Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Kinh tế Nhật Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 22 trang )

ĐẤT NNhật Bản
Cờ
Khẩu hiệu (Hòa bình và Tiến bộ)
Con dấu chính phủ:
Chi Hông
Thủ đô
Tōkyō (Đông Kinh đô)
35°41′B, 139°46′Đ
Ngôn ngữ chính thức Tiếng Nhật
Ngôn ngữ địa phương
được công nhận
Aynu itak, tiếng Nhật phía Đông,
tiếng Nhật phía Tây, Ryukyuan,
và các tiếng Nhật địa phương khác
Nhóm dân tộc
98.5% Nhật, 0.5% Hàn,
0.4% Hoa, 0.6% khác
Chính phủ
- Thiên hoàng
Akihito
(Minh Nhân)
- Thủ tướng Kan Naoto
PHẠM BÌNH MINH – 11A9
1
Lập pháp Quốc hội
- Thượng viện Tham nghị viện
- Hạ viện Hạ nghị viện
Thành lập
- Ngày lập nước 11 tháng 2, 660 CN
-
Hiến pháp Đế quốc


Nhật Bản
29 tháng 11, 1890
- Hiến pháp hiện nay 3 tháng 5, 1947
-
Hiệp ước San
Francisco
28 tháng 4, 1952
Diện tích
- Tổng số 377,944 km² (hạng 61)
- Nước (%) 0,8%
Dân số
- Ước lượng 2010 127.380.000 (hạng 10)
- Điều tra 2005 127.417.244 (hạng 10)
- Mật độ 337 /km²
GDP (PPP) Ước tính 2009
- Tổng số $4,159 nghìn tỉ
GDP (danh nghĩa) Ước tính 2009
- Tổng số $5.068 nghìn tỉ (hạng 2)
- Bình quân đầu người $39.731 (hạng 17)
Gini 38,1 (2002)
HDI (2007) 0,960
[6]
(rất cao) (hạng 10)
Đơn vị tiền tệ
Yen (JPY) (Kí hiệu quốc tế ¥
Kí hiệu Nhật 円)
Múi giờ JST (UTC+9)
Cách ghi ngày tháng
yyyy-mm-dd
yyyy 円 m 円 d 円

Era yy 円 m 円 d 円 (CE−1988)
Lái xe bên Trái
Tên miền Internet .jp
PHẠM BÌNH MINH – 11A9
2
Mã số điện thoại +81
Nhật Bản là tên của một quốc gia hải đảo hình vòng cung, có diện tích tổng cộng là 377.834 km² nằm xoải theo bên sườn
phía đông lục địa châu Á. Đất nước này nằm ở phía đông của Hàn Quốc, Nga và Trung Quốc và trải từ biển Okhotsk ở
phía bắc đến biển đông Trung Quốc ở phía nam.
Nhật Bản thuộc vùng ôn đới, có 4 mùa rõ rệt. Nước Nhật có 4 đảo lớn theo thứ tự từ Bắc xuống Nam là: Hokkaido (Bắc
Hải Đạo), Honshu (Bản Châu), Shikoku (Tứ Quốc) và Kyushu (Cửu Châu) cùng hàng ngàn đảo nhỏ chung quanh. Phần
lớn đảo ở Nhật Bản có rất nhiều núi và núi lửa, tiêu biểu như núi Phú Sĩ, cao nhất ở Nhật Bản. Nhật Bản là quốc gia có
dân số lớn thứ mười thế giới với ước tính khoảng 128 triệu người. Vùng thủ đô Tōkyō, bao gồm thủ đô Tokyo và một vài
tỉnh xung quanh là vùng đô thị lớn nhất thế giới với khoảng 30 triệu người sinh sống.
Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu thế giới về khoa học và công nghệ. Nhật Bản cũng là nền kinh tế lớn thứ hai toàn cầu tính
theo tổng sản phẩm nội địa chỉ sau Hoa Kỳ và thứ ba theo sức mua tương đương; và là đất nước đứng thứ 5 trên thế giới
trong lĩnh vực đầu tư cho quốc phòng; xếp thứ 4 thế giới về xuất khẩu và đứng thứ 6 thế giới về nhập khẩu. Quốc gia này
là thành viên của tổ chức Liên Hiệp Quốc, G8, G4 và APEC.
1. Tên nước
Tên "Nhật Bản" viết theo Rōmaji là Nihon theo chữ Hán hai chữ "Nhật Bản" có nghĩa là "gốc của Mặt Trời" và như thế,
được hiểu là "đất nước Mặt Trời mọc".
Nhật Bản còn có các mỹ danh là "xứ sở hoa anh đào", vì cây hoa anh đào (sakura) mọc trên khắp nước Nhật từ Bắc xuống
Nam, những cánh hoa "thoắt nở thoắt tàn" được người Nhật yêu thích, phản ánh tinh thần nhạy cảm, yêu cái đẹp, sống và
chết đều quyết liệt của dân tộc họ; "đất nước hoa cúc" (xin xem: Hoa cúc và thanh kiếm, của Ruth Benedict, nhà dân tộc
học người Mỹ năm 1946) vì bông hoa cúc 16 cánh giống như Mặt Trời đang tỏa chiếu là biểu tượng của hoàng gia và là
quốc huy Nhật Bản hiện nay; "đất nước Mặt Trời mọc" vì Nhật Bản là quốc gia ở vùng cực đông, tổ tiên của họ là nữ thần
Mặt Trời Amaterasu (Thái dương thần nữ).
Vào thế kỷ thứ 4, Nhật Bản đã lấy tên nước là Yamato. Còn người Hán từ trước Công nguyên đã gọi Nhật là Nụy quốc
("nước lùn"), người Nhật là Nụy nhân ("người lùn"), những tên cướp biển trên biển Đông Trung Hoa thời Minh là Nụy
khấu ("giặc lùn"). Do thời đó người Nhật chưa có chữ viết riêng nên Yamato được viết bằng chữ Hán 円. Sau này, người

Nhật dùng hai chữ Hán (Đại Hòa) để biểu ký âm Yamato, thể hiện lòng tự tôn dân tộc.
Nhật Bản còn được gọi là Phù Tang .Cây phù tang, tức một loại
cây dâu. Theo truyền thuyết cổ phương Đông có cây dâu rỗng
lòng gọi là Phù Tang hay Khổng Tang, là nơi thần Mặt Trời nghỉ
ngơi trước khi cưỡi xe lửa du hành ngang qua bầu trời từ Đông
sang Tây, do đó Phù Tang hàm nghĩa văn chương chỉ nơi Mặt
Trời mọc.
Năm 670, niên hiệu Hàm Hanh (670-674) thứ nhất đời vua
Đường Cao Tông, Nhật Bản gửi một sứ bộ đến chúc mừng triều
đình nhà Đường nhân dịp vừa bình định Triều Tiên và từ đó được
đổi tên là Nhật Bản.
2. Xuất xứ Nhật Bản
Nhật Bản có mĩ danh là xứ sở hoa Anh Đào, vì người Nhật rất thích nên trồng cây hoa anh đào khắp nước
Hạc Nhật Bản (Grus japonensis). Loại hạc (tancho) rất đẹp này của hòn đảo Hokkaido đã từng làm đề tài cho các bức
danh họa nhiều thế kỷ trước
PHẠM BÌNH MINH – 11A9
3
Cho đến nay người ta vẫn chưa chắc chắn về xuất xứ và thời gian xuất hiện của những cư dân đầu tiên trên quần đảo Nhật
Bản. Tuy nhiên, hầu hết các học giả đều cho rằng người Nhật đã có mặt tại quần đảo từ xa xưa và định cư liên tục từ đó
cho đến thời nay. Những phát hiện trong nghiên cứu cổ vật, xương đã củng cố thêm sự nghi ngờ đối với thuyết trước kia
cho rằng người Nhật là con cháu của những người xâm chiếm đến sau "thổ dân" Ainu và đã đẩy bộ tộc này ra khỏi quần
đảo. Ngày nay, người ta tin rằng tổ tiên của người Nhật là những người đã làm nên đồ gốm mang tên Jomon. Những
người này được biết là đã có mặt trên quần đảo ít nhất từ năm 5000 TCN, sau đó theo thời gian, pha trộn với các giống
người khác, phát triển qua lịch sử thành dân tộc Nhật Bản ngày nay.
