Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Một số biện pháp quản lí hoạt động tự học của sinh viên khoa sư phạm nghệ thuật trường đại học đồng tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (840.22 KB, 122 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRƯƠNG THỊ KIM HẠNH

MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
CỦA SINH VIÊN KHOA SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN, 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRƯƠNG THỊ KIM HẠNH

MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
CỦA SINH VIÊN KHOA SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
Chuyên ngành: Quản lí giáo dục
Mã số: 60. 14. 05

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN THỊ MỸ TRINH

Nghệ An, 2013



LờI CảM ơN
Vi tm lũng chõn thnh, tụi xin gi lời cảm ơn đến Trường Đại học
Vinh, Trường Đại học Đồng Tháp, Tỉnh Đồng Tháp đã tạo điều kiện cho tơi
được tham gia lớp Cao học Quản lí Giáo dục Khoá 19 của Trường Đại học
Vinh tổ chức tại Đồng Tháp.
Tôi xin chân thành cám ơn Quý Thầy, Cô đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ,
cung cấp tài liệu và hướng dẫn tơi trong suốt q trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc và trân trọng đến Phó Giáo
sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Mỹ Trinh đã tận tình hướng dẫn khoa học và giúp đỡ
tôi trong việc định hướng đề tài, định hướng các vấn đề nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Dù cố gắng rất nhiều, nhưng do khả năng hạn chế nên luận văn khơng
thể tránh khỏi những sai sót. Kính mong nhận được sự chỉ dẫn, đóng góp chân
tình của Quý Thầy, Cô và các bạn đồng nghiệp.
Trân trọng cảm ơn!

Nghệ An, tháng 10 năm 2013
Tác giả luận văn

Trương Thị Kim Hạnh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Trang

1. Lí do chọn đề tài


01

2. Mục đích nghiên cứu

03

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

03

4. Giả thuyết khoa học

03

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

03

6. Phạm vi nghiên cứu

04

7. Phương pháp nghiên cứu

04

8. Đóng góp của luận văn

04


9. Cấu trúc của luận văn

05

Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG TỰ

06

HỌC CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC
1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu vấn đề

06

1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài

09

1.3. Một số vấn đề về hoạt động tự học của sinh viên

16

1.4. Một số vấn đề về quản lí hoạt động tự học của sinh viên

22

Kết luận chương 1

35

Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG TỰ


36

HỌC CỦA SINH VIÊN NGÀNH ÂM NHẠC KHOA SƯ
PHẠM NGHỆ THUẬT TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
2.1. Vài nét về Trường Đại học Đồng Tháp và Khoa Sư phạm

36

Nghệ thuật, ngành Âm nhạc của Khoa
2.2. Giới thiệu về quá trình nghiên cứu thực trạng

39

2.3. Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên ngành Âm nhạc

40

Khoa Sư phạm Nghệ thuật Trường Đại học Đồng Tháp


2.4. Thực trạng quản lí hoạt động tự học của sinh viên ngành Âm

55

nhạc Khoa Sư phạm Nghệ thuật Trường Đại học Đồng Tháp
2.5. Đánh giá chung về thực trạng quản lí hoạt động tự học của sinh

63


viên ngành Âm nhạc Khoa Sư phạm Nghệ thuật Trường Đại học
Đồng Tháp
Kết luận chương 2

65

Chương 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG TỰ

66

HỌC CỦA SINH VIÊN NGÀNH ÂM NHẠC KHOA SƯ PHẠM
NGHỆ THUẬT TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
3.1. Các nguyên tắc đề xuất các biện pháp quản lí

66

3.2. Một số biện pháp quản lí hoạt động tự học của sinh viên ngành

67

Âm nhạc, Khoa sư phạm Nghệ thuật Trường Đại học Đồng Tháp
3.3. Thăm dị về tính cần thiết và khả thi của các biện pháp quản lí được

94

đề xuất
Kết luận chương 3

96


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

98

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

100

TÀI LIỆU THAM KHẢO

101

PHỤ LỤC

103


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CBGV

:

Cán bộ giảng viên



:

Cao đẳng


ĐH

:

Đại học

GV

:

Giảng viên

HĐTH

:

Hoạt động tự học

SV

:

Sinh viên

SP

:

Sư phạm



DANH MỤC BẢNG TRONG LUẬN VĂN

Trang
Bảng 2.1: Tầm quan trọng của hoạt động tự học

43

Bảng 2.2: Vai trò của hoạt động tự học

43

Bảng 2.3: Các yêu cầu thực hiện kế hoạch tự học

46

Bảng 2.4 a: Thời gian tự học trong ngày của SV

48

Bảng 2.4 b: Sử dụng thời gian ngoài giờ lên lớp

50

Bảng 2.5: Phương pháp, cách thức SV thường sử dụng trong quá

52

trình tự học

Bảng 2.6: Tổng hợp về kết quả hoạt động tự học của SV

56

Bảng 2.7: Kết quả đánh giá của SV và GV về quản lí việc xây dựng

57

kế hoạch tự học của SV
Bảng 2.8: Các biện pháp tổ chức hoạt động tự học của SV

59

Bảng 2.9: Các biện pháp chỉ đạo hoạt động tự học của SV

61

Bảng 2.10a: Đánh giá của SV về quản lí kiểm tra, đánh giá kết quả

62

tự học của SV
Bảng 2.10b: Đánh giá của GV về quản lí kiểm tra, đánh giá kết quả

63

tự học của SV
Bảng 3.1. Tổng hợp đánh giá về tính cần thiết và khả thi của các
biện pháp quản lí hoạt động tự học của SV


