Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn từ thành phố Hà Nội (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.48 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ NGỌC PHÚC

CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ
CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ NGỌC PHÚC

CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ
CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS: ĐINH DŨNG SỸ

HÀ NỘI, 2020




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, các số
liệu, trích dẫn trong luận văn hoàn toàn trung thực. Những kết quả trong
luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Vũ Ngọc Phúc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƯỠNG CHẾ THI
HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .............................................. 9
1.1.Khái niệm và vai trò của cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho
ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự ............................. 9
1.2. Khái niệm, nội dung, vai trò và các yếu tố tác động đến việc thực hiện
pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương
mại theo pháp luật thi hành án dân sự ............................................................. 15
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN
ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP
LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................................................... 29
2.1. Thực trạng pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho
Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự .......................... 29
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi
nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự trên địa
bàn thành phố Hà Nội ................................................................................. 42

Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ.................................................................................................................... 60
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về
thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại ........................................................ 60
3.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm hiệu quả thi hành bản án về cưỡng
chế thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự ......... 65
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 78


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Kết quả thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội ............ 44
từ năm 2014 đến năm 2018 về việc ................................................................ 44
Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội ............ 44
từ năm 2014 đến năm 2018 về tiền ................................................................. 44
Bảng 2.3: Kết quả việc áp dụng cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho
Ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2014 đến 2018
......................................................................................................................... 45
Bảng 2.4: Kết quả áp dụng đối với từng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự nhằm thu hồi nợ trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2014 ................... 46
đến năm 2018 .................................................................................................. 46


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đời sống xã hội, các hoạt động kinh doanh, thương mại nhằm đáp ứng
các nhu cầu vật chất và tinh thần chủ yếu được thực hiện thông qua các giao dịch
dân sự, kinh tế trên cơ sở giao kết và thực hiện hợp đồng. Khi thiết lập các giao

dịch, hợp đồng, vấn đề các bên quan tâm là thực hiện các cam kết, thỏa thuận, khả
năng thực hiện nghĩa vụ - điều kiện đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên,
nhất là đối với các quan hệ dân sự liên quan đến các Ngân hàng thương mại.
Hoạt động tín dụng, ngân hàng theo nghĩa chung nhất là quan hệ giao dịch
giữa bên cho vay và bên vay, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho các
bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một khoảng thời
gian nhất định theo thỏa thuận với ngun tắc có hồn trả cả gốc và lãi phát sinh.
Thực tiễn cho thấy, hiện nay, rất nhiều trường hợp bên vay khơng đủ khả năng
thanh tốn lãi và gốc cho ngân hàng do nhiều nguyên nhân khác nhau như làm ăn
thua lỗ, phá sản....Chính những yếu tố này đã làm cho trong những năm gần đây,
các bản án xét xử và việc thi hành án dân sự liên quan đến các Ngân hàng thương
mại tăng vọt. Chỉ tính riêng tại thành phố Hà Nội, năm 2019, việc thi hành các bản
án để thu hồi nợ liên quan đến ngân hàng thương mại đã thụ lý khoảng 4 nghìn việc
tương đương với số tiền gần 30 nghìn tỷ đồng; đặc biệt với sự xuất hiện của các vụ
đại án có số tiền phải thi hành rất lớn, có tính chất đặc biệt phức tạp, nhiều vụ việc
khơng có điều kiện thi hành hoặc bán đấu giá tài sản không có người mua.....
Thực tế, khơng phải lúc nào người phải thi hành án có điều kiện thi hành đều
tự nguyện trả tiền cho ngân hàng thương mại. Dẫn đến, cơ quan Thi hành án dân sự
phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thu hồi nợ cho ngân hàng. Nhưng khi cơ
quan Thi hành án dân sự tổ chức cưỡng chế thi hành án các bản án để thu hồi nợ
cho các Ngân hàng thương mại thường rất khó khăn, quá trình thi hành án diễn ra
hết sức phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức; liên
quan đến nhiều cơ quan khác nhau. Các cơ quan thi hành án dân sự thường phải
chịu áp lực, tác động từ nhiều phía. Trong khi đó, để tổ chức thi hành án các bản án

1


để thu hồi nợ cho ngân hàng được nhanh chóng và đúng đắn, ngoài việc nắm vững
nội dung quyết định bản án, quyết định được đưa ra thi hành, nội dung yêu cầu thi

