Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

MỘT SỐ ĐỀ VĂN THAM KHẢO HKI 12 - LỚP 12A TRƯỜNG THPT VĨNH BÌNH BẮC-KIÊN GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.73 KB, 14 trang )

MỘT SỐ ĐỀ VĂN THAM KHẢO
Đề 1: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến:
“Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc,
….
Sơng Mã gầm lên khúc độc hành”
Gợi ý
1. Giới thiệu về tác giả, hoàn cảnh sáng tác, giới thiệu đoạn trích
- Quang Dũng (1921-1988), quê ở huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây. Ông làm thơ, viết văn và vẽ tranh. Tiêu
biểu là tập thơ Mây đầu ô (1986).
- Tây Tiến in trong tập Mây đầu ô. Bài thơ ra đời gắn với một chặng đường hoạt động trong quân đội của
nhà thơ.
- Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào bảo vệ
biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà
Nội.
- Bài thơ ra đời khi Quang Dũng rời xa đơn vị, nỗi nhớ Tây Tiến, nhớ đồng đội thôi thúc và tạo nguồn cảm
hứng cho nhà thơ.
- Bài thơ gồm bốn đoạn. Đây là đoạn là đoạn thứ ba trong thi phẩm.
2. Cảm nhận đoạn thơ
a) Sơ lược về đoạn thơ
Trên cái nền hùng vĩ và diễm lệ của núi rừng miền Tây (đoạn thơ 1 và 2), tới khổ thơ này chân dung người
lính Tây Tiến được thể hiện qua dòng hồi tưởng và nỗi nhớ của Quang Dũng. Hình ảnh người lính Tây Tiến
được tái hiện với tầm vóc bi tráng khác thường, tầm vóc của những con người "Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh" song vẫn đậm chất lãng mạn, thơ mộng, hào hoa.
b) Hai câu thơ đầu
"Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm"
Bệnh sốt rét làm rụng hết tóc và màu da xanh như lá của đồn binh Tây Tiến là hiện thực khắc nghiệt
được diễn tả bằng phép tạo hình thật dữ dội: vừa tột cùng cơ cực (khơng mọc tóc) vừa lẫm liệt kiêu hùng (dữ
oai hùm). Hai câu thơ bật lên từ hiện thực trần trụi mà vẫn tạo được vẻ đẹp khác thường của người lính. Cụm
từ "dữ oai hùm" thể hiện cái đẹp của dũng khí, nét oai phong của người chiến binh. Người chiến sĩ Tây Tiến
mang cái oai linh của núi rừng trong dáng vẻ lẫn cốt cách của mình.


c) Hai câu thơ tiếp theo diễn tả sinh động vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ý chí đánh giặc "Quyết
tử cho Tổ quốc quyết sinh" được diễn tả qua hình ảnh "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới". Người lính với ý
chí ấy lại rất lãng mạn, hào hoa trong đời sống tình cảm: q hương, đơi lứa. Cái chí và cái tình của người lính
được thể hiện thật đẹp, lãng mạn. Cái chung và cái riêng không mâu thuẫn nhau, tạo nên vẻ đẹp tinh thần của
người chiến sĩ Tây Tiến.
d) Hai câu 5 và 6
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ" là một phần bức tranh hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh: mất
mát, đau thương. Người lính Tây Tiến khơng ngần ngại nhìn thẳng vào hiện thực đó. Họ sống có lý tưởng cao
đẹp, dám xả thân vì Tổ quốc, "chẳng tiếc đời xanh". Câu thơ 6 mang âm hưởng của những câu thơ cổ diễn tả
"Chí làm trai dặm nghìn da ngựa", coi cái chết nhẹ tựa lơng hồng. Đó là lời thề cảm tử trước lúc lên đường.
(Chú ý các từ Hán Việt: "biên cương", "viễn xứ", làm tăng vẻ đẹp tôn nghiêm của những nấm mồ người
chiến sĩ).
e) Hai câu thơ cuối:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Gợi âm hưởng bi tráng. Ngời lính Tây Tiến hy sinh, trở về với đất mẹ trong sự tiếc thương, ngưỡng
mộ của bao thế hệ, "Áo bào thay chiếu" là sự thật bi thảm: những người lính hy sinh khơng có cả đến manh
chiếu bọc thân. Song thái độ yêu thương trân trọng đối với đồng đội và cảm hứng lãng mạn của thi sĩ tạo nên
ở Quang Dũng cái nhìn của chủ nghĩa anh hùng cổ điển trước cái chết: Người chiến sĩ hy sinh được bọc trong
những tấm "áo bào" sang trọng.
Câu thơ cuối vang lên như khúc nhạc kỳ vĩ. Âm hưởng của khúc chiêu hồn tử sĩ dội lên từ chữ "gầm".
Tiếng gầm của sơng Mã nổi lên thành tiếng khóc lớn của thiên nhiên tiễn đưa các anh về cõi vĩnh hằng. Sự hy


sinh cao cả cần có sự tiễn đưa lớn. Tới đây, ấn tượng đọng lại trong lòng người đọc là âm điệu bi thương
nhưng rất hào hùng.
3. Kết luận
- Đoạn thơ kết hợp hài hoà bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn, sử dụng xen kẽ các từ Hán Việt, thuần

Việt, lối diễn tả cường điệu.... tạo nên âm hưởng bi hùng khi viết về các chiến sĩ Tây Tiến.
-Tây Tiến của Quang Dũng góp phần cùng thơ ca kháng chiến làm ngời lên hình ảnh con người đẹp nhất
của một thời: hình ảnh người lính: "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".

Đề 2: Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến.
1. Giới thiệu khái quát:
- Quang Dũng (1921-1988) là nghệ sĩ đa tài nhưng nổi bật là thơ. Tây Tiến là bài thơ nổi bật nhất trong đời
thơ của ơng nói về những kỷ niệm với trung đoàn Tây Tiến.
- Trung đoàn Tây tiến thành lập năm 1947, hoạt động ở vùng biên giới Tây Bắc hoang vu, khắc nghiệt. Đơn
vị phần lớn là thanh niên Hà Nội: học sinh, sinh viên, trí thức... Quang Dũng là một thành viên của đoàn quân
ấy.
- Cuối năm 1948, Quang Dũng rời xa Tây Tiến. Cảm xúc về những kỉ niệm dâng trào, ông viết Nhớ Tây
Tiến (in lần đầu năm 1949) sau đổi là Tây Tiến. Bài thơ đặc biệt thành công trong việc khắc hoạ hình tượng
người lính.
2. Hình tượng người lính Tây Tiến:
- Vẻ đẹp hào hùng:
+ Trong cuộc trường chinh gian khổ: người lính ở đây là những trí thức, học sinh, sinh viên xuất thân Hà
Nội, chưa quen với gian lao, lại phải ném vào cuộc hành quân dài ngày, địa hình hiểm trở, khắc nghiệt, phải
đối mặt với cái chết từ nhiều phía.
+ Tư thế hành quân, dáng vẻ dữ dội khác thường của người lính (chú ý một số hình ảnh: gục lên súng mũ
bỏ qn đời, đồn binh khơng mọc tóc, xanh màu lá, dữ oai hùm, mắt trừng…)
+ Lí tưởng chiến đấu cao đẹp và tinh thần hi sinh cho Tổ quốc (đi sâu phân tích các hình ảnh: những nấm
mồ viễn xứ, chẳng tiếc đời xanh, chẳng về xuôi, âm thanh trầm hùng của sông Mã đưa tiễn những người con
hi sinh về đất mẹ.
- Vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn:
+ Vẻ đẹp của tình người: gian khổ, ác liệt, hi sinh, người lính ở đây vẫn là những con người mơ mộng, lãng
mạn, quyến luyến tình người (tình cảm với cơ gái Mai Châu mùa cơm mới, dáng kiều thơm của cơ gái Hà
thành, dáng hình sơn nữ trên con thuyền độc mộc).
+ Cảm xúc về thiên nhiên: tinh tế trong phát hiện và cảm nhận cái đẹp (một nếp nhà sàn thấp thoáng trong
mưa, hồn lau nơi bờ suối, dáng hình sơn nữ buổi hồng hơn, bơng hoa đong đưa trên dịng nước…). Dễ say

đắm trước những vẻ đẹp man sơ và khác lạ (dốc thăm thẳm, cồn mây heo hút, thác gầm thét, cọp trêu
người…)
+ Tâm hồn lạc quan, yêu đời, nguyện dấn thân vào cuộc chiến đấu được thể hiện qua quan niệm lãng mạn
về người anh hùng (coi cái chết nhẹ tựa lơng hồng) và qua nếp sinh hoạt văn hố ngay trong những ngày gian
khổ, hi sinh (những đêm liên hoan văn nghệ trong rừng sâu)
- Nghệ thuật của ngòi bút Quang Dũng trong khắc hoạ hình tượng người lính:
+ Hình ảnh đặc sắc (đồn binh khơng mọc tóc, xanh màu lá, giữ oai hùm), ngôn từ mới lạ và sự kết hợp của
các từ cổ với các từ ngữ dân dã, đời thường (biên cương, viễn xứ, kiều thơm, chiếu, đất, bỏ quên đời, chẳng về
xuôi) tạo được vẻ cứng cỏi ngang tàng của người lính gần với các tráng sĩ trong văn học cổ mà vẫn hiện đại.
+ Bút pháp hiện thực đan xen bút pháp lãng mạn, thủ pháp đối lập - tạo nên vẻ lãng mạn, bay bổng của
người lính mà vẫn rất chân thực, tạo âm hưởng bi tráng cho bài thơ.
3. Đánh giá:
- Thành công trong việc khắc hoạ hình tượng ngời lính xuất thân Hà Nội đã làm hồn thiện gương mặt
người lính kháng chiến chống Pháp năm xưa, đặt Tây Tiến vào vị trí khơng thể thay thế trong thơ ca về đề tài
người lính.
- Sự tài hoa, tấm lịng xúc động chân thành của Quang Dũng đã dựng nên tượng đài bất tử về người lính vơ
danh trong cuộc chiến đấu hi sinh cho Tổ quốc.