98


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chất lượng đào tạo đại học liên quan chặt chẽ với yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Sản phẩm đào tạo được xem là có chất lượng
cao khi nó đáp ứng tốt mục tiêu đào tạo mà yêu cầu của kinh tế - xã hội đặt ra
đối với mỗi cấp học, ngành học của bậc đại học. Để nâng cao chất lượng dạy
học, thực hiện phương châm “dạy học lấy người học làm trung tâm” cần phải
tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên và coi đó là một hình thức tổ chức dạy
học ở đại học.
Khi xã hội ngày càng phát triển, yêu cầu đối với mỗi cá nhân ngày càng
cao. Vai trò của giáo dục và đào tạo nói chung và đào tạo đại học nói riêng, có
một ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực có trình
độ đại học cho đất nước, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Tự học là yếu tố quyết định chất lượng học tập, chất lượng đào tạo, là
con đường nhanh chóng đưa sự nghiệp giáo dục nước ta tiến kịp các nước
trong khu vực và trên thế giới. Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng cơng tác
giáo dục và đào tạo, coi đó là điều kiện tiên quyết để thực hiện cơng nghiệp
hố, hiện đại hoá đất nước.
Điều 5 của Luật Giáo dục 2005 quy định “Phương pháp giáo dục phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi
dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học
tập và ý chí vươn lên”; “… đảm bảo thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học
sinh phát triển phong trào tự học, tự đào tạo...”; “… tạo ra năng lực tự học
sáng tạo của mỗi học sinh” [24].
Tự học đã trở thành vấn đề cấp thiết đối với giáo dục và đào tạo nước
ta. Hoạt động tự học có ý nghĩa quyết định biến quá trình đào tạo thành quá

trình tự đào tạo.


2
Để làm tốt vai trò chủ động, sáng tạo trong q trình chiếm lĩnh tri thức,
địi hỏi người học phải có thời gian tự học, tự nghiên cứu một cách khoa học
mới có thể biến những tri thức mà người thầy truyền thụ trở thành của mình.
Thực tế hiện nay ở các trường đại học nói chung, trường đại học sư
phạm nói riêng, hoạt động tự học của sinh viên cịn rất yếu. Một trong những
ngun nhân của tình trạng đó là các trường chưa chú ý làm tốt cơng tác quản
lí đối với hoạt động này. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả tự học của sinh viên
cần có những biện pháp quản lí phù hợp. Do đó, tổ chức và quản lí tốt hoạt
động tự học cho sinh viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của các trường
đại học hiện nay là việc làm cấp thiết.
Khoa Sư phạm Nghệ thuật, Trường Đại học Đồng Tháp - một Khoa có
nhiều nét đặc thù, khác biệt trong việc rèn luyện và đào tạo người gi
áo viên
tương lai, có chức năng đào tạo đội ngũ giáo viên Âm nhạc có trình độ cao
đẳng sư phạm và đại học sư phạm cho tỉnh nhà và các tỉnh Đồng bằng sông
Cửu Long.
Từ khi thành lập đến nay, Khoa đã chú trọng đến việc nâng cao chất
lượng đào tạo qua việc cải tiến và hồn thiện khung chương trình và chương
trình chi tiết của ngành học, bổ sung và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, từng
bước hoàn thiện cơ sở vật chất. Thực tế những năm gần đây số lượng sinh
viên dự thi vào ngành sư phạm Âm nhạc gi
ảm, nên chất lượng tuyển sinh đầu
vào ngày càng thấp. Những hiểu biết về kiến thức âm nhạc của đa số sinh viên
còn rất hạn chế. Có thể nói việc học chuyên ngành sư phạm Âm nhạc của
nhiều sinh viên được bắt đầu từ con số không. Đa số sinh viên vẫn chưa xác
định được động cơ học tập, chưa có thái độ học tập phù hợp, còn xem nhẹ

việc tự học, chưa thấy được vai trị của việc tự học trong q trình đào tạo.
Đặc biệt là năng lực tự học các môn thực hành chuyên ngành Âm nhạc của
sinh viên còn yếu, nên khi ra trường sinh viên chưa đáp ứng được những yêu


3
cầu về các hoạt động văn nghệ, ngoại khóa cho các trường phổ thơng. Vì vậy,
việc đề xuất một số biện pháp quản lí để nâng cao chất lượng hoạt động tự học
cho sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của Khoa là vấn đề cấp
thiết, cần được quan tâm hiện nay. Từ thực tiễn trên, chúng tôi chọn đề tài
nghiên cứu: “Một số biện pháp quản lí hoạt động tự học của sinh viên Khoa
Sư phạm Nghệ thuật Trường Đại học Đồng Tháp”.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề xuất một số biện pháp quản lí nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
tự học của sinh viên Khoa Sư phạm Nghệ thuật Trường Đại học Đồng Tháp.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Cơng tác quản lí hoạt động tự học của sinh viên.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lí hoạt động tự học của sinh viên ở Khoa Sư phạm
Nghệ thuật Trường Đại học Đồng Tháp.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất và thực hiện được một số biện pháp quản lí có cơ sở khoa
học và khả thi thì sẽ nâng cao chất lượng hoạt động tự học của sinh viên Khoa
Sư phạm Nghệ thuật ở Trường Đại học Đồng Tháp.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về quản lí hoạt động tự học của sinh viên
đại học
5.2. Nghiên cứu thực trạng quản lí hoạt động tự học của sinh viên ngành
Âm nhạc ở Khoa Sư phạm Nghệ thuật Trường Đại học Đồng Tháp