Ngôn ngữ và phong tục của người Nhật gồm những thành tố văn hóa của cả phương Bắc lẫn phương Nam. Dưới góc độ
sử dụng và cú pháp, rõ ràng tiếng Nhật thuộc hệ ngôn ngữ Altai của các dân tộc phía Bắc lục địa châu Á, song trong từ
vựng lại có nhiều từ gốc từ phía Nam. Trong các tập quán và tín ngưỡng, ta thấy các lễ nghi gắn với văn hóa lúa nước vốn
có nguồn gốc ở phía Nam; còn huyền thoại lập nước bởi vị thần - ông tổ của nòi giống - từ thiên đường xuống hạ giới thì
có nguồn gốc ở phía Bắc. Vì vậy, người ta cho rằng dân cư ở đây có xuất xứ từ cả phương Bắc lẫn phương Nam, đến quần
đảo Nhật Bản từ thời tiền sử và qua một quá trình hoà trộn các chủng tộc dần dần tạo ra dân tộc Nhật Bản.

3. Lịch sử
• Từ 15.000 năm trước Công Nguyên, ở Nhật Bản đã có con người sinh sống.
• Từ 13.000 năm trước Công Nguyên, người Nhật đã biết trồng lúa, làm đồ gốm, sống định cư.
• Từ 300 năm trước Công Nguyên đã sử dụng đồ kim khí. Từ thế kỷ thứ 3 đến giữa thế kỷ thứ 6, những nhà nước
đầu tiên xuất hiện. Thần đạo phát triển khắp cả nước. Nước Nhật bắt đầu có tên gọi là Yamato.
• Từ thế kỷ thứ 6 đến đầu thế kỷ thứ 8, một nhà nước tập quyền được thành lập và đóng đô ở Asuka (gần thành phố
Nara ngày nay). Tên nước từ Yamato đổi thành Nhật Bản. Cũng trong khoảng thời gian này, thành lập nhà nước
phong kiến Nhật, với cuộc cải cách Đại Hóa do Thiên hoàng Hiếu Đức đề xướng.
• Giữa thế kỷ thứ 8, Phật giáo đã thiết lập cơ sở vững chắc ở Nhật Bản.
• Từ thế kỷ thứ 9 đến cuối thế kỷ 12, các dòng họ quý tộc hùng mạnh ở Heian thay nhau nắm sức mạnh chính trị
của đất nước, lấn át quyền lực của Thiên hoàng. Cuối thời này, tầng lớp võ sĩ bắt đầu hình thành và tranh giành
quyền lực với các dòng tộc quý tộc.
• Cuối thế kỷ 12 đến đầu thế kỷ 14, quyền lực thực sự nằm trong tay tầng lớp võ sĩ ở Kamakura. Vào các năm 1271
và 1281, các võ sĩ Nhật Bản với sự trợ giúp của bão và sóng thần đã đánh bại hải quân Nguyên - Mông định xâm
lược nước mình.
• Từ thế kỷ 14 đến cuối thế kỷ 16, nước Nhật trong tình trạng mất ổn định do nội chiến và chia rẽ, gọi là Thời kỳ
Chiến quốc. Nhật Bản cũng từng tấn công bán đảo Triều Tiên và nhà Minh (Trung Quốc) trong thời kỳ này,
nhưng thất bại.
