Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tải Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy Tập làm văn miêu tả ở lớp 4 - Sáng kiến kinh nghiệm môn Tập làm văn lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.68 KB, 15 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b> A. PHẦN MỞ ĐẦU</b>


<b>1. Lí do chọn sáng kiến: Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy Tập làm </b>
<b>văn miêu tả ở lớp 4</b>


- Mơn tập làm văn là một mơn học chính trong chương trình lớp 4, bản thân
tơi đang là giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy, đón nhận chương trình thay đổi
kỹ năng sống vào mơn tập làm văn, môn đạo đức, khoa học, nên bản thân cần phải
nỗ lực phấn đấu đảm nhiệm chức trách của mình đối với học sinh. Nhìn từ phía
khoa học và cơng nghệ thì đây là thời đại văn minh thơng tin với nền kinh tế dựa
trên trí thức. Thời đại văn minh mới này là một bước phát triển vượt bậc so với
thời đại văn minh nông nghiệp với nền kinh tế dựa trên khống sản là chính.
Những đặc điểm chủ yếu của thời đại văn minh thơng tin có thể tóm tắt trong bốn
yếu tố: Thơng tin- Trí thức trở thành tài nguyên quan trọng nhất. Khoa học- Công
nghệ trở thành lực lượng sản xuất và trực tiếp. Hàm lượng trí tuệ trong từng sản
phẩm ngày càng tăng và cuối cùng là máy tính cá nhân và Internet là phương tiện
lao động phổ biến nhất và có hiệu quả nhất.


Với sáng kiến này mục đích nghiên cứu chính là tìm phương pháp tổ chức
thích hợp nhất trong q trình dạy các dạng bài tập làm văn. Từ đó vận dụng linh
hoạt vào hướng dẫn rèn kỹ năng làm các dạng bài tập làm văn miêu tả cho học sinh
một cách hiệu quả nhất.


<b>2. Nhiệm vụ của sáng kiến:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

phân môn thuộc môn Tiếng Việt (tập đọc, luyện từ và câu, chính tả, kể
chuyện).Chính vì thế, việc dạy và học Tập làm văn là vấn đề ln cần có sự đổi
mới. Khơng thể cứ áp dụng mãi phương pháp học hôm qua vào hôm nay và mai
sau.


<b>3. Đối tương nghiên cứu: </b>



- Là học sinh lớp 4 Trường TH Đạo Đức


"Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy Tập làm văn miêu tả ở lớp 4".
<b>4. Phạm vi nội dung nghiên cứu:</b>


- Từ tháng 09 năm 2018 đến nay. Tôi đã áp dụng sáng kiến, "Một số biện pháp
đổi mới phương pháp dạy Tập làm văn miêu tả ở lớp 4".


<b>5. Phương pháp nghiên cứu:</b>


Để hồn thành sáng kiến này tơi đã sử dụng một số phương pháp sau:


- Đọc, phân tích các tài liệu có liên quan về vấn đề bồi dưỡng cho giáo viên dạy
giỏi ở trường Tiểu học.


- Phương pháp điều tra: Điều tra thực trạng trong cơng tác giảng dạy.
- Phương pháp dạy học tích cực


- Phương pháp nghiên cứu tài liệu và các văn bản chuyên môn .
- Phương pháp trải nghiệm thực tế.


- Phương pháp kiểm tra thường xuyên .


- Phương pháp khen thưởng và nhân rộng điển hình


+ Qua quá trình thực hiện các biện pháp nêu trên vào việc bồi dưỡng cho học
sinh có chuyển biến rõ rệt, có ý thức cao cụ thể như sau:


- Kết cấu bài văn miêu tả cũng tuân thủ kết cấu 3 phần:



<b>+ Mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả, thể hiện tình cảm, quan hệ của người</b>
miêu tả với đối tượng miêu tả.


<b>+ Thân bài: Tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng miêu tả ở những góc</b>
nhìn nhất định.