5.3. Đề xuất và tổ chức thăm dị tính cần thiết, khả thi của một số biện
pháp quản lí hoạt động tự học cho sinh viên ngành Âm nhạc ở Khoa Sư phạm
Nghệ


4
thuật Trường Đại học Đồng Tháp
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu hoạt động tự học và biện pháp quản lí hoạt động
tự học của sinh viên các lớp năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba và năm
thứ tư hệ đại học chính quy với các khóa đào tạo: ĐHSAN09, ĐHSAN10,
ĐHSAN11 và ĐHSAN12 ngành Âm nhạc, Khoa Sư phạm Nghệ thuật Trường
Đại học Đồng Tháp.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Sử dụng nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thơng tin lí luận để
xây dựng cơ sở lí luận của đề tài:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp lí thuyết;
- Phương pháp phân loại - hệ thống hóa và cụ thể hóa các vấn đề lí
luận có liên quan.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiễn
để xây dựng cơ sở thực tiễn của đề tài:
- Phương pháp điều tra;
- Phương pháp phỏng vấn;
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động của sinh viên;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
7.3. Phương pháp thống kê toán học: Dùng để xử lí số liệu thu được
8. Đóng góp của luận văn
8.1. Về mặt lí luận

Hệ thống hố lí luận về vấn đề quản lí hoạt động tự học của sinh viên
đại học.
8.2. Về mặt thực tiễn


5
- Làm rõ thực trạng quản lí hoạt động tự học sinh viên ngành Âm nhạc
Khoa Sư phạm Nghệ thuật Trường Đại học Đồng Tháp.
- Đề xuất một số biện pháp hữu hiệu nhằm quản lí hoạt động tự học của
sinh viên ngành Âm nhạc Khoa Sư phạm Nghệ thuật Trường Đại học
Đồng Tháp.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận về quản lí hoạt động tự học của sinh viên
đại học.
Chương 2: Thực trạng quản lí hoạt động tự học của sinh viên ngành
Âm nhạc Khoa Sư phạm Nghệ thuật Trường Đại học Đồng Tháp.
Chương 3: Một số biện pháp quản lí hoạt động tự học của sinh viên
ngành Âm nhạc Khoa Sư phạm Nghệ thuật Trường Đại học Đồng Tháp.


6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÍ
HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC
1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tự học và quản lí hoạt động tự học là một vấn đề đã được nhiều nhà
giáo dục học quan tâm nhằm phát huy tính tích cực, tính độc lập, tính tự giác,
tính sáng tạo của người học.

Vấn đề tự học có tính truyền thống và tính phổ biến khơng chỉ ở nước
ta mà cịn là vấn đề của thế giới. Song ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, ở
mỗi quốc gia nhất định, vấn đề tự học được nghiên cứu đề cập dưới nhiều khía
cạnh khác nhau.
1.1.1. Ở nước ngồi
Ở phương Đơng, ngay từ thời Trung Hoa cổ đại, nhà giáo dục lỗi lạc Khổng Tử (551 - 479, tr CN) đã sớm nhận thấy vai trị quan trọng của tự học,
ơng ln quan tâm và coi trọng vai trị tích cực chủ động suy nghĩ của người
học. Ông cho rằng: Đồng thời với việc hướng dẫn của người thầy, người học
phải tích cực suy nghĩ, tìm tịi khám phá để lĩnh hội tri thức. Ơng đã dạy học
trị: “Khơng khao khát và khơng muốn biết thì khơng gợi cho, khơng cảm thấy
xấu hổ vì khơng rõ thì khơng bày vẽ cho. Vật có bốn góc, bảo cho biết một
góc mà khơng suy ra được ba góc kia thì khơng dạy nữa”. Theo ơng, trong
việc học người học khơng những phải tích cực chủ động trong học tập, phải
biết kết hợp học với nghĩ, biết phát huy năng lực sáng tạo của bản thân mà
người học cần phải học ở mọi nơi, mọi lúc: Học bất cứ ai, học bất cứ nơi nào,
lúc nào. Trong ba người đồng hành tất phải có một người là thầy ta. Chính từ
những quan điểm về học tập như thế nên ông đã rất thành công trên con
đường “dạy học” của mình.