• Sau đó, nước Nhật có một thời kỳ thực hiện chính sách đóng cửa ổn định kéo dài ba thế kỷ dưới sự cai trị của Mạc
phủ Tokugawa. Kinh tế, văn hóa và kỹ thuật có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Người phương Tây, khởi đầu là
người Hà Lan, được phép giao thương với Nhật Bản thông qua một thương cảng nhỏ.
• Giữa thế kỷ 19, với cuộc Minh Trị Duy Tân do Thiên hoàng Minh Trị đề xướng, Nhật mở cửa triệt để với phương
Tây. Chế độ Mạc phủ và các phiên do đại danh đứng đầu bị bãi bỏ, quyền lực được tập trung tối cao trong tay
Thiên hoàng. Năm 1868, Thiên hoàng Minh Trị dời đô từ Kyōto về Tōkyō. Công nghiệp hóa diễn ra mạnh mẽ, đất
nước phát triển, xâm chiếm Đài Loan, Lưu Cầu, đánh bại nhà Thanh, đế quốc Nga trong Chiến tranh Thanh-Nhật
và Chiến tranh Nga-Nhật, xâm lược Triều Tiên. Theo Hiến pháp Đế quốc Nhật Bản được ban hành năm 1889,
Nhật là nước theo chính thể quân chủ lập hiến với quyền uy tuyệt đối của Thiên hoàng, nắm toàn bộ quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp nhưng Hiến pháp cũng đã hạn chế ảnh hưởng quyền lực của Thiên hoàng.
• Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nhật đứng về phe Hiệp ước. Sang Chiến tranh thế giới thứ hai, quân phiệt
Nhật đứng về phe Trục với Ý và Đức Quốc xã. Lần đầu tiên trong lịch sử, vào năm 1945, Nhật thất bại và phải

chịu sự chiếm đóng của nước ngoài.
• Sau chiến tranh, Nhật tập trung phát triển kinh tế nhanh chóng. Cuối thập niên 1960, Nhật hoàn thành công cuộc
công nghiệp hóa, trở thành một nước tư bản phát triển. Manh nha những dấu hiệu đình trệ kinh tế đầu tiên sau
khủng hoảng dầu lửa đầu thập niên 1970.
• Bước vào thế kỷ 21, Nhật Bản ưu tiên hơn đến những chính sách quốc gia để gia tăng vị thế về chính trị và quân
sự trên trường quốc tế. Nâng cấp Cục phòng vệ quốc gia thành Bộ quốc phòng vào tháng 1 năm 2007.
4. Ngôn ngữ
PHẠM BÌNH MINH – 11A9
4
Tiếng Nhật được viết trong sự phối hợp ba kiểu chữ: Hán tự hay Kanji và hai kiểu chữ đơn âm mềm Hiragana (Bình Giá
Danh) và đơn âm cứng Katakana (Phiến Giá Danh). Kanji dùng để viết các từ Hán (mượn của Trung Quốc) hoặc các từ
người Nhật dùng chữ Hán để thể hiện rõ nghĩa. Hiragana dùng để ghi các từ gốc Nhật và các thành tố ngữ pháp như trợ từ,
trợ động từ, đuôi động từ, tính từ,… Katakana dùng để phiên âm từ vựng nước ngoài, trừ tiếng Trung và từ vựng của một
số nước dùng chữ Hán khác. Bảng ký tự Latinh Rōmaji cũng được dùng trong tiếng Nhật hiện đại, đặc biệt là ở tên và
biểu trưng của các công ty, quảng cáo, nhãn hiệu hàng hóa, khi nhập tiếng Nhật vào máy tính và được dạy ở cấp tiểu học
nhưng chỉ có tính thí điểm. Số Ả Rập theo kiểu phương Tây được dùng để ghi số, nhưng cách viết số theo ngữ hệ Hán-
Nhật cũng rất phổ biến.
