Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Tải Phân tích đoạn trích "Cảnh ngày xuân" - Bài văn mẫu lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.2 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Phân tích đoạn trích "Cảnh ngày xuân"</b>
<b>Bài làm</b>


Đoạn thơ đã mở ra trước mắt ta một khung cảnh mùa xuân trong tiết thanh
minh, qua bốn câu thơ đầu:


“Ngày xuân con én đưa thoi


Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời


Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”


Nguyễn Du vẽ lên bức tranh xuân thật đẹp, đặc biệt nhà thơ đã lựa chọn chi tiết
tiêu biểu mang nét đặc trưng của ngày xuân để khắc họa bức tranh ấy. Đọc hai
câu thơ đầu, ta cảm nhận được cách tính thời gian khá độc đáo, nghệ thuật miêu
tả ước lệ bộc lộ rõ đã tái hiện hình ảnh báo hiệu mùa xuân ” chim én”, ” thiều
quang” gợi sự ấm áp, dịu dàng, khẳng định mùa xuân đang ở độ đẹp nhất, chín
nhất, sung mãn nhất. Qua đó câu thơ thứ hai đã chỉ rõ ngày xuân trôi qua nhanh
như con thoi dệt cửa, đã qua tháng giêng, tháng hai, bây giờ là tháng ba, tiết
trời trong xanh, những con én rộn ràng chao liệng như nhịp thoi đưa trên bầu
trời, gợi ra một khơng gian, thống đãng cao rộng gợi lên nhịp trôi chảy của
thời gian và nhịp điệu sôi động của mùa xuân, đồng thời còn tỏ ý tiếc nuối thời
gian trôi quá nhanh của Nguyễn Du, để rồi, thiên nhiên đẹp hơn bởi sắc “xanh”
của cỏ non, sắc “trắng” của “một vài bông hoa” lác đác.


“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”


Đây mới thực sự là bức tranh tuyệt mĩ. Tác giả sử dụng biện pháp chấm phá tái
hiện bức tranh xuân tươi tắn, sống động gợi liên tưởng về sự sinh sôi nảy mở.


Màu xanh của cỏ non gợi sức sống mạnh mẽ, bất diệt, khơng gian mênh mơng,
thống đạt, trong trẻo. Trên nền xanh ấy có điểm xuyến một vài bơng hoa lê
trắng. Văn cổ thi Trung Quốc được Nguyễn Du học tập một cách sáng tạo ”
Phương thảo niên bích/ Lê chi sổ điểm hoa”. Nếu hai câu thơ Trung Quốc dùng
hình ảnh ” phương thảo” (cỏ thơm) thiên về mùi vị thì Nguyễn Du thay bằng ”
cỏ non” thiên về màu sắc: màu xanh nhạt pha với màu vàng chanh tươi thắm
hợp với màu xanh lam của nền trời làm thành gam nền cho bức tranh. Trên đó
điểm xuyến sắc trắng thanh khiết, tinh khôi của hoa lê tạo thành bức tranh đẹp
hài hòa, tươi mát, mới mẻ. Chữ ” trắng” được Nguyễn Du thêm vào và đảo lên
trước càng gây ấn tượng mạnh, Chữ ” điểm” làm cho cảnh vật trở nên có hồn,
sinh động chứ khơng tĩnh lại hay gợi lên bàn tay họa sĩ – thi sĩ vẽ lên thơ lên
họa như bàn tay tạo hóa điểm tô cảnh xuân tươi khiến cho bức tranh càng trở
nên sinh động. Ngòi bút của Nguyễn Du tài hoa, nghệ thuật phối sắc tài tình,
giàu chất tạo hình ngơn ngữ biểu cảm, gợi tả thể hiện tâm hồn người tươi vui,
phấn chấn qua cái nhìn thiên nhiên trong trẻo hồn nhiên, nhạy cảm tha thiết với
vẻ đẹp thiên nhiên. Bốn câu thơ lục bát nhẹ nhàng – một không gian thoáng
đãng mà ấm áp của mùa xuân, một màu sắc tinh khơi mãi để lại dấu ấn trong
lịng độc giả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

“Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh”


