Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.09 KB, 22 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Đề bài: Phân tích bức tranh thiên nhiên và con người trong bài thơ Chiều</b>
<b>tối - Ngữ văn 11</b>
<b>Dàn ý chi tiết</b>
<b>1. Mở bài</b>
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm, khái quát nội dung tác phẩm
Tác giả Hồ Chí Minh
Bài thơ “Chiều tối” trích trong “Nhật ký trong tù”
Tình yêu thiên nhiên, cuộc sống và ý chí vươn lên của người tù cách mạng
<b>2. Thân bài </b>
- Bức tranh thiên nhiên vùng núi lúc chiều tối:
Những hình ảnh quen thuộc trong thơ ca cổ: cánh chim, chịm mây
Khơng gian rộng lớn, hoang vắng
Gợi sự cơ đơn, mỏi mệt, lạc lõng
- Bức tranh đời sống con người khi chiều tối:
Cuộc sống lao động đời thường
Dấu hiệu của sự sống, sức sống
Ánh sáng lò than mang lại hy vọng và niềm tin
<b>3. Kết bài</b>
Giá trị của tác phẩm: Bài thơ “Chiều tối” thực sự là một bức tranh tuyệt đẹp,
hài hòa giữa những mảng sáng và tối, thiên nhiên và con người.
<b>Bài làm</b>
những năm tháng Người bị giam cầm ở nhà tù Tưởng Giới Thạch. Mỗi bài thơ
là một câu chuyện Người kể lại về cuộc sống trong tù, là mơ ước, là khát khao
được tự do của Người. Trong số đó, bài thơ Chiều tối là một bài thơ hay nhất,
là bức tranh thiên nhiên và con người cùng hòa quyện.
<i>"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ</i>
<i>Cô vân mạn mạn độ thiên không</i>
<i>Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc</i>
<i>Bao túc ma hồn lơ dĩ hồng"</i>
Dịch thơ:
<i>"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ</i>
<i>Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng khơng</i>
<i>Cơ em xóm núi xay ngơ tối</i>
<i>Xay hết lò than đã rực hồng"</i>
Trong cả tập thơ Nhật kí trong tù, có lẽ Chiều tối là bài thơ có hồn cảnh ra đời
đặc biệt nhất. Bài thơ được gợi cảm hứng và được viết lên sau lần Bác Hồ phải
chuyển trại giam từ Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Và trong lần ấy, Người
đã viết lên Chiều tối để ca ngợi bức tranh thiên nhiên đẹp mơ màng cùng với
Mở đầu bài thơ, Người đã vẽ lên cho người đọc thấy một khung cảnh thiên
nhiên đẹp tới mơ màng, một khung cảnh vừa nhẹ nhàng, êm dịu, vừa đằm
thắm, sinh động biết nhường nào:
<i>"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ</i>
<i>Cô vân mạn mạn độ thiên không</i>
Dịch thơ:
<i>Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng khơng".</i>
Mở đầu bài thơ cổ với chỉ bằng vài nét bút chấm phá, Hồ Chí Minh đã cho
chúng ta thấy được cả một khơng gian thật rộng lớn, mênh mơng và thống
đãng. Đó là một bầu trời với những cánh chim đang chao lượn "quyện điểu",
lướt thật nhanh bay về rừng, và những chịm mây "cơ vân" lác đác lững lờ giữa
khơng trung. Hai câu thơ bật lên, chỉ gợi tả chứ không hề đặc tả vậy mà cái hồn
của cảnh vật vẫn cứ hiện lên thật rõ ràng. Khung cảnh hiện lên thật bình dị:
cảnh chiều với một đàn chim đang vỗ đơi cánh mệt mỏi tìm về với nơi trú ngụ
của mình và những áng mây lẻ loi đang chập chờn bay chầm chậm giữa tầng
không bao la. Chẳng hề có một từ chỉ cảnh chiều, thế mà chỉ cần đọc hai câu
thơ thôi, người đọc vẫn nhận ngay ra rằng đây là một buổi chiều hồng hơn ửng
đỏ. Nghệ thuật lấy điểm tả diện đã phát huy tác dụng thật rõ ràng bởi sự vận
dụng đầy sáng tạo của Người. Chỉ nhìn cánh chim kia, tầng mây kia, người ta
dường như thấy được cả không gian đang trải rộng ra, bầu trời cao hơn, mênh
Cũng như Nguyễn Du đã từng cảm thán:
<i>"Chim hơm thoi thót bay về rừng"</i>
Không gian chiều tối ấy trong bài thơ, khơng chỉ có cánh chim chao lượn mà
cịn có cả những áng mây bồng bềnh. Người ta đã từng thấy nhiều áng mây
khác trong thơ của Nguyễn Khuyến:
<i>"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt"</i>
Hay trong thơ của người xưa:
<i>"Mặt đất mây đùn cửa ải xa"</i>
Nhưng ở trong thơ Hồ Chí Minh, mây ấy lại khác vơ cùng:
<i>"Cơ vân mạn mạn độ thiên không"</i>
Không như Nguyễn Khuyến viết về tầng mây trong tiết trời thu, không buồn bã
như trong thơ Đỗ Phủ với "mây đùn cửa ải", mây trong thơ của bác lại dường
như chuyển động, dù cái chuyển động ấy chỉ rất nhẹ nhàng "trơi nhẹ":
<i>"Chịm mây trôi nhẹ giữa tầng không"</i>
Dù là một chất liệu vô cùng quen thuộc, thế nhưng Người vẫn dựng lên cho nó
một cái hay rất riêng. Mây trong Chiều tối gợi lên sự cơ đơn đến khó tả, đọc
thơ Người mà ta như thấy cả một không gian cô đơn, quạnh quẽ đến nao lịng.
