thấy cái đơng vui ríu rít của bản làng... Có những chi tiết rất sắc sảo gợi
được thần thái núi rừng và nếp sống đồng bào, hơn thế cịn có ý vị thiết tha:


Hổ không dám đến đẻ con trong vườn chuối
Quả trong vườn khơng lo tự chín, tự rụng.



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Kể chuyện mà vẫn bộc lộ được cảm xúc cá thể. Chi tiết nhiều mà không
rậm, trái lại mỗi chi tiết như một nét khắc: cụ thể nhưng khái quát. Đây không
chỉ là kết quả một quan sát công phu, mà là kết quả của sự từng trải. Tác giả
sống với các chi tiết đó, thấm thía về nó. Chất thơ ở đây là chất của đời sống.
Bài thơ, do vậy cho thấy một nét đặc sắc của thơ kháng chiến chống Pháp:
miêu tả hiện thực rộng lớn và nỗi riêng tư của tác giả hồ đồng vào hiện thực
đó.


<b>Bài làm 3</b>


Nơng Quốc Chấn (18 tháng 11 năm 1923 - 4 tháng 2 năm 2002) là một nhà văn
người dân tộc Tày, ông là một trong những gương mặt văn hóa tiêu biểu, đại
diện cho tầng lớp trí thức dân tộc thiểu số trưởng thành trong kháng chiến.
Đóng góp chủ yếu của Nơng Quốc Chấn cho nền văn học Việt Nam đó là thơ,
với những cảm xúc chân thành mộc mạc, lời thơ toát lên hơi thở riêng biệt
trong lối tư duy và diễn đạt của dân tộc miền núi, hình ảnh thơ giản dị, tự nhiên
và mang đậm chất núi rừng Tây Bắc. Năm 1950, chiến dịch biên giới thu đông
kết thúc thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vơ cùng to lớn trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp. Hòa vào niềm vui chung của của bà con nhân dân miền
núi và nhân dân cả nước nhà thơ Nông Quốc Chấn đã chắp bút cho tác phẩm
Dọn về làng viết về quê hương của tác giả trong những năm tháng chiến đấu
đau thương mà anh dũng, đồng thời nêu lên những ý nghĩa của kháng chiến
thắng lợi đối với đời sống cũng như con người Tây Bắc.


Sau khi kháng chiến biên giới thu đông năm 1950 kết thúc thắng lợi bà con dân
tộc Tày hớn hở, vui mừng dọn về làng trong niềm hân hoan hòa cùng với niềm
vui chung của cả dân tộc, điều ấy thể hiện rất rõ ràng trong những vần thơ đầu.


"Mẹ! Cao - Lạng hoàn toàn giải phóng


Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn


Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng dày như củi."


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

dịp tết tháng Giêng, rằm tháng 7. Sau tin báo chiến thắng Nông Quốc Chấn đã
theo dòng hồi tưởng về những tháng ngày kháng chiến đầy gian khổ trong quá
khứ.


"Mấy năm qua quên tết tháng Giêng, quên rằm tháng bảy,
Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi


Nhớ một hơm mù mịt mưa rơi
Cơn gió bão trên rừng cây đổ
Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa


Ðường đi lại vắt bám đầy chân."


Nỗi vất vả chạy giặc của nhân dân miền núi được Nông Quốc Chấn miêu tả rất
thực tế và sinh động, vội chạy giặc đến mức chẳng còn màng được đến tết nhất,
vượt đèo lội suối "hết núi lại khe", phải nói là "cay đắng đủ mùi". Những hơm
trời nắng đường đi dẫu có chơng gai cũng chẳng kinh hồng bằng những hơm
trời đổ mưa "mịt mù", con người giữa thiên nhiên rộng lớn, phải chống chọi
với bão tố, mưa sa, chống chọi với sự giận dữ của thiên nhiên nào là "cơn gió
bão trên rừng cây đổ", nào là những "cơn sấm sét" xé toang trời, lệch đất làm
chiếc lán mới vừa dựng xong đã vội đổ. Đôi chân trần leo hết núi hết đồi, dẫm
quanh sỏi đá, nhẵn mòn lối đi, lại gặp cả lài lồi vắt hút máu, nghĩ mà rùng
mình không thôi. Ai đã gây nên nỗi khốn khổ vượt núi băng rừng, ai đã để
đồng bào miền núi phải bỏ làng, luồn lách vào rừng sâu? Chính là mũi súng ác
độc của lũ giặc ác ôn, tàn nhẫn.



"Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng.
Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi,


Nó vơ hết áo quần trong túi
Mẹ địu em chạy tót lên rừng
Lần đi trước, mẹ vẫy gọi con sau lưng


Tay dắt bà, vai đeo đẫy nải
Bà lòa mắt không biết lối bước đi."


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

vàn sức mạnh của con người đã được khai phá triệt để. Nhưng liệu có thể trốn
như thế được bao lâu, bóng lưng người mẹ sẽ trụ vững được bao lần, lúc này
đây lòng căm thù lũ giặc cướp nước, khiến nhân dân phải lầm than đã trở thành
nguồn động lực, là sức mạnh to lớn để đồng bào miền núi kiên quyết đứng dậy
đấu tranh giải phóng quê hương.


"Làm sao bây giờ: ta phải chống!
Giặc đã bắt cha con đi, nó đánh,
Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây


Súng nổ ngay đì đùng một loạt,
Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất


Cha ơi: cha khơng biết nói rồi..."


Bởi sự hi sinh mất mát đau thương đang diễn ra ngay trước mắt, khắc sâu vào
trong lòng những người dân nơi đây, từng người cha, người anh, người con
đang bị bị giặc bắt đi, họ bị đánh đập dã man, nhưng trái tim những con người
anh hùng ấy vẫn thét lên những tiếng lòng yêu nước, căm ghét lũ giặc khốn đến


tận cùng "Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây". Sự nhục nhã, điền cuồng đã
khiến lũ Tây ra tay thảm sát những người con của núi rừng Tây Bắc, hình ảnh
"Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất/Cha ơi: cha không biết nói rồi..." là hình
ảnh đau thương và ám ảnh trong tâm trí người ở lại, đặc biệt nó càng trở nên
xót xa khi những hình ảnh hãi hùng ấy lại lọt vào đơi mắt con trẻ, cịn gì dã
man tàn nhẫn hơn khi đứa trẻ chỉ mới nhận thức được rằng "cha khơng biết nói
rồi".


"Chúng con cịn thơ, ai nuôi ai dạy?
Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời!


Mẹ ngồi khóc, con cúi đầu cũng khóc.
Sợ Tây nghe, mẹ dỗ "nín", con im.
Lán anh em rải rác khơng biết nơi tìm
Khơng ván, khơng người đưa cha đi cất.


Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng,
Con cởi áo liệm thân cho bố;
Mẹ con đưa cha đi nằm một chỗ
Máu đầy tay, trên mặt nước tràn...
Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Đau thương phủ xuống để lại một bi kịch xót xa kẻ đầu bạc tiễn người đầu
xanh, người vợ gầy đau rứt ruột gan vì mất chồng, bên cạnh lũ con thơ dại vừa
phải chịu kiếp mồ cơi cha khơng cịn ai ni dạy, rồi mai này gia đình sẽ trơng
cậy vào bàn tay ai gánh vác. Nỗi đớn đau càng được bộc lộ rõ trước cảnh đám
tang sơ sài của người vừa nằm xuống trước mũi súng độc ác của thằng Tây,
khơng ván đóng hịm, tấm khăn phủ mặt chính là chiếc khăn đội đầu của người
vợ bấy lâu, áo liệm là chiếc áo con đã mặc đến cũ mèm. Và "Mẹ và con đưa
cha đi nằm một chỗ", người về với lòng đất trong lạnh lẽo, đau thương, người ở


lại bàn tay vẫn còn vương dịng máu đỏ, đơi mắt nhịe đi, khn mặt tràn nước
mắt, còn nỗi đau nào hơn nỗi đau này nữa? Tất cả những nỗi khổ, nỗi gian lao
chạy giặc vượt núi băng rừng, cùng những hi sinh mất mát đẫm máu đã tụ lại
thành nỗi căm hờn sâu sắc, đến bực này rồi đồng bào ta sẽ không nhẫn nhịn
chịu đựng nữa, phải biến nỗi oán hận này thành sức mạnh để giết hết bọn giặc
Tây cướp nước "Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn/Băm xương thịt mày,
tao mới hả". Và cuối cùng với tinh thần anh dũng, lòng quyết tâm diệt giặc của
nhân dân, núi rừng Tây Bắc đã sạch bóng quân thù, những người nằm xuống
cuối cùng cũng có thể nhắm mắt, cịn người ở lại cuối cùng có thể trở về ngơi
làng dấu u, vui vầy cuộc sống thanh bình.


