Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

(Luận văn thạc sĩ) hòa giải tranh chấp đất đai tại ủy ban nhân dân cấp xã theo pháp luật đất đai từ thực tiễn huyện phục hòa, tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.43 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀM THỊ PHƯỢNG

HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI ỦY BAN
NHÂN DÂN CẤP XÃ THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN PHỤC HÒA, TỈNH CAO BẰNG

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 8.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ THỊ KIM ĐỊNH

Hà Nội, 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được cơng bố trong bất cứ cơng
trình nào.
Tác giả luận văn

ĐÀM THỊ PHƯỢNG


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI TRANH
CHẤP ĐẤT ĐAI..................................................................................................8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND
cấp xã.....................................................................................................................8
1.2. Thẩm quyền, nguyên tắc, trình tự, thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại
UBND cấp xã...................................................................................................... 18
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến hòa giải tranh chấp đất đai............................27
Chương 2. THỰC TRẠNG HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI
UBND CẤP XÃ THEO PHÁP LUẬT TẠI HUYỆN PHỤC HỊA, TỈNH
CAO BẰNG....................................................................................................... 31
2.1. Thực trạng pháp luật về hịa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã........31
2.2. Thực tiễn hòa giải tranh chấp đất đai theo pháp luật tại UBND huyện
Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng....................................................................................38
Chương 3. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG
CƯỜNG HIỆU QUẢ HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT TẠI UBND CẤP
XÃ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHỤC HÒA, TỈNH CAO BẰNG................62
3.1. Quan điểm, định hướng tăng cường hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai
tại UBND cấp xã................................................................................................. 62
3.2. Giải pháp tăng cường hiệu quả hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp
xã.........................................................................................................................65
KẾT LUẬN........................................................................................................ 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................78


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Nghĩa tiếng Việt


LĐĐ

Luật Đất đai

SDĐ

Sử dụng đất

TCĐĐ

Tranh chấp đất đai

TAND

Tào án nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng cho
con người, là tư liệu sản xuất trực tiếp phục vụ nhu cầu thiết yếu của con
người. C.Mác Các Mác đã viết: “Đất đai là tài sản mãi mãi với loài người, là
điều kiện cần để sinh tồn, là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất, là tư
liệu sản xuất cơ bản của sản xuất vật chất” [9,tr.7]. Trung thành với học thuyết
Mác, V.I.Lênin cho rằng, đất đai là cơ sở cực kỳ quan trọng để phát triển kinh

tế - xã hội; là một tài sản quý giá của toàn thể nhân dân.
Kể từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, các quan hệ đất
đai cũng phát triển hết sức đa dạng, phức tạp, địi hỏi pháp luật đất đai phải có
những cơ chế điều chỉnh phù hợp. Nhiều quan hệ trước kia bị nghiêm cấm,
nay pháp luật cho phép thực hiện. Các giao dịch dân sự về đất đai được xác
lập như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp, bảo
lãnh, góp vốn .v.v. bằng giá trị quyền sử dụng đất. Cũng từ đó mà số lượng và
đối tượng của tranh chấp đất đai có sự thay đổi, đặc biệt là những năm gần
đây tình hình tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng về số lượng và phức tạp
về tính chất, nhất là những vùng đang đơ thị hóa nhanh.
Tranh chấp đất đai để lại các hệ lụy xấu phá vỡ sự đoàn kết trong nội bộ
nhân dân. Để ngăn ngừa nguy cơ tiềm ẩn sự mất ổn định chính trị và duy trì
khối đại đồn kết tồn dân, cơng tác hịa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban
nhân dân (UBND) cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là UBND cấp xã) luôn
được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Vì tăng cường cơng tác hòa giải
ở cơ sở nhất là hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã là một trong những biện
pháp hữu hiệu để hạn chế các bên tranh chấp khởi kiện ra Tòa án để giải quyết
tranh chấp đất đai. Pháp luật đất đai qua các thời kỳ: Luật Đất đai

1


(LĐĐ) năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất
đai năm 2013 đều có các quy định về hòa giải tranh chấp đất đai tại cơ sở.
Chính sách, pháp luật về đất đai của Đảng và Nhà nước ta có nhiều thay
đổi qua các năm, các thời kỳ, song bên cạnh đó cịn nhiều quy định không
nhất quán, Luật Đất đai và các văn bản dưới luật được thay thế, sửa đổi, bổ
sung liên tục qua đó dẫn tới việc giải thích, hướng dẫn của các cơ quan có
thẩm quyền chưa đầy đủ, kịp thời. Do đó, tình hình hịa giải tranh chấp đất đai
nói chung cịn gặp nhiều khó khăn, dẫn đến có vụ việc tranh chấp, khiếu kiện

đất đai kéo dài, vượt cấp, giải quyết không dứt điểm gây bức xúc cho người
dân, giảm niềm tin của nhân dân đối với đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước.
Trong vài năm trở về đây, công tác quản lý đất đai trên cả nước cũng
như địa bàn tỉnh Cao Bằng nói chung và tại UBND huyện Phục Hịa nói riêng,
nhất là cơng tác khiếu kiện về đất đai, giải quyết tranh chấp đất đai diễn biến
vơ cùng phức tạp và khó khăn. Để công tác quản lý đất đai thực tiễn đi vào
cuộc sống của người dân và tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng,
chấp hành pháp Luật Đất đai của mọi tầng lớp nhân dân cũng như cơng tác
hịa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã nói chung và trên địa bàn huyện
Phục Hịa, tỉnh Cao Bằng nói riêng ngày càng có hiệu quả hơn. Vì thế, việc đi
sâu, nghiên cứu, tìm hiểu và đưa ra các giải pháp tăng cường hiệu quả chất
lượng trong cơng tác hịa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã là một
việc làm có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Với ý mục đích đó, tơi đã
lựa chọn đề tài: Hịa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã
theo pháp luật đất đai từ thực tiễn huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng làm
Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật .

2


2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Do nhu cầu sử dụng đất, giá trị về quyền sử dụng đất ngày càng tăng
làm cho giá đất tăng lên một cách nhanh chóng, đơi lúc chỉ vì một mâu thuẫn
nhỏ trong việc quản lý, sử dụng đất đất đai đã là nguyên nhân phát sinh tranh
chấp gay gắt. Tình trạng tranh chấp đất đai ngày càng phức tạp, khó xử lý, tồn
đọng, kéo dài, việc giải quyết tranh chấp còn nhiều bất cập thiếu thống nhất

trong thực hiện. Có thể nói cho đến thời điểm này vấn đề đất đai vẫn là chủ đề
“nóng, nhạy cảm, phức tạp” gây nhiều tranh cãi, bức xúc trong xã hội. Qua
nghiên cứu, tìm hiểu tác giả được biết có rất nhiều các cơng trình, bài viết lớn
nhỏ nghiên cứu khoa học về xoay quanh vấn đề: làm thế nào để giải quyết
tranh chấp đất đai có hiệu quả nhất, trong đó có các bài viết về hòa giải
tranh chấp đất đai tại cơ sở (đặc biệt là cấp xã, phường, thị trấn). Tuy nhiên,
các cơng trình nghiên cứu và các bài viết này được tiếp cận dưới nhiều góc độ
khác nhau, mục đích nghiên cứu khác nhau và dẫn đến quan điểm khác nhau,
kết quả nghiên cứu khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu, cách tiếp
cận vấn đề. Có thể kể đến các cơng trình:
Bài viết về “Hịa giải tranh chấp đất đai theo Điều 135 Luật Đất đai
năm 2003 và một số vấn đề đặt ra” của tác giả Mai Thị Tú Oanh đăng trên
Tạp chí Tịa án nhân dân số 21, tháng 11/2012. Tác giả nêu các quy định của
pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai. Thơng qua đó nêu ra
được những bất cập, chồng chéo, thiếu cụ thể của các quy định pháp luật và
nêu quan điểm của mình khi vận dụng pháp luật để giải quyết; Bài viết
về“Hòa giải ở cơ sở khi có tranh chấp quyền sử dụng đất”, của tác giả Tưởng
Duy Lượng (2007), đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số 4/2007. Tác giả
phân tích những quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp quyền sử dụng
đất, tầm quan trọng của cơng tác hịa giải và những bất cập khi tiến hành hòa
giải đối với loại tranh chấp này; Bài viết “Pháp luật về hòa giải tranh chấp
đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã và một số kiến nghị”, của tác giả Dương
3


Tấn Thanh – Trần kim Yến (TAND thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh) viết trên
Tạp trí Tịa án nhân dân (điện tử) ngày 01/11/2019. Trong phạm vi bài viết,
các tác giả trình bày một số quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp đất
đai tại UBND cấp xã. Nêu một số khó khăn, bất cập trong thực tiễn và kiến
nghị giải pháp cụ thể.

Ngồi ra cịn có các bài viết về “Vấn đề hòa giải tranh chấp đất đai
tại ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn”, của tác giả Nguyễn Văn Hương.
Tạp chí TAND, số 02/2012; “Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam – Cơ sở lý luận và thực tiễn”, Luận án tiến sĩ luật học, của tác giả
Trần Văn Quang 2004, Đại học Luật Hà Nội; “Kỹ năng giải quyết tranh chấp
đất đai và hòa giải tranh chấp đất đai” của PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến
giảng tại Hội thảo tập huấn Hịa giải viên, già làng, trưởng bản, người có uy
tín trong cộng đồng dân cư tại Phú Yên và Sóc Trăng, năm 2015 (do Vụ
PPBGDPL, Bộ Tư pháp tổ chức); Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị
Hảo, Khoa luật trường đại học Quốc gia Hà Nội về “Hòa giải trong giải
quyết tranh chấp đất đai”.v.v. Tuy nhiên các cơng trình, bài viết trên chỉ là
những bài viết đề cập một số khía cạnh về hịa giải tranh chấp đất đai mà chưa
chun sâu, tồn diện về hịa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai. Mặc dù,
không phải là vấn đề nghiên cứu mới, nhưng kể từ khi Luật Đất đai 2013, Bộ
luật Tố tụng Dân sự 2015 ra đời đã có nhiều quy định mới về hòa giải trong
dân sự cũng như hòa giải tranh chấp đất đai. Trên cơ sở kế thừa các thành quả
nghiên cứu của các cơng trình, bài viết về vấn đề hịa giải tranh chấp đất đai
đã được cơng bố, Luận văn tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này ở một khía cạch
khác, nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lí luận và thực tiễn về hịa giải tranh
chấp đất đai tại UBND cấp xã trong giai đoạn thực hiện pháp luật đất đai hiện
nay, đặc biệt là việc thực hiện, áp dụng trên địa bàn của một huyện biên giới
thuộc tỉnh miền núi phía bắc (Cao Bằng) có những nét đặc thù riêng là vô
cùng cần thiết và và quan trọng.
4


3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, đánh giá một cách khách quan và tồn diện các quy định
của pháp luật đất đai hiện hành trong việc hòa giải tranh chấp đất đai tại
UBND cấp xã trên thực tế. Qua đó hồn thiện chính sách, pháp luật về hòa
giải trong tranh chấp đất đai và đưa ra ý kiến, đề xuất các giải pháp góp
phần hồn thiện pháp luật về hịa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã
ngày càng có hiệu quả hơn trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài bao gồm các vấn đề chủ yếu sau đây:
3.2.1. Lý giải những vấn đề lý luận chung về hòa giải, tranh chấp đất
đai và giải quyết tranh chấp đất đai thơng qua hịa giải tại UBND cấp xã.
3.2.2. Đánh giá các quy định của pháp luật đất đai thơng qua việc tìm
hiểu, phân tích các quy định của pháp luật và thực trạng áp dụng các quy định
về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã.
3.2.3. Đưa ra định hướng và một số giải pháp góp phần hồn thiện và
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại
UBND cấp xã từ thực tiễn ở huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng.
4.