Tác giả đã đưa ta về với lễ nghi phong tục tập quán của người phương Đông, lễ
tảo mộ là hướng về cội nguồn, tổ tiên, truyền thống văn hóa tâm linh tri ân với
quá khứ. Đi tảo mộ là đi sửa sang, thắp hương để tưởng nhớ người đã khuất,
Còn ” hội đạp thanh” là cuộc du xuân là cuộc vui chơi trên đồng cỏ xanh của
những trai tài, gái sắc, nam thanh nữ tú, hội đạp thanh còn là cuộc sống hiện tại
và có thể tìm đến những sợi tơ hồng cho mai sau. Ở bốn câu thơ tiếp theo, tác
giả đã gợi tả khơng khí lễ hội bằng một loạt các từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm
như từ láy “nơ nức”, “dập dìu” “sắm sửa” và từ ghép, từ Hán Việt: “tài tử”,
“giai nhân”, “bộ hành”, “ngựa xe” “gần xa”, “yến anh” kết hợp với các biện


pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh đã khắc họa thật sinh động cảnh đông vui,
tưng bừng, náo nhiệt đang diễn ra ở khắp nơi nơi mọi miền đất nước.


“Dập dìu tài tử giai nhân”
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”


Lễ thanh minh – lễ hội điển hình vào tháng ba, từng đôi lứa “tài tử giai nhân” ”
dập dìu” du xn, gặp gỡ hị hẹn. Trong dịng người “nơ nức” đó có ba chị em
Thúy Kiều cũng sắm sửa hòa nhập vào cái đẹp, cái tưng bừng của tuổi trẻ. Hình
ảnh so sánh thật giản dị “ngựa xe như nước, áo quần như nêm”, gợi tả khơng
khí náo nức của lễ hội, từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân trong bộ áo
quần đẹp đẽ, tươi thắm màu sắc, họ như từng đàn chim én, chim hoàng anh ríu
rít bay về hội tụ trong lễ hội. Tác giả còn miêu tả một nét đẹp của nền văn hóa
lâu đời của Việt nam chúng ta trong ngày Tết thanh minh. Đó là sắc thoi vàng,
đốt giấy tiền để tưởng nhớ người thân đã khuất:


“Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó sắc tro tiền giấy bay”


Nhịp điệu thơ 2/4 và 4/4 thoáng ra một nét buồn. Phải chăng đó là trái tim đầy
tình thương sẻ chia của đại thi hào Nguyễn Du đối với những người đã khuất.
Cái tâm thánh thiện, niềm tin phác thực dân gian, đầy ắp nghĩa tình. Dưới ngịi
bút miêu tả tinh tế của nhà thơ, lễ và hội trong tiết thanh minh là một sư giao
hòa độc đáo, chứng tỏ nhà thơ rất trân trọng vẻ đẹp và giá trị truyền thống văn
hóa của dân tộc.


Nếu như những dòng thơ trên phác họa khung cảnh nhộn nhịp, đơng vui của lễ
hội thì sáu câu thơ cuối tạo nên một nhịp điệu trữ tình man mác buồn theo từng
bước chân của chị em Thúy Kiều:



“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dạng tay ra về


Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh


Nao nao dịng nước uốc quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

giác bâng khuâng, khó tả. Buổi chiều tà thường gợi lên một cảm giác buồn khó
tả. Ở đây, cuộc vui đã tàn, lễ hội tưng bừng náo nhiệt đã hết, tâm hồn con
người cũng “chuyển điệu” cùng cảnh vật, Dưới cái tài miêu tả của Nguyễn Du,
khơng khí lễ hội lúc tan khơng ảm đạm, buồn bã mà có phần thanh ịu, lặng lẽ
mơ mộng, không gian thu hẹp lại, thời gian trôi chậm hơn, cảnh vật như nhạt
dần, nhạt dần, lặng lẽ theo bước chân thơ thẩn trên dặm đường về, phảng phất
nỗi tiếc nuối, lưu luyến của lòng người. Mọi chuyển động nhẹ nhàng đều đều
thể hiện qua tâm trạng giai nhân đa sầu, đa cảm bằng hàng loạt các từ láy “tà
tà”, “thanh thanh”, “nao nao”, “nho nhỏ” vừa gợi tả cảnh, vừa gợi tâm trạng
bâng khuâng, xao xuyến từ dư âm ngày vui xuân vừa như đã dự báo, linh cảm
về điều sắp xảy ra trong tâm hồn nhạy cảm của Thúy Kiều. Và đúng như vậy,
Thúy Kiều đã gặp nấm mồ bất hạnh “Đạm Tiên” – một ca nhi tài sắc mà mệnh
yểu và cả sự ngẫu nhiên gặp chàng nho sinh “phong tư tài mạo tót vời”- Kim
Trọng, để rồi “tình trong như đã mặt ngồi cịn e” như một định mệnh tiền
dun, rõ ràng cảnh đã nhuốm màu tâm trạng của nhân vật. Như vậy sáu câu
thơ cuối của đoạn trích với việc sử dụng từ láy đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ
tình- cảnh gắn với tình – cảnh tình tương hợp đã làm cho lòng người hòa vào
cảnh vật như đang lắng lại cùng cảnh vật. Từ đó, ta thấy được tâm trạng nhạy
cảm cùng niềm vui cuộc sống của tác giả.


