Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (712.15 KB, 83 trang )

CAO TIẾN DŨNG

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAO TIẾN DŨNG
NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ HÀNH CHÍNH

CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

KHĨA IX NĂM 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAO TIẾN DŨNG

CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC
TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚ




LÊ VĂN LONG

HỌC:


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản Luận văn này do chính tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn
khoa học của PGS.TS Lê Văn Long.
Các số liệu và kết quả nghiên cứuz trong Luận văn là trung thực và chưa hề được
công bố hoặc sử dụng để bảo vệ một học hàm nào.
Các thơng tin trích dẫn trong Luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc, nếu sai
tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Đắk Lắk, tháng 9 năm 2020
Học viên

Cao Tiến Dũng


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
Chương 1 ................................................................................................................. 4
1.1. Khái niệm, đặc điểm cưỡng chế thi hành án dân sự ........................................... 4
1.2. Chủ thể, vai trò của cưỡng chế thi hành án dân sự ............................................. 4
1.3. Điều kiện, phương thức cưỡng chế thi hành án dân sự ...................................... 5
1.4. Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ... 8
TIỂU KẾT CHƯƠNG I ......................................................................................... 11
Chương 2 ............................................................................................................... 12
THỰC TRẠNG CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ................................... 12

TẠI TỈNH ĐẮK LẮK ........................................................................................... 12
2.1. Thực trạng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự .................................... 12
2.2 Điều kiện kinh tế, xã hội và tổ chức bộ máy thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk ảnh
hưởng thi hành án dân sự. ...................................................................................... 32
2.3. Thực tiễn cưỡng chế thi hành án dân sự ở tỉnh Đắk Lắk .................................. 37
2.4. Đánh giá chung về cưỡng chế thi hành án dân sự ở tỉnh Đắk Lắk .................... 37
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 54
Chương 3 ............................................................................................................... 55
ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP VỀ CƯỠNG CHẾ ................................................... 55
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK ............................. 55
3.1. Định hướng về cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk .......... 55
3.2. Giải pháp về cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk ............. 57
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ........................................................................................ 71
KẾT LUẬN LUẬN VĂN ...................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 74


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công lý trong Bản án, Quyết định của Tòa án chỉ trở thành hiện thực khi Bản án,
Quyết định đó được hiện thực hóa một cách kịp thời, chính xác, đầy đủ nhất có thể trong
thực tế. Điều này dẫn đến yêu cầu để các Bản án, Quyết định của Tòa án được thực hiện
thì hoạt động của thi hành án dân sự (THADS) phải được tiến hành một các khoa học,
nghiêm minh, phù hợp với hiến pháp, pháp luật, với thực tế cuộc sống.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp Bản án, Quyết định của Tòa án
chưa được thực hiện nghiêm chỉnh, một số đối tương phải THADS không chấp nhận thi
hành án, thậm chí cịn có vi phạm pháp luật trong quá trình THADS. Đây là lý do phải
tiến hành các biện pháp cưỡng chế THADS theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong THADS. Theo đó, nâng
cao chất lượng áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án chính là một trong những

giải pháp đảm bảo hiệu quả của THADS ở nước ta hiện nay.
Trong những năm gần đây, Công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Lắk tiếp tục
nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự
cũng như Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk; sự phối hợp hiệu quả của các ngành
chức năng, chính quyền và tổ chức đoàn thể trong tỉnh. Đội ngũ cán bộ, công chức các cơ
quan Thi hành án dân sự trong tỉnh tiếp tục được nâng cao về trình độ chính trị, năng lực
chun mơn nghiệp vụ; cơ sở vật chất, trang thiết bị cơ bản đáp ứng được yêu cầu công
tác ngày càng cao của các cơ quan Thi hành án dân sự trong tỉnh.
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên các cơ quan Thi hành án dân sư tỉnh Đắk Lắk
cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức, đó là: Các tranh chấp dân sự, kinh tế tiếp tục phát
sinh làm gia tăng số việc và số tiền thụ lý mới mà các cơ quan Thi hành án dân sự trong
tỉnh phải thi hành, đặc biệt là án thi hành cho các tổ chức tín dụng, ngân hàng, kinh tế,
tham nhũng chiếm tỷ trọng lớn về giá trị.
Tuy nhiên, dưới sự triển khai chỉ đạo quyết liệt, sâu sát và toàn diện của Cục Thi
hành án dân sự tỉnh, nên ngay từ đầu năm công tác, các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh
Đắk Lắk đã nêu cao tinh thần trách nhiệm vượt qua khó khăn, thách thức, tập trung tổ
chức thi hành án quyết liệt nên công tác thi hành án dân sự của tỉnh đã đạt được kết quả
khả quan.

1


Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; Nghị định số
33/2020/NĐ-CP Sử a đổ i, b ổ s un g mộ t s ố đ iề u c ủa Nghị định số 62/2015/NĐCP 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Thi hành án dân sự được Cục thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk triển khai
thực hiện nghiêm chỉnh trong thực tiễn có ý nghĩa quan trọng trong công tác
thi hành án dân sự.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên, đồng thời để làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiễn về cưỡng chế THADS, gắn với hoạt động của cơ quan THADS ở tỉnh
Đắk Lắk, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn

tỉnh Đắk Lắk” làm Đề tài Luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Luận văn này sẽ là cơng trình nghiên cứu một cách chuyên sâu về mặt lý luận và
thực tiễn về hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự của tỉnh Đắk Lắk để đưa ra giải pháp
nâng cao hiệu lực, hiệu quả, luận giải những vướng mắc, bất cập cả về lý luận, pháp lý
cũng như thực tiễn trong cưỡng chế thi hành án dân sự tại địa phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích:
Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật về cưỡng chế thi
hành án dân sự nói chung, tại tỉnh Đắk Lắk nói riêng.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự trong
quá trình giải quyết thi hành án.
- Đánh giá thực trạng chung về hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự của tỉnh
Đắk Lắk. Phân tích, đánh giá kết quả đã đạt được; những tồn tại, hạn chế, vướng mắc
và chỉ ra những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế, vướng mắc.
- Đề xuất các giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác cưỡng chế thi hành án
dân sự tại tỉnh Đắk Lắk.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự.
- Phạm vi nghiên cứu:

