Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng trên địa bàn huyện đông anh, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN TRUNG KIÊN

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH
VỰC XÂY DỰNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐÔNG
ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI - NĂM 2017

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……


HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN TRUNG KIÊN

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
XÂY DỰNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐÔNG ANH,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 60 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. BÙI THỊ THANH THÚY

HÀ NỘI - NĂM 2017

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia thì việc đầu
tư cơ sở hạ tầng, đầu tư các cơng trình xây dựng là một lĩnh vực quan trọng,
một bộ phận trong quy hoạch sử dụng đất của quốc gia. Việc phân bổ hợp lý,
phát triển các công trình xây dựng đúng quy định của nhà nước nhằm tạo tiền
đề, động lực cho phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ nhu cầu của nhân dân tốt
hơn. Những năm qua, cùng với việc đầu tư các nguồn lực xã hội cho phát triển
các cơng trình xây dựng, đáp ứng nhu cầu sử dụng và tổ chức sản xuất của
nhân dân, Nhà nước cũng khơng ngừng hồn thiện khung thể chế về trật tự
xây dựng, trong đó có nội dung quan trọng là xử phạt vi phạm hành chính về

trật tự xây dựng.
Vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng hiện nay
được điều chỉnh theo dọc pháp lý cơ bản là: pháp luật về xây dựng, pháp luật
về xử phạt vi phạm hành chính và pháp luật về tổ chức lực lượng xử phạt vi
phạm hành chính. Hệ thống các quy phạm cũng được sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện để theo kịp với sự phát triển của xã hội, ví dụ như: Luật Thanh tra
năm 2010; Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012; Luật Xây dựng năm
2014... Cùng với đó là sự ra đời của các văn bản hướng dẫn thi hành của cơ
quan nhà nước đối với các khối cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền.
Điều này đã tạo nên những hướng tích cực góp phần thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội.
Tuy nhiên, cần phải khẳng định lĩnh vực xây dựng là rất phức tạp, có
quan hệ trực tiếp với các vấn đề về quản lý đất đai, quy hoạch sử dụng đất,
kiến trúc, môi trường. Thực tế cho thấy, địa phương nào có nền kinh tế phát
triển thì tình hình xây dựng cũng rất sôi động và nhiều biến chuyển nhưng
công tác quản lý cịn chưa theo kịp xu thế phát triển đó, tình trạng vi phạm trật
3


tự xây dựng còn xảy ra khá nhiều, ảnh hưởng đến tổ chức quản lý quy hoạch,
đời sống an ninh xã hội.
Công tác tổ chức, thành lập lực lượng xử phạt vi phạm hành chính lĩnh
vực xây dựng cũng có nhiều thay đổi. Ngày 18/06/2007, Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quyết định số 89/2007/QĐ-TTg về thí điểm thành lập Thanh
tra xây dựng quận, huyện và Thanh tra xây dựng xã, phường, thị trấn tại
thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Lực lượng này được tổ chức ở
cấp quận, huyện và xã, phường, thị trấn. Sau gần 6 năm đưa vào thực hiện thí
điểm thì mơ hình này bộc lộ nhiều bất cập và hạn chế. Nghị định số
26/2013/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Xây dựng
được Chính phủ ban hành ngày 29/03/2013 nhằm cải thiện lực lượng thanh