Tóm lại, bằng cách sử dụng hệ thống từ ghép, từ láy giàu chất tạo hình, giàu


sức gợi tả, đoạn trích “cảnh ngày xuân” xứng đáng là bức tranh đẹp vào loại
bậc nhất, tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm “Truyện Kiều”. Đồng thời, với cây
bút miêu tả thiên nhiên tài tình của Nguyễn Du, cảnh vật hiện lên tươi đẹp,
trong sáng và còn nhuộm màu tâm trạng, đây là yếu tố tạo nên thành cơng của
đoạn trích và đưa tên tuổi của đại thi hào Nguyễn Du đến gần với bạn đọc khắp
năm châu ở mọi thế kỷ.


<b>Bài làm 2</b>


Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi của nhà thơ
không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn được biết đến trên thi đàn thế giới. Sở
dĩ tác giả đạt được niềm vinh quang đó là vì ơng đã có một sự nghiệp sáng tác
giá trị, trong đó xuất sắc nhất phải nói đến Truyện Kiều – tác phẩm lớn nhất
của nền văn học Việt Nam. Cảm hứng nhân đạo và vẻ đẹp ngôn từ của truyện
thơ này đã chinh phục trái tim bao thế hệ bạn đọc trong gần hai thế kỉ qua. Đọc
đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, nằm trong khổ thơ từ câu 39 đến câu 54 của
truyện Kiều chúng ta càng cảm phục bút pháp miêu tả cảnh vật giàu chất tạo
hình và man mác xúc cảm của tác giả. Trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, đại
thi hào Nguyễn Du đã vẽ ra một khung cảnh ngày xuân tươi đẹp, rực rỡ, tràn
đầy sức sống. Bức tranh không chỉ được tơ điểm bởi màu sắc, âm thanh mà cịn
chấm phá những nét đặc biệt khi xen lồng bởi tình cảm, cảm xúc tha thiết, dạt
dào của nhân vật trữ tình. Điều đó làm cho bức tranh ngày xuân của Nguyễn
Du mới lạ mà vô cùng mỹ miều, tinh tế.


Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã vẽ ra một khung cảnh ngày xuân rợn ngợp bởi
những hình ảnh tràn đầy màu sắc:


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Khung cảnh thiên nhiên mang vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Giữa bầu trời cao
xanh rộng lớn, từng đàn chim én rộn ràng bay lượn như chiếc thoi đưa trên
khung dệt vải. Hình ảnh “con én đưa thoi” gợi bước đi của mùa xuân tương tự


cách nói trong dân gian “Thời giờ thấm thoắt thoi đưa”. Xung quanh tràn ngập
“ánh thiều quang” – ánh sáng tươi đẹp – đang rọi chiếu sáng toàn cảnh vật.
Ánh nắng mùa xn có nét riêng, khơng nóng bức như mùa hè cũng không dịu
buồn như mùa thu mà trái lại, tạo một cảm giác tươi vui, trẻ trung, mới mẻ
trong sự nồng ấm của những ngay đầu năm. Thời gian đầu năm trôi qua thạt
nhanh. Cho nên cả hai câu thơ vừa miêu tả cảnh thiên nhiên tươi sáng đồng
thời thể hiện niềm tiêc nuối trước sự trôi nhanh của thời gian. Thoắt một cái đã
bước sang cuối xuân rồi, cái đẹp của mùa mở đầu một nămcũng sắp hết.Chỉ
bằng một câu thơ lục bát thôi, bức họa xuân hiện ra đẹp đến không ngờ:


Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.