"Hơm nay Cao - Bắc - Lạng cười vang
Dọn láng, rời rừng, người xuống làng


Người nói cỏ lay trong ruộng rậm
Con cày mẹ phát, ruộng ta quang.
Ðường cái kêu vang tiếng ơ tơ.
Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ.


Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá.
Mặc gà gáy chó sủa khơng lo,


Ngày hai bữa rau ta có muối.
Ngày hai buổi khơng tìm củ pấu, củ nâu


Có bắp xay độn gạo no lâu,
Ðường ngõ từ nay không cỏ rậm,
Trong vườn chuối, hổ không dám đến đẻ con


Quả trên cành khơng lo tự chín tự rụng,


Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng"


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

thương mất mát, bao lần mưa bom bão đạn, bầu trời Tây Bắc nay đã xanh trở
lại, khắp Cao-Bắc-Lạng chỉ có tiếng cười vang, giịn giã, hân hoan niềm vui
chiến thắng. Họ đã không cần phải ngày ngày chuyển lán, không cần phải vượt
đèo băng suối trong rừng sâu chạy giặc, người lớn thì lên nương phát rẫy để
chuẩn bị cho một mùa gieo trồng mới, trẻ con ở nhà thì vui đùa vơ lo vơ nghĩ,
thơi khơng phải giật mình vì tiếng súng nổ quanh đây. Trong đoạn thơ này
Nông Quốc Chấn đã tái hiện lại một cách chân thực, tinh tế cảnh sinh hoạt của
người dân tộc Tày, giản dị, đơn sơ, nhưng thanh bình hạnh phúc, giống những
ngày giặc Pháp chưa đến lùng.


"Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ!
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà,


Giặc Pháp, giặc Mỹ còn giết người cướp của trên đất nước ta.
Ðuổi hết nó đi, con sẽ về trơng mẹ."


Hình ảnh mặt trời lên "sáng rõ" đó là tượng trưng cho một khởi đầu mới đầy hy
vọng, người con lớn lên theo ánh mặt trời cách mạng mà ra chiến trường, chiến
đấu bảo vệ quê hương, cùng lời hứa chân thành, sâu sắc mang đậm âm hưởng
của dân tộc miền núi: "Ðuổi hết nó đi, con sẽ về trơng mẹ". Đó là niềm tin về
một chiến thắng khơng xa, niềm tin về một một đất hồn tồn sạch bóng qn
thù, nhân dân nơi nơi đều được hưởng cuộc sống yên vui, thái bình, sẽ khơng
cịn chết chóc chiến tranh, sẽ khơng cịn giọt nước mắt sinh ly tử biệt nào phải
rơi xuống, rồi con sẽ lại về bên mẹ đầy tha thiết, chân thành.


Dọn về làng là một bài thơ hay mang nhiều giá trị hiện thực sâu sắc tái hiện
cuộc quá khứ đau thương, hào của dân tộc đồng thời thể hiện niềm vui mừng
phấn khởi tột cùng trước tin quê hương được giải phóng, núi rừng Tây Bắc đã


khơng cịn phải nghe tiếng súng giặc, đồng thời ca ngợi sức sống tiềm tàng
mạnh mẽ, sự hồi sinh, vực dậy nhanh chóng của các tỉnh miền núi phía Bắc và
đồng bào nơi đây sau chiến tranh.


<b>Bài làm 4</b>


Nông Quốc Chấn là nhà thơ, nhà hoạt động văn hóa, người dân tộc Tày ở Bắc
Cạn. Từ một ông giáo hiền lành, sớm được giác ngộ cách mạng, được rèn luyện
trong khói lửa chiến tranh, ơng trở thành một cán bộ trung kiên, một nhà hoạt
động văn hóa, một nhà thơ xuất sắc của Đảng và dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Mở đầu bài thơ "Dọn về làng” là tiếng gọi mẹ cất lên; gọi mẹ để báo tin
vui, tin mừng chiến thắng:


“Mẹ! Cao - Lạng hồn tồn giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn


Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng đầy như củi”


Đoạn thơ làm sống lại cảnh tượng chiến trường Biên giới năm 1950. Gọng
kìm đường số Bốn của giặc bị chặt đứt, bị phá tung. Quân ta đánh chiếm đồn
Đơng Khê, tiêu diệt hai binh đồn Sác-tơng và Lơ-pa, hàng ngàn giặc Tây “bị
chết bị bắt sống”. Hai so sánh “Người đông như kiến, súng đầy như củi” đã nói
lên thật hay sức mạnh và khí thế chiến đấu, chiến thắng của quân và dân ta thuở
ấy.