<b>+ Kết luận: Nêu những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ trực tiếp của</b>
người miêu tả và của mọi người nói chung đối với đối tượng miêu tả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

cái đẹp, có người lại nói văn học là nhân học, văn học là tình cảm, đạo đức lý
tưởng, là tình yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên và con người. Văn có được nhờ
cảm xúc của tâm hồn, nó làm cho tâm hồn con người thêm phong phú và sâu
sắc. Chương trình Tập làm văn lớp 4 gồm 68 tiết, trong đó văn miêu tả chiếm 38
tiết gồm các mảng kiến thức sau:


- Thế nào là miêu tả?


- Quan sát để miêu tả cho sinh động.


- Trình tự miêu tả ( Người, cảnh, đồ vật, con vật, cây cối... ).


- Cấu tạo đoạn văn, bài văn miêu tả ( Người, cảnh, đồ vật, con vật, cây cối...)
- Các kiến thức trên được cụ thể hóa thành hai loại bài. Đó là, loại bài hình
thành kiến thức và loại bài luyện tập thực hành.


<b> B. PHẦN NỘI DUNG</b>
<b>1. Cơ sở để viết sáng kiến:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

sinh lớp 4.” Qua đó giúp giáo viên tự điều chỉnh phương pháp dạy học để tiết học


diễn ra nhẹ nhàng và có hiệu quả cao.


- Bản thân tơi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 4 Tại điểm Trương Thơn
Thượng Xã Đạo Đức - Quang Bình - Hà Giang.


Chương trình phân mơn tập làm văn lớp 4 hiện đang học thể loại bài miêu tả, nhìn
chung các em đã nắm được cấu trúc một bài văn miêu tả nhưng bài làm của các em
còn viết theo một khối mịn khn sáo, kém hấp dẫn, ít cảm xúc và nghèo hình
ảnh, đặc biệt là các em chưa biết sử dụng các biện pháp tu từ, các biện pháp nghệ
thuật như so sánh, nhân hóa…


- Người giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm lý của học sinh để từ đó tìm ra
hướng đi đúng, tìm ra những phương pháp phù hợp khi lên lớp.


Chúng ta đã biết, tâm lý chung của học sinh Tiểu học là ln muốn khám phá, tìm
hiểu những điều mới mẻ. Từ đó hình thành và rèn luyện cho các em quan sát, cách
tư duy về đối tượng miêu tả một cách bao quát, toàn diện và cụ thể tức là quan sát
sự vật hiện tượng về nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau, từ đó các em có
cách cảm, cách nghĩa sâu sắc khi miêu tả. Ở tuổi học sinh Tiểu học từ hình thức
đến tâm hồn, mọi cái mới chỉ là sự bắt đầu của một q trình. Do đó những tri thức
để các em tiếp thu được phải được sắp xếp theo một trình tự nhất định. Trí tưởng
tượng càng phong phú bao nhiêu thì việc làm văn miêu tả sẽ càng thuận lợi bấy
nhiêu. Văn miêu tả là loại văn thuộc phong cách nghệ thuật đòi hỏi viết bài phải
<b>giàu cảm xúc, tạo nên cái " hồn" chất văn của bài làm. Muốn vậy giáo viên phải</b>
luôn luôn nuôi dưỡng ở các em tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn nhiên, một tấm
lịng dễ xúc động và ln hướng tới cái thiện.


- Cần giúp học sinh hiểu rõ những đặc điểm cơ bản của văn miêu tả ngay từ tiết
đầu tiên của thể loại bài này.Văn miêu tả mang tính chất thơng báo thẩm mỹ, dù
miêu tả bất kỳ đối tượng nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì miêu tả cũng khơng


bao giờ là sự sao chép, chụp ảnh lại những sự vật hiện tượng một cách máy móc mà là
kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Đó là sự miêu tả
thể hiện được cái riêng biệt của mỗi người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

sáng tạo của ngườu viết nhưng như vậy khơng có nghĩa là cho phép người viết
"Bịa" một cách tùy ý. Để tả hay, tả đúng thì phải tả chân thật, giáo viên cần uốn
nắn để học sinh tránh thái độ giả tạo, giả dối, bệnh cơng thức sáo rỗng, thói già
trước tuổi.