hành án của phía ngân hàng thương mại thì cơ quan thi hành án dân sự cịn phải
nắm vững được tất cả những vấn đề khác có liên quan đến việc thi hành án như địa
chỉ, tài sản, thu nhập...của người phải thi hành án. Tuy nhiên, người phải thi hành án
thường giấu giếm các thông tin về địa chỉ, tài sản, thu nhập của họ...để trốn tránh
việc thi hành án.
Pháp luật Việt Nam hiện hành đã từng bước được hoàn thiện tạo ra hành lang
pháp lý cần thiết để hoạt động cưỡng chế thi hành bản án nói chung và cưỡng chế
thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại nói riêng diễn ra thuận
lợi, có hiệu quả. Tuy nhiên, Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014
và các thơng tư, quy chế có liên quan vẫn cịn những hạn chế nhất định dẫn đến
thực tiễn tổ chức cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương
mại còn nhiều bất cập, chưa thực sự phát huy hết hiệu quả. “Cơng lý bị trì hỗn
cũng có nghĩa là cơng lý bị từ chối” (Justice delayed is justice denied). Cải thiện
môi trường đầu tư kinh doanh đang đặt ra nhiều thách thức cũng như cơ hội, địi
hỏi các cơ quan THADS phải có những nỗ lực, chuyển mình, từ tư duy, nhận thức
cho đến những hành động cụ thể là việc làm có tính cấp bách và có ý nghĩa chiến
lược, nhất là việc việc thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại lại càng cấp bách,
góp phần giải phóng nguồn lực kinh tế bị “đóng băng” trong các khoản nợ xấu,
thúc đẩy các giao dịch liên quan đến kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm cho
xã hội....
Bằng đề tài “Cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng
thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn từ thành phố Hà Nội”
luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về cưỡng chế thi hành án bản
án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự, đem
đến cho người đọc cái nhìn tồn cảnh về thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội,
chỉ rõ và phân tích nguyên nhân của những vướng mắc từ đó kiến nghị một số giải

2



pháp để nâng cao chất lượng công tác cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho
ngân hàng thương mại trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong khoảng thời gian năm năm trở lại đây chứng kiến sự gia tăng đáng kể
các đề tài nghiên cứu về THADS, có thể kể đến các đề tài:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước “Luận cứ khoa học của việc đổi
mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới” do Bộ Tư
pháp chủ trì.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Mơ hình quản lý thống nhất công tác thi
hành án” do Tổng cục THADS – Bộ Tư pháp chủ trì.
- Các sách “Kỹ năng thi hành án dân sự” của Học viện Tư pháp; Giáo trình
“Luật Thi hành án dân sự Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội; “Sổ tay
Chấp hành viên” của tác giả Lê Thu Hà; “Xử lý tình huống trong thi hành án dân sự
và các văn bản pháp luật về thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy,
Lê Thị Kim Dung; “Sổ tay nghiệp vụ thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Văn
Luyện...
- Các đề tài luận án tiến sĩ: “Hoàn thiện pháp luật THADS ở Việt Nam hiện
nay” luận án của tác giả Nguyễn Thanh Thủy; “Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
hoạt động THADS ở Việt Nam hiện nay” luận án của tác giả Nguyễn Quang Thái;
“Hiệu qủa áp dụng pháp luật trong THADS ở Việt Nam” của tác giả Đặng Đình
Quyền; “Giám sát THADS ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Hoàng Thế Anh...
- Đối với các đề tài nghiên cứu về cưỡng chế thi hành án: “Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam”, Lê Anh Tuấn, Luận
án tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 2017; “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, Lê Xuân Tùng,
luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2016; “Biện pháp cưỡng chế, kê biên tài sản
trong thi hành án dân sự”, Nguyễn Thanh Phong, luận văn thạc sĩ Luật học, Hà
Nội, 2011; “Biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền trong hoạt động thi
hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Lê Đình Nam, luận văn thạc sĩ luật


3


học, 2012. Ngồi ra, cịn có các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành của các
chuyên gia, các nhà nghiên cứu khoa học như: “Hoàn thiện pháp luật về các biện
pháp cưỡng chế thi hành án” của tác giả Trần Phương Thảo, tạp chí Luật học số
11/2018; “Một số vướng mắc khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự” của tác giả Nguyễn Doãn Phương, tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 08/2016…
Nhìn chung, các cơng trình khoa học trên đây đã nghiên cứu và làm sáng tỏ
một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thi
hành án dân sự nói riêng. Tuy nhiên, các cơng trình này đều chú trọng nghiên cứu
tồn diện về cưỡng chế thi hành án, chưa có cơng trình nào tập trung đi sâu vào
phân tích cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo
pháp luật thi hành án dân sự, đặc biệt là của địa phương có những đặc thù riêng
biệt với lượng án nhiều, phức tạp nhất cả nước như Hà Nội. Vì vậy, sau khi nghiên
cứu, tiếp thu có chọn lọc các quan điểm, phân tích, đánh giá của các cơng trình khoa
học trên, tác giả xác định việc nghiên cứu chuyên sâu cưỡng chế thi hành bản án về
thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn
trên địa bàn thành phố Hà Nội là cần thiết và có giá trị áp dụng thực tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về cưỡng chế thi hành bản
án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự; thực tiễn áp
dụng cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi
hành án dân sự tại thành phố Hà Nội (trong đó tập trung đánh giá những ưu điểm,
hạn chế, bất cập và nguyên nhân từ thực tiễn áp dụng cưỡng chế thi hành bản án về
thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự tại Hà Nội),
luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng cưỡng chế
thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự trên
địa bàn thành phố Hà Nội trước yêu cầu mới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