tra xây dựng trên cả nước theo Luật Thanh tra năm 2010 hiệu quả, chuyên
nghiệp hơn. Tuy nhiên, đưa mơ hình thanh tra xây dựng về các cấp huyện,
xã, thị trấn như nào cho hợp với Luật Thanh tra mà vẫn phù hợp với đặc thù
xây dựng của địa phương lại là vấn đề cần nghiên cứu, xây dựng và góp ý
hồn thiện. Thực tế này cho thấy, việc nghiên cứu vấn đề xử phạt vi phạm
hành chính về xây dựng trên địa bàn huyện Đơng Anh là cần thiết, đáp ứng
yêu cầu về lý luận khoa học quản lý, luật học và thực tiễn công tác quản lý
nhà nước về xây dựng bằng pháp luật.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nội
thành Hà Nội, các huyện ngoại thành cũng đang từng bước phát triển q
trình cơng nghiệp hố và đơ thị hố hết sức nhanh chóng. Huyện Đơng Anh
cũng khơng nằm ngồi sự phát triển đó, với tốc độ đơ thị hố nhanh cũng kéo
theo những hệ lụy cần phải giải quyết đó là trật tự xây dựng. Tình hình vi
phạm trật tự xây dựng đơ thị đã và đang là một vấn đề nóng trong thực tế các
đơ thị nước ta nói chung và Huyện Đơng Anh nói riêng. Có thể nhận thấy
các cơng trình vi phạm pháp luật về trật tự xây dựng và phát triển đô thị ngày
càng nhiều với diễn biến phức tạp, đa dạng hơn. Mức độ không chỉ dừng lại
ở những căn hộ tập thể cơi nới không xin phép hay nhà trong hang cùng ngõ
4


hẻm đua ban công lấn chiếm không gian mà nhà riêng sai theo kiểu nhà
riêng, biệt thự sai kiểu biệt thự, các vi phạm về đất tập thể, sử dụng đất đai
khơng đúng mục đích diễn ra ngày càng nhiều và phức tạp. Do những điều
kiện, những lý do chủ quan, quy hoạch của nước ta nói chung và Thành phố
Hà Nội nói riêng, vốn lẽ đã có nhiều bất cập và thiếu sót. Huyện Đơng Anh một trong những huyện ngoại thành của Hà Nội cũng khơng nằm ngồi
ngoại lệ đó. Yêu cầu quản lý trật tự xây dựng theo đúng quy hoạch và pháp
luật, loại trừ hiện tượng phát triển tự phát, tùy tiện khơng thể kiểm sốt là
một vấn đề quan trọng và cấp thiết hiện nay.
Bên cạnh những hoạt động xây dựng được đầu tư và tuân thủ đúng theo

quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì vẫn cịn tồn tại những hoạt
động xây dựng sai, trái phép diễn ra với nhiều hình thức đa dạng, phức tạp,
khơng đảm bảo an tồn xây dựng và gây ảnh hưởng tới an ninh, trật tự xã hội.
Điển hình cho tình hình vi phạm trật tự xây dựng hiện nay trên địa bàn huyện
Đông Anh là việc xây dựng trên đất nông nghiệp, lấn chiếm đất công để xây
dựng trái phép. Các tổ chức, cá nhân cố tình vi phạm với nhiều thủ đoạn nhằm
thực hiện hoạt động xây dựng trái phép. Trong khi đó, cơng tác xử phạt vi
phạm hành chính cịn nhiều bất cập, khó khăn và vướng mắc; nhiều vụ việc
gây thiệt hại lớn về kinh tế của người dân và tổn thất ngân sách quốc gia do
cơng tác xử phạt cịn nhiều bất cập, kéo dài gây bức xúc trong nhân dân, dẫn
đến nhiều vấn đề như: tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, kiện tụng,... Hoạt động vi
phạm hành chính trong xây dựng ngày càng có xu hướng tăng nhanh về số
trường hợp vi phạm và có dấu hiệu tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, gây bức xúc
trong nhân dân.
Để xây dựng huyện Đông Anh thành cửa ngõ thủ đô, là vùng ngoại ơ
đảm bảo cảnh quan cũng như góp phần trong tổng quan xây dựng thành phố
nói chung và địa bàn huyện Đơng Anh nói riêng cần phải giữ gìn trật tự, tuân
thủ đúng quy định trong lĩnh vực xây dựng theo đúng pháp luật và định
hướng, quy hoạch phát triển của thành phố Hà Nội và huyện Đông Anh. Đồng
5


thời đảm bảo quyền, lợi ích của nhân dân, tạo dựng lòng tin của nhân dân đối
với Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương. Làm tốt được hoạt động này
sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội huyện Đơng Anh nói riêng và
thành phố Hà Nội nói chung. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực xây dựng trên địa bàn huyện Đơng Anh có ý nghĩa
sâu sắc về lý luận và thực tiễn.
Vì tất cả những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng trên địa bàn huyện Đông Anh,