Mặt khác giáo viên cần giúp các em nắm được: trong văn miêu tả, ngôn ngữ
sử dụng phải là ngơn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, giàu nhịp điệu âm thanh,
đây là một trong những miêu tả trong sinh học, địa lý… và các thể loại văn khác.
Từ việc hiểu rõ đặc điểm của thể loại văn miêu tả, hiểu rõ con đường mình cần
đi và đích mình cần tới, chắc chắn học sinh sẽ thận trọng hơn khi chọn lọc từ ngữ,
sẽ gọt giũa kỹ hơn từng lời, từng ý trong bài văn và như vậy chất lượng bài làm
của các em sẽ tốt hơn.


- Cung cấp vốn từ và giúp học sinh biết cách dùng từ đặt câu, sử dụng các biện
pháp và giải pháp nghệ thuật khi miêu tả là hết sức cần thiết.


<i>Muốn một bài văn hay, có "hồn", có chất văn thì các em phải có vốn từ ngữ phong</i>
phú và phải biết cách lựa chọn từ ngữ khi miêu tả cho phù hợp, Chính vì vậy giáo
viên cần chú ý cung cấp vốn từ cho các em khi dạy tập đọc, luyện từ và câu và cả
trong khi dạy các môn khác hay trong những buổi nói chuyện trong các tiết sinh
hoạt. Hướng dẫn các em lập sổ tay văn học theo các chủ đề, chủ điểm, khi có một
từ hay, một câu văn hay các em ghi vào sổ tay theo từng chủ điểm và khi làm văn
có thể sử dụng một cách dễ dàng. Giáo viên cần tiến hành theo mức độ yêu cầu
tăng dần, bước đầu chỉ yêu cầu học sinh đặt câu đúng, song yêu cầu cao hơn là
phải đặt câu có sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ láy, từ ngữ
gợi tả hình ảnh, âm thanh hay những từ biểu lộ tình cảm.



- Khi làm một bài văn miêu tả về con mèo chúng ta cần miêu tả:
- Chú ta có cái đuôi thon dài như một cái măng ngọc.


Giáo viên hỏi: Em nào nhận xét cách đặt câu hỏi của bạn? Học sinh có thể nhận
xét: bạn đã sử dụng biện pháp so sánh để so sánh cái đuôi mèo như một cái măng
ngọc. Giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm đơi tìm câu khác để miêu tả cái đuôi
của chú mèo sao cho sinh động hơn:


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

- Hay: Cái đuôi dài trắng điểm đen phe phất thướt tha cùng với tấm thân thon
dài mềm mại, uyển chuyển trông thật đáng yêu.


- Như vậy cùng là miêu tả về bộ lông của chú gà trống, cái đuôi của chú mèo
nhưng những câu văn sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ gợi tả,
gợi cảm như các câu trên thì hiệu quả khác hẳn, ta thấy miêu tả như vậy vừa sinh
động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người đọc, người nghe.


- Tập làm văn và phân môn thực hành, tổng hợp tất cả những phân môn thuộc
môn Tiếng Việt , vì vậy muốn dạy tốt tập làm văn cần dạy tốt


Ví dụ: Khi học về câu kể Ai là gì ? học sinh hiểu tác dụng, cấu tạo của kiểu câu
này, biết nhận ra nó trong đoạn văn và từ đó học sinh biết đặt câu kể Ai là gì ? để
giới thiệu hoặc nêu nhận định về một con người, một vật:


Chích bơng là con chim rất đáng u.
Hoa đào, hoa mai là bạn của mùa xuân.
Sầu riêng là loại trái quý của miền Nam.


- Nội dung của bài văn có hấp dẫn, có lơi cuốn được người đọc hay khơng một
phần phụ thuộc vào hình thức biểu hiện bên ngồi của nó, đó chính là chữ viết. Vì


vậy muốn có bài văn hấp dẫn thì giáo viên chú ý rèn kỹ năng viết cho học sinh
trong các giờ chính tả. Chính tả giúp học sinh viết đúng, viết nhanh, viết đẹp và
trình bày rõ ràng, sạch sẽ.


- Nếu như tập đọc rèn kỹ năng cảm thụ cho học sinh, chính tả rèn kỹ năng viết
cho học sinh thì phân mơn kể chuyện rèn kỹ năng nói hay cách nói khác là kỹ năng
sản sinh văn bản dưới dạng nói của học sinh. Kể chuyện vừa bồi dưỡng tình cảm,
giúp học sinh biết quý trọng người tốt, phê phán cái xấu, vừa giúp học sinh học tập
cách miêu tả, cách diễn đạt trong mỗi câu chuyện.