Đề 3: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau đây:
“Ta về mình có nhớ ta
...
Nhớ ai tiến hát ân tình thuỷ chung”
Gợi ý


- Việt Bắc của Tố Hữu là một bài thơ hay, tiêu biểu cho thơ ca thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.
Thông qua cuộc đối thoại tưởng tượng giữa người ở và người đi trong ngày chiến thắng, bài thơ đã thể hiện
niềm nhớ thương tha thiết và tình cảm đằm thắm, sắt son của nhân dân Việt Bắc với cách mạng, với Đảng, với
Bác Hồ, đồng thời cũng thể hiện tình cảm của cán bộ kháng chiến với thiên nhiên núi rừng và con người Việt
Bắc.

Giữa rất nhiều đoạn thơ biểu hiện nỗi nhớ của người cán bộ sắp về xuôi, ta bắt gặp đoạn thơ sau đây:
"Ta về, mình có nhớ ta
...
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung"
Đoạn thơ gồm mười câu ghi lại nỗi nhớ của nhà thơ và cũng là của cán bộ đối với cảnh và người Việt Bắc.
- Mười câu thơ nhịp nhàng ấy vừa là một bộ phận hữu cơ của bài thơ vừa biểu hiện một ý thơ hoàn chỉnh.
Mở đầu là câu giới thiệu chung về nội dung xúc cảm của đoạn thơ:
"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người"
Câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta" vừa là lời thoại, nhưng đồng thời vừa là cái cầu nối sang câu dưới, là cái cớ
để bày tỏ tấm lịng của mình. Ra về, lòng vẫn nhớ. Nhớ nhất, lưu luyến nhất hoa cùng người. Hoa ở đây là
thiên nhiên; thiên nhiên đẹp, tươi sáng như hoa vậy. Hoà vào thiên nhiên ấy là con người. Hoa cùng người là
hai bộ phận khăng khít không thể tách rời trong bức tranh Việt Bắc.
- Tám câu thơ còn lại tràn ngập ánh sáng, đường nét và màu sắc tươi tắn. Cảnh và người hoà quyện vào
nhau. Trong bốn cặp lục bát, câu sáu dùng cho nhớ cảnh, câu tám nhớ người. Cảnh và người trong mỗi cặp
câu lại có những điểm, sắc thái riêng. Cứ thế đoạn thơ lần lượt gợi nhớ những vẻ đẹp nên thơ, mở ra trước mắt
người đọc những phong cách đa dạng về đường nét, màu sắc, ánh sáng, âm thanh, gợi ở chúng ta những rung
động trước khung cảnh vừa hùng vĩ, vừa mênh mông, man mác.
- Phong cảnh mà tác giả gợi tả ở đây là phong cảnh núi rừng diễn biến qua vẻ đẹp riêng của bốn mùa trong
năm: mùa đông, rừng biếc xanh đột ngột, đây đó bùng lên màu đỏ tươi rói của hoa chuối rừng như những bó
đuốc thắp lên sáng rực. Xuân sang, rừng lại ngập trắng hoa mơ "nở trắng rừng". Cái màu trắng dìu dịu, tinh
khiết phủ lên cả cánh rừng, gợi lên một cảm giác thơ mộng, bâng khuâng. Rồi hè đến, "Ve kêu rừng phách đổ
vàng". Chỉ trong một câu thơ mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo mùa hè hè đến - cây phách chuyển màu vàng. Sự đổi thay sinh động ấy làm sống dậy thời gian. Và cảnh rừng đêm thu
dưới ánh trăng hồ bình âm vang tiếng hát. Như vậy có buổi trưa tràn đầy ánh nắng, có ban đêm êm dịu. Mùa
nào cũng đẹp, cũng đáng yêu, mỗi mùa là một bức tranh.
- Một vẻ đẹp nữa trong bộ tranh tứ bình ấy là vẻ đẹp con người. Con người và những hoạt động của con
người là một bộ phận không thể tách rời trong khung cảnh Việt Bắc. Dường như khó có thể hình dung "đèo
cao nắng ánh" lại thiếu hình ảnh người lên núi, mùa xuân lại thiếu cảnh "người đan nón", hè sang lại thiếu
cảnh "cô em gái" đi hái măng. Thiên nhiên và con người đã hồ quyện và tơ điểm cho nhau. Và trong nỗi nhớ
nhà của người ra đi, kỷ niệm về những con người Việt Bắc là kỷ biện đậm đà nhất, sâu sắc nhất. Trong nỗi

nhớ, con người lại càng thêm gần gũi, gần với thiên nhiên và gần bên nhau.
- Bao trùm cả đoạn thơ là tình cảm nhớ thương tha thiết, tiếp tục âm hưởng chung của nghệ thuật ca dao.
Những câu thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển, câu nọ gợi câu kia, ý nọ gợi tiếp ý kia cứ trào lên dạt dào
cảm xúc qua cách xưng hơ "mình - ta" thắm thiết. Nhạc điệu dịu dàng, trầm bổng khiến cả đoạn thơ mang một
âm hưởng bâng khuâng, êm êm như một khúc hát ru - khúc hát ru kỷ niệm. Đặc biệt từ nhớ được lặp lại nhiều
lần, mỗi lần một sắc thái khác nhau và cấp độ tăng lên làm cụ thể hơn tấm lòng lưu luyến của tác giả với chiến
khu, với cảnh và người Việt Bắc. Đoạn thơ được mở đầu bằng câu thơ kiểu dân gian "Ta về, mình có nhớ ta"
thì cuối đoạn dường như đã được trả lời. Cả ta và mình đều cùng chung nỗi nhớ, cùng chung "tiếng hát ân
tình" và ân tình sâu nặng ấy mãi còn lưu luyến, vấn vương trong những tâm hồn chung thuỷ.
- Có thể nói đoạn thơ này là một trong những đoạn hay nhất của Việt Bắc, nó có giá trị tạo hình cao, được
cấu trúc cân đối, hài hoà. Cảnh và người đều đẹp, đều đáng yêu. Cảnh và người hồ quyện vào tình cảm thắm
thiết của tác giả.

Đề 4: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:
“Trong anh và em hôm nay

Làm nên đất nước muôn đời”.
1. Giới thiệu khái quát
Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ các nhà thơ chống Mĩ. Tác phẩm của ông thường viết về phong
trào đấu tranh cách mạng ở Huế thời Mĩ - Ngụy. Đất nước là chơng V trong 9 chương của trường ca Mặt
đường khát vọng (1974) - tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ.


Đoạn trích trên đây nằm trong phần đầu, thể hiện một cách cảm nhận mới mẻ về đất nước: đất nước là sự
thống nhất giữa riêng và chung, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa thế hệ này với thế hệ khác.
2. Cảm nhận đoạn thơ.
a) Cảm nhận mới mẻ về đất nước (9 dòng đầu)
- 2 dòng mở đầu: bằng giọng điệu tâm tình của đơi lứa, cách nói nhẹ nhàng, chừng mực, nhà thơ đưa ra một
nhận thức mới về đất nước: đất nước thật gần gũi, thân thiết, ở ngay trong mỗi con người chúng ta, "trong anh
và em".