thành phố Hà Nội” để triển khai luận văn thạc sỹ Luật học chuyên ngành Luật
Hiến pháp và Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng nói chung
ln nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và giới nghiên cứu khoa
học. Các cơng trình nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài luận văn gồm:
- Quân Ngọc Anh (2009), Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực xây dựng, liên hệ qua thực tiễn ở thành phố Hà Nội,
Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội [1]. Luận
văn góp phần nêu ra một cách có hệ thống sự điều chỉnh của pháp luật trong
lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính về xây dựng và mối tương quan giữa các
ngành luật trong sự điều chỉnh đó.
- Nguyễn Kim Hồng (2009), Quản lý nhà nước về xây dựng nhà ở đô
thị trên địa bàn thành phố Cần Thơ, Luận văn Thạc sỹ Quản lý hành chính
cơng, Học viện Hành chính Quốc gia [14]. Luận văn đã nghiên cứu những
vấn đề lý luận cơ bản về trật tự xây dựng nhà ở đô thị, thực trạng quản lý nhà
nước về xây dựng nhà ở đô thị ở thành phố Cần Thơ, đề xuất các giải pháp
nhằm bảo đảm cho hoạt động quản lý nhà nước về trật tự xây dựng trên địa
bàn TP. Cần Thơ.
- Đặng Thanh Sơn (2010), Cơ chế bảo đảm thi hành Luật xử lý vi phạm
hành chính, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội [32]. Đề tài đã đề
6


cập một cách toàn diện về hệ thống cơ chế bảo đảm cho việc thi hành Luật
xử lý vi phạm hành chính. Từ đó, đề tài làm nền tảng, xác định các yếu tố
đảm bảo cho hoạt động xử phạt vi phạm hành chính ở nhiều lĩnh vực khác
nhau, trong đó có lĩnh vực xây dựng ở đơ thị.
- Hồ Thanh Hiền (2012), Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ qua thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sỹ

Luật học , Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội [13]. Luận văn nghiên cứu
những vấn đề lý luận về pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thơng đường bộ. Nghiên cứu thực trạng thực thi các quy định pháp luật,
từ đó đề ra các biện pháp hồn thiện các quy định pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thơng đường bộ tại thành phố Đà Nẵng.
- Nguyễn Ngọc Vân (2013), Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
xây dựng ở quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Quản lý
hành chính cơng, Học viện Hành chính Quốc gia [54]. Luận văn đã nghiên
cứu một cách hệ thống cơ sở lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực xây dựng ở quận Tây Hồ; phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động
này tại quận Tây Hồ và đề ra những giải pháp hữu hiệu; là cơ sở để tác giả
có những so sánh, vận dụng, đề ra các giải pháp nhằm đảm bảo công tác xử
phạt vi phạm hành chính tại quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
- Nguyễn Ngọc Linh (2014), Thực thi pháp luật về giải quyết khiếu nại,
tố cáo về đất đai trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Luận văn Thạc sỹ Luật học,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội [20]. Luận văn góp phần hệ thống cơ
sở lý luận về hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo và đánh giá thực trạng
thực thi pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh nhằm tìm ra các định hướng hồn thiện quy định pháp luật về
lĩnh vực này nói chung và tăng cường hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo trên địa bàn Quảng Ninh nói riêng.
- Nguyễn Mai Hương (2015), Vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh
vực hải quan và biện pháp ngăn chặn, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa
7


Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội [19]. Luận văn góp phần hệ thống hóa và
làm rõ một số vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực
hải quan và đưa ra các giải pháp ngăn chặn các vi phạm đó. Luận văn có thể
dùng làm tài liệu tham khảo nghiên cứu về thực trạng các loại hình vi phạm

pháp luật hành chính trong lĩnh vực hải quan.
- Trịnh Văn Quang (2016), Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
trật tự đơ thị từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc
sỹ Luật học, Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học
Xã hội [21]. Luận văn góp phần hệ thống hóa các vấn đề lý luận về xử phạt
vi phạm hành chính, phân tích đầy đủ, tồn diện về tình hình vi phạm hành
chính trong lĩnh vực trật tự đô thị trên địa bàn quận Cẩm Lệ. Từ đó, đề xuất
các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xử phạt vi phạm hành
chính từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
Các cơng trình nghiên cứu về xử phạt vi phạm hành chính ở hai góc độ
là: hoạt động quản lý nhà nước và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Khơng có nhiều cơng trình nghiên cứu về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực xây dựng, đặc biệt là trên địa bàn huyện Đông Anh. Tuy nhiên, tài
liệu cịn hạn chế và chưa có hệ thống để đưa ra giải pháp hữu hiệu thực hiện
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng trên địa bàn huyện
Đơng Anh. Do đó, trong q trình nghiên cứu tác giả có kế thừa những
nghiên cứu đi trước và khai thác các cơng trình nghiên cứu có liên quan để
thực hiện luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cả về phương diện lý luận
và thực tiễn vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng,
đánh giá thực trạng hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây
dựng, chỉ ra những bất cập, nguyên nhân của nó để trên cơ sở đó, đưa ra các
quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xử phạt vi
8


phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng trên địa bàn huyện Đơng Anh,
thành phố Hà Nội.
Để hồn thành được mục đích đặt ra, luận văn tập trung giải quyết các

nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
Một là, nghiên cứu hệ thống cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý về xử phạt vi
phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng tình hình vi phạm hành chính và
hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng trên địa bàn
huyện Đông Anh trong giai đoạn 2011 - 2016. Từ đó, rút ra được những ưu
điểm và hạn chế của hoạt động này.
Ba là, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
của công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng trên địa
bàn huyện Đơng Anh trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực xây dựng.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về mặt nội dung: luận văn đi sâu nghiên cứu vấn đề xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực xây dựng.
+ Về mặt không gian: phạm vi nghiên cứu trên địa bàn huyện Đông Anh,
thành phố Hà Nội.
+ Về mặt thời gian: thời gian nghiên cứu từ 2011 đến 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa nói chung, về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây
dựng nói riêng. Bên cạnh đó, các quan điểm, quan niệm, kết quả nghiên cứu
trên phương diện lý luận và thực tiễn về xử phạt vi phạm hành chính trong
9


lĩnh vực xây dựng của các nhà khoa học trong nước cũng là cơ sở lý luận

quan trọng của luận văn.
Ngồi ra, để hồn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử
dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, khái quát
hóa, thống kê... nhằm thu thập thông tin, số liệu thực tế phục vụ cho việc đánh
giá, phân tích thực trạng, nguyên nhân và tính khả thi của các giải pháp mà
luận văn đưa ra.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn
Về lý luận: nội dung luận văn sẽ đề cập, phân tích tương đối tồn diện, có
hệ thống cơ sở lý luận và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng
trên địa bàn cấp huyện.
Về thực tiễn: thơng qua các phương pháp phân tích, đánh giá hiệu quả
của cơng tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng trên địa bàn
huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội giai đoạn 2011-2016. Luận văn tìm hiểu,
nghiên cứu về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng. Kết quả
nghiên cứu của luận văn là tìm ra những tồn tại, vướng mắc, hạn chế trong
cơng tác xử phạt hành chính trong lĩnh vực xây dựng. Từ đó, đưa ra phương
hướng nâng cao hiệu quả xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng
đối với chính quyền cấp huyện và đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả
cải cách hành chính tại huyện Đông Anh và hỗ trợ công tác xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực xây dựng tại địa phương.
Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong công tác nghiên cứu, học tập trong các cơ sở đào tạo.
7. Kết cấu của luận văn
Bố cục luận văn, ngoài phần mở đầu, kết luận, bảng biểu thống kê, danh
mục tài liệu tham khảo, phần nội dung được kết cấu thành 02 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
xây dựng.