Đối tượng và phạm vị nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu

Các quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã.
Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai

tại UBND cấp xã.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Các văn bản pháp luật hiện hành về hòa giải tranh chấp

đất đai tại UBND cấp xã như: Luật đất đai 2013; Nghị định 43/2014/NĐ-CP
ngày 15 tháng 05 năm 2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
đất đai; Luật Hòa giải năm 2013, Bộ Luật Dân sự 2015 .v.v. và thực tiễn
5


áp dụng các quy định đó trong hịa giải tranh chấp đất đai tại địa phương
(huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng).
Về thời gian: đánh giá tình hình thực hiện qua nguồn số liệu thu thập
trong giai đoạn từ năm 2015 – 2019. Phần giải pháp và đề xuất khuyến nghị
trong thời gian tới (giai đoạn năm 2020 -2025).
Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng hòa giải tranh
chấp đất đai tại UBND cấp xã, huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng.
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận
Dựa trên những luận giải khoa học được chứng minh và diễn giải theo
chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về
hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã, qua đó làm rõ những vấn đề
trong thực tiễn áp dụng pháp luật hòa giải tranh chấp đất đai hiện hành trên
địa bàn huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Chương 1: Tác giả sử dụng phương pháp diễn giải, phương pháp lịch
sử khi nghiên cứu tổng quan những vấn đề lý luận về tranh chấp đất đai và
pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai, đặc trưng của hòa giải trong giải quyết
tranh chấp đất đai. Từ các tài liệu được công bố rộng rãi, bao gồm: các văn
bản quy phạm pháp luật, các cơng trình luận án tiến sĩ, giáo trình, bài báo, tạp
chí chuyên ngành, đề tài nghiên cứu khoa học, sách tham khảo, các thông tin

trên phương tiện thông tin đại chúng và các bản báo cáo, thống kê về cơng tác
hịa giải tranh chấp đất đai trên địa bàn huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng.
Chương 2: Tác giả sử dụng phương pháp thống kê, điều tra, khảo sát và
phân tích dữ liệu: Từ những dữ liệu thu được từ thực tiễn, trong q trình nghiên
cứu lí luận khoa học, tiến hành tổng hợp, đối chiếu, phân tích các thông tin để
đưa ra những nhận định, đánh giá khi tìm hiểu các quy định của pháp luật và
thực trạng áp dụng pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai.

6


Chương 3: Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp để xem xét, tìm hiểu về hồn thiện pháp luật về hòa giải trong giải quyết
tranh chấp đất đai hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận: Đề tài góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý
luận và nội dung các quy định của pháp luật hòa giải trong giải quyết tranh
chấp đất đai tại UBND cấp xã hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đã góp phần làm rõ những bất cập
trong quy định của pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai và
thực tiễn áp dụng tại UBND huyện Phục Hịa, tỉnh Cao Bằng. Qua đó, luận
văn đưa ra những quan điểm, những giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai của
các cơ quan, tổ chức trên địa bàn huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng nói riêng và
trên cả nước nói chung.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, cụ thể:
Chương 1: những vấn đề lý luận về hòa giải tranh chấp đất đai.
Chương 2: thực trạng hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã tại

huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng.
Chương 3: quan điểm, định hướng và giải pháp tăng cường hiệu quả
hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã từ thực tiễn huyện Phục Hòa,
tỉnh Cao Bằng.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của hòa giải tranh chấp đất đai tại
UBND cấp xã
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm hòa giải
Hòa giải cũng được coi là sự tiếp nối của quá trình thương lượng, trong
đó các bên cố gắng làm điều hồ những ý kiến bất đồng. Hịa giải có ý nghĩa
lớn, nó làm cho những tranh chấp, xung đột, mâu thuẫn, xích mích được dập
tắt hoặc khơng vượt qua giới hạn sự nghiêm trọng, giúp cho các bên tránh
được một sự xung đột được giải quyết bằng bạo lực hoặc chiến tranh. Giúp
các bên hiểu biết lẫn nhau, giữ gìn cục diện ổn định… Chính vì vai trị to lớn
này nên trong quy định pháp luật, các nước thường đặt ra vấn đề hòa giải
trong giải quyết các tranh chấp.
Mâu thuẫn, xung đột lợi ích, vi phạm quy tắc chung, vi phạm cam kết là
điều khó tránh khỏi trong các mối quan hệ xã hội. Có hai hình thức cơ bản để
giải quyết bất đồng, mâu thuẫn xảy ra giữa các bên là trong tố tụng (cơ quan
nhà nước có thẩm quyền – Tòa án đứng ra giải quyết theo quy định của pháp
luật) và ngoài tố tụng (các bên tự thương lượng, thỏa thuận với nhau hoặc nhờ
bên thứ ba can thiệp như trọng tài, hòa giải, đánh giá trung lập). Ngày nay, xu
hướng sử dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng ngày càng
được coi trọng trên thế giới bởi khắc phục được những điểm yếu của hệ thống

tịa án (vì nhiều lý do mà số vụ việc tranh chấp, mâu thuẫn ngày càng tăng
trong khi số lượng thẩm phán có hạn, thủ tục tố tụng tại Tòa án phải tuân thủ
đúng pháp luật rất phức tạp, mất nhiều thời gian, lại cơng khai...).