2


Về không gian: Luận văn được nghiên cứu thực hiện tại ngành Thi hành án dân sự
tỉnh Đắk Lắk.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác cưỡng chế thi
hành án dân sự của tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2016 - 2020, đưa ra phương hướng, giải pháp

thực hiện trong giai đoạn 2021 - 2025.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận:
Để đạt được những mục đích đề ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng
phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp
với tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
- Phương pháp nghiên cứu:
Tác giả sử dụng các phương pháp như phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp, kết
hợp lý luận với thực tiễn, đặc biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn để giải quyết
những vấn đề đặt ra trong Luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
- Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận chung về hoạt động cưỡng chế thi
hành án dân sự.
- Nêu ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hoạt động Pháp luật về
cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk từ đó góp phần mang lại hiệu quả
công tác thi hành án dân sự của tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn tới.
7. Bố cục của luận văn
Nội dung của đề tài được trình bày trong 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về cưỡng chế thi hành án dân sự
Chương 2: Thực trạng cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Lắk
Chương 3: Định hướng, giải pháp về cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh
Đắk Lắk
Ngồi ra, luận văn cịn có phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.

3


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm cưỡng chế thi hành án dân sự

Khái niệm:
Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp nghiêm khắc được Chấp hành viên áp
dụng trong quá trình tổ chức thi hành án, thể hiện việc cơ quan Thi hành án dân sự sử
dụng quyền lực nhà nước để buộc người phải thi hành án thi hành nghĩa vụ mà bản án,
quyết định đã tuyên.
Trên cơ sở các quy định hiện hành, có thể hiểu rằng, cưỡng chế thi hành án dân sự
là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ quan Thi hành án dân sự do Chấp hành viên
quyết định theo thẩm quyền, nhằm buộc đương sự phải thực hiện những hành vi hoặc
nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của tòa án, được áp dụng trong trường hợp
người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành trong thời
hạn do Chấp hành viên ấn định, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành
án tẩu tán, hủy hoại tài sản.
Điều 71 Luật thi hành án dân sự quy định có 06 biện pháp cưỡng chế thi hành án
như sau [57, tr.39]:
1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi
hành án.
2. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.
3. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ
ba giữ.
4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án.
5. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.
6. Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất
định.
1.2. Chủ thể, vai trò của cưỡng chế thi hành án dân sự
Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, giữ nghiêm
kỷ cương pháp luật chung của nhân dân, xã hội, nhà nước, trong đó có cả lợi ích cá nhân.
Xác định rõ quyền lực của nhà nước bằng việc cho phép cơ quan Thi hành án dân
sự áp dụng các biện pháp bảo đảm, các biện pháp cưỡng chế, xử phạt vi phạm hành

4



chính, thậm chí là đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi chống đối,
các hành vi vi phạm các quy định về thi hành án dân sự.
Là phương tiện để nhà nước quản lý xã hội, triển khai những chủ trương, chính sách
của nhà nước một cách đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mơ cả nước, đồng thời đó
cũng là phương tiện để nhà nước kiểm soát các hoạt động của Chấp hành viên, của các tổ
chức, các cơ quan và mọi cơng dân trong cưỡng chế thi hành án dân sự.
Góp phần làm rõ thêm các chủ trương, chính sách của nhà nước, đặc biệt là chủ
trương xây dựng nền pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, tất cả mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân đều phải chấp hành các
quy định của pháp luật.
Tất cả mọi người tham gia việc cưỡng chế thi hành án đều phải chấp hành một
cách nghiêm chỉnh và triệt để, không phân biệt giữa người này hay người khác.
1.3. Điều kiện, phương thức cưỡng chế thi hành án dân sự
1.3.1. Quy định về hệ thống tổ chức thi hành án dân sự và Chấp hành viên
Về hệ thống tổ chức thi hành án dân sự:
Cơ quan quản lý Thi hành án dân sự gồm có: Cơ quan quản lý thi hành án dân sự
thuộc Bộ Tư pháp và cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng.
Cơ quan Thi hành án dân sự gồm có: Cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương; Cơ quan thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh; Cơ quan thi hành án quân khu và tương đương.
Quy định về Chấp hành viên
Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết
định theo quy định. Chấp hành viên có ba ngạch là Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành
viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp. Chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ
nhiệm, có nhiệm vụ, quyền hạn như sau [57, tr.11]:
1. Kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công; ra các quyết định về thi hành
án theo thẩm quyền.
2. Thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp

luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; thực hiện nghiêm chỉnh
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp Chấp hành viên.

5


3. Triệu tập đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc thi
hành án.
4. Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của
người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan xử lý vật chứng, tài sản và
những việc khác liên quan đến thi hành án.
5. Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành
án; lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án.
6. Yêu cầu cơ quan Công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo quy
định của pháp luật.
7. Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt vi phạm hành
chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm
hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm.
8. Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã chi trả cho
đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi hành án và các khoản phải nộp
khác.
9. Được sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành cơng vụ theo quy định của Chính
phủ.
10. Thực hiện nhiệm vụ khác theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự.
Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chấp hành viên phải tuân theo pháp
luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín.

Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức trong thi hành án dân sự
Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong thi hành án dân sự [57, tr.78]: Thống
nhất quản lý nhà nước về thi hành án dân sự trong phạm vi cả nước; Chỉ đạo các cơ quan
của Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong thi hành án dân sự; Phối hợp với Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thi hành án dân sự; Định kỳ hàng
năm báo cáo Quốc hội về công tác thi hành án dân sự.
Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thi
hành án dân sự. Cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp giúp Bộ trưởng Bộ

6


Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự và thực hiện quản lý chuyên
ngành về thi hành án dân sự theo quy định của Chính phủ.
Bộ Tư pháp có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây [57, tr.7]: Ban hành hoặc trình cơ
quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án dân sự; Xây
dựng và tổ chức thực hiện chính sách, kế hoạch về thi hành án dân sự; Phổ biến, giáo dục
pháp luật về thi hành án dân sự; Quản lý hệ thống tổ chức, biên chế và hoạt động của cơ
quan thi hành án dân sự; quyết định thành lập, giải thể các cơ quan thi hành án dân sự;
đào tạo, bổ nhiệm, miễn nhiệm Chấp hành viên, Thẩm tra viên; Hướng dẫn, chỉ đạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ cho Chấp hành viên, Thẩm tra viên và công chức khác làm công tác thi
hành án dân sự; Thanh tra việc sử dụng ngân sách, việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý,
thực hiện chế độ chính sách đối với công chức, viên chức, người lao động trong hệ thống
tổ chức thi hành án dân sự; kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi
phạm trong công tác thi hành án dân sự; Quyết định kế hoạch phân bổ kinh phí, bảo đảm
cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự; Hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực thi hành án dân sự; Tổng kết công tác thi hành án dân sự; Ban hành và
thực hiện chế độ thống kê về thi hành án dân sự; Báo cáo Chính phủ về cơng tác thi hành
án dân sự.
Các Bộ, Ngành Trung ương có trách nhiệm phối phối hợp với Bộ Tư pháp quản lý

nhà nước về thi hành án dân sự, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án dân
sự, chỉ đạo các cơ quan thuộc hệ thống quản lý của mình phối hợp trong công tác thi hành
án dân sự theo quy định của pháp luật [57, tr.78 - tr.83].
Trong phạm vi quyền hạn do pháp luật quy định, Ủy ban nhân dân các cấp, Tư lệnh
quân khu và tương đương có trách nhiệm phối hợp chỉ đạo và tạo điều kiện cho cơ quan
thi hành án dân sự trên địa bàn thực thi chính sách, pháp luật về thi hành án dân sự; chỉ
đạo các cơ quan chức năng có liên quan phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự để thực
hiện tốt việc quản lý hoạt động thi hành án dân sự trên địa bàn [57, tr.81].
1.3.2. Quy định về thẩm quyền áp dụng và tổ chức thực hiện các biện pháp cưỡng
chế thi hành án dân sự
Chấp hành viên có quyền quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện
pháp cưỡng chế thi hành án; lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành
án; Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã chi trả cho đương
sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi hành án và các khoản phải nộp khác.

7


Chấp hành viên căn cứ vào nội dung bản án, quyết định; quyết định thi hành án;
tính chất, mức độ, nghĩa vụ thi hành án; điều kiện của người phải thi hành án; yêu cầu
bằng văn bản của đương sự và tình hình thực tế của địa phương để lựa chọn việc áp dụng
biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án thích hợp. Chấp hành viên áp dụng
biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án trong trường hợp thi hành quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại Điều 130 Luật Thi hành án
dân sự.
Việc áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với nghĩa
vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết, trừ trường hợp người phải thi hành
án tự nguyện đề nghị kê biên tài sản cụ thể trong số nhiều tài sản mà không gây trở ngại
cho việc thi hành án và tài sản đó đủ để thi hành án và các chi phí liên quan. Trường hợp
người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải

thi hành án mà tài sản đó khơng thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng
kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng
chế để thi hành án.
Ngồi những trường hợp khơng tổ chức cưỡng chế thi hành án do Luật Thi hành án
dân sự quy định, cơ quan thi hành án dân sự không tổ chức cưỡng chế thi hành án có huy
động lực lượng trong thời gian 15 ngày trước và sau tết Nguyên đán; các ngày truyền
thống đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án; các trường hợp
đặc biệt khác ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, chính trị, trật tự an tồn xã hội, phong
tục, tập quán tại địa phương.
Trong trường hợp cần thiết, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự báo cáo Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp, Thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu báo cáo Tư
lệnh quân khu và tương đương ít nhất là 05 ngày làm việc trước khi tổ chức cưỡng chế thi
hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự an tồn xã hội
tại địa bàn theo quy định tại Khoản 1 Điều 172, Khoản 2 Điều 173 và Khoản 2 Điều 174
của Luật Thi hành án dân sự [57, tr.81].
1.4. Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân
sự
1.4.1. Năng lực thực thi công vụ của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên thi
hành án dân sự

8


Chấp hành viên thi hành án dân sự là một chức danh Tư pháp do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền bổ nhiệm theo quy trình, thủ tục nhất định khi đáp ứng đầy đủ các yêu
cầu, tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của pháp luật.
Được Nhà nước giao nhiệm vụ tổ chức thi hành hoặc trực tiếp thi hành các bản án,
quyết định theo quy định của pháp luật; được sử dụng quyền lực nhà nước để tổ chức thi
hành án dân sự.
Hoạt động của cơ quan Thi hành án dân sự được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt

động của đội ngũ Chấp hành viên, về bản chất, là hoạt động áp dụng pháp luật; do đó, các
hoạt động tác nghiệp của đội ngũ Chấp hành viên phải tuân thủ theo đúng các quy định
của pháp luật về nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành án dân sự.
Nếu áp dụng pháp luật một cách đơn giản, cứng nhắc thì sẽ khơng đạt được hiệu
quả, kết quả như mong muốn, mà có khi lại dẫn đến tình trạng bản án, quyết định của Tịa
án đã có hiệu lực pháp luật nhưng khơng thể thi hành được trên thực tế hoặc có thi hành
được thì hậu quả xã hội xảy ra lại rất khó khắc phục [38]. Điều này rất dễ nhận thấy ở
những vụ cưỡng chế thi hành án lớn mà gần đây các phương tiện truyền thơng đưa tin.
Chấp hành viên phải có năng lực chun mơn, nghiệp vụ để có thể áp dụng pháp
luật một cách năng động, linh hoạt, khéo léo. Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của Chấp
hành viên thi hành án dân sự, về cơ bản, bao gồm các yếu tố như trình độ kiến thức, hiểu
biết pháp luật; ý thức pháp luật nghề nghiệp; kỹ năng nghiệp vụ cơng tác; phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống...
1.4.2. Ý thức pháp luật của các bên liên quan trong cưỡng chế thi hành án dân sự
Ý thức chấp hành pháp luật thể hiện qua thái độ tự giác, tự nguyện thi hành án, tự
thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự đã được bản án, quyết định ghi nhận, thể hiện ý chí và
sự mong muốn của các bên.
Kết quả của tự nguyện thi hành án là tiền đề, cơ sở và là căn cứ để Chấp hành viện
áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án nếu đương sự không tự nguyện thi hành án.
Chủ thể của tự nguyện thi hành án không chỉ là người được thi hành án, người phải
thi hành án, mà cịn có thể là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Trường hợp nếu các bên khơng có ý thức tự giác, tự nguyện thi hành án, không thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, thì Chấp hành viên buộc phải áp dụng các biện pháp
cưỡng chế thi hành án. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế là hết sức cần thiết, bảo đảm
công lý được thực thi, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, tuy nhiên, nó cũng có