5. Phân cấp hành chính
Đơn vị phân vùng hành chính cấp 1 của Nhật Bản là đô đạo phủ huyện, cả nước được chia thành 1 đô, 1 đạo, 2 phủ, 43
huyện. Các đô thị lớn tùy theo số dân và ảnh hưởng mà được chỉ định làm thành phố chính lệnh chỉ định, thành phố trung
tâm, thành phố đặc biệt. Phân vùng hành chính dưới đô đạo phủ huyện là thị định thôn, ngoài ra còn có các đơn vị như
quận, chi sảnh, khu, đặc biệt khu,… Căn cứ vào địa lý và nhân văn, đặc trưng kinh tế, Nhật Bản thường được chia thành 8
khu vực lớn, bao gồm: vùng Hokkaidō, vùng Đông Bắc, vùng Kantō, vùng Trung Bộ, vùng Kinki (còn gọi là vùng
Kansai), vùng Chūgoku, vùng Shikoku và vùng Kyushu-Okinawa.
Mấy năm gần đây Nhật Bản thi hành chính sách sáp nhập thị đinh thôn, số lượng đinh thôn đã giảm nhiều. Hiện nay để
giảm bớt sự tập trung một cực của Tōkyō và tăng cường phân quyền địa phương, Nhật Bản đang nghiên cứu bỏ đô đạo
phủ huyện, chuyển sang chế độ đạo châu (thảo luận chế độ đạo châu Nhật Bản). Năm 1968, Nhật Bản ban hành chế độ mã
số bưu chính đoàn thể công khai địa phương. Hiện thời đô đạo phủ huyện và các thị đinh thôn đều có mã số bưu chính của
mình. Mã số bưu chính của đô đạo phủ huyện ăn khớp với tiêu chuẩn quốc tế ISO 31166-2:JP.
6. Địa lý

a. Sự hình thành của Nhật Bản
Nhật Bản nằm trên đường ranh giới giữa bốn mảng kiến tạo địa chất của trái đất. Nhưng quan trọng là mảng Thái Bình
Dương đang tiến về phía mảng Âu-Á và chúi xuống dưới mảng này. Chuyển động này diễn ra không mấy êm ả và có thể
dẫn tới những xung động đột ngột mà kết quả là động đất. Khi mảng Thái Bình Dương chìm xuống, các lớp trầm tích bề
mặt vỡ ra và bị biến dạng. Thậm chí lớp vỏ đại dương cũng sẽ bị tan chảy thành dung nham dâng lên bề mặt, phun trào vô
số các ngọn núi lửa. Sự phun trào núi lửa cùng với quá trình trầm tích tạo thành một chưỡi các hòn đảo nhiều núi – một
dải đảo hình cung.
b. Núi lửa
Núi Phú Sĩ ở Nhật Bản.
Ngọn núi lửa nổi tiếng nhất ở Nhật Bản là núi Phú Sĩ, mà người Nhật gọi là Fuji-san,
cao 3776 m. Sự dốc đứng và dạng hình nón gần như hoàn hảo của ngọn núi biến nó
thành một cảnh tượng kỳ thú có thể nhìn thấy từ Tokyo. Núi Phú Sĩ là một điểm du lịch
được ưa thích và hàng năm có nhiều người leo lên ngọn núi này. Ngọn núi lửa này
phun trào lần cuối vào năm 1707 và ngủ yên từ đó đến nay. Tuy nhiên, tháng 8 năm
2000, các nhà khoa học đã phát hiện có những chấn động nhẹ bên dưới núi Phú Sĩ. Các
chấn động này đang được nghiên cứu kỹ lưỡng, nhưng cũng đủ để đưa ra lời cảnh báo.
Khí sulfua bốc lên từ miệng Nakedake.