Từ niềm vui chiến thắng, đứa con đau đớn nhớ lại những năm dài gian khổ,
đau thương dưới ách kìm kẹp, chiếm đóng của lũ giặc Pháp hung tàn.



Trên bước đường trở về làng cũ để “sửa nhà phát cỏ”, để “Cày ruộng vườn
trồng lúa ngô khoai”, đứa con bồi hồi nhớ lại:


“Mấy tháng năm qua quên tết tháng giêng, quên rằm tháng bảy
Chạy hết núi khe. Cay đắng đủ mùi”.


Những lễ tết lâu đời phải “quên” đi! Những phong tục tập quán tốt đẹp của
dân tộc phải “quên” đi. Bàn thờ tổ tiên nguội lạnh hương khói. Trải bao cay
đắng vì phải chạy giặc triền miên: “Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi”.
Quên sao được những kỉ niệm thương đau một thời gian khổ với bao thiên
tai, địch hoạ. Mưa rừng mù mịt, gió bão, sấm sét, lán sụp, cửa nát, vắt bám đầy
chân. Giặc lùng sục, đốt lán, cướp bóc, gây ra bao thảm cảnh:


“Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng
Từng cái lán nó đốt đi trơ trụi
Nó vơ hết áo quần trong túi…”


Đoạn thơ như một đoạn phim ghi lại cảnh chạy loạn giữa rừng sâu của đồng
bào các dân tộc vùng biên giới phía Bắc đất nước ta trong những năm đầu
kháng chiến chống Pháp. Biện pháp liệt kê và tự sự mở ra một không gian nghệ
thuật với bao chi tiết hiện thực rất sống động và cảm động. Cảnh người mẹ
chạy giặc, vừa địu con, vẫy em, vừa “Tay dắt bà, vai đeo đầy tay nải - Bà lịa
mắt khơng biết lối bước đi”. Cảnh người cha bị giặc bắt, “Cha chửi Việt gian,
cha đánh lại Tây” rồi bị giặc giết một cách dã man:


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Cảnh chôn cất người chồng, người cha thân yêu đầy nước mắt:
“Lán anh em rải rác khơng biết nơi tìm
Khơng ván, khơng người đưa cha đi chôn cất


Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng,


Con cởi áo liệm thân cho bố,
Mẹ con ẵm cha đi nằm chân rừng
Máu đầy tay, nước tràn đầy mặt…”


Tất cả những cảnh đau đớn và thương tâm ấy được nhà thơ tái hiện lại một
cách chân thực với nhiều máu và nước mắt. Sau tiếng khóc nghẹn ngào là tiếng
thét căm thù uất hận vang lên:


“Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn
Băm xương thịt mày, tao mới hả”


Qua đó, ta càng thấy rõ: máu khơng thể nào dìm được chân lí; súng đạn của
qn giặc cướp nước khơng thể nào khuất phục được nhân dân ta.


Phần thứ hai của bài thơ nói lên niềm vui giải phóng, quê hương được hồi
sinh, sức sống của dân tộc trỗi dậy vơ cùng mạnh mẽ. Có bao âm thanh giữa
không gian rộng lớn Cao - Bắc - Lạng. Có tiếng “cười vang”, tiếng “người
nói”, tiếng cười con trẻ “ríu rít” cắp sách đến trường. Có tiếng ô tô “kêu vang”;
có tiếng gà gáy, tiếng chó sủa. Có bao hình ảnh náo nức đáng u:


“Hơm nay, Cao-Bắc-Lạng cười vang,
Dọn lán, rời rừng, người xuống làng.


Người nói cỏ lay trong ruộng rậm
Cuốc đất dọn cỏ mẹ khuyên con”


Cuộc sống hồi sinh, cuộc sống bình yên đã trở lại với bà con làng bản: “Mờ
mờ khói bếp bay trên mái nhà lá". Phải nhiều máu đổ xương tan mới có ngọn
khói lam chiều đáng yêu ấy.



Nếu ở phần đầu bài thơ, tác giả nhắc lại sáu lần chữ “không" (không biết lối
bước đi, cha khơng biết nói dối, khơng ai chống gậy khi bà cụ qua đời, khơng
biết nơi tìm, không ván không người đưa cha đi chôn cất) để phản ánh bao nỗi
đau đè nặng lịng người, thì ở đoạn hai, điệp ngữ “không” bốn lần xuất hiện để
làm nổi bật một hiện thực kháng chiến, đó là sự hồi sinh và sự vươn mình đứng
thẳng dậy của dân tộc ta, của đồng bào các dân tộc Cao - Bắc - Lạng


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Quả trong vườn không lo tự chín, tự rụng.
Ruộng sẽ khơng thành nơi máu chảy thành vũng.