Nếu như trong hai câu đầu, nét bút chấm phá của Hồ Chí Minh đã gợi tả lên
một khung cảnh thiên nhiên chiều tối đầy thanh bình thì ở hai câu sau, Người
lại vẽ lên khung cảnh của cuộc sống con người nơi thơn dã:
<i>"Cơ em xóm núi xay ngơ tối</i>
<i>Xay hết lị than đã rực hồng".</i>
Vẫn là nét bút chấm phá quen thuộc, nhưng ở đây Hồ Chí Minh cịn sử dụng
thêm biện pháp ước lệ của thơ ca cổ khi vẽ lên hình ảnh cơ thơn nữ xóm núi.
Vậy nên, bức tranh về cuộc sống con người ấy hiện lên thật chân thực và sống
động. Trên nền của khơng gian nơi thơn dã, hình ảnh người thôn nữ trở thành
nhân vật trung tâm của bức tranh. Hồ Chí Minh dù vẫn cịn đang lê bước chân
mình trong xiềng xích, thế nhưng Hồ Chí Minh vẫn cảm nhận được thật rõ vẻ
đẹp của con người lao động.
Nếu như ở hai câu thơ trên, hình ảnh thiên nhiên đang đi vào chiều tối, đàn
chim cũng đang trở về tổ của mình để nghỉ ngơi sau một ngày mỏi mệt, và đám
mây cũng lững lờ trôi nhàn tản trên bầu trời, thì hai câu sau, nhịp thơ lại nhanh
hẳn lên để thể hiện nhịp sống của con người lao động. Khi thiên nhiên đang
dần bước vào giai đoạn nghỉ ngơi thì con người vẫn đang tiếp tục nhịp sống
thường ngày của mình và dường như nhịp sống ấy còn gấp gáp hơn nữa. Con
người giờ đây trở thành chủ thể trung tâm của bức tranh thiên nhiên. Cô thôn
nữ trong bức tranh thơ đang chăm chỉ lao động cần mẫn, không ngừng nghỉ,
"ma bao túc" rồi lại "bao túc ma hồn" - một vịng lặp tuần hồn. Những vịng
<i>"Lom khom dưới núi tiều vài chú</i>
<i>Lác đác bên sông chợ mấy nhà"</i>
nổi hẳn lên. Chính cuộc sống con người đã mang thêm phần hơi ấm cho khung
cảnh thiên nhiên. Không chỉ vậy, Người cịn gọi người con gái đang xay ngơ
bên bếp lửa kia là "sơn thôn thiếu nữ" - một từ thật gợi lên bao nhiêu cảm xúc.
"Thiếu nữ" - một cô gái trẻ, tràn trề thanh xuân, đó là tiếng gọi thân thương,
trìu mến, gợi tả niềm vui sướng, hân hoan khi bắt gặp con người chốn hoang sơ
này.
Hơn thế nữa, hình ảnh "cơ em xóm núi" khơng xuất hiện một mình đơn độc
như cánh chim ở trên mà bên cạnh cịn là một "lị than" nóng hổi đang dần "rực
hồng". Trong một buổi chiều tà dần tối, khơng khí đang dần trở lên cóng lạnh
thì một bếp lửa hồng ánh lên kia thật làm người ta ấm lòng biết bao. Chẳng
những nó sưởi ấm khơng khí mà cịn sưởi ấm cả tâm hồn của người thi sĩ. Nó
ấm áp và lan tỏa biết nhường nào. Bếp lửa "rực hồng" ấy qua con mắt tinh tế
của người thi sĩ cũng thể hiện niềm lạc quan, niềm tin tưởng của người cộng
sản rằng ngày mai sẽ luôn tươi sáng, rực hồng như bếp lửa kia.
Từng câu thơ trong Chiều tối của Hồ Chí Minh chẳng hề nhắc tới một khái
niệm thời gian, thế nhưng từ khi nhìn thấy bức tranh thiên nhiên rồi đến bức
tranh con người, người đọc vẫn nhận thấy sự luân chuyển của thời gian theo
cánh chim, theo làn mây, theo cả những vịng quay xay ngơ của cơ thơn nữ. Cơ
thơn nữ xay xong ngơ thì lị than cũng hồng rực lên, tức là trời đã sập tối hẳn.
Buổi chiều qua rồi buổi tối đến nhưng cái tối của buổi đêm không hề âm u mà
Bằng thể thơ cổ thất ngôn tứ tuyệt cùng với các biện pháp chấm phá, ước lệ cổ
điển, Hồ Chí Minh đã vẽ lên bức tranh Chiều tối thật hài hòa giữa thiên nhiên
và con người. Có thể nói, đây là một trong những bài thơ hay nhất trong các tác
phẩm thơ ca của Hồ Chủ tịch. Khơng chỉ thể hiện tình u thiên nhiên, niềm tin
cuộc sống mà nó cịn thể hiện một tinh thần, ý chí sắt đá trong tâm hồn thi sĩ
của Hồ Chí Minh.