4


Để đạt được các mục đích đặt ra trên đây, luận văn thực hiện các nhiệm vụ chủ
yếu sau đây:
- Phân tích khái niệm, đặc điểm; vai trị và ý nghĩa của cưỡng chế thi hành bản
án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự; pháp
luật về cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại tại Việt
Nam.
- Phân tích, đánh giá tác động của vị trí địa lý, tự nhiên và kinh tế - xã hội tác
động đến việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân
hàng thương mại trong thi hành án dân sự thành phố Hà Nội; phân tích những ưu
điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân từ thực tiễn cưỡng chế thi hành bản án về
thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự tại Hà Nội.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả cưỡng chế thi hành
bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự trên địa
bàn thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản quy định của pháp luật
THADS và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành bản
án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tại
thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại
trong thi hành án dân sự là một vấn đề nghiên cứu tương đối lớn, có phạm vi nghiên
cứu rộng nên có thể được nghiên cứu dưới nhiều phương diện khác nhau và với
nhiều nội dung khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả tập trung

nghiên cứu vào những nội dung cơ bản như sau:
- Nghiên cứu cơ quan trực tiếp tổ chức THADS trong thành phố Hà Nội gồm
cơ quan THADS cấp thành phố (Cục THADS thành phố Hà Nội) và cơ quan
THADS cấp huyện (Chi cục THADS quận, huyện, thị xã trực thuộc) với các cơ

5


quan có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan THADS. Các “cơ quan”
trong phạm vi nghiên cứu của luận văn là các cơ quan Nhà nước hoặc đơn vị
chuyên môn thuộc cơ quan Nhà nước.
- Nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến cưỡng
chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự
và đánh giá thực tiễn cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương
mại trong thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội.

6


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu luận án là các quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
nhà nước và pháp luật; xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN; về đổi mới và tổ
chức hoạt động của nhà nước, nhất là nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật. Bên
cạnh đó, tác giả luận văn cũng sử dụng các quan điểm khoa học được rút ra từ các
cơng trình nghiên cứu trước đó.
Các phương pháp nghiên cứu chủ đạo của luận văn là phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Để hoàn thành luận văn, tác giả cũng sử dụng các
phương pháp truyền thống khác như phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, quy
nạp, so sánh, thống kê...., trong đó:

- Phương pháp lịch sử, phân tích, quy nạp được sử dụng chủ yếu tại Chương 1,
nêu lên các cơ sở lý thuyết của vấn đề đặt ra, từ đó khái quát hóa thành những luận
điểm, quan điểm nền tảng lý thuyết xuyên suốt nội dung của luận văn.
- Phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê được áp dụng nhằm làm
rõ những nội dung của Chương 2. Đây là chương phân tích thực tiễn về cưỡng chế
thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự tại
thành phố Hà Nội với những ví dụ, số liệu cụ thể qua đó rút ra những ưu điểm, tồn
tại, hạn chế tạo cơ sở đề xuất các giải pháp tại Chương 3. Ngoài ra phương pháp
phân tích cũng được áp dụng nhằm làm sáng tỏ những nhận định, quan điểm đã
được đưa ra về những vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài luận văn.
- Phương pháp phân tích, chứng minh được sử dụng chủ yếu tại Chương 3 để
làm rõ những quan điểm, giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả thực hiện pháp luật về
cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành
án dân sự phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Luận văn đã nghiên cứu tương đối toàn diện, đầy đủ về thực tiễn cưỡng
chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân

7


sự tại thành phố Hà Nội. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận về cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng
thương mại trong thi hành án dân sự ở Việt Nam nói chung và thành phố Hà Nội
nói riêng.
- Luận văn đã đi sâu nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng pháp luật về cưỡng
chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự
hiện nay và thực tiễn tại thành phố Hà Nội, chỉ ra những kết quả đạt được, nguyên
nhân của kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế trong việc thực thi pháp

luật về thi hành án dân sự.
- Luận văn đã đưa ra các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng
thi hành án dân sự công tác thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội từ nay và tầm
nhìn trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn có kết cấu 3 chương, gồm:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về cưỡng chế thi hành bản án thu hồi
nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự.
- Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự về cưỡng chế
thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại tại thành phố Hà Nội.
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi
hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại từ thực tiễn thành phố Hà Nội.

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƯỠNG CHẾ
THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1.Khái niệm và vai trò của cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ
cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm cưỡng chế thi hành bản án dân sự và cưỡng chế thi hành
bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự
Hoạt động Thi hành án dân sự được hiểu là quá trình thực hiện các quyền và
nghĩa vụ dân sự của các bên khi được bản án, quyết định của Tòa án và các cơ quan
có thẩm quyền khác ghi nhận. Tuy nhiên, khi hết thời hạn tự nguyện thi hành án,
nếu người phải thi hành án mặc dù có điều kiện thi hành án nhưng cố tình trốn
tránh, trì hỗn, khơng tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình thì lúc này Cưỡng chế