Tóm lại các phân môn của Tiếng Việt tuy mỗi phân môn có nội dung riêng,
phương pháp riêng nhưng chúng khơng hồn tồn độc lập với nhau mà ln bổ
sung cho nhau, kiến thức của phân môn này hỗ trợ cho việc học những phân môn
khác. Với phân môn Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của những phân
môn khác, muốn học tốt Tập làm văn học sinh cần học tốt các phân mơn cịn lại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Bài văn không thể thiếu phần mở bài và kết bài, những phần này thường thu Hút
người đọc, người nghe chú ý cách đặt vấn đề và cách cảm nghĩ về vấn đề mà người
trình bày. Chính vì vậy việc rèn luyện cho học sinh xây dựng một đoạn văn mở bài
và kết bài là rất cần thiết.


<b> - Đoạn văn mở bài: Có hai cách mở bài mà học sinh được học đó là mở bài</b>
trực tiếp và mở bài gián tiếp. Không nhất thiết phải gị bó học sinh làm mở bài theo
cách nào để cho các em tự chọn cho mình cách mở bài hợp lý nhất và phù hợp với
khả năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ một vấn đề mình cần
nói tới, có thể bắt đầu bằng những câu thơ, những câu hát,…nhưng phải bám sát
vào yêu cầu của đề, không lan man, xa đề, không rườm ra. Giáo viên có thể cho
học sinh làm việc nhóm đơi hoặc cá nhân tự nêu cách vào bài của mình, sau đó cho
các bạn nhận xét. Chẳng hạn với bài tả con mèo, một học sinh mở bài:''Hè vừa rồi,
mẹ em đi chợ mua được một con mèo tam thể. Chú ta là thành viên thứ năm của


gia đình em, nay đã được bốn tháng."


- Giáo viên nêu câu hỏi: Đây là cách vào bài nào?( trực tiếp)


- Giáo viên nêu yêu cầu để học sinh nêu cách mở bài khác sinh động hơn:"
Nhà em đã từ lâu khơng có một chú chuột nào dám bén mảng tới vì có một chú
lính gác cừ khơi, đó chính là chú Mướp. Mướp ta đã được một năm tuổi, nó thật
hiền dịu nhưng cũng thật tinh nhanh, nó như người bạn thân của em."


Hay với đề bài miêu tả cây đa cổ thụ nơi làng quê, học sinh mở bài như sau:


"Ở đầu làng em có một cây đa cổ thụ nó dễ phải bằng trăm năm tuổi. Cả làng
gọi đó là cây đa ơng Đài , vì ơng Đài là người trồng ra nó, nhưng ơng Đài là ai,
sống và chết từ bao giờ thì cả làng khơng ai nhớ cả." Học sinh khác lại viết:"Từ
bến đị phía xa em đã nhìn thấy làng em. Phải qua một cánh đồng bao la, một con
đường liên xã dài hơn hai cây số, em đã nhìn thấy làng quê yêu dấu: Cây đa cổ thụ
in bóng xanh thẫm trên bầu trời. Mỗi lần đi xa về, em cảm động tưởng như cây đa
làng quê đang giơ tay vẫy chào, đón đợi."


Từ các cách mở bài khác nhau các em nhận xét và tìm ra ý đúng, ý hay để mở
bài một cách hợp lý nhất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

rất quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người viết
với đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của
mình làm phần kết luận khơ cứng, gị bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em
thường làm kết bài không mở rộng, kết bài như vậy khơng sai nhưng chưa hay,
chưa hấp dẫn người đọc. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải gợi ý để học sinh biết
cách làm phần kết bài có mở rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên thơng
qua những câu hỏi mở, sau đó cho các em nhận xét, sửa sai và chắt lọc để có được
những kết bài hay.



"Cây gạo có thể sống đến nghìn năm. Nó là nhân chứng thầm lặng của dịng đời.
Cơ giáo em nói thế. Đi học về, đứng trên bên đị, hoặc đi xa về, ngắm nhìn ba cây
gạo, em thấy lịng bồn chồn xơn xao. Cây gạo là hồn q, là tình quê vơi đầy."