Cách viết và cách dùng từ ngữ của Nguyễn Du khiến ta không phân biệt được
đâu là thơ, đâu là họa nữa. Thảm cỏ xanh non trải ra mênh mang đến “tận chân
trời” là gam màu nền cho bức tranh xuân. Trên nền xanh mượt mà ấy được
điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng tinh khiết. Đây chính là cái hồn, cái thần,
là nét vẽ tâm điểmcủa bức tranh. Tiếp thu từ câu thơ cổ trung Quốc: “Phương
thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa” (Cỏ thơm liền với trời xanh / Trên
cành lê có mấy bơng hoa), Nguyễn Du đã vận dụng sáng tạo khi thêm màu
trắng vào bức tranh. Cả một khơng gian xn hiện lên khống đạt, trong trẻo
đến vơ cùng. Màu sắc có sự hài hịa đến mức tuyệt diệu. Chỉ hai màu thơi mà
có thể gợi nên vẻ mới mẻ, tinh khôi, tươi sáng, trẻ trung đầy thanh khiết như
vậy. Tính từ “trắng” kết hợp với động từ “điểm” đã thể hiện được cái đẹp, cái
sống động của câu thơ lẫn bức tranh ngày xuân, gợi hình ảnh lay động của hoa
làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có hồn chứ khơng tĩnh lại. Những đường
nét mềm mại, thanh nhẹ, sắc màu không sặc sỡ mà hài hịa, khơng tả nhiều mà
vẫn gợi được vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Phải là người sống chan hòa với thiên
nhiên, cỏ cây và nhất là có tâm hồn rung động tinh tế, thi sĩ mới có thể viết
được những câu thơ nhẹ nhàng mà đầy biểu cảm tuyệt vời đến thế. Dường như


Nguyễn Du đã thay mặt tạo hóa dùng ngịi bút để chấm phá bức tranh nghệ
thuật cho riêng mình. Nhà thơ Hàn Mặc Tử trong bài “Mùa xuân chín” cũng đã
ít nhiều ảnh hưởng Nguyễn Du khi tả cảnh mùa xuân:


Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cơ thiếu nữ hát trên đồi.


Đoạn thơ có sự chuyển tiếp nhịp nhàng, tự nhiên. Từ khung cảnh mùa xuân
tươi mới, êm đềm ấy, nét bút của Nguyễn Du bắt đầu tập trung khắc họa những
hoạt động của con người. Họ là những người đi tảo mộ, đi chơi xuân ở miền
quê kiểng. Và trong lễ hội dập dìu đó có những nhân vật của Nguyễn Du – chị
em Thúy Kiều – đang thong thả du xuân:


Thanh minh trong tiết tráng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

ảnh quen thuộc trong các cuộc chơi xuân đầy vui thú ở chốn làng quê. Cách sử
dụng điệp từ “lễ là”, “hội là” gợi ấn tượng về sự diễn ra liên tiếp của các lễ hội
dân gian, niềm vui tiếp nối niềm vui.


Khơng khí lễ hội rộn ràng, huyên náo bỗng hiện ra thật sinh động trong từng
câu thơ giàu hình ảnh và nhạc điệu:


Gần xa nơ nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.


Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngừa xe như nước áo quần như nêm.