Một lần nữa, Nông Quốc Chấn đã thành công ở phép liệt kê, nêu lên hàng
loạt chi tiết rất thực, rất sống để thể hiện niềm vui chiến thắng và sự hồi sinh
của quê hương sau ngày được giải phóng.


Bốn câu thơ cuối bài là lời từ biệt mẹ già của đứa con lên đường đi chiến
đấu. Mẹ ở lại hậu phương, con ra tiền tuyến với quyết tâm “đuổi hết” giặc
Pháp, giặc Mỹ. Hình ảnh “Mặt trời lên sáng rõ” mang hàm nghĩa nói về sự
thắng lợi của kháng chiến, của cách mạng, sự đổi thay to lớn và niềm vui dâng
lên trong lòng người.


Lời mẹ dặn biết bao yêu thương thiết tha, đằm thắm. Cuộc lên đường đầy
khí thế và dào dạt niềm tin:


“Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ!
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà


Giặc Pháp, Mỹ còn giết người, cướp của trên đất ta
Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ”


Cái hay của “Dọn về làng” là ở giọng thơ mộc mạc bình dị với bao chi tiết


chọn lọc cảm động. Nỗi đau thương thời giặc giã, hình ảnh người bà, người
cha, người mẹ trong khói lửa đau thương, niềm vui giải phóng và hình ảnh q
hương hồi sinh được nói lên một cách thật giản dị, cảm động đáng yêu. “Dọn
về làng” là một trong những thành tựu đáng tự hào của thơ ca kháng chiến thời
chống Pháp. Tự hào hơn nữa vì đó là lời ca, bơng hoa rừng đẹp và thơm của
đứa con thân yêu người dân tộc Tày. Hơn nửa thế kỉ sau, bài thơ vẫn để lại cho
chúng ta nhiều xúc động.


<b>Bài làm 5</b>


Nông Quốc Chấn là một trong những gương mặt văn hóa tiêu biểu, đại diện
cho tầng lớp trí thức các dân tộc thiểu số trưởng thành trong đấu tranh cách
mạng và chiến tranh vệ quốc. Đóng góp nổi trội của ơng trong lĩnh vực sáng tác
là thơ. Thơ Nông Quốc Chấn mang cảm xúc chân thành, chất phác, lời thơ toát
lên nét riêng biệt trong suy tư và diễn đạt của người miền núi: giản dị, tự nhiên
và giàu hình ảnh. Với những đóng góp to lớn vào nền văn học nước nhà, năm
2000, ơng được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Dọn về
làng là một trong sáng tác tiêu biểu của Nông Quốc Chấn viết về quê hương
mình trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp nhiều đau thương mà
anh dũng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

rồi, sau tất cả, chiến thắng lại về tay nhân dân, mọi người sơ tán nay được trở
về làng bắt đầu lại cuộc sống yên bình như thuở xưa.


Mẹ! Cao – Lạng hồn tồn giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn


Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng đầy như củi



Sáng mai về làng, sửa nhà phát cỏ
Cày ruộng vườn trồng lúa ngô khoai


Khơng gì đau thương bằng chiến tranh, và cũng khơng gì sung sướng hơn
khi cuộc chiến tranh giành thắng lợi. Vượt bao gian nan vất vả, bao hi sinh
xương máu, nhân dân hai miền Cao – Lạng đã hoàn tồn giải phóng. Hình ảnh
đầu tiên tác giả cất lên trong thơ là "Mẹ !". Sau dấu chấm than đầy xúc cảm ấy
là niềm vui khôn tả khi những ngày chiến đấu đã chấm dứt. Tây bị bắt, các đồn
đã chiếm lại được. Nhân dân nơi đây đã lập được một chiến cơng lớn, mang lại
niềm hạnh phúc cho chính mình, giải phóng mình khỏi ách áp bức nơ lệ suốt
bấy lâu:


Mấy năm qua quên tết tháng Giêng, quên rằm tháng bảy,
Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi


Nhớ một hơm mù mịt mưa rơi
Cơn gió bão trên rừng cây đổ
Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa


Ðường đi lại vắt bám đầy chân.
Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng.


Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi,
Nó vơ hết áo quần trong túi
Mẹ địu em chạy tót lên rừng
Lần đi trước, mẹ vẫy gọi con sau lưng


Tay dắt bà, vai đeo đẫy nải
Bà lồ mắt khơng biết lối bước đi.