Kết quả bài kiểm tra phân môn tập làm văn cuối năm học: 2017-2018 như
sau:


Sĩ số Năm học Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành
23 2017 - 2018 SL<sub>8</sub> <sub>34,78</sub>% SL<sub>15</sub> <sub>65,22</sub>% SL<sub>00</sub> <sub>00</sub>%
<b>2. Thực trạng vẫn đề cần giải quyết</b>


- Văn chương không phải là sợ đúng, sai với làm văn đúng thôi chưa đủ phải
thấm đượm cảm xúc của người viết. Song tình cảm khơng phải thứ gị ép bắt buộc,
tình cảm ấy phải chân thực, hồn nhiên, xuất phát từ chính tâm hồn các em. Bài văn
không thể hay nếu thiếu cảm xúc của người viết, cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần
kết bài mà còn thể hiện ở từng câu, từng đoạn của bài. Vì vậy giáo viên cần chú ý
rèn cho học sinh cách bộc lộ cảm xúc trong bài văn một cách thường xuyên liên
tục, từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài đến những tiết luyện tập xây dựng đoạn văn,
tiết viết bài và ngay trong tiết trả bài nữa.


- Chuẩn bị kỹ càng phần củng cố bài trong các tiết tập làm văn:


Củng cố bài là phần chiếm không nhiều thời gian trong cả tiết học nhưng lại là
lúc giáo viên tóm tắt tồn bộ nội dung kiến thức của bài và mở ra hướng kiến thức
mới cho tiết học sau, vì vậy cần chú ý ở phần củng cố bài hấp dẫn, thu hút được sự
chú ý của các em.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

trước, sao chép, dễ tạo cho các em cách làm văn sáo rỗng, na ná như nhau mà nên
đưa ra những đoạn văn miêu tả những tác giả khác nhau. Cùng trong một tiết học,


có thể đưa ra nhiều đoạn văn miêu tả tồn diện, phong phú hơn và từ đó các em sẽ
biết chắt lọc, tìm tịi những chi tiết đặc sắc, học tập được các câu, các từ hay, cách
diễn đạt hợp lý cho bài làm của mình.


- Khi đưa ra các đoạn văn mẫu cần phải phân tích, đánh giá để học sinh thấy
được cái hay, cái đẹp trong từng đoạn văn, giúp học sinh nhận rõ nội dung miêu tả,
sự khác biệt trong miêu tả và nét đặc sắc trong bài văn.


<b> - Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài: </b>


Tất cả những công việc, từ những việc làm thông thường hàng ngày đến việc
nghiêm túc đều thực hiện theo một chu trình nhất định, bắt đầu từ việc lập kế
hoạch đến việc triển khai thực hiện kế hoạch đó và cuối cùng là khâu kiểm tra đánh
giá lại những việc đã làm so với kế hoạch đó và cuối cùng là khâu kiểm tra đánh giá
lại những việc đã làm so với kết quả bỏ qua bất cứ khâu nào trong các khâu trên, nhất
là các khâu kiểm tra, đánh giá: có kiểm tra đánh giá thì mới có thể biết được những
ưu, khuyết điểm trong công việc đã thực hiện, để điều chỉnh cho những việc tiếp theo.
- Dạy tập làm văn cũng khơng nằm ngồi chu trình chung đó. Mỗi loại bài
thường dành một tiết kiểm tra để học sinh thực hành viết văn, quá trình thực hành
ấy cần được xem xét, đánh giá rút kinh nghiệm thật cẩn thận, nghiêm túc thì mới
có tác dụng rèn kỹ năng viết văn cho học sinh, tổ chức rút kinh nghiệm thực hiện
tiết trả bài chính là thực hiện khâu cuối cùng "kiểm tra, đánh giá "nhằm mục đích
giúp học sinh hiểu được những nhận xét chung của giáo viên và kết quả bài viết
của cả lớp để liên hệ với bài làm của mình giúp học sinh biết sửa lỗi dùng từ, ngữ
pháp, diễn đạt, chính tả, bố cục bài của mình và của các bạn, từ đó học sinh có thể
học hỏi những câu văn, đoạn văn hay của bạn. Với mục đích như vậy thì tiết trả bài
khơng thể làm qua loa đại khái, càng không thể bớt xén thời lượng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