Việt Nam thì việc hòa giải là một hoạt động xuất phát từ truyền thống

đoàn kết, hoà hiếu của dân tộc như: "Dĩ hịa vi q" "Hồ cả làng", "Một điều

8


nhịn, chín điều lành", "Chín bỏ làm mười"… hay thói quen của cộng đồng
trong việc giải quyết tranh chấp là không muốn đưa các tranh chấp ra trước
các cơ quan tài phán để phán xử như: "Vô phúc đáo tụng đình", vì khơng
muốn "Chuyện bé xé ra to", "Vạch áo cho người xem lưng" mà chủ yếu là
"đóng cửa bảo nhau".
Pháp luật của Việt Nam cũng quy định về công tác hịa giải những xích
mích, tranh chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân bằng cơng tác hịa giải ở đơn vị
cơ sở. Thể chế chủ trương, nghị quyết của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, Quốc hội đã thơng qua nhiều văn bản luật có giá trị pháp lý
cao, trong đó có quy định biện pháp hịa giải như một phương thức giải quyết
tranh chấp (Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật hịa
giải ở cơ sở, Luật đất đai, Luật hơn nhân và gia đình...)
Như vậy, hịa giải có thể hiểu là hành vi thuyết phục các bên đồng ý
chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa, là giải quyết các tranh
chấp, bất đồng giữa hai hay nhiều bên tranh chấp bằng việc các bên dàn xếp,
thương lượng với nhau có sự tham gia của bên thứ ba (không phải là bên
tranh chấp), giúp hai bên tranh chấp ngồi lại với nhau để cùng giải quyết vấn
đề của họ.

1.1.1.2. Khái niệm tranh chấp đất đai
Các nhà khoa học pháp lý đã đưa ra định nghĩa về TCĐĐ như sau:
TCĐĐ là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa
vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai. Theo quan
điểm này thì TCĐĐ là một khái niệm có nội hàm tương đối rộng, trong đó,
các chủ thể tham gia quan hệ tranh chấp là các chủ thể khi tham gia quan hệ
pháp luật đất đai bao gồm Nhà nước và người sử dụng đất; đối tượng của
TCĐĐ là tất cả những xung đột về lợi ích, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
là Nhà nước và người sử dụng đất.

9


Trước khi Luật Đất đai 2003 ra đời, thuật ngữ “TCĐĐ” chưa được
chính thức giải thích, mà chủ yếu là chỉ được “hiểu ngầm” qua các quy định
của pháp luật về giải quyết TCĐĐ, quy định về giải quyết các tranh chấp khác
có liên quan đến quyền sử dụng đất. Tranh chấp đất đai bao gồm tất cả các
tranh chấp phát sinh từ quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Trong đó có
cả các tranh chấp tài sản gắn liền với đất, tranh chấp hợp đồng giao dịch
quyền sử dụng đất. Kế thừa từ khái niệm “Tranh chấp đất đai” năm 2003, tại
khoản 24, Điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định: “Tranh chấp đất đai là tranh
chấp quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đai giữa hai hay nhiều bên
trong quan hệ đất đai”.
Hiện nay có những trường hợp tranh chấp đất đai thường gặp như:
Tranh chấp đất giữa người sử dụng hợp pháp với cá nhân khác; tranh chấp đất
giữa người sử dụng hợp pháp với Nhà nước (vấn đề bồi thường đất); tranh
chấp đất giữa những người sử dụng chung đất, chung các tài sản gắn liền với
đất hoặc về quyền, nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất...; tranh
chấp đất giữa hai cá nhân chưa xác định được ai là người sử dụng hợp pháp.
Như vậy, tranh chấp đất đai là một hiện tượng xã hội xảy ra trong bất

cứ hình thái kinh tế - xã hội nào. Trong xã hội tồn tại lợi ích giai cấp đối
kháng thì tranh chấp đất đai mang mầu sắc chính trị, đất đai ln là đối tượng
tranh chấp giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Ở xã hội khơng tồn tại
mâu thuẫn về lợi ích giai cấp đối kháng, tranh chấp đất đai thường là mâu
thuẫn về lợi ích kinh tế, quyền và nghĩa vụ của các bên. Việc giải quyết tranh
chấp đất đai do các bên tự tiến hành thơng qua con đường thương lượng, hịa
giải hoặc do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện dựa trên việc áp
dụng các quy định của pháp luật.
1.1.1.3. Khái niệm hòa giải tranh chấp đất đai, hòa giải tranh chấp đất
đai tại UBND cấp xã

10


“Hoà giải tranh chấp đất đai” là một thuật ngữ được sử dụng trong các
văn bản pháp Luật Đất đai. Tuy nhiên, thuật ngữ này lại khơng được giải thích
cụ thể trong Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Căn
cứ vào quan niệm chung về hồ giải, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về hoà
giải tranh chấp đất đai như sau: Hoà giải tranh chấp đất đai là tự chấm dứt
việc xích mích, tranh chấp trong sử dụng đất giữa các bên bằng sự thương
lượng với nhau hoặc qua sự trung gian của một người khác.
Hòa giải tranh chấp đất đai là biện pháp pháp lý giải quyết các tranh chấp
liên quan đến quyền sử dụng đất, theo đó bên thứ ba độc lập giữ vai trò trung
gian trong việc giúp các bên có tranh chấp tìm kiếm những giải pháp thích hợp
cho việc giải quyết các tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến quyền sử dụng
đất và thương lượng với nhau về việc giải quyết quyền lợi của mình.

Hịa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn
là một thủ tục được quy định trong pháp luật đất đai rất cần thiết, vì nó giúp
giữ gìn được mối quan hệ tốt đẹp trong nội bộ nhân dân, giảm bớt áp lực giải

quyết tranh chấp đất đai lên các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, từ đó, đảm
bảo tính khả thi hơn trong việc thi hành các nội dung trong việc giải quyết
tranh chấp đất đai.
Trường hợp các bên tranh chấp không tự hịa giải hoặc khơng hịa giải
được thơng qua hịa giải ở cơ sở, thì có thể gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp
xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp để hịa giải. Đây là hình thức hịa
giải do chính quyền cơ sở thực hiện nhằm nhanh chóng giải quyết những bất
đồng nội bộ trong nhân dân về đất đai trên địa bàn dân cư do chính quyền địa
phương trực tiếp quản lý. Tuy nhiên, kết quả hòa giải này khơng có giá trị như
một phán quyết của cơ quan tư pháp.
Theo pháp luật đất đai hiện hành quy định: Hòa giải tranh chấp đất đai
tại Ủy ban nhân dân cấp xã được tiến hành bởi các thành viên của Hội đồng