Tài năng của Nguyễn Du được thể hiện qua việc sử dụng ngôn từ. Sự xuất hiện


của hàng loạt các từ ngữ hai âm tiết bao gồm danh từ, động từ, tính từ như: gần
xa, yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, nơ nức, sắm sửa, dập dìu,… đã gợi lên
bầu khơng khí rộn ràng của lễ hội đồng thời làm rõ hơn tâm trạng của người đi
trẩy hội. Hầu hết các câu thơ đều được ngắt nhịp đôi (2/2) cũng góp phần gợi tả
khơng khí nhộn nhịp, đơng vui của lễ hội. Cách nói ẩn dụ “nơ nức yến anh” gợi
hình ảnh từng đồn người náo nức chơi xuân như chim én, chim oanh bay ríu
rít. Câu thơ “Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân”, Nguyễn Du khơng chỉ nói
lên một lời thơng báo mà cịn giúp người đọc cảm nhận được những trông
mong, chờ đợi của chị em Kiều. Trong lễ hội mùa xuân, nhộn nhịp nhát là
những am thanh nữ tú, trai thanh gái lịch vai sánh vai, chận nối chân nhịp bước.
Họ chính là linh hồn của ngày hội. Cặp tiểu đối “tài tử”/”giai nhân”, “ngựa xe
như nước”/”áo quần như nêm” đã khắc họa rõ nét sự hăm hở của tuổi trẻ. Họ
đến với hội xuân bằng tất cả niềm vui sức sống của tuổi xuân. Trong đám tài tử
giai nhân ấy có ba chị em Thúy Kiều. Có lẽ, Nguyễn Du đã miêu tả cảnh lễ hội
bằng đôi mắt và tâm trạng của hai cô gái “đến tuổi cập kê” trước cánh cửa cuộc
đời rộng mở nên cái náo nức, dập diu từ đó mà ra. Tồn bộ dịng người đơng
vui, tưng bừng đó tấp nập ngựa xe như dịng nước cuốn, áo quần đẹp đẽ, thướt
tha đống đúc “như nêm” trên các nẻo đường. Thật là một lễ hội rộn ràng, sang
trọng và phong lưu.


Cái hay, cái khéo của Nguyễn Du còn được thể hiện ở chỗ chỉ bằng vài nét
phác thảo, nhà thơ đã làm sống lại những nét đẹp văn hóa ngàn đời của người
Phương Đơng nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ tảo mộ, hội đạp
thanh khơng chỉ là biểu hiện đẹp của lịng biết ơn tổ tiên, của tình yêu con
người trước cảnh sắc quê hương, đất nước mà còn gợi lên một vẻ đẹp của đời
sống tâm linh với phong tục dân gian cổ truyền hết sức tinh tế:


Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.



Người đã khuất và người đang sống, quá khứ và hiện tại như được kéo gần lại
với nhau. Ta nhận ra một niềm cảm thơng sâu sắc mà Nguyễn Du đã gởi vào
những dịng thơ: có thể hơm nay, sau hơn hai trăm năm, suy nghĩ của chúng ta
có ít nhiều thay đổi trước cảnh: “Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay” thế nhưng
giá trị nhân văn được gửi gắm vào những vần thơ của Nguyễn Du vẫn làm ta
thực sự xúc động.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.


Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.


Nao nao dịng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.


Nếu câu thơ mở đầu của “Cảnh ngày xuân” tràn đầy ánh sáng “thiều quang” thì
đến đây, hồng hơn dường như bắt đầu nhuốm dần xuống phong cảnh và con
người. Hội đã hết, ngày đã tàn nên nhịp thơ khơng cịn cái rộn ràng, giục giã
mà trái lại thật chậm rãi, khoan thai. Cảnh vật vì thế mang cái vẻ nên thơ, diu
êm, vắng lặng trong ánh nắng nhạt dần. Dòng khe có chiếc cầu nho nhỏ cuối
ghềnh tạo thành đường nét thể hiện linh hồn của bức tranh một buổi chiều
xuân. Nhịp chân có chút tâm tình man mác nên “thơ thẩn” và đến đây là “bước
dần”, chẳng có gì nao nức, vội vàng. Các từ láy “tà tà”, “thanh thanh”, “nho
nhỏ”, “nao nao” góp phần làm nên sự yên ắng và nỗi buồn trong cảnh vật, của
con người. Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút phá ước lệ cổ điển
nhưng vẫn gợi cho người đọc cảm giác gần gũi, thân quen vì nó đã thấm hồn
dân tộc, mang bóng dáng cảnh sắc quê hương Việt Nam.Rõ ràng, cảnh ở đây
được nhìn qua tâm trạng nhân vật tham gia vào lễ hội. Hai chữ “nao nao” (Nao
nao dòng nước uốn quanh) đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Dịng nước