7
Ở phương Tây, ngay từ thời cận đại, trong quá trình truyền thụ kinh
nghiệm xã hội cho thế hệ sau, các nhà khoa học đã rất quan tâm đến tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của người học. Nhà sư phạm lỗi lạc Tiệp Khắc
J.A.Comenxki (1592 -1670) - ông tổ của nền giáo dục cận đại đã khẳng định:
“Khơng có khát vọng học tập thì khơng thể trở thành tài năng, cần phải làm
thức tỉnh và duy trì khát vọng học tập trong học sinh”. Như vậy, ông đã đánh
giá rất cao vai trị của tự học, sự tích cực, chủ động của người học đối với hoạt
động học tập [15].
1.1.2. Ở Việt Nam

Hoạt động tự học thực sự được xã hội quan tâm và nó đã trở thành một
truyền thống quý báu của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương
sáng về ý chí quyết tâm trong tự học và tự rèn luyện. Người đã động viên tồn
dân: “Phải tự nguyện, tự giác xem cơng việc tự học là nhiệm vụ của người
cách mạng, phải cố gắng hồn thành cho được, do đó phải tích cực, tự động
hoàn thành kế hoạch học tập” [21]. Trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc”
Người đã chỉ rõ: “Phải lấy tự học làm cốt, cần có thảo luận và chỉ đạo hỗ trợ
vào, cần phải biết sắp xếp thời gian và bài học khéo và mạch lạc với nhau”.
Hơn nửa thế kỷ đã qua, tư tưởng giáo dục của Người đã trở thành tư tưởng
và lí luận cho đường lối chính sách giáo dục ở nước ta. Nghị quyết hội nghị lần
thứ hai, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng định: “Đổi mới
phương pháp dạy học, nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu của người học”.
Văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Phát huy
tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh - sinh viên, đề cao năng
lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập
trong nhân dân...” [12, tr.171].
Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ, Vũ Văn Tảo, Bùi Tường đã thống nhất
quan điểm rằng: dạy là “ngoại lực”, tự học là “nội lực”.


8
Tạ Quang Bửu: “Tự học là khởi nguồn của phong cách tự đào tạo đồng
thời là cái nôi nuôi dưỡng trí sáng tạo. Ai giỏi tự học ngay từ khi cịn ngồi trên
ghế nhà trường người đó sẽ tiến xa”.
Qn triệt đường lối của Đảng về giáo dục, ngay từ những năm 60 của
thế kỷ XX đã có nhiều nhà nghiên cứu về vấn đề tự học với khẩu hiệu trong
nhà trường là “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Tiêu biểu
như các tác giả: Nguyễn Cảnh Toàn, Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, Trần Bá
Hoành, Vũ Quốc Chung, Thái Duy Tuyên...
Trong những năm gần đây, có một số luận văn thạc sĩ đã quan tâm

nghiên cứu nhằm khai thác và vận dụng vào thực tiễn những biện pháp nhằm
tăng cường, tổ chức hoạt động tự học ở một số trường CĐ và ĐH góp phần
nâng cao hiệu quả, chất lượng dạy học nói chung và q trình tự học của SV
nói riêng, tiêu biểu như: Hồng Văn Chính, Nguyễn Thị Mai Lan, Trịnh Khắc
Hậu, Nguyễn Thị Bích Phượng, Lê Thành Thế,... Từ những góc độ khác nhau,
các tác giả đều đề cập đến vai trò, vị trí, tầm quan trọng của tự học; thực trạng
của hoạt động tự học và đưa ra các phương pháp và biện pháp để nâng cao
hiệu quả của hoạt động tự học và đã khẳng định rõ: Tự học có vai trị rất quan
trọng trong q trình đào tạo. Đó là cách thức giúp người học phát huy tính
độc lập, chủ động, sáng tạo để chiếm lĩnh tri thức khoa học.
Như vậy, ta thấy rằng vấn đề tự học, ý nghĩa của hoạt động tự học,
phương pháp tự học đã được nhiều nhà nghiên cứu giáo dục quan tâm. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân nên việc nghiên cứu và tổ chức triển khai hoạt
động tự học chưa mang lại hiệu quả. Cách dạy và cách học phổ biến trong
trường học (phổ thơng và CĐ, ĐH) vẫn cịn thụ động, SV nhớ kiến thức chủ
yếu thông qua nghe giảng chứ chưa thực sự tìm kiếm tri thức thơng qua hoạt
động tự nghiên cứu tài liệu. Đa số SV còn lúng túng trong nhận thức và
phương pháp tiến hành các hoạt động tự học, do đó kết quả tự học chưa cao.


9
Về vấn đề quản lí hoạt động tự học gần đây đã bắt đầu thu hút sự quan
tâm của các nhà nghiên cứu. Có thể điểm qua một số bài viết, cơng trình của
các tác giả có bàn đến việc quản lí hoạt động tự học cho SV, học viên như:
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh Vân (2007) nghiên cứu về
“Biện pháp quản lí hoạt động tự học của sinh viên Khoa Ngơn ngữ và Văn
hóa Pháp Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học quốc gia Hà Nội”.
Luận văn thạc sĩ của Hồ Phạm Minh Châu (2008): “Biện pháp quản lí
hoạt động tự học của sinh viên Khoa Giáo dục Mầm non Trường Cao đẳng Sư
phạm Nghệ An”.