</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Súng nổ ngay đì đùng một loạt,
Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất


Cha ơi: cha khơng biết nói rồi…
Chúng con cịn thơ, ai ni ai dạy?
Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời!


Mẹ ngồi khóc, con cúi đầu cũng khóc.
Sợ Tây nghe, mẹ dỗ “nín”, con im.
Lán anh em rải rác khơng biết nơi tìm
Khơng ván, khơng người đưa cha đi cất.


Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng,
Con cởi áo liệm thân cho bố;
Mẹ con đưa cha đi nằm một chỗ
Máu đầy tay, trên mặt nước tràn…
Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn


Băm xương thịt mày, tao mới hả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Không ván, không người đưa cha đi chôn cất
Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng


Con cởi áo liệm thân cho bố
Mẹ con ẵm cha đi nằm ở chân rừng


Máu đầy tay, nước tràn đầy mặt…


Chiếc khăn ngày nào cha tặng mẹ làm kỷ vật của tình yêu, nay chính chiếc
khăn ấy mẹ dùng che mặt cha trong phút chia xa vĩnh viễn. Từ nay mẹ phải


một mình lắng lo cho đàn con thơ dại và người mẹ già yếu ớt. Cha đi rồi, chúng
con mất chỗ dựa vững vàng, mẹ phải đứng lên thay cha gánh vác tất cả. Nén
nỗi đau, mẹ ôm cha tới tận chân rừng, gửi lại cha cho thần rừng thần núi, hẹn
kiếp sau gia đình lại sum vầy đơng đủ. Ơi! Có biết bao nhiêu người cha đã ngã
xuống trong tiếng súng hung tàn của quân giặc. Bao nhiêu người vợ phải đớn
đau nhìn chồng mình nằm đó, bất động? Bao nhiêu ánh mắt trẻ thơ vơ hồn gào
khóc gọi tên cha? Chúng giết cha, giết chết tình mẫu tử. Nỗi căm hờn này, tao
phải băm xương thịt mày, tao mới hả!


Và đúng như tinh thần quyết liệt ấy, nhân dân Cao – Lạng đã dành được
chiến thắng vẻ vang.


Hôm nay Cao – Bắc – Lạng cười vang
Dọn lán, rời rừng, người xuống làng


Người nói cỏ lay trong ruộng rậm
Con cày mẹ phát, ruộng ta quang.
Ðường cái kêu vang tiếng ô tô.
Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ.


Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá.
Mặc gà gáy chó sủa khơng lo,


Ngày hai bữa rau ta có muối.
Ngày hai buổi khơng tìm củ pấu, củ nâu


Có bắp xay độn gạo no lâu,
Ðường ngõ từ nay không cỏ rậm,
Trong vườn chuối, hổ không dám đến đẻ con



Quả trên cành khơng lo tự chín tự rụng,
Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Ra đường xe, hát nói ung dung
Từng đồn người dắt lá cây tiến bước


Súng bên vai, bao gạo buộc bên vai,
Chân đi có giày khơng sợ nẻ
Trên đầu có mũ che nắng mưa.


Sau chiến tranh, gia đình khơng cịn ngun vẹn nhưng từ nay cũng sẽ mất
thêm người nào nữa. Niềm vui khôn tả. Ai nấy cũng hào hứng bắt tay vào việc
dựng xây lại một cuộc sống mới sau bao ngày quên rằm tháng riêng, quên rằm
tháng bảy. Người lớn hăng say làm việc, trẻ nhỏ ríu rít tiếng cười làm rộn vang
cả một vùng núi rừng thân yêu và hùng vĩ.


Sau chiến tranh, các con cũng cứng cáp hơn, trưởng thành hơn, quyết tâm
đi theo tiếng gọi của Tổ quốc lên đường:


Mặt trời lên! Sáng rõ rồi mẹ ạ!
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà


Giặc Pháp, Mĩ còn giết người, cướp của trên đất ta
Đuổi hết nó đi, con sẽ về trơng mẹ.


Đứa con bé bỏng ngày nào nay nguyện thay cha cầm súng đánh giặc, trả lại
yên bình cho gia đình, cho dân bản. Hình ảnh mặt trời dường như đã làm sáng
tỏ cả bài thơ sau những từ ngữ, những hình ảnh đau thương do quân thù để lại.
Ở chân núi kia, cha sẽ mỉm cười hạnh phúc vì con đã trưởng thành, đã đi theo
tiếng gọi của Cách mạng, con quyết lấy lại công bằng cho cha, cho những


người đã ngã xuống ngày hôm qua.