Tất cả những ngọn núi lửa đang hoạt động ở Nhật Bản đề được giám sát nghiêm ngặt
để có thể đưa ra lời cảnh báo sơ tán kịp thời như núi Aso, đảo Kyushu. Tại đây đã xảy
ra nhiều đợt phun trào và một trong những đỉnh núi lửa chính, đỉnh Nakedake, vẫn
tiếp tục phun khí sunphua và đôi lúc có những vụ nổ miệng núi lửa. Những màn khí
PHẠM BÌNH MINH – 11A9
5
sulfua bốc lên từ đá nham thạch cổ đầy màu sắc và nước hồ trên miệng núi lửa ánh lên kỳ quái một màu xanh luôn sôi sục
ở nhiệt độ 900 °C.
c. Động đất và sóng thần
Vị trị địa lý của Nhật Bản khiến nước này là một trong những quốc gia xảy ra nhiều thiên tai nhất thế giới. Hai mối đe dọa
nghiêm trọng nhất là động đất và sóng thần. Mỗi năm Nhật Bản phải chịu 7500 trận động đất nhẹ, riêng Tokyo có đến 150
trận. Hầu hết các trận động đất này quá nhẹ, không thể nhận ra, nhưng cũng có những trận động đất rất mạnh. Từ trận
động đất Kanto chết chóc năm 1923, tới nay Nhật Bản đã phải trải qua 16 vụ động đất và sóng thần. Vụ sóng thần khủng

khiếp gần đây nhất xảy ra năm 1993 là hậu quả của trận động đất 7,8 độ richte ở ngoài khơi phía tây nam đảo Hokkaido.
Khi tràn tới hòn đảo nhỏ Okushiru, con sóng thần cao tới 30 m và di chuyển với vận tốc vào khoảng 500 km/h, đã gây ra
thiệt hại trên diện rộng, làm 230 người thiệt mạng và phá hủy 601 ngôi nhà.
d. Phong cảnh thiên nhiên
Hoa anh đào ở công viên Eboshiyama, thành phố Nanyo, Nhật Bản.
Nhật Bản là một xứ sở có phong cảnh được coi là một trong những nơi đẹp nhất thế giới,
được đánh giá là 1 trong 10 đất nước tuyệt vời nhất trên thế giới (năm 2010) và cũng là
đại diện Châu Á duy nhất có mặt trong danh sách này với bốn mùa thay đổi rõ rệt: mùa
xuân với hoa anh đào nở dần từ nam lên bắc, mùa hè cây cối xanh mướt, mùa thu lá
phong (momiji) đỏ thắm từ bắc xuống nam, mùa đông tuyết trắng tinh khôi. Núi Phú Sĩ
(Fujisan) là ngọn núi cao nhất Nhật Bản, nằm giữa đồng bằng, lại có tuyết bao phủ nơi
phần đỉnh núi, là nguồn cảm hứng của rất nhiều văn sĩ và thi sĩ xứ Phù Tang cũng như
của các văn nghệ sĩ, trong đó có các nhiếp ảnh gia và họa sĩ khắp bốn phương.
Chủ đề địa lý Nhật Bản
Vị trí các Tỉnh Nhật Bản
Hokkaido
Aomori
Akita Iwate
Niigata Yamagata Miyagi
Ishikawa Toyama Tochigi Fukushima
Fukui Nagano Gunma Saitama Ibaraki
Shimane Tottori Hyōgo Kyoto Shiga Gifu Yamanashi Tokyo Chiba
Yamaguchi Hiroshima Okayama Osaka Nara Aichi Shizuoka Kanagawa
Saga Fukuoka Wakayama Mie
Nagasaki Kumamoto Ōita Ehime Kagawa
Kagoshima Miyazaki Kochi Tokushima
Okinawa
e. Khí hậu
PHẠM BÌNH MINH – 11A9
6

Nhật Bản nhìn từ không gian, tháng 5 năm 2003 và Núi Phú Sĩ
Nhật Bản là quốc gia với hơn ba nghìn đảo trải dài dọc biển Thái Bình Dương của
Châu Á. Các đảo chính chạy từ Bắc tới Nam bao gồm Hokkaidō, Honshū (đảo
chính), Shikoku và Kyūshū. Quần đảo Ryukyu, bao gồm Okinawa, là một chuỗi
các hòn đảo phía Nam Kyūshū. Cùng với nhau, nó thường được biết đến với tên
gọi "Quần đảo Nhật Bản".