để các em trao đổi với bạn về cách làm bài của mình, đọc cho nhau nghe các câu
hoặc giúp nhau sửa lỗi trong bài làm. Từ đó học sinh sẽ thấy rõ ưu, nhược điểm


trong bài làm của mình, của bạn và biết tự sửa chữa hoặc viết lại đoạn văn của
mình cho đạt yêu cầu. Sau những trao đổi như vậy cũng sẽ giúp học sinh tránh
được những lỗi khơng đáng có trong thực hành viết văn và trong cả giao tiếp hàng
ngày.


- Chuẩn bị chu đáo kế hoạch bài học góp phần làm nên 50% sự thành cơng
trong dạy học:


<b> - Trong bất kỳ hoạt động nào việc chuẩn bị cũng hết sức quan trọng, chuẩn bị cũng</b>
chính là kế hoạch cho cơng việc mình định làm, đó là việc làm đầu tiên, tất yếu của mỗi
hoạt động. Soạn bài là việc làm đầu tiên, tất yếu của người giáo viên, Bài soạn chính là
bản kế hoạch của giờ lên lớp, ngày nay được gọi là kế hoạch bài học.


- Để có được kế hoạch bài học cụ thể, rõ ràng có chất lượng, có tác dụng thiết
thực, đem lại hiệu quả cao, người giáo viên phải huy động tối đa tất cả năng lực,
phẩm chất của mình như năng lực hiểu biết và chế biến tài liệu, năng lực hiểu học
sinh, năng lực ngơn ngữ…lịng u nghề, niềm tin sự nhiệt tình và lịng đam mê
nghề nghiệp. Giáo án có chất lượng phải chuyển hố được những kiến thức của
sách vở đến với học sinh một cách nhẹ nhàng, tự nhiên tức là giáo án được thực
hiện hoá qua bài giảng trên lớp chứ không thể là giấy vô tri, vô giác chỉ để giám
<i>hiệu ký duyệt cho "đủ thủ tục"</i>


- Mỗi giáo viên cần nhận xét sâu sắc tầm quan trọng của việc chuẩn bị kế hoạch
bài học trước khi lên lớp, kế hoạch ấy có thể được ghi chép lại cẩn thận trong giáo
án, cũng có thể là tự suy nghĩ sắp xếp trong trí óc miễn là nó phải được thực hiện
một cách nghiêm túc và hết sức tự giác. Có kế hoạch bài giảng chu đáo tức là giáo
viên đã chuẩn bị tốt mọi nội dung thực hiện trên lớp, từ tiết lý thuyết đến các tiết
thực hành xây dựng đoạn văn và tiết trả bài, từ phần kiểm tra bài cũ đến phần củng
cố bài học. Như vậy giáo viên có thể thực hiện được bảy biện pháp trên một cách
dễ dàng và chất lượng dạy học chắc chắn sẽ được nâng cao.



<b>3. Các giai pháp biện pháp thực hiện.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

biết, tâm lý chung của học sinh Tiểu học là luôn muốn khám phá, tìm hiểu những
điều mới mẻ. Từ đó hình thành và rèn luyện cho các em quan sát, cách tư duy về
đối tượng miêu tả một cách bao quát, toàn diện và cụ thể tức là quan sát sự vật
hiện tượng về nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau, từ đó các em có cách cảm,
cách nghĩa sâu sắc khi miêu tả. Ở tuổi học sinh Tiểu học từ hình thức đến tâm hồn,
mọi cái mới chỉ là sự bắt đầu của một q trình. Do đó những tri thức để các em
tiếp thu được phải được sắp xếp theo một trình tự nhất định.