thi hành án được xem là công cụ hữu hiệu nhất để bản án, quyết định của Tòa án
được thực thi triệt để. Tại điều 45 và Điều 46 - Luật thi hành án dân sự cũng quy
định sau khi hết thời gian tự nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người phải
thi hành án có điều kiện thi hành mà khơng thi hành hoặc trong trường hợp cần
ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn
tránh việc thi hành án, thì Chấp hành viên có quyền áp dụng kịp thời các biện pháp
cưỡng chế thi hành án.
Vậy cưỡng chế thi hành bản án dân sự được hiểu như thế nào?
Cưỡng chế Nhà nước là dùng quyền lực Nhà nước bắt buộc cá nhân, tổ chức
thực hiện hoặc không thực hiện một công việc nhất định trái với ý muốn của họ.
Cưỡng chế gắn liền với hoạt động quản lý Nhà nước và là phương pháp thường
xuyên được áp dụng trong quản lý Nhà nước [32-Tr.63].
Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp thi hành án dân sự dùng
quyền lực nhà nước buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân

9


sự của họ, do chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có
điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án.
Bản án là văn bản ghi nhận phán quyết của Toà án sau khi xét xử một vụ
án.Thuật ngữ “bản án” được sử dụng lần đầu tyên tại Sắc lệnh thiết lập các toà án
quân sự ngày 13/9/1945. Tuy nhiên, đến ngày 3/3/1969 Tồ án nhân dân tối cao
mới ban hành Thơng tư số 1-UB hướng dẫn về cơ cấu bản án và cách viết bản án.
Bản án đánh dấu sự kết thúc tồn bộ q trình điều tra, truy tố, xét xử, cho nên nội
dung của nó phải phản ánh những kết quả của phiên tịa và ý kiến phân tích, đánh
giá của hội đồng xét xử. Thẩm phán chủ toạ phiên tồ có nhiệm vụ viết bản án. Một
số nước, thuật ngữ bản án chỉ dùng trong trường hợp xét xử vụ án hình sự, cịn
trong việc giải quyết vụ kiện dân sự thì văn bản ghi nhận quyết định của toà án
tuyên xử gọi là quyết định của toà án. Ở Việt Nam, trong lĩnh vực hình sự cũng như

dân sự đều dùng thuật ngữ chung là bản án. Bản án trong lĩnh vực hình sự gọi là bản
án hình sự. Bản án trong lĩnh vực dân sự gọi là bản án dân sự [32-Tr.63].
Cưỡng chế thi hành án bản án dân sự là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của
các cơ quan có thẩm quyền thi hành án, do Chấp hành viên quyết định theo thẩm
quyền nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa
vụ về tài sản theo bản án, quyết định Cưỡng chế thi hành án được áp dụng trong
trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi
hành, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu
tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án.
Như vậy, từ những khái niệm này có thể xác định được những vấn đề về
cưỡng chế thi hành bản án dân sự như sau:
- Chủ thể áp dụng cưỡng chế thi hành án là các Chấp hành viên được cơ quan
thi hành án phân công theo quyết định phân công để giải quyết thi hành án theo
từng vụ việc cụ thể.
- Khách thể: là việc thực thi các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật và các cơ quan có thẩm quyền khác.

10


- Đối tượng: là người phải thi hành án được nêu trong phán quyết của Tịa
án, có thể là cá nhân, tổ chức, cơ quan…
- Mục đích áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành bản án dân sự là buộc người
phải thi hành án thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản, hoặc cần ngăn chặn
người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án.
Trong phạm vi bài viết, luận văn chỉ tập trung vào mục đích cưỡng chế thi
hành bản án dân sự nhằm thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại. Trong đó, thu hồi
nợ được hiểu là là yêu cầu khách nợ thanh toán cho chủ nợ các khoản tiền, tài sản
khác đến hạn/quá hạn mà khách nợ phải trả cho chủ nợ theo hợp đồng hoặc thỏa
thuận giữa chủ nợ và khách nợ hoặc theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền [19-Tr.62]. Doanh nghiệp đạt trạng thái hoạt động lý tưởng khi không nợ quá
hạn và không bị doanh nghiệp nào đó chiếm dụng vốn quá thời gian quy định. Tuy
nhiên, thật khó để tìm ra doanh nghiệp nào có thể đạt được trạng thái này trong
hàng trăm ngàn doanh nghiệp tại Việt Nam. Trên thực tế, các doanh nghiệp đều
muốn chiếm dụng vốn được của doanh nghiệp khác càng lâu, càng có lợi cho mình,
đặc biệt khi mà hồn cảnh kinh tế khó khăn như những năm gần đây. Và bằng
chứng là hầu hết các doanh nghiệp bị phá sản bởi khơng thể thanh tốn được các
khoản nợ, hoặc không thể thanh khoản các khoản nợ của khách nợ quá hạn.
Như vậy có thể hiểu cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng
thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự là: là biện pháp thi hành án dân sự
dùng quyền lực Nhà nước nhằm buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ về
tài sản để thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo bản án, quyết định của Tịa án
đã có hiệu lực pháp luật, do Chấp hành viên thuộc cơ quan thi hành án có thẩm
quyền áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành nhưng
không tự nguyện thi hành án.
Cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong
thi hành án dân sự có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, cưỡng chế thu hồi nợ thể hiện quyền năng đặc biệt của Nhà nước
và được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực Nhà nước. Chỉ có cơ quan chức năng và