10



Chương 2: Thực trạng và giải pháp bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực xây dựng trên địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

11


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC XÂY DỰNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây
dựng
1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Như chúng ta đã biết, Nhà nước là một tổ chức được xã hội thành lập
nên để thực hiện việc quản lý, phát triển xã hội. Để có thể thực hiện được vai
trị đó, Nhà nước luôn phải tác động lên các quan hệ xã hội bằng một hệ
thống các quy tắc quản lý nhà nước được quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật. Trên thực tế, trong đời sống xã hội luôn xảy ra tình trạng vi
phạm các quy tắc quản lý nhà nước. Các vi phạm đó diễn ra hàng ngày trong
đời sống xã hội, từ những hành vi đơn giản và phổ biến như hút thuốc lá nơi
công cộng, vứt rác bừa bãi, đến những hành vi vi phạm có tính chất nguy
hiểm hơn như không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông, đi ngược
chiều, vượt đèn đỏ; xả rác thải làm ô nhiễm môi trường; buôn bán hàng giả;
xây dựng trái phép; lấn chiếm đất đai; buôn lậu, trốn thuế,… Những hành vi
đa dạng, tinh vi và xuất hiện trong tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước.
Dưới góc độ lý luận, vi phạm pháp luật được cấu thành bởi các mặt
khách quan, chủ quan, khách thể và chủ thể của nó. Tổng hợp các yếu tố đó
ta có thể hiểu vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật do chủ thể có năng
lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến các
quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.

Vi phạm pháp luật là hành vi nguy hiểm cho xã hội do chủ thể có năng
lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm hại đến các
quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Căn cứ vào khách thể vi phạm, mức
độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm, vi phạm pháp luật
chia ra các loại sau: vi phạm hình sự, vi phạm dân sự, vi phạm hành chính, vi
phạm kỷ luật. [16, tr.110-113].
12


Ở một số nước trên thế giới, vi phạm hành chính thường được hiểu
chung là các hành vi vi phạm pháp luật mà không phải là tội phạm, bị xử
phạt bằng các chế tài hành chính. Ví dụ Pháp lệnh của Hội đồng bang
Milaca, Minnesota, định nghĩa vi phạm hành chính là “hành vi vi phạm quy
định của Pháp lệnh này và phải chịu các hình thức xử phạt hành chính theo
quy định…”. Luật về xử phạt hành chính của Cộng hòa nhân dân Trung hoa
năm 1996 (Điều 3) định nghĩa vi phạm hành chính là “hành vi vi phạm trật
tự hành chính của cơng dân và pháp nhân hoặc các tổ chức khác, bị áp dụng
các hình thức phạt hành chính được quy định bởi pháp luật theo quy định
của Luật này và các hình thức xử phạt này được giao cho các cơ quan hành
chính áp dụng theo thủ tục do Luật này quy định”.
Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm “vi phạm hành chính” lần đầu
tiên được định nghĩa một cách chính thức tại Pháp lệnh Xử phạt vi phạm
hành chính ngày 30/11/1989, Điều 1 của Pháp lệnh này quy định “vi phạm
hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm quy tắc quản lý Nhà nước mà khơng phải là tội phạm hình sự và
theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Định nghĩa này
sau đó đã được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn thi hành pháp luật và đưa
vào các giáo trình giảng dạy về pháp luật. Theo Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính năm 1995 và sau đó là Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm
2002 thì khái niệm vi phạm hành chính khơng được định nghĩa riêng biệt

nữa mà được đưa vào trong khái niệm “xử lý vi phạm hành chính”, nếu trích
dẫn từ định nghĩa về “xử lý vi phạm hành chính” được quy định tại khoản 2
Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2002. Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính quy định “Xử phạt vi phạm hành chính được áp
dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ
chức) có hành vi cố ý hoặc vơ ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản
lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải
bị xử phạt hành chính” thì vi phạm hành chính được hiểu là : hành vi cố ý
13