- 4 dòng thơ tiếp theo (Khi hai đứa… vẹn trịn, to lớn): cần bình giảng kiểu câu cấu tạo theo hai cặp đối
xứng về ngôn từ (khi/khi, Đất Nước/Đất Nước…) và cách sử dụng các tính từ đi liền nhau nhằm chứng minh:
đất nước là sự thống nhất hài hồ giữa tình u đơi lứa với tình u Tổ quốc, cá nhân với cộng đồng. Đất nước
là kết quả của tinh thần đồn kết dân tộc và tình yêu thương.
- 3 dòng thơ tiếp theo (Mai này… mơ mộng): khơng chỉ nói lên quan niệm đất nước là sự thống nhất hài hồ
giữa các thế hệ hơm qua, hơm nay, ngày mai mà cịn là niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất
nước. Các từ ngữ: mai này, lớn lên, tháng ngày mơ mộng… cần được phân tích kĩ để thấy ý nghĩa của nó
trong việc biểu đạt nội dung trên.
- Hai chữ Đất Nước trong tồn chương và trong đoạn trích được viết hoa như một mĩ tự thể hiện tình cảm
sâu sắc của nhà thơ với đất nước và tạo nên nỗi xúc động thiêng liêng cho người đọc.
(Cần so sánh với hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Đình Thi và hình tượng đất nước của Tố Hữu, Chế
Lan Viên… thời chống Mĩ để thấy nét độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm)
b) Trách nhiệm với đất nước (4 dòng thơ còn lại).
- 4 dịng thơ nói về trách nhiệm của thế hệ trẻ với đất nước mà như một lời nhắn nhủ tha thiết, chân thành.
Bởi đất nước được cảm nhận hết sức thiêng liêng mà thật gần gũi: "là máu xương của mình". "Gắn bó", "san sẻ",
"hố thân"… vừa là trách nhiệm vừa là nghĩa vụ, là biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước. Những dòng thơ hay ở
cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
- Sử dụng các từ mệnh lệnh: "phải biết", một loạt từ chỉ hành động liên tiếp nhưng đoạn thơ không phải là
những lời răn dạy, giáo huấn khơ khan, khó tiếp nhận. Trái lại vẫn rất thơ và dễ đi vào lòng người.
3. Đánh giá
- Đoạn thơ tập trung được những phẩm chất tiêu biểu của Mặt đường khát vọng : tính chính luận hài hồ
với chất trữ tình, giọng thơ tha thiết, dịu ngọt, ngơn từ hình ảnh đẹp, sáng tạo.
- Viết về đề tài quen thuộc: đất nước nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm và đoạn trích vẫn có vị trí riêng.
Những nhận thức mới mẻ về đất nước, tình cảm xúc động thiêng liêng của đoạn thơ gợi được lòng yêu nước,
tinh thần trách nhiệm với đất nước ở người đọc.

Đề 5: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:
“Cuộc đời tuy dài thế
...
Để ngàn năm cịn vỗ”.

1. Sóng là một bài thơ tiêu biểu cho thơ tình yêu của Xuân Quỳnh. Bài thơ có âm hưởng dào dạt như nhịp
những con sóng - thực ra việc diễn tả nhịp điệu bên ngồi (sóng) chỉ là để diễn tả nhịp điệu bên trong của tâm
hồn (những cảm xúc, suy tư trong tình u). Nói cách khác, bên cạnh hình tượng sóng, bài thơ cịn có một
hình tượng khác, ln gắn liền với sóng, là "em". Sóng chính là sự hố thân, là hình ảnh ẩn dụ của tâm hồn
người phụ nữ trong tình yêu. Ngời phụ nữ ấy soi vào sóng để thấy mình rõ hơn, nhờ sóng để biểu hiện những
trạng thái xúc động, những nỗi khao khát của lịng mình, để khẳng định tình yêu.
2. Ngay từ lời mở đầu, Xuân Quỳnh đã dùng hình tượng sóng để biểu hiện khát vọng tình u. Tình u
cũng như sóng ln là chuyện của mn đời. Nhu cầu nhận thức về tình u cũng là biểu hiện cụ thể của tình
u; khi nào cịn mong muốn hiểu biết về tình yêu của mình thì người ta cịn u nhau. Tình u ln có
người bạn đồng hành là nỗi nhớ, là nỗi lo âu và suy tư - qua đó có thể thấy quan niệm tình u trong thơ Xn
Quỳnh vừa có nét mới mẻ, hiện đại vừa có cội nguồn sâu xa từ tình cảm truyền thống của dân tộc.
3. Xuân Quỳnh đã kết thúc bài thơ với những cảm nhận rất tinh tế về sự trôi chảy không ngừng của thời
gian, với ước vọng thật mãnh liệt về sự bất tử của tình yêu:
"Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ


Giữa biển lớn tình u
Để ngàn năm cịn vỗ"
Biển dài rộng tới đâu rồi cũng có bờ, có giới hạn và những đám mây không thể dừng lại mãi mãi trên biển
mà chúng phải tiếp tục cuộc hành trình trên bầu trời để đi về cõi vô tận xa xăm. Cũng thế, cuộc đời con người
tuy dài nhng không phải là vĩnh viễn, dù con người không mong đợi nhưng năm tháng vẫn bình thản trơi qua
đời người theo quy luật tất yếu khắc nghiệt của thời gian.
Nếu khổ thơ trên là một so sánh thì khổ thơ sau là một ẩn dụ, hai khổ thơ hình thành quan hệ tương phản
giữa cái hữu hạn và vô hạn. Trong cái hữu hạn của đời mình, con người vẫn ln khao khát, mong mỏi tình
u của mình là vơ hạn, là bền vững muôn đời. Niềm khao khát ấy Xuân Quỳnh lại gửi vào hình tượng sóng:

những con sóng tan ra không phải để biến mất trên đại dương mà để hố thân, để tồn tại vĩnh viễn trong vơ tận
những con sóng khác - cũng thế, con người sẽ ra đi nhng tình u cịn ở lại, một tình u vơ tận, vĩnh hằng
như sóng trên biển khơi. Thực ra không phải chỉ ở thời thiếu nữ nhiều sôi nổi, say mê mà cả về sau này, khi đã
phải chịu đựng nhiều đau khổ, đã từng trải, cái khát vọng được cịn lại mãi mãi tình u của mình vẫn là ước
muốn tha thiết nhất trong trái tim giàu yêu thương ấy (Tự hát, Thơ tình cuối mùa thu, Thời gian trắng).
4. Nhờ hình tượng sóng, Xn Quỳnh đã thể hiện rất gợi cảm, sinh động những trạng thái cảm xúc, những
khao khát, suy tư trong tình yêu, nhất là khẳng định được sự bất tử của tình yêu chân chính. Có thể nói đến
Xn Quỳnh với bài thơ Sóng, thơ ca cách mạng Việt Nam mới bắt đầu có một tiếng nói trực tiếp bày tỏ
những cảm nghĩ rất sôi nổi, mạnh mẽ và cũng rất tự nhiên, chân thành của tâm hồn người phụ nữ trong tình
u.

Đề 6:
Sóng là bài thơ tình tiêu biểu của Xuân Quỳnh, thể hiện một tâm hồn luôn trăn
trở, khát khao được yêu thương, gắn bó.
Bình giảng đoạn thơ dưới đây để làm sáng tỏ nhận định trên:
“Con sóng dưới lịng sâu
...
Hướng về anh một phương”
Các ý chính:
- Giới thiệu vài nét về tác giả: Xuân Quỳnh (1942-1988), là nữ thi sĩ trởng thành trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước.
- Sóng là bài thơ tình tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh - luôn luôn trăn trở, khát khao được yêu thương,
gắn bó. Bài thơ được rút ra từ tập thơ Hoa dọc chiến hào (1968).
* Bình giảng
1. Nỗi nhớ được biểu hiện bằng hình tượng "
Sóng"
Biện pháp nghệ thuật:
- Dùng từ đối lập: dưới - trên; lòng sâu - mặt nước;
- Dùng điệp từ "con sóng" ba lần;
- Nhân cách hóa: "con sóng nhớ bờ, ngày đêm khơng ngủ".

Cách diễn đạt trên đây nhằm thể hiện nỗi nhớ dồn lên tầng tầng, lớp lớp như từng đợt sóng. Con sóng nhớ
bờ thao thức, trào dâng tưởng chừng tới tột độ.
Tất cả nhằm thể hiện nỗi nhớ da diết trong tâm hồn người con gái đang yêu. Nỗi nhớ tầng tầng lớp lớp đan
xen nhau, nối tiếp nhau, thôi thúc, giục giã.
2. Nỗi nhớ được biểu hiện trực tiếp
Thường trực, liên tục, cho dù đó là đêm hay ngày:
- "Lịng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
- Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phơng"
Xuân Quỳnh đã tìm được cách nói đạt nhất để biểu hiện nỗi nhớ trong tình u: ngủ, thức ("dẫu xi",
"dẫu ngược") đều khơng n vì nhớ mong, vì đợi, chờ, vì hướng "về anh".
Ngơn ngữ thơ Xuân Quỳnh có màu sắc của ca dao:
"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than"
Đó là trạng thái bồn chồn, xao xuyến, khơng ổn định, bứt rứt như cắn xé, như giục giã lịng người, đứng
ngồi khơng n vì nỗi nhớ thường trực.
3. Kết luận
Đây là một trong những khổ thơ hay, bộc lộ nỗi nhớ khi đang yêu trong bài Sóng của Xuân Quỳnh.


Cả bài thơ là những con sóng tâm tình của tác giả đợc khơi dậy khi đứng trước biển cả. Sóng là một hình
tượng ẩn dụ, là sự hố thân của cái tơi trữ tình của nhà thơ, lúc thì hoà nhập, lúc lại là sự phân thân của "em".
Người phụ nữ trong bài thơ soi vào sóng để thấy rõ lịng mình, thể hiện tâm trạng của mình khi đang yêu thật
xác đáng và đẹp đẽ.