nao nao, trơi chậm lưu luyến bên chân cầu nho nhỏ, phải chăng cũng là nỗi lưu
luyến, tiếc nuối của lịng người khi ngày vui chóng qua? Nguyễn Du đã từng
viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”. Vì vậy, khi vào lễ hội, người vui
thì cảnh sắc rộn ràng tười mới. Lúc lễ hội tan rồi, người về sao tránh khỏi sự
xao xuyến, cảnh sắc sao tránh khỏi màu ảm đạm! Dường như có một nỗi niềm
man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn vốn đa tình, đa cảm
như Thúy Kiều. Và ở sáu dịng cuối này, Nguyễn Du khơng chỉ nhằm nói tâm
trạng buồn tiếc khi lễ hội vừa tàn, mà hình như, ơng chuẩn bị đưa nhân vật của
mình vào một cuộc gặp gỡ khác, một thế giới khác. Như ta đã biết, ngay sau
buổi Thanh minh, Nguyễn Du đã sắp đặt để Thúy Kiều gặp Đạm Tiên và Kim
Trọng. Vì thế, cảnh vật trong hồng hơn này cũng là một dự báo, một linh cảm
cho đoạn trường mà đời kiều sắp phải bước qua. Tả cảnh, tả tình như thế thật
khéo, cách chuyển ý cũng thật tinh tế, tự nhiên.


Với tâm hồn đầy nhạy cảm, tình yêu đối với sự sống của thiên nhiên, đất trời,
cùng tài năng thể hiện tinh tế bậc thầy,Nguyễn Du đã vẽ ra một cách sinh động
nhất, chân thực nhất khung cảnh ngày xuân trong đoạn trích “ Cảnh ngày xuân”
của Truyện Kiều.


<b>Bài làm 3</b>


Tuyệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du không chỉ mang những giá trị xã hội
sâu sắc mà còn làm say lòng người đọc ở những đoạn thơ tả cảnh tuyệt bút.
Một trong số đó là đoạn trích “Cảnh ngày xn” (trích Truyện Kiều, sách Ngữ
văn 9, tập một - NXB Giáo dục, 2008).


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng:
“ Ngày xuân con én đưa thoi,


Thiều quan chín chục đã ngồi sáu mươi.


Cỏ non xanh tận chân trời,


Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”…


Không gian mùa xuân được gợi nên bởi những hình ảnh những cánh én đang
bay lượn rập rờn như thoi đưa. Sự mạnh mẽ, khỏe khắn của những nhịp cánh
bay cho thấy rằng mùa xuân đang độ viên mãn trịn đầy nhất. Quả có vậy:
“Thiều quang chín chục đã ngồi sáu mươi” có nghĩa là những ngày xn tươi
đẹp đã qua đi được sáu chục ngày rồi, như vậy bây giờ đang là thời điểm tháng
ba.


Nền cảnh của bức tranh thiên nhiên được hoạ nên bởi màu xanh non, tươi mát
của thảm cỏ trải ra bao la: “Cỏ non xanh tận chân trời”, sắc cỏ tháng ba là sắc
xanh non, tơ nõn mềm mượt êm ái. Huống chi cái sắc ấy trải ra “tận chân trời”
khiến ta như thấy cả một biển cỏ đang trải ra rập rờn, đẹp mắt. Có lẽ chính hình
ảnh gợi cảm ấy đã gợi ý cho Hàn Mặc Tử hơn một thế kỉ sau viết nên câu thơ
tuyệt bút này: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Trên nền xanh tươi, trong trẻo
ấy điểm xuyết sắc trắng tinh khôi của vài bông hoa lê. Chỉ là “vài bông” bởi
những bông hoa lê đang thì chúm chím chưa muốn nở hết. Hoa như xn thì
người thiếu nữ cịn đang e ấp trong ngày xn. Chữ điểm có tác dụng gợi vẻ
sinh động, hài hồ. ở đây, tác giả sử dụng bút pháp hội hoạ phương Đơng, đó là
bút pháp chấm phá.


Hai câu thơ tả thiên nhiên ngày xuân của Nguyễn Du có thể khiến ai đó liên
tưởng đến hai câu thơ cổ của Trung Quốc: hương thơm của cỏ non, màu xanh
mướt của cỏ tiếp nối với màu xanh ngọc của trời, cành lê có điểm một vài bơng
hoa. Nhưng cảnh trong hai câu thơ này đẹp mà tĩnh tại. Trong khi đó gam màu
nền cho bức tranh mùa xuân trong hai câu thơ của Nguyễn Du là thảm cỏ non
trải rộng tới tận chân trời. Trên cái màu xanh của cỏ non ấy điểm xuyết một vài
bông lê trắng (câu thơ cổ Trung Quốc khơng nói tới màu sắc của hoa lê). Sắc


trắng của hoa lê hoà hợp cùng màu xanh non mỡ màng của cỏ chính là nét
riêng trong hai câu thơ của Nguyễn Du. Nói gợi được nhiều hơn về xuân: vừa
mới mẻ, tinh khơi, giàu sức sống lại vừa khống đạt, trong trẻo, nhẹ nhàng và
thanh khiết.