<i> 2- Với đặc trưng của môn “Tập làm văn” cùng các mâu thuẫn giữa yêu cầu</i>
của xã hội, nhu cầu hiểu biết của học sinh với thực trạng giảng dạy của giáo viên,
việc học của học sinh trường tôi, đồng thời để củng cố nâng cao kiến thức, kỹ năng
<i>làm các bài “Tập làm văn” cho học sinh lớp 4. Tôi đã nghiên cứu và đi sâu vào</i>
một số vấn đề sau:


<i>1. Nắm vững kiến thức cần ghi nhớ ở mỗi bài.</i>
<i>2. Nghiên cứu kĩ nội dung cần giảng dạy.</i>


<i>3. Tổ chức giảng dạy theo trình độ học tập của học sinh. </i>
<i>4. Cung cấp một số mẹo để học sinh dễ nhớ bài.</i>


<i>5. Thiết kế trò chơi để củng cố bài và gây hứng thú học tập cho học sinh.</i>
<i> 6. Tổ chức đánh giá kết quả học tập của học sinh theo đúng chuẩn KTKN của</i>
<i>mơn học. Cịn đối với học sinh, trước hết tôi yêu cầu học sinh thực hiện theo các </i>
<i>bước sau:</i>


<i> 1. Đọc thật kỹ đề bài.</i>



<i> 2. Nắm chắc yêu cầu của đề bài. Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố đã cho và</i>
<i>yếu tố phải tìm.</i>


<i> 3. Vận dụng kiến thức đã học để thực hiện lần lợt từng yêu cầu của đề bài.</i>
<i> 4. Kiểm tra đánh giá.</i>


<i> Đặc biệt tôi cũng mạnh dạn đề ra từng bước hướng dẫn các phương pháp rèn</i>
<i>luyện kỹ năng làm các dạng bài “Tập làm văn”. Muốn học sinh làm bài một cách</i>
có hiệu quả, trước hết các em phải nắm chắc kiến thức, vì đó là bước quan trọng
cho cả giáo viên và học sinh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Muốn làm được việc đó trước tiên học sinh phải hiểu rõ đặc điểm của nội
<i>dung các chủ điểm mà phân môn “ Tập làm văn” cần cung cấp.</i>


Cung cấp vốn từ và giúp học sinh biết cách dùng từ đặt câu, sử dụng các biện
pháp và giải pháp nghệ thuật khi miêu tả là hết sức cần thiết. Hướng dẫn các em
lập sổ tay văn học theo các chủ đề, chủ điểm, khi có một từ hay, một câu văn hay
các em ghi vào sổ tay theo từng chủ điểm và khi làm văn có thể sử dụng một cách
dễ dàng. Giáo viên cần tiến hành theo mức độ yêu cầu tăng dần, bước đầu chỉ yêu
cầu học sinh đặt câu đúng, song yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử dụng biện
pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ láy, từ ngữ gợi tả hình ảnh, âm thanh
hay những từ biểu lộ tình cảm chân thật trong bài Tập làm văn.


<b>4. Hiệu quả sáng kiến</b>


- Dạy như sách đã khó nhưng dạy để sách trở thành vốn tri thức phát triển của
học sinh lại càng khó hơn. Với tập làm văn, người dạy phải gửi cả tâm hồn mình
vào bài dạy, thầy trị phải cùng đắm mình vào đối tượng miêu tả theo một dịng
cảm xúc, cùng hồ chung tình cảm để cùng tìm hiểu về cảm nhận với niềm say mê,
thích thú. Muốn vậy người giáo viên phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi lên


lớp. Chuẩn bị đầy đủ về tâm thế, về nội dung, phương pháp, đồ dùng, phương tiện
dạy học, mục tiêu, ý nghĩa giáo dục, khả năng, trình độ của học sinh. Phải tìm tịi,
nghiên cứu để có được những câu hỏi gợi mở phù hợp với trình độ học sinh, chuẩn
bị cả những từ, những câu văn thích hợp để sửa sai hoặc để làm mẫu cho học sinh.
Nó địi hỏi giáo viên phải nỗ lực sáng tạo trong suốt quá trình dạy học. Chỉ có
nghiên cứu sáng tạo mới cho giáo viên có được những giờ dạy văn miêu tả mới
mẻ, hiệu quả cao. Nếu khơng có những sáng tạo mới trong dạy tập làm văn nhất là
<b>văn miêu tả thì giờ dạy văn miêu tả chỉ là sự liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu</b>
tả, giờ học sẽ gượng ép, gị bó, thiếu tâm hồn văn học.