<b>Bài làm 2</b>
Bài thơ “Chiều tối” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất nằm trong tập
“Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh. Bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh
Người đang trên đường bị áp giải chuyển lao từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao
Thiên Bảo. Có thể nói bài thơ như một bức tranh hài hòa, giao quyện giữa bức
tranh thiên nhiên và cuộc sống của con người, hay chính là sự kết hợp giữa bức
tranh hiện thực đời sống và tinh thần thép của người tù cộng sản Hồ Chí Minh.
Có người nào được như Bác, có tinh thần nào lạc quan và yêu đời hơn tinh thần
của Bác? Dù trong hoàn cảnh bị chuyển lao cực khổ nhưng trên đường đi Bác
vẫn dùng tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của mình để ghi lại những
khung cảnh thiên nhiên và con người để rồi qua đó gửi gắm những nỗi niềm,
tâm sự và cảm xúc thầm kín của mình. Mở đầu bài thơ là cảm xúc của người
thi sĩ trước cảnh thiên nhiên vùng rừng núi khi chiều tà sẩm tối:
<i>“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ</i>
<i>Cô vân mạn mạn độ thiên khơng”</i>
<i>(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ</i>
<i>Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng khơng)</i>
Cánh chim mệt mỏi bởi chính khơng gian rộng lớn làm nó bay mải miết, về
rừng tìm chốn ngủ đã nhấn mạnh đến thời điểm kết thúc ngày, cánh chim đã
mỏi sau một ngày hoạt động, phải tìm nơi dừng chân, chỗ trú ngụ. Còn người
chiến sĩ cách mạng dù cũng đã mệt mỏi nhưng biết bao giờ mới được dùng
chân và cũng không biết sẽ dừng chân tại đâu. Hình ảnh “Chịm mây trơi nhẹ
giữa tầng khơng” gợi ra sự lững lờ, ung dung tự tại nhưng lại có phần đơn độc,
lẻ loi của người tù cách mạng đang lưu lạc. Mây trơi nhẹ giữa khơng gian rộng
lớn cịn gợi sự chậm chạp, khắc khoải trong mơ hồ, cũng giống như Người,
trên đường chuyển lao Người băn khoăn trăn trở khơng biết được tương lai sẽ
đi đến đâu, cịn cả sự nghiệp cách mạng phía trước sẽ ra sao.
Bỗng trong khơng gian thiên nhiên ấy hiện lên bóng dáng của con người, sự
sống của con người đã làm sống dậy bức tranh, trở thành tâm điểm của cả bức
tranh. Sự xuất hiện của cuộc sống con người đã xua tan đi nỗi cô đơn, lẻ loi của
người tù cách mạng:
<i>“Sơn thơn thiếu nữ ma bao túc,</i>
<i>Bao túc ma hồn lơ dĩ hồng”</i>
<i>(Cơ em xóm núi xay ngơ tối,</i>
<i>Xay hết lò than đã rực hồng)</i>
ngày sang tối của thời gian, không gian. Màn đêm đã bao phủ tồn bộ cảnh vật,
đến nỗi chỉ một lị than có thể rực hồng nổi bật trong đêm tối của rừng núi sơn
cước.
Bài thơ “Chiều tối” thực sự là một bức tranh tuyệt đẹp, hài hòa giữa những
mảng sáng và tối, thiên nhiên và con người. Người tù cộng sản Hồ Chí Minh đã
bằng những nét tinh tế, trong trẻo nhất của tâm hồn yêu thiên nhiên, cuộc sống
để có thể vẽ nên một bức tranh kỳ diệu trong hoàn cảnh đặc biệt - trên đường đi
chuyển lao tù.
<b>Bài làm 3</b>
Một buổi chiều tối, vào cuối mùa thu năm 1942, trên con đường chuyển lao từ
Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, dù đã trải qua một ngày dài gian lao, vất vả nhưng
bác vẫn cịn tiếp tục bị bọn lính áp giải trên đường và trước mắt là một đêm
trong nhà giam chặt hẹp, bẩn thỉu, lại “Được cùm chân mới yên bề ngủ/ Không
được cùm chân biết ngủ đâu”. Những đày đọa ban ngày chưa qua, những đày
đoạ ban đêm đã sắp đến. Vậy mà trong hoàn cảnh ấy, người vẫn vượt lên trên
tất cả để ghi lại một bức tranh thiên nhiên và cuộc sống thật đẹp:
“Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiểu nữ ma bao túc
Bao túc ma hồn lơ dĩ hồng”.
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngụ
Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng khơng
Cơ em xóm núi xay ngơ tối
Xay hết lò thân đã rực hồng).