9


thể làm tốn kém thời gian, chi phí, ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự an tồn xã hội

tại địa phương.
1.4.3. Sự phối hợp của các bên liên quan trong cưỡng chế thi hành án dân sự
Hoạt động thi hành án dân sự liên quan đến nhiều hoạt động thuộc chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan chức năng khác, đòi hỏi các cơ quan này phải tham gia giải
quyết theo chức năng, nhiệm vụ được giao thì mới có thể xử lý được các vấn đề liên quan
đến thi hành án dân sự, như: hoạt động của Ủy ban nhân dân các cấp, Văn phòng, Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan Tài nguyên và môi trường trong việc cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng tài sản; hoạt động của cơ quan Thuế trong việc tính
thuế, nghĩa vụ tài chính đối với tài sản thi hành án; hoạt động của cơ quan Công an trong
bảo vệ cưỡng chế, khởi tố vụ án hình sự về tội không chấp hành án, tống đạt tài liệu, trả
giấy tờ, tài sản cho phạm nhân, trích xuất phạm nhân là người phải thi hành án để Chấp
hành viên làm việc trực tiếp; hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp trong xét xử, áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

10


TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Để công tác thi hành án dân sự đạt được hiệu quả, thì khơng thể thiếu các biện pháp
cưỡng chế thi hành án, là các biện pháp mạnh, sử dụng quyền lực nhà nước, thể hiện tính
nghiêm khắc, nghiêm minh của pháp luật, giữ vững kỷ cương phép nước, bảo vệ tốt hơn
quyền của người được thi hành án, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và
Nhà nước theo bản án, quyết định của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của
Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại. Việc nghiên
cứu các biện pháp cưỡng chế thi hành án sẽ giúp làm rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, vị trí, vai trò của cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên; xác định rõ hơn trách
nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan trong hoạt động thi hành
án dân sự, cũng như công tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự.

11



Chương 2
THỰC TRẠNG CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TẠI TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Thực trạng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
2.1.1. Quy định về thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự
Theo quy định tại Điều 70 Luật THADS căn cứ để tổ cức cưỡng chế thi hành án
gồm: “Bản án, quyết định; Quyết định thi hành án; Quyết định cưỡng chế thi hành án,
trừ trường hợp bản án, quyết định đã tuyên kê biên, phong tỏa tài sản, tài khoản và
trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án”.
Để lựa chọn biện pháp cưỡng chế phù hợp với tính chất vụ việc, tương ứng với nghĩa
vụ thi hành án, trước khi ban hành quyết định cưỡng chế thì Chấp hành viên phải tiến
hành xác minh đầy đủ, chính xác về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án,
hồn cảnh gia đình, nhân thân và nguồn thu nhập của người phải thi hành án. Sau khi
Chấp hành viên đã quyết định cưỡng chế và xây dựng kế hoạch cưỡng chế thì cần thực
hiện cơng tác chuẩn bị cưỡng chế.
- Họp bàn cưỡng chế, trên cơ sở nội dung, tình huống của kế hoạch cưỡng chế
đã được Chấp hành viên xây dựng và đề xuất, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự
mời các các cơ quan, đơn vị phối hợp cưỡng chế, đại diện Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp họp bàn cưỡng chế, phổ biến kế hoạch cưỡng chế và phân công nhiệm
phối hợp cụ thể cho từng cơ quan, đơn vị, đồng thời lắng nghe ý kiến đóng góp của
các cơ quan phối hợp để hoạn thiệt kế hoạch cưỡng chế.
Theo quy định tại thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT – BTP – BCA ngày
30/3/2012 của Bộ Tư pháp – Bộ Công an; quy định cụ thể việc phối hợp bảo vệ
cưỡng chế trong thi hành án, Cơ quan công an có trách nhiệm chủ trì trong việc xây
dựng kế hoạch bảo vệ cưỡng chế, cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm phối hợp
để xây dựng kế hoạch bảo vệ cưỡng chế sát với tình hình vụ việc, đạt yêu cầu đặt ra.
- Chấp hành viên chủ động liên hệ thuê phương tiện, xe cứu thương, xe đưa đón
đồn cưỡng chế đi làm nhiệm vụ … th nhân công, mua vật liệu cần thiết.

Trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức trong thi hành án dân sự
được quy định tại chương VIII của Luật THADS và được quy định chi tiết tại Nghị định
số 33/2020/NĐ-CP ngày 1 7 / 3 / 2 0 2 0 của Chính phủ Sử a đ ổi, b ổ s un g m ột số
điề u củ a Nghị định số 62/2015/NĐ-CP 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và

12


hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự. Lãnh đạo Cục thi hành án
dân sự tỉnh Đắk Lắk phải tham mưu cho UBND tỉnh Đắk Lắk thành lập và kiện toàn Ban
chỉ đạo thi hành án dân sự, theo đó Ban chỉ đạo thi hành án dân sự có trách nhiệm giúp Chủ
tịch UBND tỉnh chỉ đạo công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tồn tỉnh và chỉ đạo cơng
tác phối hợp thi hành án trên địa bàn thành phố, thị xã, huyện đặc biệt là chỉ đạo phối hợp
cưỡng chế đối với những vụ việc có tính chất phức tạp có ảnh hưởng đến an ninh, tật tự của
địa phương.
Thủ tục cưỡng chế thi hành án là một công đoạn trong q trình tổ chức thi hành
án, trong đó cưỡng chế thi hành án là công việc phức tạp nhất, trải qua nhiều giai đoạn:
Sau khi hết thời hạn tự nguyện THA, người có thẩm quyền THA xem xét, cân
nhắc lựa chọn biện pháp cưỡng chế được quy định tại điều 71 Luật THADS để ra
quyết định cưỡng chế, trừ trường hợp bản án, quyết định đã tuyên kê biên, phong toả
tài sản, tài khoản và trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời của Toà án.
- Lập kế hoạch cưỡng chế: Trước khi tiến hành cưỡng chế THADS, người có
thẩm quyền THA phải lập kế hoạch cưỡng chế, trừ trường hợp phải cưỡng chế ngay
hoặc không huy động lực lượng.
Việc thông báo quyết định cưỡng chế được thực hiện theo quy định chung về
thông báo thi hánh án quy định tại điều 39, 40, 41, 42 của Luật THADS và được
hướng dẫn tại điều 12 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 1 7 / 3 / 2 0 2 0 của Chính
phủ Sử a đổ i, b ổ su ng m ột s ố đi ều c ủa Nghị định số 62/2015/NĐ-CP 18/7/2015
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành

án dân sự.
- Tiến hành cưỡng chế: Người có thẩm quyền THA cơng bố quyết định cưỡng
chế, giải thích các quy định có liên quan, chủ trì điều hành tồn bộ q trình cưỡng
chế, kịp thời xử lý mọi tình huống đã dự kiến trong kế hoạch và tình huống phát sinh
diễn ra trong quá trình cưỡng chế cho đến khi kết thúc việc cưỡng chế.
Giai đoạn 1: Xác minh tài sản
Việc xác minh phải theo đúng quy định tại Điều 44 Luật Thi hành án dân sự [57,
tr.26], Điều 9 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 1 7 / 3 / 2 0 2 0 của Chính phủ S ửa
đổi, b ổ s un g mộ t s ố điề u củ a Nghị định số 62/2015/NĐ-CP 18/7/2015 của Chính

13


phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự
[26, tr.6]. và Điều 3 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC.
Trước khi kê biên tài sản là quyền sử dụng dất, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu
hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật, Chấp hành viên yêu cầu cơ
quan đăng ký cung cấp thông tin về tài sản, giao dịch đã đăng ký. Sau khi kê biên, Chấp
hành viên phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký về việc kê biên tài sản đó để
xử lý theo quy định của pháp luật.
Chấp hành viên phải thực hiện đầy đủ công tác xác minh điều kiện thi hành án và
số lượng tài sản cần kê biên, trong đó khâu quan trọng nhất là phải làm rõ quyền sở hữu
tài sản riêng, tài sản chung đồng sở hữu của người phải thi hành án mà cơ quan thi hành
án được quyền kê biên.
Giai đoạn 2: Thông báo cưỡng chế kê biên
Thông báo là thủ tục đặc biệt quan trọng và được thực hiện xuyên suốt trong quá
trình tổ chức thi hành án. Nếu vi phạm thủ tục thông báo, kết quả thi hành án có thể bị
hủy bỏ.
Chấp hành viên phải gửi quyết định cưỡng chế cho Viện kiểm sát cùng cấp, Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi tổ chức cưỡng chế thi hành án hoặc cơ quan, tổ

chức có liên quan đến việc thực hiện quyết định cưỡng chế thi hành án.
Giai đoạn 3: Kê biên tài sản
Khi kê biên nếu đương sự vắng mặt thì có thể uỷ quyền cho người khác thực hiện
các quyền, nghĩa vụ của mình.
Khi kê biên nhà ở, cơng trình kiến trúc mà phải mở khố, phá khố thì Chấp hành
viên u cầu người phải thi hành án, người đang sử dụng, quản lý mở khố; nếu họ
khơng mở hoặc cố tình vắng mặt thì Chấp hành viên tự mình hoặc có thể thuê cá nhân, tổ
chức khác mở khoá, phá khoá, trong trường hợp này phải có người làm chứng.
Khi kê biên tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp thì phải lưu ý
việc kê biên trong trường hợp này chỉ được thực hiện khi người phải thi hành án khơng
cịn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án, và giá trị của tài sản
đã thế chấp phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án. Để
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người nhận thế chấp, Chấp hành viên phải thông
báo ngay cho người nhận cầm cố, nhận thế chấp biết về việc kê biên [57, tr.48]; khi xử lý

14


tài sản kê biên, người nhận cầm cố, nhận thế chấp được ưu tiên thanh toán theo quy định
tại khoản 3 Điều 47 của Luật thi hành án dân sự.
Khi xử lý tài sản cầm cố, thế chấp nêu trên mà xảy ra trường hợp giá trị tài sản
không đủ để thanh tốn nghĩa vụ bảo đảm thì Chấp hành viên thông báo với các bên liên
quan, đương sự để dừng việc xử lý tài sản, nếu xác định đương sự vẫn khơng có tài sản
khác để thực hiện nghĩa vụ thi hành án thì làm thủ tục trả đon yêu cầu thi hành án.
Khi kê biên tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ, kể cả
trường hợp tài sản đó chỉ mới được xác định bằng bản án, quyết định khác thì Chấp hành
viên vẫn có quyền ra Quyết định kê biên tài sản đó để thi hành án; trường hợp người thứ
ba khơng tự nguyện giao tài sản thì Chấp hành viên cưỡng chế buộc họ phải giao tài sản
để thi hành án. Khi kê biên tài sản đang cho thuê thì cần lưu ý người thuê được tiếp tục
thuê theo hợp đồng đã giao kết [57, tr.48].