Đề 7: Phân tích hình tượng sơng Đà trong tuỳ bút Người lái đị sơng Đà của Nguyễn Tn,
qua đó nêu lên những đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm.
Các ý chính:
1. Người lái đị Sơng Đà là một tuỳ bút đặc sắc của Nguyễn Tuân, in trong tập Sông Đà (1960). Trong tác

phẩm này, Nguyễn Tuân không chỉ ca ngợi con người Tây Bắc mà còn thể hiện được vẻ đẹp độc đáo của sông
Đà - vừa hung dữ, hiểm trở lại vừa thơ mộng trữ tình.
2. Tính chất độc đáo của con sông Đà được Nguyễn Tuân thể hiện ngay ở câu thơ mở đầu của tác
phẩm: "Chúng thuỷ giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu" nghĩa là: mọi dịng sơng đều chảy về hướng đơng
chỉ có sơng Đà chảy theo hướng bắc (thơ Nguyễn Quang Bích). Con sơng Đà có hai nét tính cách trái ngược
nhau: vừa hung dữ, hiểm trở, vừa thơ mộng, trữ tình.
3. Tính chất hung dữ của con sơng Đà
- Ở phía thượng nguồn, con sơng Đà có nhiều ghềnh thác hiểm trở, nhiều hút nước, xốy nước giữa lịng
sơng. Những tảng đá như tạo thành những trận đồ bát quái để thử thách những người lài đị xi ngược trên
sơng.
- Để làm rõ tính chất "hung bạo" của con sơng Đà, Nguyễn Tn đã miêu tả cuộc chiến đấu sinh tử giữa
người lái đị với con sơng Đà. Con sơng lúc thì giống như một con ngựa bất kham, lúc lại như "một loài thuỷ
quái khổng lồ" hung ác, nham hiểm và độc địa. Con sơng Đà càng hung dữ bao nhiêu thì chân dung của người
lái đò lại càng cao đẹp và hùng vĩ bấy nhiêu.
4. Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của con sơng Đà
- Xi về phía hạ lưu, nước sơng chảy hiền hồ thơ mộng. Cảnh sắc hai bên bờ thật đẹp, thật gợi cảm "Bờ
sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa".
- Vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà được Nguyễn Tuân gợi lên qua những hình ảnh nên thơ "cảnh ven sơng ở
đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi". Thêm vào
hình ảnh con hươu vểnh tai ngơ ngác, đàn cá đầm xanh quẫy vụt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi…
5. Những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm
- Nguyễn Tuân có một vốn tri thức phong phú, nhiều mặt: về lịch sử, địa lí, địa chất, hội hoạ, điện ảnh..
- Qua việc miêu tả con sông Đà, ông đã cung cấp cho ngời đọc những hiểu biết về những tên gọi khác của
con sông Đà qua từng thời kỳ lịch sử, về địa lý, địa chất của nó… đưa lại cho người đọc những trang viết hấp
dẫn, lí thú.
- Nguyễn Tuân đã biết vận dụng mặt mạnh của nhiều ngành nghề nghệ thuật khác để làm tăng khả năng
biểu hiện của văn chương. Miêu tả con sơng Đà, có lúc ơng giống như một nhà quay phim lão luyện, hết lùi
lại để bao quát toàn cảnh sơng Đà, có lúc lại quay cận cảnh để đặc tả một con thác hung dữ. Khi miêu tả cảnh
sắc hai bên bờ sơng và dịng nước sơng Đà, Nguyễn Tuân lại sử dụng các gam màu rất bạo, rất tài hoa của một
hoạ sĩ tài năng: nước sông Đà lúc thì có màu "xanh ngọc bích", lúc lại "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người

bầm đi vì rượu bữa"… Cách miêu tả con sông Đà từ phương diện văn hoá, mĩ thuật của Nguyễn Tuân đã tạo
nên những trang viết tài hoa, độc đáo.
- Khi miêu tả con sông Đà, Nguyễn Tuân đã sử dụng vốn từ ngữ phong phú, đa dạng. Miêu tả cuộc quyết
đấu của người lái đị với con sơng Đà, Nguyễn Tn đã sử dụng nhiều từ ngữ của quân sự, võ thuật với một
lối tạo câu văn ngắn; khi miêu tả vẻ đẹp trữ tình của con sơng Đà, câu văn của ông lại được kéo dài ra mang
đậm chất trầm tư, mơ mộng. Nguyễn Tuân đã xứng đáng là "một người nghệ sĩ của ngơn từ".

Đề 8: Phân tích hình tượng người lái đị ở tác phẩm Người lái đị sơng Đà để làm rõ nét
độc đáo trong cách miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân.
Giới thiệu chung về tác phẩm:
Tuỳ bút Người lái đị Sơng Đà là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân, được in trong tập
Sông Đà (1960). Ở thiên tuỳ bút này, nhà văn đã xây dựng được 2 hình tượng đáng nhớ là con sơng Đà và
người lái đị. Đây là 2 hình tượng mang đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân, đã để lại cho độc giả những ấn
tượng mạnh mẽ.
1. Phân tích hình tượng ơng lái đị:
- Ơng lái đị có những ngoại hình và tố chất khá đặc biệt: tay "lêu nghêu", chân "khuỳnh khuỳnh", "giọng
ào ào nh tiếng nước trên mặt ghềnh", "nhỡn giới vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó"…
Đặc điểm ngoại hình và những tố chất này đợc tạo nên bởi nét đặc thù của môi trường lao động trên sông
nước.


- Ơng lái đị là người tài trí, ln có phong cách ung dung pha chút nghệ sỹ: ông hiểu biết tường tận về "tính
nết của dịng sơng", "nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lịng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác
hiểm trở", "nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá", "thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm
trở", biết rõ từng cửa tử, cửa sinh trên "thạch trận" sông Đà. Đặc biệt, ông chỉ huy các cuộc vượt thác một
cách tài tình, khơn ngoan và biết nhìn những thử thách đã qua bằng cái nhìn giản dị mà khơng thiếu vẻ lãng
mạn.
- Ơng lái đị rất mực dũng cảm trong chuyến vượt thác đầy nguy hiểm: tả xung hữu đột trước "trùng vi
thạch trận" của sông Đà, kiên cường nén chịu cái đau thể xác do cuộc vật lộn với sóng thác gây nên, chiến
thắng thác dữ bằng những động tác táo bạo mà vô cùng chuẩn xác, mạch lạc (tránh, đè sấn, lái miết một đờng

chéo, phóng thẳng…)
- Ơng lái đị là một hình tượng đẹp về người lao động mới. Qua hình tượng này, Nguyễn Tuân muốn phát
biểu quan niệm: người anh hùng khơng phải chỉ có trong chiến đấu mà cịn có cả trong cuộc sống lao động
thường ngày. Ơng lái đị chính là một người anh hùng như thế.
2. Những nét độc đáo trong cách miêu tả nhân vật ơng lái đị của Nguyễn Tn:
- Nguyễn Tuân chú ý tô đậm nét tài hoa, nghệ sỹ của ơng lái đị. Đây là cách viết phù hợp với quan niệm
nghệ thuật về con người của nhà văn, phù hợp với cái nhìn rộng mở của ơng về phẩm chất tài hoa, nghệ sỹ.
Theo ông, nét tài hoa, nghệ sỹ của con người không chỉ thể hiện trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật mà còn
trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác nữa. Khi con người đạt đến trình độ điêu luyện trong cơng việc của mình
là khi họ bộc lộ nét tài hoa, nghệ sỹ rất đáng được đề cao.
- Nguyễn Tuân có ý thức tạo nên tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ rõ phẩm chất của mình. Điều
đáng chú ý trước hết là nhà văn miêu tả cuộc vượt thác như một trận "thuỷ chiến". Càng nhấn mạnh thách
thức ghê gớm của "thạch trận" sông Đà, tác giả càng khắc hoạ được sinh động sự từng trải, mưu mẹo, gan dạ
của ơng lái đị. Dĩ nhiên, để có thể miêu tả được trận "thuỷ chiến", nhà văn phải huy động tới vốn hiểu biết
khá uyên bác của mình về nhiều lĩnh vực, đặc biệt là quân sự và võ thuật…
- Nguyễn Tuân đã sử dụng ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, hồn tồn phù hợp với đối
tượng. Tác phẩm có rất nhiều từ dùng mới mẻ cùng lối nhân hố độc đáo và ví von bất ngờ mà vơ cùng chính
xác (nắm chặt lấy được cái bờm sóng, ơng đị ghì cương lái, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi
nước…)

Đề 9: Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp của dịng sơng Hương trong bút kí “Ai đã đặt tên
cho dịng sơng?” (Văn bản được trích trong SKG Ngữ văn 12) của Hồng Phủ Ngọc
Tường.
Gợi ý:
I.Mở bài:
-Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Hồng Phủ Ngọc Tường là một trong số ít các nhà văn nổi
tiếng với thể loại bút kí. Những trang kí của Hồng Phủ Ngọc Tường hầu như chỉ dành riêng cho vẻ đẹp của
đất nước và con người Việt Nam mà trong đó mảnh đất cố đơ Huế thật sự đã khơi được những cảm xúc sâu
thẳm trong cõi lòng người nghệ sĩ tài hoa này.
-Trong bài ca về đất trời và con người xứ Huế, “Ai đã đặt tên cho dịng sơng” được xem như một giai