Cả bài thơ là bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người gần gũi, sinh động
trong cảm nhận của một người tù cách mạng.
vật. Toàn bộ khung cảnh miền thiên nhiên sơn cước hiện ra đơn sơ qua cánh
chim chiều mệt mỏi đang vỗ cánh bay về nơi trú ngụ, và trong áng mầy lẻ loi,
lững lờ trôi giữa tầng không. Nghệ thuật lấy điểm vẽ diện, lấy động tả tĩnh
được vận dụng sáng tạo, Nhìn cánh chim bay, mây trơi mà cảm thấy bầu trời
bao la hơn, cảnh chiều tối êm ả, tĩnh lặng hơn. Thiên nhiên ở khắc họa ở hai nét
rất cơ bản nhưng hiện lên đầy ấn tượng về cảnh sắc và xúc cảm. Nó gợi ta nhớ
đến những câu thơ râ't hay cũng viết về cảnh chiều tà như vậy. Ca dao từng có
câu: “Chim bay về núi tối rồi”. Và đó cũng là cánh chim của buổi chiều tà
trong thơ Nguyễn Dủ: “Chim hơm thoi thót về rừng”. Câu thơ của Người vì thế
mà cũng vừa gợi ý niệm về không gian vừa gợi ý niệm về thời gian. Mặc dù
vậy, hình tượng cánh chim trong thơ Bác không chỉ được quan sát ở trạng thái
vận động bên ngoài như trong thơ xưa (cánh chim bay) mà còn được cảm nhận
rất sâu ở tâm trạng (cánh chim mỏi mệt). Có thể thấy một sự tương đồng gần
gũi giữa hình ảnh cánh chim ấy với người tù trên đường chuyển lao mệt mỏi.
Nhưng hành trình của cánh chim có thế’ coi như đến đấy là đã tạm ngừng để
nghỉ ngơi thì người tù cách mạng vẫn phải tiếp tục những đày đọa. Nhưng ý
thơ khơng vì vậy mà mất đi sự hoà hợp đồng điệu, giữa tâm hồn nhà thơ với
cảnh vật. Bởi cội nguồn của nó chính là tình u thương mênh mơng Bác giành
cho mọi sự sống trên đời.
Hình ảnh chịm mây gợi ta nhớ đến câu thơ của Thơi Hiệu trong bài “Hồng
Hạc lâu”: “Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay” và câu thơ của Nguyền
Khuyến: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Thu điếu), vẫn là một thi liệu
quen thuộc nhưng “mây” trong thơ Bác không gợi sự vĩnh viễn hay cái khắc
“Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn”.
(Bầy chim một loạt bay cao
Sơn thôn thiểu nữ ma bao túc
Để cánh chim bay mất hút vào cõi vơ tận thì trong thơ Bác, cánh chim là của
đời sống hiện thực, nó bay theo cái nhịp điệu bất tận của cuộc sống: Sáng đi ăn,
tối về rừng ngủ. Áng mây của Lí Bạch bay nhàn tản gợi cảm giác thốt tục, cịn
áng mây trong bức tranh “chiều tối” của Bác tốt lên vẻ n ả, thanh bình của
cuộc sống thường ngày, ở trong cảnh đày đọa “Năm mươi ba cây số một ngày/
Mũ áo dẩm mưa rách hết giày” vậy mà hồn thơ ấy vẫn vượt lên trên tất cả đê
cảm nhận và đón nhận vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, tạo vật. Tình yêu thiên
nhiên và “chất thép” trong tâm hồn người tù cách mạng ấy đã làm nên sức
mạnh để chiến thắng hoàn cảnh. Từ bức tranh thiên nhiên, ta bắt gặp một cái
nhìn trìu mến dõi theo từng biểu hiện của tạo vật. Không có chân dung người tù
khổ ải mà chỉ hiện lên dáng vẻ phong độ của bậc tao nhân mặc khách đang ung
dung thư thái thưởng ngoạn cảnh về chiều ở rừng núi.
rồi “ma túc ba hồn” vịng quay của cốì xay ngơ cứ đều đặn khơng ngừng nghi
trong thái độ lao động hăng say của con người. Trong sự vận động của câu thơ
có sự vận động của thời gian. “Ngun văn khơng nói đến tốì mà tự nhiên nói
đến: thời gian cứ trơi dần theo cánh chim và làn mây, theo những vịng quay
Bài thơ là sự kết hợp của hai mảng màu chính: mảng màu của thiên nhiên và
mảng màu của cuộc sống con người. Cái làm nên sự hài hoà giữa hai mảng
màu ấy là tâm lòng thiết tha yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của người tù cách
mạng. Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống có sự vận động từ bóng tối ra ánh
sáng, từ buồn đến vui. Sự vận động này cho thây cái nhìn tràn đầy niềm lạc
quan yêu đời, thể hiện tâm hồn luôn vận động hướng ra ánh sáng, hướng ra sự
sống, một “chất thép” đáng khâm phục trong tâm hồn thi sĩ - chiến sĩ Hồ Chí
Minh.
<b>Bài làm 4</b>
Chiều tối được Hồ Chí Minh sáng tác vào mùa thu năm 1942 khi Bác đang bị
giam giữ bởi nhà tù Tưởng Giới Thạch. Trong một lần chuyển lao từ Tĩnh Tây
đến Thiên Bảo, Bác đã viết bài thơ Chiều tối để ghi lại khung cảnh thiên nhiên
trên đường chuyển lao, đồng thời gửi gắm những tâm sự, cảm xúc thầm kín.
Qua bài thơ độc giả có thể phần nào cảm nhận được nét đẹp trong tâm hồn của
người chiến sĩ cộng sản ấy.
sự sống của con người. Thế mới thấy chính quyền Tưởng Giới Thạch chỉ có thể
giam cầm tự do nhưng sức sống tinh thần lại chẳng sức mạnh bạo tàn nào có
thể giam giữ nổi.