Xuyên suốt bài thơ, Nơng Quốc Chấn đã thể hiện tình u q hương, yêu
đất nước sâu nặng qua những hình ảnh chân thực và đậm chất dân tộc, giọng
thơ hào hứng, sôi nổi, vui tươi khi hịa bình lập lại. Đồng thời ông cũng vạch rõ
tội ác của bọn thực dân Pháp hung hãn đã giết chết bao người khiến gia đình li
tán đau thương. Bài thơ là một trong những minh chứng cho lịch sử của nước
nhà nói chung và Cao – Bắc – Lạng nói riêng, là lời ngợi ca cho tinh thần chiến
đấu của nhân dân trong hoàn cảnh vất vả, thiếu thốn, khó khăn. Thế hệ trẻ hơm
nay hãy quyết tâm học thật tốt, rèn luyện đạo đức thật tốt để trở thành người
chiến sĩ giỏi trong thời bình, dựng xây đất nước ngày một giàu đẹp hơn.


<b>Bài làm 6</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Bài thơ Dọn về làng được sáng tác trong chiến dịch Biên giới Thu - Đông
1950, là tác phẩm tiêu biểu nhất của Nông Quốc Chấn. Nguyên tác bằng tiếng
Tày, sau đó được tác giả dịch ra tiếng phổ thông theo thể thơ tự do. Năm 1951,
tại Đại hội liên hoan thanh niên và học sinh thế giới tại Béc-lin, bài thơ đã được
tặng giải Nhì, đã được dịch sang tiếng Pháp, giới thiệu trên tạp chí Châu Âu.
Bài thơ đã mang đến một luồng sinh khí mới, một cuộc sống tươi đẹp cho đồng
bào giữa lúc chiến tranh ác liệt. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tương phản giữa
quá khứ đau thương với niềm vui chiến thắng và giải phóng để ca ngợi sự hồi
sinh, sự vươn dậy của quê hương và của đồng bào các dân tộc Cao Bắc
-Lạng. Ngay từ những câu mở đầu của bài thơ, tác giả đã cho người đọc hình
dung chiến thắng huy hồng của qn ta và sự thất bại ê chề của quân giặc:


"Mẹ! Cao - Lạng hồn tồn giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn


Vệ quốc quân chiếm lại các đồn


Người đông như kiến, súng đầy như củi".


Trong chiến dịch Biên giới quân ta đã dành được những thắng lợi hết sức vẻ
vang. Gọng kím đường số Bốn của giặc bị chặt đứt, bị phá tung. Quân ta đánh
chiếm đồn Đông Khê, tiêu diệt hai binh đồn Sác-tơng và Lơ-pa, hàng ngàn
giặc Tây "bị chết bị bắt sống". Hai so sánh "Người đơng như kiến, súng đầy
như củi" đã nói lên thật hay sức mạng và khí thế chiến đấu, chiến thắng của
quân và dân ta thuở ấy.


Trong niềm vui hân hoan chiến thắng, đứa con đau đớn nhớ lại những năm dài
gian khổ, đau thương dưới ách kìm kẹp, chiếm đóng của lũ giặc Pháp hung tàn.
Trên bước đường trở về làng cũ để "sủa nhà phát cỏ", để "Cày ruộng vườn
trồng lúa ngô khoai", đứa con bồi hồi nhớ lại:


"Mấy tháng năm qua quên tết tháng giêng, quên rằm tháng bảy,
Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi".


Trong những ngày loạn lạc, phải tản cư ra vùng không có giặc, người con ấy đã
phải quên đi những lễ tết lâu đời. Những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc
phải "quên" đi. Bàn thờ tổ tiên nguội lạnh hương khói. Trải qua bao cay đắng
vì phải chạy giặc triền miên: "Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi".


Khi đã đánh tan quân giặc, người dân sẽ khơng phải chứng kiến những cảnh
đau thương đó nưa, nhung quên sao được những kỉ niêm thương đau một thời
gian khổ với bao thiên tai, địch họa. Mưa rừng mù mịt, gió bão, sấm sét, lán
sụp, cửa nát, vắt bám đầy chân. Giặc lùng sục, đốt lán, cướp bóc, gây ra bao
thảm cảnh:


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Nớ vơ hết áo quần trong túi..."