Khi kê biên tài sản là vốn góp của người phải thi hành án, chấp hành viên yêu cầu
cá nhân, cơ quan, tổ chức nơi người phải thi hành án có vốn góp cung cấp thơng tin về
phần vốn góp của người phải thi hành án để kê biên phần vốn góp đó [57, tr.48]. Trong
trường hợp cần thiết, chấp hành viên yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xác định phần vốn
góp của người phải thi hành án; trưng cầu tổ chức, cá nhân có chun mơn xác định phần
giá trị vốn góp của người phải thi hành án để cưỡng chế thi hành án. Đương sự cũng có
quyền u cầu Tồ án xác định phần vốn góp của người phải thi hành án.
Chấp hành viên phải thực hiện việc kê biên đối với tất cả tài sản khi tiến hành xử lý
kể cả trường hợp Tòa án tuyên phát mãi để thi hành án mà nay các được sự tụ thỏa thuận
về giá để đưa tài sản ra bán đấu giá, ngọai trừ trường hơp bản án, quyết định đã kê biên .
2.1.2 Quy định về biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án dân sự
Biện pháp bảo đảm thi hành án:
Các biện pháp bảo đảm thi hành án bao gồm [57, tr.38]:
- Phong tỏa tài khoản;
- Tạm giữ tài sản, giấy tờ;
- Tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản.
Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
Khấu trừ tiền trong tài khoản:
Việc cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản để thi hành án được áp dụng
trong trường hợp người phải thi hành có tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác

15


hoặc kho bạc nhà nước. Trước khi ra quyết định cưỡng chế, Chấp hành viên cần tiến
hành xác định số tiền của người phải thi hành án trong tài khoản tại ngân hàng, kho
bạc nhà nước, tổ chức tín dụng trên cơ sở các tài liệu thông tin do Chấp hành viên
xác minh, thu thập hoặc do người được thi hành án cấp. Cụ thể:
Tiến hành thu thập thông tin về số tài khoản, nơi mở tài khoản, số dư hiện có
trong tài khoản có thể là tài khoản cá nhân, doanh nghiệp hay tổ chức kinh tế, tổ chức

xã hội của người phải thi hành án. Luật THADS đã quy định trách nhiệm của kho bạc
nhà nước, ngân hàng và tổ chức tín dụng trong THADS là phải cung cấp đúng, đầy
đủ, kịp thời thông tin, số liệu về tài khoản của người phải thi hành án theo yêu cầu của
Chấp hành viên.
Trường hợp người phải thi hành án là pháp nhân thì để thu thập được số tài
khoản thì trước hết, Chấp hành viên lấy thơng tin qua mạng về Giấy phép đăng ký
kinh doanh qua cổng thông tin của Sở kế hoạch và Đầu tư cấp Tỉnh hoặc trực tiếp gửi
cơng văn đến Phịng đăng ký kinh doanh. Qua đó để nắm thơng tin về tên doanh
nghiệp, mã số thuế, địa chỉ trụ sở, ngành nghề kinh doanh, người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp… Từ đó để xác minh tên doanh nghiệp qua Cục thuế cấp tỉnh;
cũng có thể qua người được thi hành án và đối tác của công ty để biết được số tài khoản.
Các hành vi này của Chấp hành viên không trái pháp luật và được pháp luật cho phép.
Khi được yêu cầu, các tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm cung cấp các thông tin
cấn thiết về tài khoản của người phải thi hành án cho Chấp hành viên.
Khi xác định người phải thi hành án có tiền gửi hoặc có tiền trong tài khoản tại
ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc thì Chấp hành viên lập biên bản về tình
trạng tiền trong tài khoản của người phải thi hành án tại ngân hàng, kho bạc nhà nước,
tổ chức tín dụng khác và ra quyết định khấu trừ tương ứng với nghĩa vụ của người
phải thi hành án. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 76 Luật THADS: “…Số tiền khấu
trừ không vượt quá nghĩa vụ thi hành án và cho phí cưỡng chế thi hành án”.
Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế phải gửi cho người được thi hành án,
người phải thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân đang giữ tiền giấy tờ có giá của
người phải thi hành án. Đồng thời Chấp hành viên yêu cầu thủ trưởng cơ quan, tổ
chức, người thứ ba và bản thân người phải thi hành án có trách nhiệm phải thực hiện
quyết định cưỡng chế.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 76 Luật THADS thì khi nhận được quyết định

16



cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án ở ngân hàng, kho
bạc nhà nước, tổ chức tín dụng khác thì cơ quan, tổ chức này có trách nhiệm khấu
trừ ngay tiền để chuyển vào tài khoản của cơ quan THADS hoặc chuyển cho người
được thi hành án theo quyết định khấu trừ.
Nếu áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án phong tỏa tài khoản thì sau khi
khấu trừ tài khoản của người phải thi hành án thì việc phong tỏa tài khoản sẽ chấm
dứt (Điểm b, khoản 1, Điều 77 Luật THADS) [41, tr.33].
Biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá
của người phải thi hành án là biện pháp cưỡng chế cần thiết để Chấp hành viên áp
dụng trong quá trình tổ chức thi hành án. Tại ngành thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk đã áp dụng
biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người
phải thi hành án đối với 150 vụ việc thi hành án/năm, qua đó Chấp hành viên đã giải quyết
dứt điểm vụ việc. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi vẫn cịn những khó khăn tồn tại:
Khó khăn từ việc phối hợp của các tổ chức tín dụng trong việc xác minh điều kiện thi hành
án, theo quy định tại Điều 11 Luật THADS các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có
trách nhiệm phối hợp, thực hiện các yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự và chấp
hành viên.
Ngoài ra, khi đã xác minh được tài khoản, thu nhập của người phải thi hành
án thì khó khăn vẫn chưa hết. Các tổ chức tín dụng sẽ viện dẫn Điều 14 Luật Các tổ
chức tín dụng năm 2010 để từ chối cung cấp thông tin về tài khoản của người phải
thi hành án. Nếu cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên kiên quyết xác minh thì
các đơn vị này cung cấp một cách hạn chế. Sau khi đã thu thập thông tin về tài khoản
của người phải thi hành án thì các ngân hàng lại viện lý do số tiền lớn, phải xin ý
kiến của hội sở hoặc viện lý do bảo vệ khách hàng nên trì hỗn việc thực hiện quyết
định.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cịn có một bộ phận là cán bộ, công chức, viện chức,
hưu trí, trong một số trường hợp Cục thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk đã áp dụng
biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án đối với cán bộ, cơng chức,
viện chức, hưu trí là người phải thi hành án. Quá trình Cục thi hành án dân sự tỉnh Đắk
Lắk đã áp dụng biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án cho thấy đây

là biện pháp cưỡng chế ít phức tạp, khơng cần huy động lực lượng, ít có sự chống
đối quyết liệt của người phải thi hành án, nhưng việc tổ chức thi hành án thường