Khoảng 70%-80% diện tích Nhật Bản là núi, loại hình địa lý không hợp cho nông
nghiệp, công nghiệp và cư trú. Có điều này là do độ cao dốc so với mặt nước biển,
khí hậu và hiểm họa lở đất gây ra bởi những cơn động đất, đất mềm và mưa nặng.
Điều này đã dẫn đến một nền mật độ dân số rất cao tại các vùng có thể sinh sống
được, chủ yếu nằm ở các vùng eo biển. Nhật Bản là quốc gia có mật độ dân số lớn
thứ 30 trên thế giới.
Vị trí nằm trên vành đai núi lửa Thái Bình Dương, nằm ở điểm nối của ba vùng
kiến tạo địa chất đã khiến Nhật Bản thường xuyên phải chịu các dư trấn động đất nhẹ cũng như các hoạt động của núi lửa.
Các cơn động đất có sức tàn phá, thường dẫn đến sóng thần, diễn ra vài lần trong một thế kỷ. Những cơn động đất lớn gần
đây nhất là động đất Chūetsu năm 2004 và đại động đất Hanshin năm 1995. Vì các hoạt động núi lửa diễn ra thường
xuyên nên quốc gia này có vô số suối nước nóng và các suối này đã và đang được phát triển thành các khu nghỉ dưỡng.
Khí hậu Nhật Bản phần lớn là ôn hòa, nhưng biến đổi từ Bắc vào Nam. Đặc điểm địa lý Nhật Bản có thể phân chia thành
6 vùng khí hậu chủ yếu:
• Hokkaidō: vùng cực bắc có khí hậu ôn hòa với mùa đông dài và lạnh, mùa hè mát mẻ. Lượng mưa không dày đặc,
nhưng các đảo thường xuyên bị ngập bởi những đống tuyết lớn vào mùa đông.
• Biển Nhật Bản: trên bờ biển phía Tây đảo Honshū', gió Tây Bắc vào thời điểm mùa đông mang theo tuyết nặng.
Vào mùa hè, vùng này mát mẻ hơn vùng Thái Bình Dương dù đôi khi cũng trải qua những đợt thời tiết rất nóng
bức do hiện tượng gió Phơn.
• Cao nguyên trung tâm: Một kiểu khí hậu đất liền điển hình, với sự khác biệt lớn về khí hậu giữa mùa hè và mùa
đông, giữa ngày và đêm. Lượng mưa nhẹ.
• Biển nội địa Seto: Các ngọn núi của vùng Chūgoku và Shikoku chắn cho vùng khỏi các cơn gió mùa, mang đến
khí hậu dịu mát cả năm.
• Biển Thái Bình Dương: Bờ biển phía Đông có mùa đông lạnh với ít tuyết, mùa hè thì nóng và ẩm ướt do gió mùa
Tây Nam.

• Quần đảo Tây Nam: Quần đảo Ryukyu có khí hậu cận nhiệt đới, với mùa đông ấm và mùa hè nóng. Lượng mưa
nặng, đặc biệt là vào mùa mưa. Bão ở mức bình thường.
Nhiệt độ nóng nhất đo được ở Nhật Bản là 40,9 °C - đo được vào 16 tháng 8 năm 2007.
Mùa mưa chính bắt đầu từ đầu tháng 5 tại Okinawa; trên phần lớn đảo Honshū, mùa mưa bắt đầu từ trước giữa tháng 6 và
kéo dài 6 tuần. Vào cuối hè và đầu thu, các cơn bão thường mang theo mưa nặng.
Nhật Bản là quê hương của chín loại sinh thái rừng, phản ánh khí hậu và địa lý của các hòn đảo. Nó trải dài từ những rừng
mưa nhiệt đới trên quần đảo Ryukyu và Bonin tới các rừng hỗn hợp và rừng ôn đới lá rụng trên các vùng khí hậu ôn hòa
của các đảo chính, tới rừng ôn đới lá kim vào mùa đông lạnh trên các phần phía Bắc các đảo.