Luận văn thạc sĩ của Mai Văn Minh (2012): “Biện pháp quản lí hoạt
động tự học của học viên tại Học viện Chính trị - Hành chính Khu vực III”.
Nhìn chung, các tác giả đã khẳng định vị trí, vai trò, ý nghĩa của hoạt
động tự học của SV, học viên và đã nêu lên được thực trạng hoạt động tự học
của SV, học viên. Tìm ra được một số nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt động
tự học, bước đầu đưa ra được một số biện pháp góp phần bồi dưỡng năng lực
tự học nhằm khắc phục những hạn chế, phát huy những yếu tố tích cực tác
động đến quá trình tự học của SV và học viên. Đặc biệt, hầu như chưa có
cơng trình nào nghiên cứu về vấn đề quản lí hoạt động tự học của SV chuyên
ngành sư phạm Âm nhạc - một ngành mang tính đặc thù, đào tạo giáo viên
dạy Âm nhạc, góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho học
sinh phổ thông.
Ở Trường Đại học Đồng Tháp, vấn đề hoạt động tự học của SV nói
chung và việc quản lí nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tự học của SV
Khoa Sư phạm Nghệ thuật nói riêng thì chưa được tác giả nào nghiên cứu.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Tự học và hoạt động tự học
1.2.1.1. Tự học


10
Tự học là quá trình nỗ lực chiếm lĩnh tri thức của bản thân người học
bằng hành động của chính mình, hướng tới những mục đích nhất định.
Đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề tự học ở nhiều góc độ khác nhau.
Dưới đây là một số quan điểm của các nhà nghiên cứu về vấn đề này:
Thông thường khái niệm “Tự học” được hiểu là “Tự học lấy một mình
trong sách chứ khơng có thầy dạy” (Theo Thanh Nghị, trong Việt Nam tân từ
điển) cũng có thể hiểu là “Tự đi tìm lấy kiến thức có nghĩa là tự học”.
Tác giả Nguyễn Hiến Lê, trong quyển “Tự học - một nhu cầu thời đại”
ông cho rằng khái niệm “Tự học là khơng ai bắt buộc mà mình tự tìm tịi, học

hỏi để hiểu biết thêm và có thầy hay khơng, ta khơng cần biết. Người tự học
hồn tồn làm chủ mình, muốn học mơn nào tuỳ ý, muốn học lúc nào cũng
được, đó mới là điều kiện quan trọng”. Ông cũng bổ sung để làm rõ hơn về
khái niệm và tầm quan trọng của tự học "Mỗi người đều nhận hai thứ giáo
dục: Một thứ, do người khác truyền cho, một thứ quan trọng hơn nhiều, do
mình tự kiếm lấy" [16, tr.39].
Theo tác giả Lê Khánh Bằng: "Tự học là tự mình suy nghĩ, sử dụng các
năng lực trí tuệ và phẩm chất tâm lí để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa học nhất
định" [5, tr.3].
Quan điểm này, tác giả cho rằng tự học là việc học của chính bản thân
người học, chính họ phải huy động các năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lí
để chiếm lĩnh những tri thức khoa học của loài người và biến những tri thức
đó thành vốn kinh nghiệm của bản thân.
Theo tác giả Nguyễn Cảnh Tồn: “Tự học là tự mình động não, suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có cả cơ bắp cùng các phẩm chất của
mình, cả động cơ tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm một lĩnh
vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình.
Việc tự học sẽ được tiến hành khi người học có nhu cầu muốn hiểu biết một


11
kiến thức nào đó và bằng nỗ lực của bản thân cố gắng chiếm lĩnh được kiến
thức đó” [28].
Như vậy, tự học có thể coi là hoạt động tự tổ chức một cách tự giác, độc
lập tích cực của người học nhằm chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng kỹ
xảo. Tự học giúp người học tự tìm ra tri thức mới, cách thức hành động mới
bằng chính nỗ lực của bản thân mình. Tự học hình thành nên những con người
năng động, sáng tạo.
1.2.1.2. Hoạt động tự học
HĐTH là quá trình tổ chức nhận thức độc lập, tự phát huy năng lực cá

nhân một cách tích cực, tự giác, tự lực chiếm lĩnh tri thức. HĐTH về bản chất
là sự tiếp thu, tự xử lí thơng tin, chủ yếu bằng các thao tác trí tuệ.
HĐTH có thể diễn ra dưới sự chỉ đạo, điều khiển, hướng dẫn trực tiếp
của giáo viên. Khi đó người học là chủ thể nhận thức tích cực. Họ phải huy
động mọi phẩm chất tâm lí cá nhân tiến hành những hoạt động học tập để lĩnh
hội được kiến thức theo sự chỉ dẫn trực tiếp của giáo viên.
Khi khơng có giáo viên điều khiển trực tiếp, người học tự mình sắp xếp
kế hoạch, huy động các điều kiện vật chất và năng lực bản thân để ôn tập,
củng cố, đào sâu, mở rộng và hoàn chỉnh kiến thức, hoàn thành nhiệm vụ học
tập mà giáo viên giao, lĩnh hội phần kiến thức mới. Đó là tự học dưới sự điều
khiển gián tiếp của giáo viên nhằm hoàn thiện nhiệm vụ dạy - học.
Trong quá trình học tập, SV cịn tiến hành HĐTH nhằm đáp ứng nhu
cầu hiểu biết riêng, bổ sung và mở rộng tri thức ngồi chương trình đào tạo đã
quy định của nhà trường.
Như vậy, HĐTH của SV về bản chất là hoạt động nhận thức độc lập.
Nó có phạm vi rất rộng, từ tự học trên lớp dưới sự tổ chức, điều khiển trực
tiếp của giáo viên, tự học ở nhà dưới sự điều khiển gián tiếp của giáo viên