* Kết quả bài kiểm tra phân mơn tập làm văn cuối học kì I năm học:
2018-2019 như sau:


Sĩ số Năm học Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành
20 2018 - 2018 SL<sub>15</sub> <sub>75</sub>% SL<sub>5</sub> <sub>25</sub>% SL<sub>00</sub> <sub>00</sub>%


- Dự kiến chỉ tiêu và chất lượng bài kiểm tra phân môn tập làm văn cuối năm
học 2018 - 2019 như sau:


Sĩ số Năm học Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

17 75 3 15 00 00


<b>C. Phần kết luận và kiến nghị .</b>
<b>1. kết luận</b>


- Trước những yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, thực hiện đổi
mới chương trình sách giáo khoa nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực trong
công cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay. Việc nâng cao chất lượng
dạy học là một trong những yêu cầu trọng tâm của chiến lược phát triển giáo dục.


Một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục đó là đội ngũ giáo
viên, để đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục, giáo viên phải không ngừng học hỏi,
sáng tạo trong giảng dạy, đem hết khả năng và niềm đam mê, lịng nhiệt tình cho
cơng tác thì mới có được những kết quả như mong muốn. Với việc dạy tập làm
văn, nhất là văn miêu tả 4 thì việc làm này càng cần thiết hơn bởi việc dạy tập làm
văn là rất khó, học sinh lớp 4 tuy đã gần cuối cấp tiểu học nhưng việc làm văn
cũng mới dừng ở mức độ "tập", nội dung chương trình lại hoàn toàn mới, năm thứ 3
được thực hiện nên còn nhiều bỡ ngỡ cả về thày và trò.


- Không phải ai sinh ra cũng mang sẵn trong mình một tâm hồn văn chương
mà khả năng ấy phải được bồi đáp dần qua năm tháng, qua trang sách và những
bài giảng hàng ngày của thày cơ. Muốn có được khả năng ấy của mỗi học sinh thì
chính mỗi giáo viên phải định hướng, gợi mở cho các em phương pháp học tập như
những cây non được ươm trồng cần bàn tay con người chăm sóc, vun xới thì nó sẽ
trở nên tươi tốt. Với học sinh lớp 4, các em không thể vừa bắt tay vào viết văn đã
có được những dịng văn hay mà văn hay là kết quả của một quá trình rèn luyện
liên tục, bền bỉ, dẻo dai. Văn hay khơng thể có được ở những học trị lơi là đèn
sách. Với tinh thần đó, việc rèn kỹ năng làm văn vừa để nhằm mục đích nâng cao
năng lực viết văn vừa nhằm nâng cao ý thức tự rèn luyện của học sinh. Đó chính là
động lực thúc đẩy tơi hồn thành bài tập nghiên cứu và cung cấp cho cac em những
đoạn văn mẫu…giúp các em mở rộng vốn từ, mở rộng vốn hiểu biết và từ đó học tập vận
dụng vào bài làm của mình. sinh, giúp học sinh điều chỉnh những sai sót mắc phải
<b>trong bài viết để bài viết sau sẽ hoàn chỉnh hơn, hấp dẫn hơn.. </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Để nâng cao chất lượng giảng dạy mơn tiếng việt nói chung và phân mơn mơn
tập làm văn nói riêng cần rèn luyện kỹ năng viết văn cho học sinh, tôi mạnh dạn xin có
một số đề xuất sau đây :


Đối với sở giáo dục và Phòng giáo dục :



- Hàng năm cần tổ chức các lớp học bồi dưỡng thường xun để góp phần
nâng cao trình độ chun môn nghiệp vụ cho giáo viên.


Đối với nhà trường:


- Tăng cường đầu tư nhiều loại sách tham khảo, sách nghiệp vụ để giáo viên
có điều kiện nghiên cứu học tập chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao tay nghề.


- Duy trì và thực hiện tốt các buổi sinh hoạt chun mơn có chất lượng và
<b>hiệu quả cao. </b>


<i> Đạo Đức, ngày 28 tháng 2 năm 2019</i>
<b> Phê duyệt của thủ trưởng đơn vị Người viết sáng kiến </b>


<b> </b>


</div>

<!--links-->

×