điệu tha thiết, ngọt ngào. Có thể nói, đó là một bài thơ bằng văn xuôi về Huế, về sông Hương – một dịng sơng
mà tác giả đã huy động triệt để mọi tiềm năng văn hố cùng với vốn ngơn từ giàu có của mình để phát hiện,
diễn tả vẻ đẹp độc đáo, đầy sức quyến rũ của nó dưới nhiều góc độ khác nhau.
II.Thân bài:
1.Những cảm nhận về sơng Hương:
a.Vẻ đẹp sơng Hương từ góc nhìn địa lí:
*Sơng Hương ở thượng nguồn:
-Theo tác giả, nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khn mặt kinh thành mà khơng chú ý tìm hiểu sơng Hương
từ cội nguồn, người ta khó mà hiểu hết được vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dịng sơng mà chính nó
khơng muốn bộc lộ ra.
-Bằng kiến thức uyên bác về địa lí của một nghệ sĩ mang đậm chất Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
làm cuộc hành trình tìm về cội nguồn của sơng Hương, cho ta biết được quan hệ của nó với dãy Trường Sơn.
Và trong mối quan hệ đặc biệt này, sông Hương mang vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại, bí ẩn
nhưng cũng có lúc dịu dàng, say đắm. Tác giả gọi đó là “bản trường ca của rừng già” với nhiều tiết tấu hùng
tráng, dữ dội: khi thì “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, lúc thì “mãnh liệt vượt qua ghềnh thác”, khi thì “cuộn
xốy như cơn lốc vào đáy vực sâu”, lúc thì “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa
đỗ quyên rừng”.


-Lúc này dịng sơng được nhân hố như “một cơ gái Di- gan phóng khống và man dại” với một “bản
lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”.
*Sông Hương đoạn chảy về đồng bằng và ngoại vi thành phố:
-Trải qua cuộc hành trình đầy gian trn, sơng Hương khi vừa ra khỏi rừng đã “nhanh chóng mang
một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng xứ sở”. Lúc này, dịng sơng mang
bóng dáng của những cơ gái xinh đẹp trong truyện cổ tích đang “nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hố
đầy hoa dại” được “người tình mong đợi đến đánh thức”.
-Và cũng từ góc nhìn địa lí của một nhà văn nặng lịng với cái đẹp, Hồng Phủ Ngọc Tường đã dẫn
người đọc theo suốt toàn bộ thuỷ trình của dịng sơng. Đến đây, hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần
nhuyễn và tài hoa đã làm nổi bật một sông Hương đang dạt dào sức xuân trong sự “chuyển dòng liên tục”, rồi
“vòng giữa khúc quanh đột ngột”, “vẽ một hình cung thật trịn (…) ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về

Huế” để rồi “từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”…Bằng năng lực quan sát
tinh tế và vốn ngơn ngữ phong phú, Hồng Phủ Ngọc Tường đã mang đến cho bạn đọc những câu văn đầy
màu sắc tạo hình và ấn tượng về một sơng Hương vừa mạnh mẽ, vừa dịu dàng, có lúc “mềm như tấm lụa” khi
qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo; có khi ánh lên “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng,
chiều tím” lúc qua những dãy đồi núi phía tây nam thành phố; và cũng có khi mang vẻ đẹp trầm mặc lúc qua
bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch cho đến khi
bừng sáng, tươi tắn khi gặp “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng
trung du bát ngát tiếng gà”.
*Sông Hương đoạn chảy vào thành phố:
-Sông Hương gặp thành phố như “tìm đúng đường về”, cho nên nó bỗng vui tươi hẳn lên và đặc biệt
trở nên chậm rãi, êm dịu “cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”.
-Ngòi bút của tác giả đã thực sự thăng hoa khi vẽ nên “khuôn mặt kinh thành” của dịng sơng. Đến
đây, cái tơi tài hoa của một tâm hồn thấm đẫm văn hoá Huế đã để cho trí tưởng tượng thỏa sức vẫy vùng trong
khơng gian rộng mở của lối văn “độc tấu” (chữ dùng của Nguyễn Tuân). Đó là sự liên tưởng bất ngờ và cũng
đầy chất thơ khi nhà văn phát hiện “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời nhỏ nhắn như một
vành trăng non”; rồi nét uốn lượn cánh cung của dịng sơng sang Cồn Hến, tác giả lại cảm thấy đường cong ấy
khiến “dịng sơng mềm hẳn đi như một tiếng vâng khơng nói ra của tình u”, hay hình ảnh “trăm nghìn ánh
hoa đăng bềnh bồng (...) qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những
vấn vương của một nỗi lịng”...Thú vị nhất có lẽ là những câu văn tác giả miêu tả lưu tốc của sông Hương khi
qua thành phố và khúc rẽ đột ngột của dịng sơng trước khi ra biển. Nhiều người đã biết vẻ lặng tờ của dịng
nước sơng Hương, nhưng chỉ Hồng Phủ Ngọc Tường mới phát hiện ra “điệu slow tình cảm” mà sơng Hương
dành riêng cho Huế. Với cái nhìn say đắm của một trái tim đa tình, sơng Hương hiện lên như một người tình
chung thuỷ cho nên khi rời khỏi kinh thành, nó đã “chếch về hướng chính bắc, ơm lấy đảo Cồn Hến (...) để
lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực
nhớ một điều gì chưa kịp nói nó đột ngột đổi dịng, rẽ ngoặt hướng đơng tây để gặp lại thành phố lần cuối”.
Nói theo câu chữ của tác giả thì “đấy là nỗi vấn vương, cả chút lẳng lơ, kín đáo của tình u”.
Tóm lại: trong mọi khơng gian và thời gian, dưới ngịi bút tài hoa của Hồng Phủ Ngọc Tường, sông
Hương hiện ra quen thuộc mà lạ lẫm đến bất ngờ. Bằng những con chữ có hồn, nhà văn đã góp phần làm nổi
bật vẻ đẹp theo từng mỗi bước đi của dịng sơng.
b.Vẻ đẹp của sơng Hương từ góc nhìn lịch sử:

-Khơng chỉ đẹp dịu dàng, sơng hương cịn là dịng sơng mang trong mình bao bí ẩn của lịch sử. Nếu
những trang miêu tả dòng chảy của sơng Hương là những trang trữ tình nhất thì những trang nói về lịch sử là
những trang viết tràn ngập cảm hứng tự hào.
-Trong mối quan hệ với lịch sử, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế kỉ
vinh quang từ thuở còn là một dịng sơng biên thuỳ xa xơi của đất nước của các vua Hùng, từ thuở nó mang
tên là Linh Giang trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, qua những ngày “nó vẻ vang soi bóng kinh thành
Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”, rồi những ngày “lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu
của những cuộc khởi nghĩa” cho đến khi nó “chứng kiến thời đại mới cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao
chiến công rung chuyển qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc sau này”...
-Tác giả đã lược thuật một cách ngắn gọn nhưng không hề chung chung trừu tượng, đưa ra những
thơng tin chính xác nhưng đầy sức tạo hình, gợi cảm về những thời kì lịch sử mà sơng Hương đã trải qua, để
rồi từ đó cất lên tiếng nói ngập tràn niềm u thương, tự hào về dịng sông bằng một câu văn dạt dào chất thơ:
“Sông Hương là vậy, là dòng của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc, khi nghe lời
gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến cơng, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một
người con gái dịu dàng của đất nước”.


c.Vẻ đẹp của sơng Hương từ góc nhìn văn hố:
-Sơng Hương trong cảm hứng của Hồng Phủ Ngọc Tường cịn mang vẻ đẹp của một dịng sơng văn
hố. Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế: “sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya (...) toàn bộ nền âm nhạc cổ điển của Huế đã được hình thành trên mặt nước của dịng sơng này”. Tác
giả tưởng tượng Nguyễn Du thời làm quan đã bao năm lênh đênh trên dịng sơng này để rồi từ đó “những bản
đàn đã đi suốt đời Kiều”.
-Tác gỉa cho rằng có một dịng thi ca về sơng Hương, một dịng thơ khơng lặp lại mình, ấy là “dịng
sơng trắng, lá cây xanh” trong thơ Tản Đà, là vẻ đẹp hùng tráng “như kiếm dựng trời xanh” trong thơ Cao Bá
Quát, là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan, là sức mạnh phục sinh trong tâm hồn thơ Tố
Hữu,...Nhà văn đã hồn tồn hữu lí khi gọi sông Hương là “người mẹ phù sa của một vùng văn hố xứ sở”.
2.Đánh giá chung:
-Sơng Hương ngồi đời vốn rất đẹp và vẻ đẹp ấy đã thăng hoa trong niềm xúc cảm của nhiều nghệ sĩ.
Song, có thể nói rằng chỉ đến “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” của Hồng Phủ Ngọc Tường thì vẻ đẹp của sơng