17


kéo dài nhiều tháng, nhiều năm và cũng có khó khăn nhất định, khó khăn lớn nhất của
biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án là ý thức chấp hành pháp luật
của người phải thi hành án và nhận thức, trách nhiệm của cơ quan liên quan. Một
số trường hợp, người đang thi hành án chuyển chỗ ở, chuyển nơi công tác khiến
cơ quan THADS mất thời gian thông báo đến nơi ở, nơi công tác mới và các thủ tục
phải bắt đầu lại từ đầu; chưa kể trường hợp người phải thi hành án cố tình trốn tránh
nghĩa vụ, cơng tác THADS gặp khó khăn. Người sử dụng lao động từ chối cơ quan
THADS vì lý do bảo vệ cho người lao động của mình hoặc đơn giản chỉ vì chưa có
tiền lệ. Bên cạnh đó, tại Điều 78 Luật THADS quy định khi áp dụng biện pháp
cưỡng chế trừ vào thu nhập không quá 30% đối với tiền lương, đối với các thu nhập
khác nhưng phải đảm bảo thu nhập tối thiểu cho người phải thi hành án. Những bất
cập này làm cho không ít hồ sơ thi hành án tồn đọng, không thi hành được mặc dù
người phải thi hành án có tiền lương hưu, tiền trợ cấp hàng tháng tại bảo hiểm xã hội.
Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án:
Biện pháp trừ vào thu nhập được quy định tại khoản 2 Điều 71 và Điều 78 Luật
THADS. Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập: Người THA có
thu nhập thực tế và khơng tự nguyện thi hành; Theo thỏa thuận của đương sự hoặc
Bản án, quyết định ấn định trừ vào thu nhập của người phải thi hành án hoặc Thi
hành án cấp dưỡng, thi hành án theo định kỳ, khoản tiền phải thi hành án không lớn
hoặc tài sản khác của người phải thi hành án khơng đủ để thi hành án.
Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án:
Việc xác minh điều kiện thi hành án [41, tr.19]: Để trừ vào thu nhập của người phải thi
hành án, Chấp hành viên phải xác minh, thu thập của người phải thi hành án có phải
là thu nhập hợp pháp khơng, nguồn nhập có từ đâu, mức thu nhập là bao nhiêu, có ổn

định khơng, cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp quản lí thu nhập của người phải thi
hành án…
Đối với trường hợp thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc theo thỏa thuận của các
đương sự hoặc bản án, quyết định đã được ấn định trừ vào thu nhập hoặc tài sản của
người phải thi hành án không lớn thi Chấp hành viên chỉ cần tiến hành xác minh người
phải thi hành án có thu nhập thường xuyên hay không.
Chấp hành viên cần tập trung vào xác định: tổng số tiền thu nhập hàng tháng
là bao nhiêu, trong đó xác định tiền lương, tiền công, tiền lương hưu hoặc trợ cấp mất

18


sức lao động là bao nhiêu và khoản thu nhập hợp pháp khác nếu có; đồng thời xác
minh ai là người đang trực tiếp quản lí các nguồn thu
Trong trường hợp người phải thi hành án có mức lương hoặc mức thu nhập thấp
chỉ để bảo đảm cuộc sống tối thiểu của người phải thi hành án và gia đình; khơng có
tài sản nào khác tại thời điểm xác minh hoặc tuy có tài sản nhưng tài sản có giá trị nhỏ
khơng đủ để thi hành án, thì Chấp hành viên đề nghị với Thủ trưởng cơ quan thi hành
án dân sự ra quyết định việc chưa có điều kiện thi hành án theo quy định tại Điều 44a
Luật THADS.
Ra quyết định và thi hành quyết định trừ vào thu nhập của người phải thi hành
án [41, tr.19]: Quyết định trừ vào thu nhập của người phải thi hành án là một trong
những biện pháp cưỡng chế thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 71, Điều 78
Luật THADS [41, tr.44]. Thực hiện quyết định trừ vào thu nhập của người phải thi hành
án là việc tổ chức giao quyết định cưỡng chế cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lí
thu nhập của người phải thi hành án thực hiện quyết định khấu trừ tiền của người phải
thi hành án để thi hành án. Cơ quan, tổ chức, người sử dụng lao động, cơ quan BHXH
nơi người phải thi hành án nhận tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp và
các thu nhập hợp pháp khác khi nhận được quyết định cưỡng chế trừ vào thu nhập
phải có nhiệm vụ thực hiện quyết định đó theo đúng nội dung đã quyết định.