12
cho tới tự học hồn tồn độc lập khơng có sự tổ chức điều khiển của giáo
viên.
1.2.2. Quản lí và quản lí hoạt động tự học
1.2.2.1. Quản lí
Hoạt động quản lí đã có từ xa xưa khi con người biết lao động theo
từng nhóm địi hỏi có sự tổ chức, điều khiển và phối hợp hành động. Quản lí
là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, mỗi ngành khoa học
nghiên cứu quản lí từ góc độ riêng của mình và đưa ra những định nghĩa khác
nhau. Chúng tơi sẽ trình bày dưới đây một số định nghĩa, quan niệm về “Quản
lí” của các nhà triết học, nhà khoa học quản lí như sau:

- Theo tác giả Trần Hữu Cát và Đồn Minh Duệ: “Quản lí là hoạt động
thiết yếu nảy sinh khi con người hoạt động tập thể, là sự tác động của chủ thể
và khách thể, trong đó quan trọng nhất là khách thể con người nhằm thực
hiện các mục tiêu chung của tổ chức” [8, tr. 41].
- Theo Đặng Quốc Bảo: “Quản lí là một quá trình tác động gây ảnh
hưởng của chủ thể quản lí đến khách thể quản lí nhằm đạt được mục tiêu
chung” [3].
“Quản lí (cai trị) là cơng việc của các bậc đại nhân. Đó là biết tập hợp
quanh mình những người hiền” (Mặc Tử, Trung Hoa).
- Theo H. Fayol (l841 - 1925), nhà tư tưởng Pháp: “Quản lí tức là lập
kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra”.
- F.W. Taylor (1856 - 1915), người được coi là “cha đẻ của thuyết quản
lí khoa học” đã nêu lên tư tưởng cốt lõi trong quản lí là: “Mỗi loại cơng việc
dù nhỏ nhất đều phải chun mơn hố và phải quản lí chặt chẽ ”. Theo ơng:
“Quản lí là nghệ thuật biết rõ ràng chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế
nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất ”.


13
- Peter Drucker quan niệm: “Quản lí là một chức năng xã hội nhằm để
phát triển con người và xã hội với những hệ giá trị, nội dung, phương pháp
biến đổi không ngừng”.
Qua các định nghĩa và quan niệm về “Quản lí” như đã trình bày ở trên,
ta thấy rằng trong hoạt động quản lí ln tồn tại hai thành tố đó là chủ thể
quản lí và khách thể quản lí. Chủ thể quản lí có thể là một cá nhân hay một
nhóm người có chức năng quản lí, điều khiển tổ chức để tổ chức vận hành và
đạt được mục tiêu. Khách thể quản lí là những người chịu sự tác động, chỉ đạo
của chủ thể quản lí nhằm đạt mục tiêu chung.
Từ những khái niệm về quản lí nêu trên ta có thể hiểu: Quản lí là sự tác
động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động

của con người nhằm đạt tới mục đích đã đề ra. Sự tác động đó phải bằng cách
nào đó để người bị quản lí luôn luôn hồ hởi, phấn khởi đem hết năng lực và trí
tuệ để sáng tạo ra lợi ích cho bản thân, cho tổ chức và cho cả xã hội.
Các chức năng quản lí
Theo quan điểm hiện đại ngày nay người ta thống nhất quản lí có 4
chức năng cơ bản và là 4 khâu có sự liên quan chặt chẽ với nhau, đó là:
chức năng lập kế hoạch, chức năng tổ chức, chức năng điều khiển và chức
năng kiểm tra.
a) Chức năng lập kế hoạch: Là việc xác định mục tiêu, mục đích đối
với các thành tựu tương lai của tổ chức và các con đường, biện pháp, cách
thức để đạt được mục tiêu đó. Lập kế hoạch có liên quan đến mục tiêu, nhiệm
vụ, xác định hình thành mục tiêu phương hướng đối với tổ chức, xác định và
đảm bảo phương tiện, điều kiện các nguồn lực của tổ chức để đạt được các
mục tiêu. Trong lập kế hoạch bao hàm cả phương diện hoạch định cách thức tổ
chức thực hiện mục tiêu nhiệm vụ và kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện mục
tiêu, nhiệm vụ, việc này để thấy rõ những mục tiêu nhiệm vụ.


14
b) Chức năng tổ chức: Là quá trình thiết lập cấu trúc quan hệ giữa các
thành viên, các bộ phận. Từ đó, chủ thể quản lí tác động đến đối tượng quản lí
một cách có hiệu quả bằng cách điều phối các nguồn lực của tổ chức
như nhân lực, vật lực và tài lực. Q trình xây dựng và hồn thiện cơ cấu
tổ chức phải đảm bảo các yêu cầu: tính tối ưu, tính linh hoạt, độ tin cậy và tính
kinh tế. Trong q trình xây dựng cơ cấu tổ chức quản lí cần tính đến các
nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp, đó là những điều kiện, hồn cảnh,
tình huống cụ thể có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tổ chức thực hiện.
c) Chức năng chỉ đạo: Là phương thức tác động của chủ thể quản lí
nhằm điều hành tổ chức nhân lực đã có của đơn vị vận hành theo đúng kế
hoạch đã đề ra. Trong chức năng chỉ đạo, chủ thể quản lí phải trực tiếp ra