Biểu đồ thể hiện đặc trưng khí hậu tại một số thành phố lớn theo Cục Khí Tượng Thủy Văn Nhật Bản.
PHẠM BÌNH MINH – 11A9
7
f. Tài nguyên thiên nhiên
Nhật Bản có rất ít tài nguyên thiên nhiên. Các
khoáng sản như quặng sắt, đồng đỏ, kẽm, chì và
bạc, và các tài nguên năng lượng quan trọng như
dầu mỏ và than đều phải nhập khẩu. Địa hình và
khí hậu Nhật Bản khiến người nông dân gặp rất
nhiều khó kăn, và vì quốc gia này chỉ trồng cấy
được một số cây trồng như lúa gạo, nên khoảng
một nửa số lương thực phải nhập khẩu từ nước
ngoài.
7. Chính trị Nhật Bản
Nhật Bản là một trong các nước theo hệ thống
quân chủ lập hiến, trong đó Thủ tướng là người
nắm quyền cao nhất về các phương diện quản lý quốc gia và chịu sự giám sát của hai viện quốc hội cùng tòa Hiến pháp có
thẩm quyền ngăn chặn các quyết định vi hiến của chính phủ. Được xây dựng dựa trên hình mẫu của Vương quốc Liên
hiệp Anh và Bắc Ireland và một số nước phương Tây khác sau này. Theo hệ thống pháp luật thế giới hiện hành, Nhật Bản
được xếp vào các nước có nền dân chủ đầy đủ (ưu việt nhất).
a. Hiến pháp
Hiến pháp của nước Nhật Bản, được công bố vào ngày 3 tháng 11 năm 1946

và có hiệu lực kể từ ngày 3 tháng 5 năm 1947, quy định rằng nhân dân Nhật
Bản thề nguyện trung thành với các lý tưởng hòa bình và trật tự dân chủ.
Dù vậy vào ngày 3 tháng 5 năm 2007, Nghị viện đã thông qua một văn bản
dưới luật theo đó cho phép chính phủ tổ chức trưng cầu dân ý cho một bản
sửa đổi mới vào năm 2010 và sẽ cần hai phần ba số phiếu thuận của Nghị
viện để có hiệu lực.
b. Hoàng thất Nhật Bản
Đứng (trái sang phải): Công chúa Norinomiya Sayako, Hoàng tử Akishinonomiya Fumihito, Vương phi Kiko.
Ngồi (trái sang phải): Vương phi Masako, Thiên hoàng Akihito, Công chúa Mako, Công chúa Mako Kako, Hoàng hậu
Michiko, Thái tử Naruhito.
Ở Nhật Bản, hoàng đế được gọi là Thiên hoàng (円円, tennō). Thiên hoàng có quyền lực rất hạn chế ở nhà nước quân chủ
lập hiến này. Theo Hiến pháp Nhật Bản (1947), Thiên hoàng chỉ "tượng trưng cho nước Nhật".
[19]
Đương kim Thiên
hoàng Akihito, sinh ngày 23 tháng 12 năm 1933 tại thủ đô Tokyo, lên ngôi ngày 7 tháng 1 năm 1989, đặt niên hiệu là
Bình Thành. Ông là con của Thiên hoàng Chiêu Hòa, vị Thiên hoàng trị vì lâu dài nhất (62 năm) và cũng sống lâu nhất
(87 tuổi) trong chính sử Nhật Bản.
Thiên hoàng Akihito và Hoàng hậu Michiko có 3 người con (hai trai và một gái). Thái tử Naruhito sinh ngày 23 tháng 2
năm 1960, đã kết hôn với cô Masako và có một con gái. Hoàng tử Akishono có hai con gái và một con trai. Theo Hiến
pháp Nhật Bản, chỉ nam giới mới được thừa kế ngai vàng.
c. Cơ quan lập pháp
Tổng thống Hoa Kỳ George Bush phát biểu tại Quốc hội Nhật Bản
PHẠM BÌNH MINH – 11A9
8

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×