Trên đường chuyển lao, Bác đã ghi lại khung cảnh thiên nhiên chiều tối rộng
lớn nhưng tịch mịch của vùng sơn cước:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên khơng”
Dịch:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chịm mây nhẹ trơi giữa tầng khơng
Cánh chim mỏi mệt, đám mây cơ đơn là những hình ảnh quen thuộc trong thơ
ca cổ điển. Cũng giống như những thi nhân xưa, mượn hình ảnh cánh chim,
đám mây để diễn tả nỗi cơ đơn, lạc lõng thì trong bài Chiều tối, sự xuất hiện
của những hình ảnh quen thuộc này góp phần làm cho khơng gian vũ trụ trở
nên rộng lớn, gia tăng nỗi buồn, sự cô đơn của người tù nơi đất khách quê
người.
Cánh chim mỏi mệt trong thơ Bác vừa gợi ra cái rộng lớn, tịch mịch của không
gian vừa gợi ấn tượng về chiều thời chiều tà, khi bóng tối bắt đầu bao trùm
khơng gian. Hướng theo cánh chim mỏi mệt bay về rừng Bác đã gửi vào đó
tình u, sự lưu luyến bất tận với từng dấu hiệu nhỏ nhoi của sự sống, cánh
chim mỏi mệt cịn tạo ra sự kết nối với hồn cảnh của người tù. Sự mỏi mệt của
cánh chim hô ứng với sự mỏi mệt của đôi chân người tù trên hành trình chuyển
lao đầy vất vả.
Khơng gian mênh mơng của vùng sơn cước cịn được điểm xuyết bởi hình ảnh
Bức tranh thơ vẫn không ngừng chuyển động, từ không gian rộng lớn của thiên
nhiên, Bác đã hướng sự chú ý đến sự sống của con người:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hồn lơ dĩ hồng”
Dịch:
Cơ em xóm núi xay ngơ tối
Ngơ vừa xay xong lị than đã rực hồng
Hình ảnh thơ giản dị mang những nét đời thường, tuy nhiên chính cái đời
thường ấy lại gợi ra bao cảm xúc nồng nhiệt trong tâm hồn của người thi sĩ.
Hình ảnh cơ gái xay ngơ tối thể hiện sức sống mạnh mẽ, dáng vẻ trẻ trung sống
động đã xua đi ấn tượng về không gian tịch mịch, về nỗi cơ đơn, nỗi buồn triền
miên trước đó. Sự xuất hiện của con người như dấu hiệu của sự sống, nó mang
đến hơi ấm của sự sống, mang đến niềm vui và niềm tin trong tâm hồn của
người chiến sĩ.
Bếp lửa rực hồng được coi là ánh sáng hy vọng, là nhãn tự của cả bài thơ, sự
xuất hiện của ánh hồng bếp lửa báo hiệu cho độc giả biết về thời gian chiều tà
đã bị bóng tối của màn đêm bao phủ, một dấu hiệu về thời gian độc đáo. Tuy
nhiên, bóng tối khơng mang đến những lãnh lẽo, âm u như ấn tượng thông
thường bởi hơi ấm của lị lửa có thể xua đi mọi u tối, mang đến ánh sáng của hy
vọng, hơi ấm của sự sống.
Bài thơ Chiều tối viết về không gian chiều tà nhưng không mang đến cảm nhận
<b>Bài làm 5</b>
thấy được vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người cũng như tâm
hồn cao đẹp của Bác.
Nhật kí trong tù (1942 - 1943) tỏa sáng tâm hồn cao đẹp của người chiến sĩ
cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh. Tâm hồn tha thiết yêu con người, đất nước bao
nhiêu thì cũng thiết tha yêu thiên nhiên cuộc sống bấy nhiêu. Tâm hồn ấy trong
những tháng ngày tù đày tăm tối luôn hướng về tự do, ánh sáng, sự sống và
tương lai. Trên đường bị giải đi trong chiều buồn ở tỉnh Quảng Tây - Trung
Quốc lòng nhà thơ - người tù bỗng ấm lên và phấn chấn vui vẻ trước thiên
nhiên đẹp và hình ảnh cuộc sống bình dị ấm cúng. Cảm xúc nhà thơ viết bài thơ
Mộ. Bài thơ được sáng tác cuối thu 1942.
Bài thơ có hai bức tranh rõ nét: hai câu đầu là cảnh hồng hơn, hai câu sau là
cảnh sinh hoạt.
Cảnh hồng hơn
Trên con đường thanh vắng, thiên nhiên như một hồng thơ đang đón đợi:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng khơng.
Bức tranh hồng hơn đã được xác định thời gian lúc chiều đang trôi chậm và
không gian là bầu trời bao la lúc ánh nắng chỉ cịn le lói rồi nhường chỗ cho
Hai câu thơ sử dụng bút pháp chấm phá miêu tả, nhất là cách sử dụng thi liệu
mang đậm sắc cổ điển: lấy cánh chim biểu tượng cho hồng hơn, cịn hồng
hơn thì biểu tượng cho nỗi buồn, nhất là đối với người tha hương càng gợi
thêm nỗi buồn xa xứ, lịng thương nhớ cố hương, Thơi Hiệu viết:
Q hương khuất bóng hồng hơn
Trên sơng khói sóng cho buồn lịng ai.