quyết định cho nhân viên dưới quyền và hướng dẫn, quan sát, phối hợp, động
viên.... để thuyết phục, thúc đẩy họ hoạt động đạt được các mục tiêu đó bằng
nhiều biện pháp khác nhau.
d) Chức năng kiểm tra: Là hoạt động của chủ thể quản lí tác động đến
khách thể quản lí thơng qua một cá nhân, nhóm hay tổ chức để xem xét thực tế,
đánh giá, giám sát thành quả hoạt động, đồng thời uốn nắn, điều chỉnh các sai
sót lệch lạc nhằm thúc đẩy hệ thống sớm đạt được mục tiêu đã định. Để tiến
hành kiểm tra, cần phải có các tiêu chuẩn, nội dung và phương pháp kiểm tra,
dựa trên các nguyên tắc khoa học để hình thành hệ thống kiểm tra thích hợp.
Ngồi 4 chức năng quản lí trên, nguồn thơng tin là yếu tố cực kỳ
quan trọng trong quản lí. Vì thơng tin là nền tảng, là huyết mạch của quản lí,
khơng có thơng tin thì khơng có quản lí hoặc quản lí mơ hồ, mắc sai phạm.
Nhờ có thơng tin mà có sự trao đổi qua lại giữa các chức năng được cập nhật
thường xun, từ đó có biện pháp xử lí kịp thời và hiệu quả.
1.2.2.2. Quản lí hoạt động tự học
Quản lí HĐTH là một trong những nội dung quản lí q trình đào tạo


15
nói chung và quản lí hoạt động dạy - học nói riêng.
Với ý nghĩa tự học là q trình chủ động chiếm lĩnh tri thức của người
học dưới tác động của các nhân tố bên ngoài và bên trong, và với ý nghĩa
quản lí là q trình tác động tích cực của chủ thể quản lí đến đối tượng để
định hướng, giúp đỡ, tổ chức, thúc đẩy tạo điều kiện giám sát, kiểm tra,... hoạt
động của đối tượng nhằm đạt đến mục đích.
Ta có thể hiểu khái niệm quản lí HĐTH như sau: Quản lí HĐTH là sự
tác động của chủ thể quản lí đến q trình tự học tập của người học làm cho
người học tích cực, chủ động chiếm lĩnh tri thức bằng cố gắng nỗ lực của
chính mình.
Quản lí HĐTH của người học có liên quan chặt chẽ với quá trình tổ

chức dạy học của người dạy.
Nội dung cơng tác quản lí HĐTH ở SV có thể là:
a) Theo chức năng quản lí: Lập kế hoạch HĐTH; Tổ chức HĐTH; Chỉ
đạo (lãnh đạo) HĐTH; Kiểm tra, đánh giá HĐTH của SV.
b) Theo quan điểm hệ thống: Quản lí các yếu tố đầu vào (tài liệu, điều
kiện, phương tiện tự học; chương trình, nội dung, kế hoạch tự học); Quản lí
q trình tự học; Quản lí kết quả tự học.
c) Theo các thành tố của HĐTH: Quản lí việc xây dựng và thực hiện
kế hoạch tự học; Quản lí việc thực hiện nội dung tự học; Quản lí việc bồi
dưỡng phương pháp tự học; Quản lí thực hiện các hình thức tự học; Quản lí
việc kiểm tra, đánh giá kết quả tự học.
Quản lí HĐTH gắn với việc phát triển nhà trường, góp phần nâng cao
chất lượng đào tạo. Vì vậy, phạm vi hoạt động của cơng tác này được mở
rộng, đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ với các phịng, khoa, đồn thể trong suốt q
trỉnh đào tạo.


16
Quản lí HĐTH mang tính định hướng, gợi mở, tạo điều kiện, gây ảnh
hưởng lôi cuốn mọi người thực hiện một cách tự giác, sáng tạo công việc
của họ.
1.2.3. Biện pháp và biện pháp quản lí hoạt động tự học
Biện pháp là cách làm, cách gi
ải quyết một vấn đề cụ thể (theo Từ điển
Tiếng Việt).
Biện pháp quản lí là những cách thức cụ thể để thực hiện phương pháp
quản lí.
Biện pháp quản lí HĐTH là những cách thức, cách giải quyết những
vấn đề khó khăn, cản trở mà nhà quản lí sử dụng để tác động đến HĐTH của
SV nhằm giúp cho SV tự học đạt kết quả cao.

Vì đối tượng quản lí phức tạp nên địi hỏi các biện pháp quản lí phải đa
dạng, phong phú, linh hoạt, phù hợp với đối tượng quản lí. Các biện pháp
quản lí có liên quan chặt chẽ với nhau, tạo thành một hệ thống các biện pháp.
Các biện pháp này sẽ giúp cho nhà quản lí thực hiện tốt các phương pháp
quản lí của mình, mang lại hiệu quả hoạt động tối ưu của bộ máy.
1.3. Một số vấn đề về hoạt động tự học của sinh viên đại học
1.3.1. Vai trò của hoạt động tự học đối với sinh viên trong quá trình
đào tạo ở trường đại học
Ở trung học phổ thông, học sinh chỉ cần nắm vững kiến thức thầy cô
dạy trên lớp và làm bài tập được giao, giáo viên liên tục có những bài kiểm
tra, đánh giá dành cho học sinh. Tuy nhiên khi học lên đại học thì yêu cầu
hoạt động học tập của SV đã khác hẳn, trong đó tự học là phương pháp, cách
thức cơ bản mà SV phải thực hiện thường xuyên. Đối với SV đại học, học có
phương pháp là vơ cùng quan trọng. GV đóng vai trị là người hướng dẫn,
cung cấp tài liệu, hướng dẫn đề tài, SV phải tự biết cách sắp xếp thời gian và
trình tự nghiên cứu những kiến thức cơ bản và mở rộng tìm hiểu những vấn đề