Hương mới hiện lên một cách tồn vẹn. Dù nhìn ở bất kì góc độ nào, và bất cứ bước đi nào của dịng sơng
Hương thì nó đều hiện lên với một vẻ đẹp đầy sức quyến rũ.
-Tạo nên vẻ đẹp làm say lịng người ấy của sơng Hương, khơng thể khơng nói đến sự kết hợp thành
cơng của một trí tuệ uyên thâm, một tầm hiểu biết sâu rộng và một nghệ sĩ có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, một
năng lực nội cảm mạnh mẽ. Chính cái chất nghệ sĩ trong nhà khoa học của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tạo nên
sức cơng phá kì diệu của “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” vào trái tim độc giả.
III.Kết bài:
-Hiện lên trong bài bút kí, sơng Hương là một hình tượng nghệ thuật hội tụ đầy đủ vẻ đẹp của thiên
nhiên, văn hoá, lịch sử và tâm hồn. Vẻ đẹp của sơng Hương chính là vẻ đẹp của xứ Huế và con người xứ Huế.
-Cũng như Nguyễn Tn khi miêu tả dịng sơng Đà trong tuỳ bút “Người lái đị sơng Đà”, Hồng Phủ
Ngọc Tường trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” đã giúp chúng ta hiểu ra rằng: thiên nhiên quả là một
sản phẩm nghệ thuật vô giá. Thái độ ứng xử của con người với thiên nhiên chính là thái độ ứng xử với cái đẹp,
đối với những giá trị văn hoá, lịch sử...
-Câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” mà tác giả đặt tên cho nhan đề bài bút kí khơng chỉ là câu hỏi
đặt ra với đất trời mà câu hỏi đặt ra cho mỗi chúng ta đối với mỗi tên đất, tên làng,... trên bản đồ Tổ quốc thân
yêu.

Đề 10: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:
“không ai chôn cất tiếng đàn
Tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng”
(Đàn ghi ta của Lor-ca – Thanh Thảo)
I.Mở bài:
-Thanh Thảo là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Từ sau năm 1975, ngịi bút
của ơng vẫn khơng ngừng nghỉ trong cuộc hành trình nghệ thuật của mình. Ơng đã có nhiều nỗ lực tìm tịi, đổi
mới trong tư duy nghệ thuật và hình thức của thơ.
-Trên hành trình đổi mới thơ, “ông vua trường ca” đã ám ảnh người đọc bằng nhiều sáng tác độc đáo.
Trong đó, “Đàn ghi ta của Lor-ca” in trong tập “Khối vng ru-bích”(1985) là một thi phẩm xuất sắc. Bốn
dòng thơ đã thể hiện niềm xót thương, bày tỏ sự đồng cảm, tri âm của nhà thơ đối với người nghệ sĩ Tây Ban

Nha Gar-xi-a Lor-ca được xem là kết tinh cho vẻ đẹp của bài thơ vừa mang hình thức thơ viếng, vừa như một
bi ca:
“không ai chôn cất tiếng đàn
Tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng”
II.Thân bài:
1.Giới thiệu vài nét về bài thơ và cảm hứng thơ:
-Thanh Thảo khơng dựng lại tồn bộ cuộc đời của Lor-ca mà ông chỉ chọn cái thời điểm bi phẫn nhất
trong cuộc đời của người nghệ sĩ Tây Ban Nha cho cảm hứng sáng tạo của mình: lúc Lor-ca bị bè lũ Phrăngcô sát hại. Thực ra, Lor-ca đã dự cảm và luôn bị ám ảnh bởi cái chết của mình nhưng ơng khơng thể ngờ rằng


cái chết phũ phàng nhất đã đổ ập xuống thân phận ông vào cái ngày oan nghiệt 19-8-1936, lúc cuộc đấu tranh
cho cơng lí và con đường cách tân nghệ thuật của ơng cịn đang dang dở.
-Viết về một nhà thơ bậc thầy trong nền thi ca hiện đại thế giới theo khuynh hướng thơ siêu thực và
tượng trưng; một con người mà tên tuổi đã trở thành biểu tượng cho khát vọng tự do và khát vọng cách tân
nghệ thuật; một con người mà tài năng đã tỏa sáng từ hai phương diện nhạc sĩ kiêm thi sĩ… nhưng có cái chết
quá phũ phàng, Thanh Thảo đã chọn một hướng đi riêng: đã “cấy” nhạc vào thơ, kết hợp giữa màu sắc thơ
viếng phương Đông và chất bi tráng trong nhạc giao hưởng phương Tây, đã tái chế, tái tạo vốn thi liệu từ
nguồn di sản thơ của Lor-ca…Tất cả đã thăng hoa thành cảm xúc của bài thơ như một sự lựa chon tất yếu.
2.Vẻ đẹp của đoạn thơ:
*Hai dịng trên:
-ý nghĩa của hình tượng tiếng đàn: Hình tượng tiếng đàn liên tục được nhắc đến trong bài thơ với
những biến ảnh khác nhau: tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh biết mấy, tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan,
tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy,...Và mỗi lần xuất hiện, nó mang một nét nghĩa mới, nhưng tất cả đều gắn với
tâm tư, số phận chủ nhân của nó. Đặt trong mạch cảm xúc của bài thơ, tiếng đàn mang ý nghĩa biểu tượng cho
thi ca và tổng hợp mọi sáng tạo nghệ thuật của Lor-ca. Lời di chúc bằng thơ của Lor-ca mà Thanh Thảo lấy
làm câu đề từ: “Khi tôi chết hãy chôn tơi với cây đàn” là chiếc “chìa khóa” để người đọc mở cánh cửa bước
vào thế giới của bài thơ chứ khơng phải chỉ giản đơn nói về tình u say đắm của Lor-ca với nghệ thuật và với
xứ sở của mình.

-Với cách láy vắt dịng một cách phóng túng, tự nhiên và nghệ thuật sử dụng ẩn dụ, so sánh đầy sáng
tạo, hai dòng thơ đã mở ra nhiều hướng diễn dịch;
+Bọn phát xít đã giết chết Lor-ca, nhưng chúng không thể chôn cất nổi tiếng đàn, không thể huỷ diệt
được nghệ thuật, không thể nào làm tắt được “tiếng hót con chim hoạ mi” của xứ sở Tây Ban Nha trong kí ức
nhân loại. Như “cỏ mọc hoang”, Lor-ca cùng những vần thơ tràn đầy lửa nóng của ông vẫn mãi mãi bất tử.
+Nhưng ẩn sâu trong vỉa tầng của câu chữ, có cái gì quặn thắt, xót đau. Phải chăng, sự ra đi quá đột
ngột của Lor-ca đã tạo nên một khoảng trống trên con đường nghệ thuật của nghệ sĩ và của cả đất nước Tây
Ban Nha. Bởi lẽ, người khai sáng, nhà thơ ham cách tân Lor-ca khơng cịn thì lấy ai làm người dẫn đường, và
chắc rằng, hành trình nghệ thuật mà Lor-ca theo đuổi chẳng khác nào như “cỏ mọc hoang”?
+Không dừng lại ở đó, dường như ý thơ cịn thấm đẫm nỗi buồn của một nhà thơ phương Đông ham
cách tân với người nghệ sĩ phương Tây ham tìm tịi, đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật. Thanh Thảo đã có một
cách đọc riêng về lời di chúc của Lor-ca: Nhà thơ của xứ sở “áo choàng đỏ gắt” ấy biết một ngày nào đó,
những sáng tạo nghệ thuật của mình sẽ áng ngữ, ngăn cản những người đến sau nên trước lúc đi xa đã dặn lại
hậu thế cần phải biết chôn nghệ thuật của ông để mà đi tới, nhưng tiếc thay không ai thực sự hiểu được lời di
chúc được viết bằng máu của con tim đầy nhiệt huyết ấy. Bởi vì, đối với người nghệ sĩ chân chính, đối với
một nhà thơ tôn sùng “cái tôi đa ngã”, “cái tôi chưa biết” (với khát vọng tạo lập mối quan hệ tương giao giữa
con người nhất thời với con người mn thuở) như Lor-ca thì khơng gì đau đớn hơn khi tên tuổi và sáng tạo
nghệ thuật của mình được đặt lên bệ thờ và trở thành bức tường kiên cố cản trở sự cách tân văn chương của
hậu thế.
*Hai dòng dưới: Sự bất tử của Lor-ca
-Nếu như ở hai dòng thơ trên, ý thơ thiên về biểu hiện nỗi xót xa, nuối tiếc trước cái chết bi thảm của
Lor-ca thì ở hai dịng dưới, ý thơ lại thiên về sự tô đậm cho sự bất tử của người nghệ sĩ Tây Ban Nha trong
mối đồng cảm, tri âm sâu sắc.
-Từ sự kiện đau thương trong cuộc đời Lor-can là sau khi ông bị sát hại, bọn sát nhân tàn bạo đã phi
tang cơ thể ơng để hịng che giấu tội ác của chúng, Thanh Thảo, bằng “nghệ thuật sắp đặt” dựa trên nguyên lí
của “cấu trúc gián đoạn” đã tạo nên một hình ảnh trùng phức, giao thoa của “nước mắt vầng trăng, long lanh
trong đáy giếng” để gợi nên những suy tư đa chiều. Tất cả đều vận động trong “quỹ đạo” của niềm ngưỡng
vọng, mối đồng cảm trước cuộc đời bi hùng của nghệ sĩ Lor-ca:
+Vầng trăng bây giờ khơng “chếch chống” nữa mà nó “long lanh” soi tỏ hình ảnh một con người đã
chết cho quê hương, cho sự hồi sinh của nền dân chủ.