Và người đi trên đường xa trong cảnh hồng hơn ấy dễ cảm thấy cơ đơn và
chạnh lịng.
Bài thơ có cách cảm thụ thế giới quen thuộc của thơ xưa, thiên nhiên như đồng
cảm với tâm sự của con người. Hình ảnh con chim sau một ngày kiếm ăn vất vả
như ẩn dụ hình ảnh người tù mỏi mệt sau một ngày đường bị áp giải. Chòm
mây buồn như ẩn dụ tâm trạng cô đơn buồn bã của tù nhân. Tứ thơ cổ điển mà
vẫn hiện đại, vì thiên nhiên với con người có sự đồng cảm chứ khơng đồng
nhất. Thiên nhiên mệt mỏi cịn có chốn nghỉ, cơ đơn mà được tự do, cịn người
tù khơng biết đi về đâu và mất tự do không biết đến bao giờ. Nên nhà thơ đang
khao khát tự do và một mái ấm gia đình. Tả cảnh mà chứa tình, hàm ý sâu xa,
đó là vẻ đẹp hàm súc dư ba của thơ cổ điển.
Tóm lại, hai câu thơ gợi tả cảnh thiên nhiên đẹp mà buồn, vì ‘‘người buồn cảnh
có vui đâu bao giờ”
Buồn vì xa Tổ quốc, buồn vì bị bắt tù oan, buồn vì mất tự do không biết đến
bao giờ. Nhưng trước vẻ đẹp của cảnh ấy lịng người ít nhiều cũng tìm được
niềm vui thư thái.
Điểm đặc sắc nghệ thuật của bài thơ là chỉ miêu tả khơng gian với hai hình ảnh
đang vận động: cánh chim bay và chịm mây trơi nhưng diễn tả được sự luân
chuyển của thời gian: chiều đang trôi chầm chậm về đêm.
Không gian thay đổi, khung cảnh sinh hoạt của một bản làng miền núi được mở
ra một cách tự nhiên:
Cơ em xóm núi xay ngơ tối
Xay hết lị than đã rực hồng
Lò lửa hồng là hình ảnh nổi bật trung tâm của bức tranh thơ, làm nổi rõ hình
ảnh của cơ gái. Nó sưởi ấm bức tranh thiên nhiên hiu hắt. lạnh lẽo và sưởi ấm
tâm hồn nhà thơ. Vậy là, hình ảnh cuộc sống con người là điểm hội tụ vẻ đẹp
bài thơ, tỏa sáng ánh và hơi ấm xung quanh. Hình ảnh lị lửa hừng hực đặt bên
cạnh cô gái tạo ra vẻ đẹp trẻ trung, đầy sức sống của cảnh thơ. Hoàng Trung
Thông cho rằng chữ hồng là nhãn tự của bài thơ là vì vậy. Ý thơ cuối khỏe, đẹp
bộc lộ niềm vui, lòng yêu đời, yêu cuộc sống. tinh thần lạc quan của Bác.
Như vậy hai câu thơ là sự quan sát của người đi đường nhưng là cái nhìn của
người đang khao khát tìm về cuộc sống bình yên giản dị. Thế nên khi bắt gặp
hình ảnh cuộc sống con người giữa miền sơn cước, tình yêu và niềm vui đã tràn
ngập cõi lịng. Khơng phải ngoại cảnh tác động đến con người mà chính cảm
xúc của con người trùm lên ngoại cảnh. Thiên nhiên đẹp nhưng chưa đủ mang
đến niềm vui. Cuộc sống đẹp đã mang đến niềm vui chan chứa. Điều ấy đã thể
hiện phẩm chất nhân văn cao đẹp của nhà thơ.
Nguyên tác chữ Hán không có từ tối, bản dịch thơ thừa từ. Khơng miêu tả đêm
tối mà vẫn cảm nhận được là nhờ ánh lửa lị than. Lấy ánh sáng để làm nổi
bóng tối, nghệ thuật là ở đó.
Hình tượng thơ vận động rất tự nhiên, bất ngờ, khỏe khoắn: từ lạnh lẽo, hắt hiu
đến ấm nóng, sum vầy, từ tối đến sáng, từ buồn sang vui... đó là điểm đặc sắc
trong phong cách thơ của Bác, thể hiện niềm tin yêu cuộc đời dù đang ở trong
những tháng ngày đau khổ nhất.
Bài thơ Chiều tối có sự hài hịa giữa phong cách cổ điển với hiện đại, giữa
thiên nhiên với tâm hồn. Bài thơ đã cho người đọc thưởng thức bức tranh thiên
nhiên đẹp và cảm nhận được vẻ đẹp của tâm hồn lớn. Một tâm hồn phong phú,
giàu cảm xúc, một tình cảm hồn hậu, thiết tha với thiên nhiên, cuộc sống con
người; luôn hướng về sự sống và ánh sáng, một tinh thần lạc quan trong gian
khổ.