Sau khi khấu trừ thu nhập, cơ quan, tổ chức, cá nhân nêu trên có nghĩa vụ
chuyển cho cơ quan thi hành án dân sự số tiền đã khấu trừ để chi trả cho người được
thi hành án.
Tỉnh Đắk Lắk là địa phương sản suất nơng nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong có
cấu kinh tế, nguồn thu nhập chủ yếu của người dân từ sản xuất nông nghiệp, trồng cây
cà phê, cây hồ tiều, cây điều, cây cao su … do đó nguồn thu nhập khơng ổn định, mang
tính thời vụ, vì vậy việc áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải
thi hành án ngoài những điều kiên áp dụng được Luật thi hành án dân sự quy định còn
bị hạn chế do đặc điểm nguồn thu nhập của người dân địa phương.
Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ
ba giữ
Qua thực tiễn công tác cho thấy, biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người
phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ là biện pháp được áp dụng
chủ yếu trong 06 biên pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa tỉnh Đắk Lắk đây

19


cũng là biện pháp cưỡng chế phức tạp, trình tự, thủ tục kê biên, xử lý tài sản có
nhiều bước, nhiều giai đoạn chặt chẽ và bên cạnh đó người phải thi hành án thường
xuyên có sự chống đối quyết liệt, có trường hợp gia đình người phải thi hành án
dùng bình ga, xăng tự thủ trong nhà để chống đối việc cưỡng chế, do đó địi hỏi
Chấp hành viên phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thơng nghiệp vụ, có nhiều
kinh nghiệp, kỹ năng thuyết phục, kỹ năng xử lý tình huống và cẩn trọng trong tác
nghiệp. Tuy vậy, quá trình tổ chức kê biên, xử lý tài sản Chấp hành viên cũng gặp
một số khó khăn từ quy định của pháp luật như:
Khó khăn do đương sự cố tình kéo dài thời gian thi hành án bằng cách yêu cầu
định giá lại tài sản kê biên, tại địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk có
những vụ việc kèo dài nhiều năm (trên 5 năm) do đương sự yêu cầu định giá lại theo
quy định tại Điều 99, Điều 104 của Luật thi hành án dân sự năm 2008, đến nay tuy

Điều 99, 104 của Luật thi hành án dân sự năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung năm
2014, nhưng cũng chưa triệt để, cụ thể là: Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 99
của Luật THADS quy định:
Như vậy, quyền yêu cầu định giá lại được thực hiện sau khi kê biên, định giá
tài sản cho đến trước khi thông báo cơng khai về việc bán đấu giá tài sản.
Khó khăn trong việc kê biên nhà ở của người phải thi hành án, nhưng quyền
sử dụng đất không phải của người phải thi hành án, thực tiễn tại thành phố Bn
Ma Thuột có những vụ việc Bản án, quyết định của Tòa án chỉ kê biên nhà ở của
người phải thi hành án, không kê biên quyền sử dụng đất của người khác có nhà ở,
cơng trình gắn liền trên đất hoặc quá trình tổ chức thi hành án thì Chấp hành viên chỉ
kê biên nhà ở của người phải thi hành án, không kê biên quyền sử dụng đất của
người khác có nhà ở, cơng trình gắn liền trên đất, do đó q trình xử lý tài sản cưỡng
chế kê biên gặp nhiều khó khăn và giá trị nhà ở, cơng trình xây dựng của người phải
thi hành án định giá hàng tỷ đồng nhưng bán khơng có người đăng ký đấu giá, kết quả
hạ giá nhiều lần và chỉ bán với giá rất thấp so với định giá ban đầu.
Lý do dẫn đến tình trạng trên là do quy định của pháp luật chưa phù hợp với
thực tiễn, nên Chấp hành viên không đủ căn cứ để kê biên quyền sử dụng đất khơng
phải của người khác có cơng trình xây dựng của người phải thi hành án gắn liền trên
đất. Theo quy định tại khoản 2 Điều 95 Luật thi hành án dân sự quy định “Khi kê biên
nhà ở phải kê biên cả quyền sử dụng đất gắn liền với nhà ở.

20


Đây là một quy định mập mờ, nước đôi, không dứt khốt mà đến nay chưa có
văn bản hướng dẫn cụ thể, vi vậy gây khó khăn cho việc áp dụng biện pháp kê biên,
xử lý tài sản, đặc biệt nhiều trường hợp làm giảm giá trị tài sản của người phải thi
hành án.
Khó khăn trong việc kê biên tài sản của người phải thi hành án đang do người
thứ ba giữ, theo quy định tại Điều 91 Luật thi hành án dân sự:

Nhưng trong thực tế khi áp dụng quy định này thì Chấp hành viên gặp khó khăn
trong trường hợp người thứ ba giữ tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án
nhưng họ không chấp hành quyết định của Chấp hành viên, họ không giao nộp tiền,
giấy tờ có giá. Trong trường hợp này Chấp hành viên không thể khám người, khám nhà
người thứ ba để thu hồi tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án, vì pháp luật
khơng cho phép, đặc biệt theo quy định tại Điều 70 Luật THADS thì căn cứ tổ chức
cưỡng chế thi hành án gồm có 03 căn cứ là: Bản án, quyết định; Quyết định thị
hành án; Quyết định cưỡng chế. Như vậy, qua phân tích như trên thì việc tổ chức
cưỡng chế đối với người thứ ba theo quy định tại Điều 91 Luật THADS là chưa đủ căn
cứ để tổ chức cưỡng chế.
Một số khó khăn nữa là: Theo quy định tại khoản 1 Điều 111 Luật THA dân
sự thì “Khi kê biên quyền sử dụng đất, chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành
án, người đang quản lý giấy tờ về quyền sử dụng đất phải nộp các giấy tờ đó cho cơ
quan thi hành án dân sự” [41, tr.42]. Nhưng phát sinh tình huống: Sau khi có được
giấy tờ về quyền sử dụng đất Cơ quan thi hành án đề nghị Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai tiến hành tách thửa đất để thi hành án nhưng Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai từ chối với lý do diện tích đất nhỏ, khơng đủ diện tích tối thiểu để
được tách thửa cấp giấy chứng nhận, hoặc trường hợp người phải thi hành án,
người đang quản lý giấy chứng nhận không nộp lại giấy Chứng nhận quyền sử dụng
đất, Cơ quan thi hành án đề nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi, hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cũ và cấp mới cho người nhận tài sản, người mua trúng đấu giá tài
sản, nhưng tại Điều 106 Luật đất đai năm 2013 khơng có quy định về trường hợp thu
hồi theo đề nghị của cơ quan thi hành án với lý do cơ quan thi hành án không thu được
giấy cũ. Do vậy, một số trường hợp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người
nhận tài sản thi hành án, người mua trúng đấu giá gặp khó khăn.

21



×