11


hòa giải tranh chấp đất đai. Với các thành viên bao gồm: Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận tổ quốc cấp xã và tổ chức thành viên của
Mặt trận, các tổ chức xã hội khác, đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu
đời tại xã biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất đó, cán
bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn. Đây là việc hịa giải tại nơi
có đất tranh chấp dưới hình thức bắt buộc đối với tranh chấp đất đai.
Như vậy có thể hiểu “Hịa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân
cấp xã, phường, thị trấn là một trong những thủ tục pháp lý mang tính chất
bắt buộc. Đây có thể coi là giai đoạn tiền tố tụng trong việc giải quyết tranh
chấp đất đai của Tòa án nhân dân hoặc của cơ quan hành chính nhà nước có
thẩm quyền”.
1.1.2. Đặc điểm của hịa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã
Tranh chấp đất đai là một dạng đặc biệt của của tranh chấp dân sự, đối
tượng của tranh chấp đất đai là quyền sử dụng đất. Bởi vậy, hòa giải tranh

chấp đất đai tại UBND cấp xã ngoài những đặc điểm của một dạng tranh chấp
dân sự nói chung, cịn có những đặc điểm riêng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, việc hoà giải tranh chấp đất đai khơng chỉ dựa trên quan
điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước mà còn áp
dụng phong tục, tập quán truyền thống, hương ước, quy ước, luật tục của địa
phương… để vận động, thuyết phục các bên tranh chấp hoá giải bất đồng,
mâu thuẫn về đất đai.
Khi tiến hành hịa giải tranh chấp đất đai nói chung, hòa giải tranh chấp
đất đai tại UBND cấp xã nói riêng, trên thực tế u cầu hịa giải khơng chỉ
biết đến việc vận dụng những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của nhà nước để tiến hành hịa giải một cách cứng nhắc, rập khn,
máy móc. Để việc hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND xã đạt hiệu quả,
ngoài việc vận dụng các quy định của pháp luật, còn tùy từng trường hợp cụ

12


thể, phải áp dụng cả những phong tục, tập quán, quy ước ở địa phương, bởi lẽ,
khi một tranh chấp phát sinh sẽ kéo theo nguy cơ sụp đổ của các mối quan hệ
họ hàng, bạn bè, làng xóm láng giềng,...Giải quyết tranh chấp ngồi cái lý cịn
có cái tình hay nói cách khác là phải hợp tình, hợp lí. Phong tục, tập quán
thường được thể hiện hoặc bằng thói quen ứng xử dưới dạng một hành động
cụ thể, hoặc bằng ngôn ngữ như luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số,
các quy ước của làng, bản, thôn, tổ dân phố. Thường thường, các phong tục,
tập quán được áp dụng trong hòa giải phải là phong tục, tập quán tốt đẹp,
không vi phạm các chuẩn mực về đạo đức, lối sống, không trái với các quy
định của pháp luật. Nếu phong tục, tập quán đã được quy định trong hương
ước, quy ước thì phải được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt
thực hiện. Đối với các hủ tục, tập quán lỗi thời thì tuyệt đối khơng được áp
dụng trong q trình tiến hành giải quyết tranh chấp đất đai.

Thứ hai, việc hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã
phải được tiến hành tại địa bàn nơi có đất tranh chấp.
Đất đai luôn gắn liền với quyền sử dụng đất nên việc hịa giải thường
phải được tiến hành tại nơi có tài sản tranh chấp. Thơng thường, chính quyền
địa phương nơi có tranh chấp đất đai sẽ có điều kiện tốt nhất để tìm hiểu về
nguồn gốc, lịch sử và hiện trạng pháp lý cũng như thực tế của tài sản tranh
chấp. Chính vì vậy, chủ thể này sẽ có điều kiện tốt nhất để tiến hành hịa giải
một cách có hiệu quả.
Thứ ba, hòa giải tranh chấp đất đai yêu cầu phải do các chủ thể am
hiểu về quy định của pháp luật về đất đai, nắm vững nguồn gốc, quá trình sử
dụng đất cũng như nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp giữa các bên.
Người tiến hành hòa giải phải khách quan, công minh, đảm bảo giải
quyết tranh chấp một cách công bằng, không thiên vị, không áp đặt các bên
đương sự trong việc hoà giải tranh chấp đất đai. Các bên tự nguyện đưa ra các

13


cơ sở, dẫn chứng thực tiễn để chứng minh cho quyền và nghĩa vụ của mình, tự
do thảo luận, đề xuất giải pháp, thỏa thuận và chấp nhận ý kiến tư vấn giải
quyết của các thành viên Hội đồng hòa giải (hịa giải viên). Các hịa giải viên
khơng chỉ đưa ra những lời giải thích, phân tích “điều hơn, lẽ thiệt” hoặc phân
tích sự hợp lý, đưa ra lời tư vấn để các bên đương sự suy nghĩ tự quyết định
việc hố giải những bất đồng, mâu thuẫn, qua đó cịn giúp các bên tranh chấp
hóa giải mâu thuẫn, góp phần nâng cao nhận thức tuân thủ pháp luật của
người dân. Hồ giải viên tuyệt đối khơng đưa ra nhận định chủ quan hoặc đưa
ra phán quyết “đúng - sai” để áp đặt với các bên đương sự trong quá trình hồ
giải và ngun nhân làm phát sinh tranh chấp giữa các bên.
Thứ tư, việc hòa giải tranh chấp đất đai phải tôn trọng quyền định đoạt
của các bên tranh chấp; hòa giải tranh chấp cần được tiến hành kịp thời và