Qua những ngòi bút miêu tả của tác giả cảnh chạy loạn giữa rừng sâu của đồng
bào dân tộc vùng biên giới phía Bắc đất nước ta trong những năm đầu kháng
chiến chống Pháp được tái hiện lại. Biện pháp liệt kê và tự sự mở ra một không
gian nghệ thuật với bao chi tiết hiện thực rất sống và cảm động. Cảnh người mẹ
chạy giặc, vừa địu con, vẫy em, vừa "Tay dắt bà, vai đeo đầy tay nảy - Bà lịa
mắt khơng biết lối bước đi". Cảnh người cha bị giặc bắt, "Cha chửi Việt Gian,
cha đánh lại Tây" rồi bị giặc giết một cách dã man:


"Súng liền nổ ngay cùng một loạt,
Cha ngã xuống nằm trên mặt đất".
Cảnh chôn cất người chồng, người cha thân yêu đầy nước mắt:


"Lán anh em rải rác không biết nơi tìm
Khơng ván, khơng người đưa cha đi chơn cất


Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng,
Con cởi áo liệm thân cho bố,
Mẹ con ẵm cha đi nằm ở chân rừng


Máu đầy tay, nước mắt tràn đầy..."


Trong chiến tranh ác liệt, những cái chết diễn ra thường xuyên và dù họ quyết
tử cho tổ quốc, cho nhân dân, nhưng những người ở lại vẫn rất đau lòng. Tất cả
những cảnh đau đớn và thương tâm ấy được nhà thơ tái hiện lại một cách chân
thực với nhiều máu và nước mắt. Sau tiếng khóc nghẹn ngào là tiếng thét căm
thù uất hận vang lên:


"Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn.
Băm xương thịt mày, tao mới hả".



Đoạn thơ thể hiện được ý chí đánh giặc kiên cường của dân tộc, quân giặc dù
có hung tàn đến đâu nhưng khơng thể khuất phục được nhân dân, khơng làm
nhụt chí khí sơi sục của dân tộc. Những tháng ngày đau khổ đã qua đi, thay vào
đó là niềm vui giải phóng, quê hương được hồi sinh, sức sống của dân tộc trỗi
dậy vô cùng mạnh mẽ. Có bao âm thanh giữa khơng gian rộng lớn Cao Bắc
-Lạng.


Có tiếng "cười vang", tiếng "người nói", tiếng cười con trẻ "ríu rít" cắp sách
đến trường. Có tiếng ơ tơ "kêu vang", có tiếng gà gáy, tiếng chó sủa. Có bao
hình ảnh náo nức đáng u:


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Người nói cỏ lay trong rừng rậm
Cuốc đất, dọn cỏ mẹ khuyên con".


Nếu ở phần đầu bài thơ, tác giả nhắc lại sáu lần chữ "không" (Không biết lối đi,
cha khơng biết nói rồi, khơng ai chống gậy khi bà cụ qua đời, khơng biết nơi
tìm, khơng ván không người đưa cha đi chôn cất) để phản ánh bao nỗi đau đè
nặng lịng người, thì ở hai đoạn, điệp ngữ "không" bốn lần xuất hiện để làm nổi
bật hiện thực kháng chiến, đó là sự hồi sinh và sự vươn mình đứng thẳng dậy
của dân tộc ta, của đồng bào các dân tộc Cao - Bắc - Lạng. Đó là sự hồi sinh sự
sống sau những tháng ngày tăm tối. Cuộc sống tươi đẹp, ấm lo thực sự đã trở
lại với người dân nơi đây:


"-Từ nay không ngập cỏ lối đi


- Hổ không dám đến để con trong vườn chuối.
- Quả trong vườn khơng lo tự chín, tự rụng


- Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng".



Những câu thơ cuối bài thơ là lời chào mẹ của người con trước khi lên đường
đi đánh giặc. Lời chào đó đã gắn với lời hứa quyết tâm chiến thắng quân giặc
đem lại sự bình yên cho dân tộc và trở về phụng dưỡng người mẹ già của mình.


"Mặt trời lên! Sáng rõ rồi mẹ ạ!
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà,


Giặc Pháp, Mĩ còn giết người, cướp của trên đất ta
Đuổi hết nó đi, con sẽ về trơng mẹ".


Bài thơ đã để lại cho chúng ta nhiều cảm xúc, làm tái hiện lại khí thế hào hùng
của dân tộc trong ngày chiến thắng, những mất mát đau thương mà dân tộc đã
trải qua và sự quyết tâm chiến đấu đến cùng để bảo vệ quê hương đất nước của
nhân dân. Bài thơ sẽ sống mãi trong lòng người đọc, như một liều thuốc tiếp
thêm sức mạnh cho lòng yêu nước của dân tộc.


</div>

<!--links-->

×