+Vầng trăng tìm đến bên Lor-ca hay Lor-ca là vầng trăng trường cửu, vĩnh hằng long lanh dưới tầng
tầng nước phủ thời gian?
+Giọt nước mắt của cuộc đời đau buồn đã hoá thành vầng trăng, một vầng trăng mãi mãi long lanh
trong đáy giếng để nhận diện “kẻ sát nhân mang mặt nạ người”, để làm thăng hoa cuộc đời và sự nghiệp của
Lor-ca...
3.Đánh giá chung:


-Đã nhiều lần Thanh Thảo bày tỏ niềm ngưỡng mộ đối với những người nghệ sĩ phương Tây, nhưng
có thể khẳng định rằng “Đàn ghi ta của Lor-ca” là bài thơ thành công hơn cả. Qua bài thơ, Thanh Thảo đã tạc
nên một tượng đài của Lor-ca giữa lòng nhân loại.
-Trong sự thành công vượt trội ấy của bài thơ, khơng thể khơng nói đến sự góp mặt của bốn câu thơ
trên. Bốn câu thơ đã thể hiện khá rõ nét kiểu tư duy thơ của Thanh Thảo: giàu suy tư, mãnh liệt và phóng túng
trong cảm xúc, âm điệu thơ ln biến hố, hình tượng thơ “mờ nh” trộn lẫn giữa thực và mộng (nhuốm màu
sắc siêu thực) tạo thành một cấu trúc có tính mời gọi trái tim độc giả.
III.Kết bài:
-Người nghệ sĩ Lor-ca cầm chiếc đàn ghi ta của mình bơi qua dịng sơng định mệnh từ mùa hè năm
1936, nhưng dư âm vang vọng của cuộc đời ơng thì cịn mãi mãi. Góp phần làm cho tiếng đàn ghi ta bay cao,
bay xa mãi cùng với năm tháng không thể không tri công Thanh Thảo- dù người con đất Quảng viết bài thơ
này chỉ để giải toả ‘nguồn năng lượng” đang ứ đọng trong trái tim mình .
-Trong hành trình đi tìm định nghĩa cho thơ, người ta đưa ra nhiều ý kiến khác nhau, nhưng dù có quan
niệm thế nào đi chăng nữa thì bốn câu thơ trên của Thanh Thảo cũng có thể dùng để minh hoạ cho vẻ đẹp đích
thực của thơ ca.

Đề 11: Phân tích bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”.
A.Giới thiệu về tác giả, tác phẩm : (Tham khảo các đề trên)
B.Phân tích bài thơ :
I. Hai đoạn đầu : Hình ảnh Lorca hiện lên qua chính thơ Lorca và cái chết bi tráng của Ông.
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mịn
1.Hình ảnh Lorca hiện lên theo lối ấn tượng qua thi ảnh :
- H/a thơ :áo choàng đỏ gắt- vầng trăng chếnh chống- n ngựa mỏi mịn.
+ Làm cho người đọc nghĩ tới xứ sở Tây Ban Nha (áo choàng đỏ gắt- nghĩ tới đấu trường-những đấu
sĩ- những cuộc đấu bị tót vốn là đặc trưng của Tây Ban Nha) và mường tượng xa gần ám ảnh tới con người,
cuộc đời, số phận Lorca. (Đi lang thang về miền đơn độc : gợi hình ảnh Lorca thường thích đi khắp xứ sở
như một gã Digan đơn độc mà hát lên những bài thơ của mình. Vầng trăng chếng chống, Trên yên ngựa
mỏi mòn gợi nhớ câu thơ của Lorca “con ngựa đen-vầng trăng đỏ” ).
+ Giúp ta hình dung ra khơng khí, khơng gian rất Tây Ban Nha, thời Lorca sống. Đó cũng là cái nền
ảm đạm để xuất hiện hình ảnh Lorca- chàng kị sỹ cơ đơn.
+Có ý nghĩa tượng trưng: không chỉ là khung cảnh của một đấu trường với cuộc đấu giữa những võ sĩ
với bò tót mà cịn là một đấu trường đặc biệt của người chiến sĩ Lorca với nền chính trị độc tài, người nghệ sĩ
Lorca có khát vọng cách tân nghệ thuật với nghệ thuật già nua cằn cỗi của xử sở Tây Ban Nha.
Những hình dung từ : chếnh chống, mỏi mịn, đơn độc cịn gợi hình ảnh Lorca trong cuộc đấu tranh
ấy cịn cơ đơn, đơn độc. Phải chăng đó là bi kịch chung của những người chiến sĩ tiên phong ?
Những hình ảnh này cịn được Thanh Thảo xử lý theo trường phái tượng trưng : giàu chất biểu tượng và thể
hiện theo phép tương giao và nhất là được viết theo lối sắp đặt gợi sự tương phản.
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
Hai dòng thơ này gợi nên sự tương phản gay gắt : âm thanh nhỏ bé >< sắc màu gay gắt ; tiếng đàn
nghệ sĩ >< áo choàng đấu sĩ ; vẻ khiêm nhường >< sự ngạo nghễ ; nghệ thuật >< bạo lực ; số phận con người
>tưởng đến người chiến sĩ đấu tranh cho tự do và người cách tân nền nghệ thuật già nua. Trong hoàn cảnh đó,
bi kịch đến với Lorca là khơng thể tránh khỏi.
Tóm lại chỉ mấy thi ảnh được thể hiện bằng bút pháp của trường phái ấn tượng, tượng trưng, Thanh
Thảo đã giúp ta cảm nhận được một bức tranh thơ: trên bầu trời ảm đạm, lạnh lẽo của đất nước Tây Ban
Nha xuất hiện chàng kị sĩ- nghệ sĩ Lorca đơn độc, mòn mỏi như biểu tượng cho người chiến sĩ đấu tranh

cho tự do chống lại chế độ độc tài và nhà cách tân nền nghệ thuật già nua.
2.Tấm lòng ngưỡng mộ của Thanh Thảo với Lorca được thể hiện qua nhạc điệu:
- Thanh Thảo đã ’’cấy’’, đã ’’khảm’’ lên bức tranh thơ một chuỗi âm thanh :
li-la li-la li-la


gợi một “cú vê” ghi ta của người đệm đàn- chuỗi âm thanh mở đầu này như phần dạo đầu để người hát bắt đầu
trình diễn ca khúc.
Ý nghĩa : gợi hình ảnh Lorca, dùng lời ca để ca ngợi Lorca, hợp lời, hợp cách. Đó mới là tri âm, đồng thời bộc
lộ lòng ngưỡng mộ của Thanh Thảo với nghệ sĩ thiên tài Tây Ban Nha này.
Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lorca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
Cả bài thơ là những khúc nhạc mơ hồ, những thi ảnh lãng đãng về thơ Lorca viết theo bút pháp tượng trưng
siêu thực. Riêng sáu dòng thơ này nhà thơ lại chen mấy dịng tự sự làm cho hình ảnh cái chết của Lorca hiện
rõ. Có lẽ Thanh Thảo đã quá xúc động trước cái chết thương tâm của Lorca. Nó làm chấn động tâm hồn
Thanh Thảo và cái chết ấy như hiện rõ mồn một trong tâm trí Thanh Thảo và trên trang thơ :
Tây Ban Nha
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ.
Từ áo choàng đỏ gắt trở thành áo choàng bê bết đỏ. Từ đỏ gắt- gợi ngọn lửa đấu tranh, gợi khát vọng
đấu tranh đã chuyển thành bê bết đỏ-gợi màu máu-gợi cái chết thương tâm bi tráng đầy ấn tượng.
’’Tơi khơng muốn nhìn thấy máu’’
Có lần Lorca đã kêu lên như thế nhưng máu của Lorca đã đổ. Hay nói cách khác : Lorca muốn chết tử
tế trên chiếc giường nhà mình, muốn nằm trong đất với cây đàn, thơ, chí ít chàng muốn mình như một đấu sĩ
bước vào đấu trường trong cuộc chiến một mất một cịn với con bị tót định mệnh- con bị cơ đơn với trái tim
cao thượng, chàng sẵn sàng chết trước cặp sừng oai hùng của nó.