nhanh chóng.
Thực tế giải quyết tranh chấp đất đai cho thấy do tính chất phức tạp, gay
gắt của loại tranh chấp này, nên nếu tranh chấp đất đai không được giải quyết
mau lẹ, nhanh chóng, dứt điểm ngay từ khi phát sinh bất đồng, mâu thuẫn thì
việc giải quyết ngày càng khó khăn, phức tạp. Vì vậy, việc hồ giải tranh chấp
đất đai cần được thực hiện kịp thời và nhanh chóng. Điều này địi hỏi tổ chức,
cá nhân thực hiện vai trị hồ giải tranh chấp đất đai phải luôn luôn chủ động
sẵn sàng vào cuộc ngay từ khi nảy sinh các bất đồng, mâu thuẫn.
Thành viên Hội đồng hồ giải nên giữ bí mật thơng tin đời tư của các bên
tranh chấp; tơn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; khơng xâm phạm
lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng. Mọi hoạt động hồ giải đều nhằm xây
dựng niềm tin, tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau giúp cho các bên biết kiềm chế,
nhường nhịn nhau nhằm đạt được thỏa thuận, đi đến hòa giải thành công.

14


Thứ năm, hồ giải tranh chấp đất đai phải xố tan tâm lý “thắng thua” của các bên đương sự và thay vào đó là khuyến khích tinh thần “đơi
bên cùng có lợi”.
Trên thực tế do sự thiếu kiềm chế hoặc chỉ nhận thấy lợi ích trước mắt
mà nảy sinh bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên và khi phát sinh do tâm lý sĩ
diện, hiếu thắng mà các bên tranh chấp có thái độ căng thẳng, cố chấp. Người
hồ giải viên phải nắm bắt được tâm lý này của các bên đương sự để đưa ra
những liệu pháp tâm lý nhằm giúp làm dịu sự căng thẳng, tính sĩ diện, ích kỷ
hoặc tâm lý “thắng - thua”.
Thứ sáu, việc hoà giải tranh chấp đất đai phải tiến hành vận động, tuyên
truyền, thuyết phục các bên một cách kiên trì, bền bỉ, liên tục; phải tốn nhiều
thời gian, công sức của người hoà giải mới mong đạt được sự thành cơng.
Việc hồ giải tranh chấp đất đai muốn đạt hiệu quả thì khơng chỉ trơng
chờ vào các cơ quan cơng quyền mà phải khuyến khích, huy động sự tham gia

tích cực, chủ động, sáng tạo của cộng đồng, các tổ chức quần chúng ở cơ sở và
các thiết chế tự quản của người dân ở cơ sở. Mặt khác, do đất đai có tầm quan
trọng đặc biệt đối với con người nên tranh chấp đất đai tiềm ẩn nhiều hậu quả
tiêu cực về chính trị, kinh tế và xã hội. Vì vậy, việc hồ giải tranh chấp đất đai
khơng chỉ là nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà còn là trách
nhiệm của cả cộng đồng xã hội và của mỗi người sử dụng đất (SDĐ).

1.1.3. Vai trò của hòa giải tranh chấp đất đai
Tại sao tranh chấp đất đai phải hòa giải từ cấp cơ sở? Đây cũng là vấn
đề các nhà nghiên cứu luật học đã bàn đến qua nhiều thời kì, có khoảng thời
gian trong các văn bản luật không đề cập đến hòa giải là một thủ tục bắt buộc
trong giải quyết tranh chấp đất đai. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn nhiều quan
điểm khác nhau, nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng lợi ích, vai trị của hịa
giải tranh chấp đất đai mang lại là vô cùng quan trọng và cấp thiết phải có khi
giải quyết tranh chấp đất đai, đi vào cụ thể ta thấy:
15


Thứ nhất, quyền tự định đoạt của các bên trong hịa giải: các bên tranh
chấp có thể bày tỏ quan điểm, trao đổi, đàm phán và thảo luận về các giải
pháp giải quyết. Hòa giải đem lại cơ hội cho các bên được gặp gỡ trực tiếp để
trình bày, giải thích và đưa ra lý do mà mình bất đồng với bên kia, từ đó hai
bên hiểu nhau và đi đến thống nhất cách giải quyết. So với cách giải quyết
khác như quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay phán quyết của
Tòa án thường mang lại cảm giác bị áp đặt thì trong hịa giải các bên không
cảm thấy phải chịu áp lực mà họ thấy rằng họ được làm chủ, vì thế họ dễ dàng
thống nhất cách giải quyết hơn. Như vậy, hòa giải đặt con người vào vị trí
trung tâm, thể hiện đề cao quyền con người, quyền tự định đoạt của công dân
theo tinh thần Hiến pháp năm 2013.
Thứ hai, tiết kiệm thời gian: Khi lựa chọn phương án hòa giải để giải

quyết tranh chấp, các bên hoàn toàn chủ động về thời gian, việc giải quyết
nhanh chóng hơn rất nhiều so với thủ tục tố tụng. Các bên có thể gặp gỡ để
hòa giải vào bất kỳ thời diểm nào (kể cả ngồi giờ hành chính, thứ bẩy, chủ
nhật mà khơng phụ thuộc vào thời giờ làm việc của cơ quan hành chính nhà
nước hay tịa án)
Thứ ba, chi phí thấp: Khi giải quyết tranh chấp đất đai bằng hòa giải,
các bên tiết kiệm và giảm thiểu rất nhiều chi phí. Hiện nay, vụ việc hịa giải ở
cơ sở khơng tính phí, hòa giải viên làm việc trên cơ sở tự nguyện, vì lợi ích xã
hội, lợi ích cộng đồng; cịn hịa giải thương mại thường tính phí theo giờ, hầu
hết các hòa giải viên thương mại làm việc trong một số lĩnh vực khác ngồi
cơng việc hịa giải. Trên thực tế, có những vụ án dân sự, vụ án kinh tế kéo dài
nhiều năm, trải qua nhiều lần xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm rồi
lại quay trở về xét xử sơ thẩm lại, các đương sự trong vụ án dân sự mệt mỏi
với chuyện kiện tụng, bên thắng kiện đơi khi khơng đủ bù đắp chi phí tố tụng
(các đương sự trong vụ án dân sự phải nộp án phí theo quy định tại Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày
16


30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tịa án), ngồi ra công việc bị
ảnh hưởng, thu nhập bị giảm sút.
Đồng thời, việc giải quyết tranh chấp bằng hòa giải làm giảm chi phí, giảm
khối lượng cơng việc cho cơ quan nhà nước. Mỗi năm hồ giải thành cơng bao
nhiêu vụ việc tức là giảm được bấy nhiêu vụ việc mà các cơ quan nhà nước phải
thụ lý giải quyết, giảm thiểu các vụ việc tranh chấp phức tạp, kéo dài.