11


người có thẩm quyền được Nhà nước quy định mới được phép áp dụng các biện
pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo luật định. Ở nước ta, thẩm quyền thực hiện
cưỡng chế thi hành án dân sự thuộc về cơ quan Thi hành án dân sự các cấp và người
có thẩm quyền là các Chấp hành viên được phân công thực hiện nhiệm vụ.
Thứ hai, cưỡng chế thi hành án là một nguyên tắc cơ bản trong thi hành án
dân sự. Điều 9 Luật Thi hành án dân sự quy định: “1. Nhà nước khuyến khích
đương sự tự nguyện thi hành án. 2. Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án

mà khơng tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của luật
này.” Luật này cũng quy định người phải thi hành án có thời gian tự nguyện thi
hành án là 10 ngày kể từ ngày họ nhận được quyết định thi hành án hoặc được
thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Như vậy, tinh thần của Điều luật đã thể
hiện quan điểm việc thi hành án được tổ chức tuân theo nguyên tắc kết hợp giữa
thái độ tự nguyện của người phải thi hành án và sự cưỡng chế của Nhà nước thông
qua hoạt động của cơ quan thi hành án và Chấp hành viên. Tuy nhiên, có thể hiểu
Nhà nước đã trao cho đương sự quyền lựa chọn phương thức thi hành án, và sự tự
nguyện thi hành án được khuyến khích thực hiện trước khi Nhà nước phải áp dụng
biện pháp cưỡng chế thi hành án.
Thứ ba,cưỡng chế thi hành án bản án dân sự khơng chỉ có hiệu lực bắt buộc
đối với người phải thi hành án mà tất cả những cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên
quan đều phải tơn trọng và thực hiện. Nói một cách khác, để đảm bảo hoạt động
cưỡng chế thi hành án đạt hiệu quả, các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đều
phải có trách nhiệm phối hợp và thực hiện. Chẳng hạn Chấp hành viên ra quyết định
cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của ơng A, trong
khi đó gia đình ơng B hiện đang ở nhờ trên diện tích đất này thì ngồi ơng A, gia
đình ơng B cũng phải có trách nhiệm thực hiện quyết định này của cơ quan thi hành
án.
Thứ tư, người phải thi hành án phải chịu mọi chi phí về cưỡng chế. Khi áp
dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, ngoài việc phải thực hiện các nghĩa
vụ về tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án, người phải thi hành án còn phải

12


chịu tất cả các chi phí để thực hiện việc cưỡng chế thi hành án, như chi phí cho việc
định giá, giám định tài sản, bán đấu giá tài sản, tiền bồi dưỡng cho những người
trực tiếp tham gia cưỡng chế và bảo vệ cưỡng chế thi hành án.
Thứ năm, việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành án chỉ được áp

dụng khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án. Chấp hành viên trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ phải tiến hành xác minh điều kiện của người phải thi hành
án để xem người này có hay khơng có điều kiện thi hành án. Quy định này thể hiện
quan điểm nhân đạo của Nhà nước, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người phải thi
hành án, đồng thời cũng đảm bảo hoạt động cưỡng chế khi được áp dụng sẽ đạt hiệu
quả khả thi trong thực tiễn.
Ngoài những đặc điểm chung, hoạt động cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân
hàng thương mại cũng có đặc điểm riêng. Đối tượng nhắm đến của hoạt động này
không bao gồm hành vi của người phải thi hành án mà chỉ là các nghĩa vụ về tài sản
của người phải thi hành án đối với các Ngân hàng thương mại. Từ đặc điểm này đã
xác định không phải tất cả biện pháp cưỡng chế được quy định trong Luật Thi hành
án dân sự đều được áp dụng, mà chỉ những biện pháp cưỡng chế mà đối tượng mà
nó nhắm đến là tài sản của người phải thi hành án nhằm mục đích thu hồi nợ cho
Ngân hàng thương mại.

1.1.2. Vai trò của cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân
hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự
Các biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng
thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự là công cụ pháp lý hữu hiệu nhất bảo
đảm thi hành nghiêm chỉnh, hiệu quả bản án, quyết định của Tòa án đối với các
nghĩa vụ về tài sản, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cá nhân, tổ
chức, cơ quan có liên quan. Pháp luật quy định và đề cao tính tự nguyện thi hành
của người phải thi hành án theo phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do, mà chủ yếu xuất phát từ phía người phải thi hành án, việc
để các bên liên quan tự nguyện chấp hành đã không mang lại hiệu quả thi hành án
cao. Các biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương

13



mại bằng hiệu lực cưỡng chế Nhà nước mang tính bắt buộc của mình trên thực tiễn
đã chứng minh tính hiệu quả cao và kịp thời. Nếu khơng có chế định cưỡng chế
nhằm thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại, các bên đương sự sẽ có tâm lý chây ì
và thiếu tơn trọng phán quyết của Tịa án nói riêng, pháp luật của Nhà nước nói
chung vì cho rằng Nhà nước thiếu cơ chế xử lý đối với các nghĩa vụ mà họ phải thi
hành, từ đó dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân hàng thương mại không
được đảm bảo. Đối với những người phải thi hành án có thái độ khơng hợp tác,
chống đối thì cưỡng chế thi hành án sẽ là biện pháp sử dụng sức mạnh Nhà nước
buộc họ phải chấp hành để đảm bảo lợi ích hợp pháp bị xâm hại được khơi
phục.[32-Tr.63]
Góp phần nâng cao hiệu quả của cơng tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án dân sự. Nói như vậy bởi lẽ giai đoạn thi hành án là giai đoạn cuối cùng nhằm đưa
phán quyết của Tòa án thực thi trong thực tiễn. Và cưỡng chế thi hành án nói chung,
cưỡng chế thi hành bản án nhằm thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại nói riêng
khi được áp dụng và đạt hiệu quả thì khơng chỉ phán quyết của Tịa án được thực
thi, mà nó cịn mang lại những hiệu quả gián tiếp đối với các giai đoạn tố tụng. Để
giải quyết một vụ án hình sự, phải trải qua các giai đoạn tố tụng theo những thủ tục,
trình tự chặt chẽ do luật định. Tuy nhiên, các giai đoạn tố tụng trước đó gần như sẽ
không thể hiện được nhiều giá trị, bởi nếu thiếu đi giai đoạn thi hành án dân sự thì
phán quyết của Tịa án dù trong lĩnh vực hình sự hay dân sự cũng đều khó có thể
được thực thi một cách đầy đủ, trọn vẹn, thậm chí khơng thể thực hiện. Vì vậy, kết
quả của hoạt động cưỡng chế thi hành án chính là sự phản ánh hiệu quả và giá trị
của hoạt động điều tra, truy tố và xét xử.
Ngồi ra, hiệu lực của hoạt động cưỡng chế có tác dụng lớn trong việc răn
đe, giáo dục ý thức tự giác chấp hành pháp luật của người phải thi hành án, góp
phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân, tăng cường pháp chế. Rõ ràng, với
những kết quả khả quan đã đạt được, cưỡng chế thi hành án dân sự giúp người dân
hiểu rằng Nhà nước có đủ quyền năng pháp lý để thiết lập lại và ổn định trật tự xã
hội. Vì vậy, cưỡng chế thi hành án dân sự bằng việc sử dụng quyền lực của Nhà


14


nước đã có tác dụng trong việc răn đe, giáo dục ý thức tự giác chấp hành pháp luật
của người phải thi hành án nói riêng, ý thức của người dân nói chung. Đồng thời,
hoạt động cưỡng chế thi hành án vơ hình chung cũng góp phần nâng cao ý thức, thái
độ tuân thủ pháp luật của người dân, và cao hơn là tăng cường pháp chế.
1.2. Khái niệm, nội dung, vai trò và các yếu tố tác động đến việc thực
hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng
thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu
hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự
Pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương
mại theo pháp luật thi hành án dân sự được hiểu là tổng hợp các quy định của pháp
luật điều chỉnh, quy định về vấn đề cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm mục đích
thu hồi nợ cho các Ngân hàng thương mại. Các quy định này được cụ thể hóa trong
Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành (các Nghị định, Thông
tư và các văn bản hưỡng dẫn chuyên ngành). Bên cạnh đó, cịn có các quy định
pháp luật có liên quan đến hoạt động cưỡng chế trong lĩnh vực đất đai, ngân hàng…
Các quy định này nêu rõ những hình thức, biện pháp, cách thức, thủ tục thực hiện
việc cưỡng chế; quy định rõ ai là người thẩm quyền được áp dụng biện pháp cưỡng
chế, chủ thể bị cưỡng chế là ai, đối tượng bị cưỡng chế, trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức và cá nhân liên quan trong thực hiện tổ chức cưỡng chế thi hành án
dân sự.[19-Tr.62]
Như vậy, có thể hiểu rằng pháp luật về cưỡng chế thi hành án bản án dân sự
về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại là tập hợp các quy định pháp luật điều
chỉnh các vấn đề về trình tự, thủ tục, đối tượng, chủ thể và các vấn đề khác của chế
định cưỡng chế nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện các nghĩa vụ về
tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án để thu hồi nợ cho các Ngân hàng thương
mại.

Cưỡng chế thi hành án bản án thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại là giải
pháp cuối cùng được áp dụng khi đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan không tự
nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành.