Nhưng chàng khơng ngờ cái chết lại đến với mình bi thảm thế-lén lút thế-bọn phát xít đã hèn hạ ám hại
chàng-chàng đi như người mộng du. Mâu thuẫn giữa hiện thực phũ phàng và tâm trạng của Lorca càng làm
tăng thêm tính bi kịch của cuộc đời Lorca và càng làm cho bạn đọc đau đớn và càng thêm khinh bỉ bọn phát
xít.
II. Hai đoạn giữa : Suy nghĩ về sức sống của thơ Lorca và cái chết bất tử của Ông.
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
-Tiếng ghi ta (nghệ thuật) được điệp lại và mở đầu những dòng thơ như diễn tả cảm xúc mạnh liệt và đa chiều
về thơ Lorca đồng thời khẳng định nội dung phong phú kì diệu của thơ Lorca.
-Tiếng ghi ta (nghệ thuật của Lorca) lại được viết theo lối sắp đặt trong quan hệ tương phản (sự sống- cái
chết, vĩnh hằng-nhỏ nhoi), (nâu-xanh-đỏ) như muốn ngợi ca thơ Lorca là sự biểu hiện những thái cực tương
phản của sự sống và của tâm hồn Lorca.
-Tiếng đàn ghi ta (nghệ thuật của Lorca) lại được diễn tả theo phép tương giao và là những biểu tượng giàu
chất triết lí :
+Tiếng đàn ghi ta nâu, lá xanh : âm thanh đã được cảm nhận qua sắc màu.
+Tiếng đàn ghi ta tròn bọt nước vỡ tan : âm thanh được cảm nhận qua hình khối.
+Tiếng đàn ghi ta nâu : gợi nghệ thuật Lorca gắn bó với cuộc đời, thiên nhiên.
+Bầu trời cơ gái ấy : gắn với tình u lồng lộng, cao đẹp.
+Tiếng đàn ghi ta xanh biết mấy : nghệ thuật gắn bó với cuộc sống xanh tươi dù sương gió.
tiếng ghi ta trịn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy
Và nghệ thuật cũng tham gia vào cuộc đấu tranh như những người chiến sĩ nên cũng vỡ tan máu chảycao cả bi tráng. Nghệ thuật của Lorca thật phong phú bình dị và cao cả, nhẹ nhàng mà thấm thía, cụ thể mà
sâu xa, lãng mạn mà thực tế, siêu thực mà hiện thực. Đó là nghệ thuật bình dị gắn bó với cuộc đời, với tình
yêu và cuộc đấu tranh cho sự tiến bộ xã hội nên vơ cùng bình dị gần gũi và cũng vô cùng cao cả. Nghệ thuật
của Lorca là tiếng nói của cuộc sống và cả cái chết nữa.



Thơ tức là người. Qua Thơ Lorca, Thanh Thảo đã làm sống lại con người Lorca. Đó là hình tượng của
một con người yêu tha thiết quê hương mình, đất nước mình. Là tâm hồn có một tình u thật đẹp, cao rộngngười gắn bó mãnh liệt với thiên nhiên cây cỏ, bầu trời, mặt đất. Đó là người nghệ sĩ có năng lực sáng tạo phi
thường, và là người nghệ sĩ-chiến sĩ đã ngã xuống trong cuộc đấu tranh cho tự do và tiến bộ xã hội.
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt, vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
. Đã có cách hiểu một cách máy móc: Di chúc của Lorca: “khi tơi chết hãy chôn tôi với cây đàn” thế mà
“không ai chôn cất tiếng đàn”. Di chúc của Lorca không người thực hiện (nỗi xót xa của Thanh Thảo). Khơng
ai hiểu, không ai tri âm với Lorca. Lorca muốn sau khi mình qua đời, sự sáng tạo cũng chấm dứt thì hãy chơn
nghệ thuật của mình đi để kẻ hậu sinh khỏi bị cái bóng của mình ngăn cản. Đó là đạo đức của một vĩ nhân-sẵn
sàng hy sinh dang vọng cá nhân để cộng đồng phát triển.
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
Nghệ thuật thiếu vắng người dẫn đường, vắng bóng người định hướng. Câu thơ là tiếng thở dài, lời nuối tiếc
trước cái chết của một nhà cách tân.
. Nhưng theo tôi hiểu, với nghệ thuật so sánh :
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
là lời ngợi ca nhà thơ đã chết nhưng sức sống của thơ Ông vẫn tiềm tàng bất diệt khơng gì ngăn cản nổi. Câu
thơ là bài ca ca ngợi sức sống mãnh liệt của thơ Lorca(câu này gợi câu nói “Bao giờ hết cỏ nước Nam mới
hết người Nam đánh Tây” của Nguyễn Trung Trực, lãnh tụ nghĩa quân chống Pháp. Ông đã dùng sức sống
mãnh liệt của cỏ để ví với sức chiến đấu bền bỉ dẻo dai của nhân dân Nam Kỳ).
Tác phẩm nghệ thuật là con đẻ của người nghệ sỹ nhưng khi nghệ sỹ đã trao nó cho cơng chúng thì sự
sống chết mất cịn là do sức sống của chính tác phẩm quyết định. Nhiều khi trái tim nghệ sỹ đã ngừng đập
nhưng nghệ thuật của họ vẫn tồn tại có khi vĩnh hằng (chỉ riêng nghệ thuật có thể đứng ngoài cái chết - Sê đư
rin).
Tuy nhiên, đỉnh điểm của lời ca ngợi vẫn là hai câu thơ:
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
Câu thơ viết theo lối sắp đặt- bị lược bỏ những quan hệ từ làm cho bạn đọc tha hồ liên tưởng, sáng tạo cùng

tác giả.
. nước mắt biểu tượng cho tình thương, cho sự tri âm. Vầng trăng biểu tượng cho nghệ thuật (của Lorca).
Hai câu thơ khẳng định quân thù dù quẳng xác Lorca xuống giếng để phi tang nhưng tình yêu và cái đẹp trong
thơ Lorca đã kết thành thứ ánh sáng kì ảo vĩnh hằng trong tâm hồn các thế hệ sau.
III. Hai khổ cuối: Thơ Lorca bất tử nên Ông cũng bất tử theo. Lorca từ giã tất cả để làm nên sự sống.
đường chỉ tay đã đứt
dịng sơng rộng vô cùng
Lorca bơi sang ngang
trên chiếc ghi ta màu bạc
Đường chỉ tay đã đứt như biểu tượng cho thái độ chấp nhận định mệnh như một quy luật phũ phàng. Định
mệnh hữu hạn đặt dấu chấm hết cho số phận một con người. Dịng sơng rộng vơ cùng là biểu tượng cho dịng
sơng số phận cũng là ranh giới giữa cuộc sống và cái chết, dịng sơng vơ hạn của thực tại và hư vô.
Chiếc ghi ta màu bạc là biểu tượng cho cái đẹp của nghệ thuật. Nó trở thành con thuyền chở Lorca sang
ngang đi vào cõi siêu sinh bất tử. Thanh Thảo tôn vinh thơ Lorca bất tử nên người sáng tạo nên nó cũng
bất tử theo.
chàng ném lá bùa vào cơ gái Di gan
vào xốy nước
Là bùa là biểu tượng cho cái đẹp huyền bí có thể trấn an mọi xốy nước hung dữ thì trái tim Ơng biểu tượng
cho tình u có thể giúp tâm hồn bạn đọc xao động không yên.
chàng ném trái tim mình
vào im lặng bất chợt
li-la li-la li-la
Lorca đã mang cái đẹp, tình u đến giáp mặt với sự chết hồ vào sự chết để mở ra những nẻo đường kỳ ảo
cho cuộc sống, cho tâm hồn con người (Thanh Thảo). Nhà thơ đã ươm những hạt giống thơ của mình vào tận
trong lịng sự chết để cuộc sống có thể nở hoa.
li-la li-la li-la


Chuỗi ân thanh kết thúc bài thơ là sự giao thoa giữa thanh âm và thi ảnh. Nó khơng chỉ gợi một cú vê ghi ta
vang vọng sau khi lời ca đã ngừng mà còn gợi hoa Tử đinh hương- lồi hoa có màu tím ngắt được người

phương Tây ưu chuộng. Chuỗi âm thanh liên tiếp gợi hình ảnh những đố hoa Tử đinh hương với những bơng
nở liên tiếp. Đó là hoa của Thanh Thảo, hoa của người đời dâng trước tượng đài Lorca, hay đó là những đố
hoa thể hiện sự sống đang nảy nở từ cái chết đau thương của nhà thi sĩ hay là những đoá hoa thể hiện sự sống
bất diệt của nghệ thuật Lorca.
Kết luận :
1. Bài Đàn ghi ta của Lorca quả là có cách thể hiện mới mẻ hiện đại nhưng đọc kỹ ta thấy nó cũng giản dị
như nhiều kiệt tác khác (cái đẹp chính là sự giản dị).
Nó giản dị ở nội dung và cũng giản dị cả cách thể hiện nữa. Nó khẳng định thơ Việt Nam có thể tiếp cận và
học tập cách thể hiện phương Tây trên cơ sở giữ được bản sắc văn hố phương Đơng.
2. Có lần Thanh Thảo đã nói: “Phần tích diện, phần thu góp là cả một q trình nhưng sáng tạo là khoảng
khắc’’. Tơi nghĩ đàn ghi ta của Lorca chính là khoảng khắc xuất thần thăng hoa của tâm hồn thi sỹ như Ông
đã tâm sự. Bài đàn ghi ta được viết như một sự gợi ám



×