Thứ tư, linh hoạt về thủ tục: Các bên có quyền lựa chọn hoặc không lựa
chọn giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hịa giải, khơng bên nào có thể
ép buộc bên nào tham gia vào phương thức này; các bên có thể quyết định

hồn tồn quy trình hịa giải hoặc đề xuất với hòa giải viên những thay đổi
cần thiết cho phù hợp với điều kiện, hồn cảnh của mình, các bên được tham
gia tồn bộ q trình hịa giải cho đến khi hòa giải xong hoặc ngừng tham gia
hòa giải nếu thấy việc tham gia không hiệu quả hoặc muốn giải quyết bằng
phương thức khác; q trình hịa giải thường được hoàn thành trong một thời
gian ngắn. Đây là sự khác biệt với phương thức tố tụng, khi giải quyết vụ án,
Tòa án phải tuân theo những quy định về thủ tục tố tụng rất chặt chẽ, tương
đối “rườm rà”, do vậy khi hịa giải, các bên tranh chấp khơng cảm thấy lo lắng
hay căng thẳng như hoạt động xét xử tại Tịa án. Ngồi ra, việc cung cấp
thơng tin và bằng chứng trong tố tụng phải thực hiện theo quy định của pháp
luật để bảo đảm tính chính xác; cịn trong hịa giải khơng có quy định về
chứng cứ và kiểm tra tính chính xác của chứng cứ. Đồng thời các bên tranh
chấp cịn có quyền lựa chọn địa điểm tiến hành hịa giải (địa điểm có thể là
nhà riêng, trụ sở công ty của một bên tranh chấp, có thể là nhà văn hóa của
khu dân cư, thậm chí là quán cà phê hay khu nghỉ dưỡng…, bất cứ nơi nào mà
bên tranh chấp thấy thuận tiện cho họ và pháp luật không cấm họ gặp gỡ tại
địa điểm đó).

17


Thứ năm, duy trì mối quan hệ giữa các bên: Q trình hịa giải giúp các
bên tham gia làm việc cùng nhau, tạo khơng khí thân thiện, lắng nghe, mang
tính xây dựng và tin tưởng. Các bên có cơ hội thể hiện tình cảm, bày tỏ sự
quan tâm đến các quan hệ lâu dài trong tương lai.
Thứ sáu, hiệu quả của hòa giải tác động đến an ninh, trật tự, an tồn xã
hội: Hịa giải góp phần xây dựng sức mạnh đồn kết dân tộc, giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, hạn chế
đơn thư khiếu nại, kiện tụng, kéo dài, bức xúc cho người dân, gây mất trật tự
an ninh, chính trị, mất ổn định trong xã hội.

Thứ bảy, hiệu quả của hòa giải tác động đến kinh tế - xã hội: Quan hệ
cộng đồng làng, xã ổn định, bền chặt các thôn, bản, tổ dân phố được an ninh,
trật tự, văn hóa; mơi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh và ổn định khiến
mỗi cá nhân, gia đình, tổ chức và doanh nghiệp yên tâm lao động, sản xuất,
làm ăn hiệu quả hơn, giúp nhau phát triển kinh tế, xây dựng địa phương, đất
nước ngày càng giàu mạnh, văn minh.
Như vậy, có thể thấy, hịa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp
đất đai mang đậm tính nhân văn sâu sắc, phản ánh tâm lý sống u chuộng
hịa bình, coi trọng nghĩa tình của người Việt Nam với phương châm “Nghĩa
ăn không bằng nghĩa ở”, “Một điều nhịn, chín điều lành” và “Bán anh em xa,
mua láng giềng gần”, khơng thích kiện tụng “vơ phúc đáo tụng đình”...
1.2. Thẩm quyền, nguyên tắc, trình tự, thủ tục hòa giải tranh chấp
đất đai tại UBND cấp xã
1.2.1. Thẩm quyền
Một trong những biện pháp hữu hiệu để hạn chế việc các bên tranh chấp
khởi kiện ra Tòa để giải quyết tranh chấp là tăng cường cơng tác hịa giải, đặc
biệt là hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn. Cơng tác hồ
giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã giải quyết kịp thời, nhanh chóng, giảm bớt
khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của nhân dân.
18


Thẩm quyền hòa giải tranh chấp đất đai thuộc về Ủy ban nhân dân cấp
xã, phường, thị trấn, nơi có đất tranh chấp. Theo quy định của Luật đất đai
2013 thẩm quyền hịa giải khơng chỉ tại UBND cấp xã, trong quá trình giải
quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính tại các cấp có thẩm quyền,
Luật khuyến khích việc hịa giải trong q trình giải quyết. Như vậy, thẩm
quyền hịa giải khơng chỉ có UBND cấp xã, mà tại UBND cấp huyện, cấp tỉnh
đều có thể tiến hành hịa giải tại trong q trình giải quyết tranh chấp. Ngồi
ra, các hịa giải viên tại cơ sở (làng, bản, xóm, Tổ dân phố) đều có tiến hành