Thiên nhiên trong sáng, tươi tắn và đầy sức sống, con người cũng rộn ràng,
nhộn nhịp để góp phần vào những chuyển biến kì diệu của đất trời.


Sáu câu thơ tiếp của bài thơ tái hiện phong tục tảo mộ (viếng mộ, sửa sang
phần mộ của người thân) và du xuân (hội đạp thanh) trong tiết Thanh minh.
Khơng khí rộn ràng của lễ hội mùa xuân được gợi lên bởi hàng loạt các từ ghép
tính từ, danh từ, động từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, sắm sửa, dập dìu,
gần xa, nơ nức. Chúng được đặt cạnh nhau dồn dập gợi nên khơng khí đơng
đúc, vui tươi sơi nổi. Đó khơng chỉ là khơng khí lễ hội mà cịn mang đậm màu
sắc tươi tắn, trẻ trung của tuổi trẻ:


“Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân


Dập dìu tài tử giai nhân


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Nhưng hội họp rồi hội phải tan. Sau những giây phút sôi nổi, chị em Thúy Kiều
phải rời buổi du xuân trở về:


“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.


Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.



Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang” …


Bên cạnh vẻ thanh thoát, dịu nhẹ của mùa xuân như ở những câu thơ trước,
khung cảnh mùa xuân đến đây đã mang một sắc thái khác với bức tranh lễ hội
rộn ràng, nhộn nhịp. Cảnh vật toát lên vẻ vương vấn khi cuộc du xuân đã hết.
Các từ láy tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ vừa gợi tả sắc thái
cảnh vật vừa gợi ra tâm trạng con người. Dường như có cái gì đó đang mơ hồ
xâm lấn, cảnh vật đã nhuốm sắc thái vương vấn, man mác của tâm trạng con
người, ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình để mượn cảnh
vật mà diễn tả những rung động tinh tế trong tâm hồn những người , thiếu nữ.
Những từ láy được sử dụng trong đoạn thơ đểu là những từ láy có tính giảm
nhẹ. “Tà tà” diễn tả bóng chiều đang từ từ nghiêng xuống; “thơ thẩn” lại diễn tả
tâm trạng bâng khuâng dịu nhẹ khơng rõ ngun nhân (nó gần với nỗi buồn
“tơi buồn khơng hiểu vì sao tơi buồn” của Xn Diệu sau này) “thanh thanh”
vừa có ý nghĩa là sắc xanh nhẹ nhàng vừa có ý nghĩa là thanh thốt, thanh
mảnh; từ “nao nao” trong câu thơ diễn tả thế chảy của dòng nước nhưng đồng
thời diễn tả tâm trạng nao nao buồn và từ “nho nhỏ” gợi dáng nhỏ xinh xắn,
vừa vặn với cảnh với tình. Khung cảnh thiên nhiên cũng theo đó mà nhỏ đi để
phù hợp với tâm trạng con người: “ngọn tiểu khê” - dòng suối nhỏ, phong-cảnh
thanh thoát, dịp cầu “nho nhỏ” lại nằm ở “cuối ghềnh” ở phía xa xa,... Cảnh và
người như có sự tương liên để giao hịa trong bầu khơng khí bâng khuâng, lưu
luyến, khe khẽ sầu lay. Có thể mớ hồ cảm nhận được cảnh vật đang tạo ra dự
cảm về những sự việc sắp xảy ra.


Đoạn trích Cảnh ngày xuân có bố cục cân đối, hợp lí. Mặc dù khơng thật rõ
ràng nhưng cũng có thể nói đến kết cấu ba phần: mở đầu, diễn biến và kết thúc.
Nguyễn Du đã cho thấy một nghệ thuật miêu tả thiên nhiên điêu luyện, sắc sảo.
Trong đoạn trích, mặc dù chủ yếu là miêu tả cảnh ngày xuân nhưng vẫn thấy sự
kết hợp với biểu cảm và tự sự (diễn biến cuộc tảo mộ, du xuân của chị em Thúy


Kiều, dự báo sự việc sắp xảy ra).


</div>

<!--links-->

×