<b>Bài làm 6</b>
Hai bài thơ viết về hai thời điểm khác nhau của một ngày chiều tối và sáng sớm
song cả hai đều đẹp và tinh tế thơng qua ngịi bút sắc sảo của nhà thơ. Đặc biệt,
ở cả hai bài thơ thiên nhiên đều đi từ tối tăm, lạnh lẽo đến ánh sáng và ấm áp.
Ở Chiều tối, nhà thơ đã có một sự đồng cảm đặc biệt với thiên nhiên:
"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng không."
Khi chuẩn bị hết một ngày, con người muốn trở về nhà để sum họp gia đình. Ở
đây, chim cũng bay về rừng tìm điểm tựa, về với gia đình và "tìm chốn ngủ".
Nhưng đó khơng phải là cánh chim bình thường mà là cánh chim "mỏi". Nhìn
cánh chim bay đã biết chim mệt mỏi sau một ngày kiếm ăn vất vả. Phép nhân
"Cơ em xóm núi xay ngơ tối
Xay hết lị than đã ửng hồng".
Thực ra trong nguyên bản chữ Hán là:
"Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hồn lơ dĩ hồng"
túc ma hồn".Bài thơ nói đến sự mệt mỏi; cô đơn, lang thang vô định của chim,
của mây đến ánh sáng hồng tươi ấm áp của ngọn lửa, của tình người.
Bài Giải đi sớm lại miêu tả lại khung cảnh bắt đầu của một ngày. Phần một là
cảnh thiên nhiên khi "đêm chửa tan". "Đêm chửa tan" – "dạ vị lan" tức là trời
đang đêm, cịn tối "dạ". Bóng tối nơi miền núi hoang sơ gắn với cái lạnh lẽo,
hoang vu và cả nỗi sợ hãi. Nhưng núi non, vực thẳm hiểm trở, chỉ xảy chân
một chút là… Không chỉ thế, còn là miền núi lúc nửa thêm thu. Mùa thu đất
Bắc thì lạnh lẽo vơ cùng. Ở đây, Bác chỉ nhắc đến những cơn gió thu "trận trận
hàn" đã thấy tê buốt xương da như đóng băng vậy.
Sang đến phần 2 thì cảnh thiên nhiên hiện ra khác hẳn với phần trước. Màu sắc,
khơng gian đối lập hồn toàn với phần trước. Đất trời "màu trắng chuyển sang
hồng". Màu hồng của ánh dương rực rỡ, của sự ấm áp, của miền núi hy vọng.
Ngay ở Chiều tối ta đã bắt gặp một tình yêu thương bao la Bác dành cho thiên
nhiên và sự sống con người. Có vậy Bác mới đồng cảm với sự "mỏi" của cánh
chim; cái cô đơn, lang thang của chịm mây "mạn mạn độ thiên khơng". Đặc
biệt, Bác chia sẻ với nỗi vất vả của người dân ngoại quốc. Điều đó thể hiện qua
câu thơ diễn tả nhịp quay nặng nề của cối xay ngô "ma bao túc – bao túc ma
hoàn". Ta cần lưu ý rằng, khi ấy Bác đang phải chịu cảnh tù đày, Bác đau khổ
hơn cánh chim, áng mây và người sơn nữ kia nhưng người vẫn mở lịng để cảm
thơng chia sẻ. Đặc biệt, qua cái ấm áp của ánh lửa gia đình, ta hiểu rằng Bác
đang chung vui, chung ấm với bữa cơm gia đình người sơn nữ.
gợi cái đơng vui, ríu rít. "Ủng" là bao lấy, ơm lấy. Hình ảnh những vì sao đơng
đúc vui vẻ ơm ấp trăng cùng bay lên "thướng" thật tình tứ thi vị. Cũng trong
đêm hàn thu ấy, người chiến sĩ cách mạng đã thể hiện bản lĩnh bằng thái độ sẵn
sàng đón nhận gian khổ, đón nhận nguy hiểm thậm chí thách thức chúng
"nghênh diện thu phong trận hàn". Nếu như điệp từ "trận trận" gợi đến lớp lớp
đợt gió thu lạnh buốt táp vào thì từ "nghênh" đầy kiêu hãnh thể hiện thái độ sẵn
sàng đối mặt với gian nguy. Con người ở đây mạnh mẽ, can trường và kỹ vĩ, tự
nâng mình lên sánh với thiên nhiên. Không chỉ vậy, với sự khắc nghiệt của
thiên nhiên Người "ngênh diện" nhưng với sự ấm áp, sáng tươi. Người hịa
mình vào ban mai tươi sáng "Người đi thi hứng bỗng thêm nồng". Vậy là bỗng
chốc một tù nhân vụt hóa thành thi nhân. Khổ đau chỉ là cảm hứng để Bác tỏ
Khơng chỉ Chiều tối và Giải đi sớm, rất nhiều bài thơ trong Nhật kí trong tù tả
cảnh thiên nhien và tất cả thiên nhiên đều có sự vận động tươi sáng từ trong
bóng tối tới ánh sáng. Ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, những vần thơ ấy
thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu tự do bao la của Bác. Và hơn
hết, nó thể hiện bản lĩnh, tinh thần người cách mạng luôn lạc quan, tin tưởng
vào ngày mai tươi sáng.