hoặc vô ý của cá nhân, tổ chức, vi phạm các quy định của pháp luật về quản
lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải
bị xử phạt vi phạm hành chính. Về ngơn ngữ thể hiện, có thể thấy có đơi chút
khác nhau giữa định nghĩa về vi phạm hành chính được quy định trong các
Pháp lệnh về xử phạt/xử lý vi phạm hành chính 1989, 1995 và 2002, tuy
nhiên về bản chất hành vi vi phạm hành chính thì các định nghĩa trong các
văn bản pháp luật này, về cơ bản, khơng có gì khác nhau. [53, tr.3-10].
Trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 đã đưa ra khái niệm:
“Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi
phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội
phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”.
[25, tr.3].
Định nghĩa trên đưa ra các dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm hành
chính, đó là: hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện, có lỗi, tính trái pháp luật
hành chính và phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Vi phạm hành chính là một dạng vi phạm pháp luật, do đó nó cũng bao
gồm các yếu tố cấu thành pháp lý là mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể
và khách thể. Dưới đây, các dấu hiệu và yếu tố cấu thành pháp lý của vi
phạm hành chính sẽ được xem xét trong mối quan hệ thống nhất với nhau.

Thứ nhất, mặt khách quan của vi phạm hành chính là những biểu hiện
ra bên ngồi thế giới khách quan của vi phạm hành chính. Đó là các hành vi,
thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện hay mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi vi phạm hành chính và hậu quả của vi phạm hành chính.
Hành vi của vi phạm hành chính là những biểu hiện của con người hoặc
tổ chức tác động vào thế giới khách quan qua hình thức bên ngồi cụ thể gây
tác hại đến sự phát triển bình thường của trật tự quản lý. Những biểu hiện
này được kiểm soát và điều khiển bởi ý thức và ý chí của chủ thể vi phạm
hành chính. Hành vi là biểu hiện rõ nhất trong mặt khách quan của vi phạm
hành chính, chúng có ý nghĩa quyết định đến nội dung biểu hiện khác trong
14


mặt khách quan (hậu quả, công cụ phương tiện, thời gian, địa điểm); đồng
thời hành vi cũng là thể thống nhất giữa mặt khách quan và chủ quan. Hành
vi khách quan của vi phạm hành chính có thể là hành vi hành động hoặc
không hành động. Song dù biểu hiện bằng bất kỳ hình thức nào thì nó cũng
chỉ bị coi là vi phạm hành chính khi hành vi đó trái với pháp luật hành chính.
Hành vi trái pháp luật hành chính là dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm
hành chính, nhưng đây khơng phải là thuộc tính riêng của vi phạm hành
chính. Để phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm trong trường hợp cả
hai loại hành vi có cùng chung khách thể, người ta lấy tiêu chí là tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi. Hành vi vi phạm hành chính ít nguy hiểm cho
xã hội hơn so với tội phạm hình sự.
Hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hành chính
và hậu quả của vi phạm hành chính: là tính xâm hại khách quan của vi
phạm hành chính, được thể hiện ở vi phạm hành chính đã xâm hại hoặc đe
dọa xâm hại các quan hệ đã được pháp luật quy định thành quy tắc quản lý
nhà nước. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp hậu quả của vi phạm hành
chính được biểu hiện ở các thiệt hại cụ thể về sức khỏe, nhân phẩm, danh dự,

về tự do thân thể của cá nhân hoặc làm thiệt hại về tài sản của Nhà nước, tập
thể và công dân. Hậu quả của vi phạm hành chính là kết quả của hành vi vi
phạm hành chính do con người hoặc tổ chức thực hiện.
Quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hành chính và hậu quả vi phạm
hành chính có mối quan hệ hữu cơ, trong đó hậu quả của vi phạm hành chính
có tiền đề xuất hiện của nó là hành vi khách quan của vi phạm hành chính;
sự tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hành chính và hậu quả
của vi phạm hành chính dựa trên các căn cứ sau:
Một là, hành vi vi phạm hành chính xảy ra trước hậu quả xâm hại các
mối quan hệ về mặt thời gian.
Hai là, hành vi vi phạm phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh
hậu quả xâm hại các quan hệ xã hội.
15