15


Tuy nhiên, với mục đích thi hành các nghĩa vụ dân sự nên pháp luật về cưỡng chế
thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự
cũng có những đặc điểm có bản là:
Thứ nhất, pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân
hàng thương mại trong thi hành án dân sự đảm bảo tính độc lập và chủ động của
chấp hành viên. Trong hoạt động thi hành án dân sự, chấp hành viên là chủ thể được
Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực pháp
luật, do đó khi thi hành nhiệm vụ, về nguyên tắc chấp hành viên chỉ tuân theo pháp
luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ, đặc biệt là khi phải
áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi nợ cho các Ngân hàng thương mại thì chấp
hành viên phải chịu nhiều áp lực trong thực thi nhiệm vụ. Vì vậy, để đảm bảo cho
chấp hành viên thực hiện đúng các quy định pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ cho
Ngân hàng thương mại thì các cơ quan, tổ chức và cá nhân phải có trách nhiệm phối
hợp theo đúng phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình; mọi hành vi cản
trở, can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, chấp
hành viên đều phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. Tính chủ động, độc lập của
chấp hành viên được pháp luật quy định cụ thể tại Điều 20 Luật Thi hành án dân sự,
theo đó bao gồm các thẩm quyền như: kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân
công; ra các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền; thi hành đúng nội dung bản
án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành
án dân sự... Đặc biệt là tính độc lập của chấp hành viên được đề cao trong quá trình
cưỡng chế thi hành án dân sự khi pháp luật cho phép được lựa chọn biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự phù hợp (ví dụ như: Trừ vào thu nhập của người phải

thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do
người thứ ba giữ...). Trong quá trình thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án
dân sự, tính độc lập của chấp hành viên được thể hiện rõ nhất dưới hình thức áp
dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự thông qua việc chấp hành viên lựa
chọn biện pháp cưỡng chế cần áp dụng để tổ chức thi hành. Tuy nhiên, để đảm bảo
cho chấp hành viên được độc lập và chủ động trong việc áp dụng pháp luật về

16


cưỡng chế thu hồi nợ co Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự thì các chủ
thể khác (đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan) cũng phải thực hiện đúng các quyền
và nghĩa vụ của mình theo pháp luật quy định. Ví dụ như: người phải thi hành án
không được cản trở, chống đối việc cưỡng chế thi hành án; cơ quan, tổ chức liên
quan có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự theo đúng quy định
pháp luật; Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm kiểm sát việc áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự cũng như quá trình tổ chức thực hiện biện pháp cưỡng
chế thi hành án dân sự....
Thứ hai, pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân
hàng thương mại trong thi hành án dân sự đảm bảo tôn trọng quyền tự định đoạt của
các đương sự, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội. Đây là một đặc điểm đặc thù
của pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại, bởi lẽ về nguyên
tắc, thi hành án dân sự chủ yếu là thi hành các quyết định của Tịa án mang tính chất
tài sản - đặc trưng của quan hệ dân sự, vì vậy, quyền tự định đoạt và thỏa thuận của
đương sự ln được tơn trọng trong suốt q trình thi hành án, kể cả khi đã áp dụng
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Mặc dù biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ
cho Ngân hàng thương mại chỉ áp dụng khi người phải thi hành án không tự nguyện
thi hành, nhưng sau khi cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp cưỡng chế,
người phải thi hành án vẫn có quyền thỏa thuận với người phải thi hành án về việc
hoãn tổ chức cưỡng chế để tự nguyện thi hành án; người được thi hành án vẫn có

quyền rút yêu cầu thi hành án để cơ quan thi hành án dân sự đình chỉ việc thi hành
án; thậm chí ngay trước khi mở cuộc đấu giá tài sản đã bị kê biên, người phải thi
hành án vẫn có quyền nhận lại tài sản của mình sau khi nộp đủ tiền thi hành án cùng
các chi phí liên quan...Chính vì sự tơn trọng quyền tự định đoạt của đương sự nên
trong một số trường hợp cụ thể, chủ thể có thẩm quyền có thể lựa chọn biện pháp
thích hợp để việc thi hành án được nhanh chóng, đạt hiệu quả trên cơ sở thỏa thuận
của các đương sự và trong những trường hợp như vậy việc thực hiện pháp luật về
cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong thi hành

17


án dân sự không nhất thiết phải theo đúng như nội dung bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật.
Thứ ba, pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng
thương mại trong thi hành án dân sự phải trên cơ sở các trình tự, thủ tục được pháp
luật quy định. Trong thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên
là chủ thể có thẩm quyền được Nhà nước giao trực tiếp thi hành các bản án, quyết
định dân sự có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả cưỡng chế thi
hành án dân sự thì vấn đề quan trọng nhất là chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phải tuân thủ những nguyên tắc, điều kiện, trình
tự pháp luật quy định nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự. Ví dụ như: chấp hành viên phải tuân thủ trình tự, thủ tục về kê
biên tài sản, giao bảo quản tài sản sau kê biên, thẩm định giá tài sản kê biên để đưa
ra đấu giá, giao tài sản cho người trúng đấu giá... Ngồi chủ thể có thẩm quyền áp
dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại, pháp luật cũng
quy định các chủ thể khác cũng phải tuân thủ các trình tự, thủ tục nhất định để đảm
bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự theo đúng quyền và nghĩa
vụ pháp luật quy định. Ví dụ như: đương sự thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đối
với quyết định, hành vi của chấp hành viên theo đúng trình tự, thủ tục về khiếu nại,

tố cáo trong thi hành án dân sự; Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kiến nghị,
kháng nghị theo đúng trình tự, thủ tục về kiến nghị, kháng nghị; Quốc hội, Hội đồng
nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với các chủ thể trong việc thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình cưỡng chế thi hành án dân sự...
1.2.2. Nội dung của pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ
cho Ngân hàng thương mại
Một là, quy định về căn cứ cưỡng chế thi hành án dân sự: việc cưỡng chế thi
hành án phải căn cứ vào Bản án, quyết định có hiệu lực thi hành; Quyết định thi
hành án; Quyết định cưỡng chế thi hành án.
Hai là, quy định về điều kiện cưỡng chế thi hành án dân sự: Áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành án dân sự cần có các điều kiện cơ bản như: người phải thi