Nguồn cảm hứng sáng tác của Bác xuất phái từ lòng yêu thiên nhiên, yêu đất
nước trong thi sĩ. Tả cảnh thiên nhiên nhưng tác giả cũng đưa ra những lời dự
đoán về kết quả của cuộc khắng chiến chống mĩ cứu nước của dân tộc sắp kết
thúc thắng lợi. Bài thơ thê hiện tư thế ung dung tự tại, và lịng u nước của tác
giả.
<b>Bài làm 7</b>
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ mn vàn kính u của dân tộc Việt Nam, là danh
nhân văn hóa thế giới. Tài sản Người để lại cho nhân dân ta không chỉ bao gồm
những giá trị sống sâu sắc mà còn có cả những sáng tác thơ ca xuất sắc. Bài thơ
“Chiều tối” chính là một trong những thi phẩm tiêu biểu nhất của Người. Trong
bài thơ, Hồ Chí Minh đã tái hiện một bức tranh thiên nhiên hài hòa giữa cảnh
vật và cuộc sống con người. Đồng thời gửi gắm tư tưởng và tinh thần ung
dung, lạc quan của người chiến sĩ cộng sản.
đến nhà giam Thiên Bảo, đi qua tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc. Lấy cảm hứng
từ buổi chiều chuyển lao với khung cảnh tươi đẹp và cuộc sống ấm cúng, bức
tranh thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp hồng hơn đậm nét cổ điển:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng khơng)
Dưới ngịi bút tài hoa của Bác, cảnh chiều tối miền sơn cước dần thành hình
với khơng gian rộng lớn mênh mơng nhưng đượm hơi thở hoang vắng, tĩnh
mịch. Bác đã khéo léo sử dụng bút pháp chấm phá tài tình của thi ca cổ điển, sử
dụng những hình ảnh gợi tả như cánh chim, chòm mây quen thuộc để miêu tả
cảnh xế chiều của một ngày dài đang dần trôi vào đêm tối. Đồng thời khắc họa
tâm trạng của người tù cách mạng đang lẻ loi nơi đất khách quê người.
Sau một ngày hoạt động vất vả, cánh chim đã mỏi mệt nên mải miết bay về
rừng tìm chốn dừng chân giữa khơng gian rộng lớn. Chúng sẽ tìm về chỗ ngủ
thân quen cịn người chiến sĩ cách mạng dẫu chân đã mỏi vẫn không biết bao
giờ mới được dừng chân và dừng tại nơi nào? Giữa tầng không bao la, mây
trắng lững lờ trơi. Hình ảnh “Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng khơng” gợi liên
tưởng sự ung dung tự tại mà đơn độc của người tù đang lưu lạc. Trong tứ thơ
cổ điển ẩn chứa nét hiện đại, hồng hơn hiện lên êm đềm, giản dị, thiên nhiên
đồng cảm với con người mà khơng đồng nhất. Ý thơ tả cảnh mà ẩn tình, gợi vẻ
đẹp hàm súc dư ba của thơ cổ điển. Thiên nhiên man mác nét buồn nhưng
không bi lụy. Trong tâm hồn nhà thơ vẫn mạnh mẽ niềm tin, nỗ lực hướng tới
sự sống, khát khao vì ngày mai tự do, phóng khống.
Chính vì thế, khi thời khắc cuối cùng của ban ngày đã đến, bóng đêm đang bao
phủ xuống vạn vật, bức tranh thiên nhiên dưới ánh nhìn của nhà thơ đã hiện lên
bóng sáng của con người, của cuộc sống sinh hoạt đời thường:
Giữa núi rừng hoang vu, bỗng hiện lên dáng hình của một thiếu nữ đang bận
rộn xay ngô để chuẩn bị cho bữa cơm tối. Đây là một hình ảnh bình dị, gần gũi
Từ đó, thiên nhiên bỗng hòa quyện vào cuộc sống con người, tạo nên bức tranh
ấm áp, xinh đẹp. Hình ảnh “lơ dĩ hồng” - lò than rực hồng là nét vẽ hoàn thiện
bức tranh, kết thúc bài thơ, đồng thời cũng là nhãn tự bài thơ. Ánh than hồng
không những làm bừng sáng cả khơng gian đang bị bóng tối bao trùm mà còn
gửi gắm niềm tin, hy vọng, sự lạc quan vào tương lai của người chiến sĩ cách
mạng.
Bài thơ sử dụng thành công thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, kết hợp hài hòa giữa
màu sắc cổ điển và hiện đại. Ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc với những hình
ảnh vận động tự nhiên, bất ngờ từ bóng tối đến ánh sáng... Bút pháp gợi tả thiên
nhiên với những hình ảnh bình dị, gần gũi mà giàu xúc cảm. Từ đó, khắc họa
bức tranh thiên nhiên giao quyện bức tranh cuộc sống con người nơi núi rừng
hoang dã. Đặc biệt giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí
Minh, thể hiện tinh thần lạc quan, niềm tin dai dẳng của Người vào tương lai
phía trước.
Với những giá trị sâu sắc, “Chiều tối” đã trở thành một trong những thi phẩm
tiêu biểu của hồn thơ Hồ Chí Minh và thời đại. Dù cho bao năm tháng trôi đi,
độc giả vẫn luôn rung động trước vẻ đẹp thiên nhiên và cảm xúc nhân vật trữ
tình trong tác phẩm.