hịa giải khi có xảy ra tranh chấp. Tuy nhiên, việc hịa giải tranh chấp đất đai
tại UBND cấp xã là bắt buộc, vì vậy thẩm quyền hịa giải tranh chấp đất đai là
Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND cấp xã.
1.2.2. Nguyên tắc
Hòa giải tranh chấp đất đại tại UBND cấp xã phải đảm bảo các nguyên
tắc sau:
Một là, phải phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân; tôn
trọng sự tự nguyện của các bên; theo nguyên tắc công khai, dân chủ, kết hợp
với thuyết phục, phân tích có lý, có tình; tơn trọng quyền, lợi ích hợp pháp
của người khác, khơng xâm phạm lợi ích Nhà nước, lợi ích cơng cộng; kịp
thời, chủ động, kiên trì nhằm ngăn chặn vi phạm pháp luật, hạn chế những
hậu quả xấu khác có thể xảy ra.
Hai là, phải tôn trọng quyền tự do, tự cam kết, thỏa thuận của các bên
tranh chấp; đảm bảo phù hợp đạo đức xã hội, phong tục tập quán của nhân
dân; phát huy tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong nội bộ nhân dân,
quan tâm đến quyền và lợi ích hợp pháp của những đối tượng yếu thế trong xã
hội hoặc có hồn cảnh đặc biệt khó khăn.

19


Ba là, khơng được lợi dụng việc hịa giải để ngăn cản các bên tranh
chấp bảo vệ quyền và lợi ích của mình theo quy định của pháp luật hoặc trốn
tránh việc xử lý vi phạm hành chính, xử lý về hình sự.
Trước khi Luật hịa giải cơ sở ra đời, Pháp lệnh hòa giải chưa làm rõ
phạm vi hòa giải khi các bên tranh chấp phát sinh. Đó là nguyên nhân tạo điều
kiện cho các đối tượng lợi dụng việc hòa giải để ngăn cản các bên tranh chấp
bảo vệ quyền lợi của mình, thậm chí là trốn tránh việc xử lý hình sự, xử lý vi
phạm hành chính. Khi Luật Hòa giải cơ sở năm 2013 ra đời, đã quy định

phạm vi hòa giải: việc hòa giải cơ sở khơng làm ảnh hưởng đến q trình cơ
quan chức năng có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm pháp luật, khơng được
lợi dụng việc hịa giải ở cơ sở để trốn tránh trách nhiệm hành chính, trách
nhiệm hình sự. Đối tượng của hòa giải là việc hòa giải ở cơ sở được tiến hành
đối với các tranh chấp, mâu thuẫn, vi phạm pháp luật, trừ các trường hợp:
mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng; vi
phạm pháp luật về hơn nhân và gia đình, giao dịch dân sự mà theo quy định
của pháp luật tố tụng dân sự không được tiến hành hòa giải; vi phạm pháp luật
theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử lý vi phạm
hành chính; mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của nhà nước, lợi ích
cơng cộng; vi phạm pháp luật về hơn nhân và gia đình.
Bốn là, kết quả hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân xã phải
được lập thành biên bản, có đầy đủ chữ ký của các bên và có xác nhận hịa
giải thành hoặc hịa giải khơng thành của Ủy ban nhân dân cấp xã. Tại Điều
202 Luật Đất đai năm 2013 có đề cập đến ngun tắc này: “Việc hịa giải
phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xác nhận hịa giải
thành hoặc hịa giải không thành của Ủy ban nhân dân cấp xã. Biên bản hòa
giải được gửi đến các bên tranh chấp, lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có
đất tranh chấp”.

20


Trên thực tế, việc tiến hành tổ chức hòa giải khi phát sinh tranh chấp,
đặc biệt là tranh chấp đất đai, thì các cơ quan có thẩm quyền cũng như các
bên tranh chấp sẽ phải tốn rất nhiều thời gian cũng như chi phí cho việc thực
hiện. Tuy nhiên, có thể do thiếu hiểu biết pháp lý về hòa giải hoặc ý thức chấp
hành pháp luật chưa cao mà dẫn đến việc sau khi tổ chức hịa giải xong thì các
cơ quan tổ chức hịa giải khơng lập biên bản ghi nhận kết quả hịa giải thành
hoặc hịa giải khơng thành. Mặt khác, có những trường hợp có trong thành

phần tham gia hịa giải nhưng khơng ký vào biên bản hịa giải. Đặc biệt là, có
trường hợp biên bản hịa giải khơng có xác nhận nhận của Ủy ban nhân dân
xã. Điều này dẫn đến hệ lụy, khi khởi kiện hoặc khiếu nại lên cơ quan cấp
trên, các bên sẽ bị trả lại hồ sơ vì Biên bản hịa giải chưa đảm bảo, đúng quy
định của pháp luật.
Năm là, các thành viên của Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai phải
đảm bảo tính trung lập, độc lập, khách quan, cơng tư phân minh, rõ ràng. Khi
có tranh chấp đất đai phát sinh, các bên tranh chấp thường đưa ra lý lẽ cho
rằng mình đúng để bảo vệ quyền, lợi ích của bản thân, mà lại không thấy
được cái sai của mình. Do đó, khi tiến hành hịa giải, các thành viên của Hội
đồng hòa giải tranh chấp đất đai phải thật sự công minh, khách quan, đề cao
công bằng, lẽ phải, tìm cách thuyết phục để mỗi bên hiểu rõ cái sai của mình,
phân định hài hịa lợi ích của cả hai bên. Tránh hịa giải “hình thức” hoặc “dĩ
hòa vi quý” cho xong việc.
Hiện nay, những tranh chấp đất đai phát sinh vô cùng đa dạng và phức tạp.
Do đó, các thành viên trong Hội đồng hịa giải tranh chấp cần phải nắm vững các
nguyên tắc trên, đồng thời không ngừng cập nhật, nâng cao kiến thức pháp luật,
xã hội để cơng tác hịa giải phát huy tốt hơn nữa vai trị của nó.

1.2.3. Trình tự, thủ tục
Thủ tục hịa giải tranh chấp đất đai, có thể hiểu là trình tự, thủ tục mà cơ
quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành nhằm giúp đỡ các bên tranh chấp
21


×