18


hành án phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc phải thực hiện hành vi theo bản án,
quyết định có hiệu lực thi hành; người phải thi hành án có điều kiện thi hành án và
người phải thi hành án không tự nguyện thi hành. Từ những điều kiện trên, cho thấy
biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong
thi hành án dân sự chỉ được áp dụng khi người phải thi hành án có nghĩa vụ phải
thực hiện theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền và có thái độ, hành vi không
tự nguyện thi hành mặc dù có điều kiện thi hành án. Có điều kiện thi hành án được
hiểu là trường hợp người phải thi hành án có tài sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ
về tài sản; Tự mình hoặc thơng qua người khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Tuy
nhiên, trong quá trình tác nghiệp, người có thẩm quyền thi hành án cần chú ý về
việc áp dụng thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày kể từ ngày nhận quyết định,
thông báo hợp lệ được quy định tại Điều 45 và Điều 46 Luật thi hành án dân sự
được sửa đổi, bổ sung năm 2014 [24-Tr.63].
Ba là, quy định về nguyên tắc cưỡng chế thi hành án dân sự: Xuất phát từ
đặc trưng của thi hành án dân sự là việc tổ chức thi hành bản án, phần quyết định

của Tịa án về tài sản hoặc một cơng việc nhất định, quyết định của trọng tài, quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh của hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc phải nộp
phí thi hành án nên đối tượng của cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ trong thi
hành án dân sự là tài sản hoặc một cơng việc nhất định. Điều này hồn toàn khác
biệt so với đặc trưng của thi hành án hình sự là nhằm hạn chế hoặc tước đoạt quyền
và lợi ích của người bị kết án. Chính vì vậy cưỡng chế thi hành án hình sự mang
tính cứng rắn và tuyệt đối còn thi hành án dân sự mang tính mềm dẻo hơn. Điều này
thể hiện ở các nguyên tắc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu
hồi nợ trong thi hành án dân sự như; Chủ thể có thẩm quyền chỉ được áp dụng biện
pháp cưỡng chế pháp luật quy định; không được áp dụng biện pháp cưỡng chế trong
thời gian và trường hợp pháp luật cấm; việc cưỡng chế thi hành án dân sự phải
tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết khác.
Bốn là, quy định về các biện pháp cưỡng chế: Theo pháp luật hiện hành thì
chỉ có cơ quan thi hành án và Văn phòng Thừa phát lại mới được Nhà nước trao cho

19


quyền tổ chức thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan có
thẩm quyền và chỉ người có thẩm quyền thi hành án mới có quyền áp dụng các biện
pháp cưỡng chế. Ngồi ra các chủ thể khác, bằng sức mạnh của mình, bắt buộc
người khác phải thi hành án đều trái pháp luật. Để tránh sự lạm quyền của các chủ
thể trong việc cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ trong thi hành án dân sự,
pháp luật đã quy định cụ thể các biện pháp cưỡng chế thi hành án mà người có thẩm
quyền thi hành án có quyền áp dụng, trình tự, thủ tục áp dụng. Hiện nay, pháp luật
quy định các biện pháp cưỡng chế cụ thể như: “1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu
hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án. 2. Trừ vào thu nhập của
người phải thi hành án. 3. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả
tài sản đang do người thứ ba giữ. 4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án.
5. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ. 6. Buộc người phải thi

hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định”. [24-Tr.63]
Năm là, quy định về trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành bản án vê thu hồi nợ
trong thi hành án dân sự: để thực hiện cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân
sự, các biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự đều phải tuân thủ
thủ tục và một số nguyên tắc chung như: xác minh điều kiện thi hành án của người
phải thi hành án trước khi tiến hành cưỡng chế; xây dựng kế hoạch cưỡng chế;
thông báo hợp lệ các văn bản quyết định về thi hành án dân sự cho đương sự, người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, các cơ quan hữu quan theo luật định; Tuân thủ các
quy định của pháp luật về thời hạn, thời hiệu trước, trong và sau khi cưỡng chế...
1.2.3. Vai trò của pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho
Ngân hàng thương mại
Một là, nhằm củng cố, tăng cường quyền lực nhà nước, quy định nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của Chấp hành viên và của các tổ chức, cá nhân có liên
quan trong thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự để thu hồi nợ cho các Ngân hàng
thương mại.
Thông qua các quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung và cưỡng
chế thi hành án dân sự để thu hồi nợ cho các Ngân hàng thương mại nói riêng, Nhà

20


×