17
liên quan. Thêm vào đó, khơng cịn sự giám sát gắt gao của GV, SV phải tự
nỗ lực để có thể đạt hiệu quả cao trong kì thi kết thúc môn học. Tự học giúp
SV nâng cao năng lực tư duy, tìm tịi khám phá ra những vấn đề mới, nó giúp
SV hiểu rõ bản chất của vấn đề một cách sâu sắc nhất, một người SV tuy có
đầy đủ mọi điều kiện để học tập (thầy giỏi, tài liệu hay…) vẫn không thể
thành công được nếu như không tự mình đào sâu suy nghĩ.
HĐTH ln giữ vai trị quan trọng trong quá trình học tập và phát triển
của mỗi người, đặc biệt là đối với SV ở ĐH. Bàn về vai trị của tự học, ngun
Tổng bí thư Đỗ Mười đã phát biểu: “Tự học, tự đào tạo là con đường phát
triển suốt đời mỗi con người trong điều kiện kinh tế xã hội nước ta hiện nay
và mai sau, đó cũng là truyền thống quý báu của ngừời Việt Nam và dân tộc

Việt Nam. Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi tạo ra được
năng lực sáng tạo của người học, khi biến được quá trình giáo dục thành tự
giáo dục” [20]. Trong nhà trường, hoạt động của người thầy có ý nghĩa rất to
lớn - thầy truyền thụ kiến thức, trò lĩnh hội tri thức, biến kiến thức đó thành tri
thức của bản thân. Khơng ai có thể trơng chờ người khác học hộ, học thay
mình, ngược lại cũng khơng ai có thể học hộ, học thay người khác được.
HĐTH có vai trị to lớn đối với sự phát triển toàn diện của con người. Tự học
làm cho quá trình nhận thức tăng lên, kiến thức được mở rộng, phong phú
hơn. John Lubbock cho rằng: “Cái gì ta học được mới thực sự là của ta, hơn
những cái người khác dạy cho ta”. Tự học khơng chỉ có ý nghĩa đối với bản
thân người học mà cịn góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bởi vì trong
q trình dạy học, con người khơng chỉ là khách thể chịu sự tác động của giáo
dục mà cịn là chủ thể của q trình nhận thức. Q trình nhận thức sẽ khơng
diễn ra và khơng đạt kết quả nếu chủ thể không tiến hành hoạt động nhận thức
một cách tích cực.


18
Như vậy, có thể khẳng định rằng: Tự học, tự đào tạo là nhân tố quyết
định trực tiếp đến chất lượng giáo dục và đào tạo. Trong giai đoạn hiện nay
con người đang bước vào nền văn minh thông tin, với sự phát triển như vũ
bão của khoa học kỹ thuật cơng nghệ, thì người thầy khơng thể trang bị cho
người học đầy đủ những kiến thức cần thiết, nếu như họ không thực hiện
HĐTH. SV của các trường ĐH cũng khơng nằm ngồi quy luật đó - với thời
gian đào tạo từ 4 đến 6 năm nếu SV chỉ học theo thời gian biểu trên lớp thì
chắc chắn nhà trường không thể đáp ứng khối lượng kiến thức khổng lồ về nội
dung, chương trình đào tạo. Và khi đó, chất lượng đào tạo sẽ không thể đáp
ứng được mục tiêu đào tạo ngành học. Vì vậy, HĐTH, tự nghiên cứu là giải
pháp hữu hiệu để giải quyết mâu thuẫn giữa khối lượng kiến thức khổng lồ
với quỹ thời gian ít ỏi ở nhà trường. Khi SV biết cách tự học họ sẽ có ý thức

và biết xây dựng thời gian tự học, tự nghiên cứu giáo trình và tài liệu, gắn lí
thuyết với thực hành, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, biến quá
trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
Đặc biệt trong thời đại hiện nay, nhu cầu luân chuyển kiến thức diễn
ra một cách dữ dội hơn trong cuộc vận hành của cơ chế thị trường sơi động,
khắc nghiệt. Cho nên khả năng thích ứng, hoà nhập và tự khẳng định cá
nhân trong xã hội ngày càng đòi hỏi mỗi thành viên trong cộng đồng khơng
ngừng bổ túc kiến thức cho mình bằng con đường tự học. Tự học là con
đường tự khẳng định, là con đường sống, con đường của những ai muốn
vươn lên đỉnh cao trí tuệ của thời đại thơng tin siêu tốc ngày nay.
Tự học là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng và cần thiết đối
với SV trong việc tìm hiểu, bổ sung trí thức nhằm thích ứng với yêu cầu của
thời đại bùng nổ thông tin này.
Tóm lại: Tự học là một hoạt động cơ bản của SV trong đào tạo đại học,
đặc biệt, trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Tự học có vai trò hết sức quan


×