Ba là, hậu quả vi phạm đã xảy ra phải là sự hiện thực hóa khả năng thực
tế làm phát sinh hậu quả của hành vi vi phạm. Ngoài những biểu hiện trên,
về mặt khách quan của vi phạm còn có một số dấu hiệu khách quan khác
như: Thời gian, địa điểm, công cụ và phương tiện vi phạm.
Thứ hai, mặt chủ quan của vi phạm hành chính là những quan hệ tâm lý
bên trong của chủ thể, bao gồm các yếu tố: Lỗi, mục đích, động cơ. Trong đó
yếu tố cơ bản nhất của mặt chủ quan là tính có lỗi, có ý nghĩa quyết định đến
các yếu tố khác trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính.
Lỗi chính là trạng thái tâm lý của người vi phạm, biểu hiện thái độ của
người đó đối với hành vi vi phạm và hậu quả của hành vi đó. Yêu cầu về lỗi
trong Luật Hành chính khơng cao như trong Luật Hình sự, trong nhiều
trường hợp chỉ cần có lỗi nghĩa là người vi phạm biết hoặc có thể biết tính
chất sai phạm của mình là đủ để xác định vi phạm hành chính xảy ra. Đối với
luật hình sự địi hỏi phải chính xác, khơng chỉ xác định lỗi mà cịn phải xác
định hình thức và mức độ lỗi; mặt khác lỗi trong Luật Hình sự chỉ đặt ra với

cá nhân vi phạm, trong hành chính lỗi đặt ra cho cả cá nhân và tổ chức vi
phạm.
Lỗi trong vi phạm hành chính thể hiện dưới hai hình thức: lỗi cố ý và
lỗi vô ý. Lỗi cố ý trong vi phạm hành chính là chủ thể nhận thức được hành
vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện. Lỗi vơ ý trong vi
phạm hành chính là lỗi của cá nhân hoặc tổ chức thực hiện hành vi trái pháp
luật do vơ tình thiếu thận trọng mà không nhận thức được nghĩa vụ pháp lý
bắt buộc, mặc dù họ có đầy đủ khả năng xử sự theo đúng nghĩa vụ pháp lý
quy định.
Mục đích: mục đích của vi phạm hành chính khơng phải là dấu hiệu bắt
buộc phải có trong mọi cấu thành của mọi loại vi phạm hành chính. Nó chỉ
có ở một số trường hợp vi phạm hành chính nhất định và những trường hợp
này đều có hình thức lỗi là cố ý.

16


Động cơ: là động lực bên trong thúc đẩy người vi phạm hành chính thực
hiện hành vi vi phạm hành chính. Trừ những vi phạm hành chính với lỗi cố ý
có mục đích xác định, phần lớn động cơ trong vi phạm hành chính là khơng
rõ rệt. Nó khơng được coi là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của tất cả mọi
loại vi phạm hành chính.
Thứ ba, chủ thể vi phạm hành chính.
Khác với Luật Hình sự xác định chủ thể tội phạm chỉ có thể là cá nhân,
trong Luật Hành chính, chủ thể vi phạm hành chính có thể là cá nhân hoặc tổ
chức; cá nhân hoặc tổ chức chỉ có thể trở thành chủ thể của vi phạm hành
chính khi có năng lực trách nhiệm pháp lý hành chính.
Cá nhân là chủ thể của vi phạm hành chính bao gồm cơng dân Việt
Nam và người nước ngồi (trừ những người được hưởng quyền ưu đãi, miễn
trừ ngoại giao và lãnh sự) mà thực hiện hành vi vi phạm hành chính trên lãnh

thổ Việt Nam, vùng đặc quyền kinh tế, vùng tiếp giáp lãnh hải. Những người
này phải có năng lực trách nhiệm hành chính. Năng lực trách nhiệm pháp lý
hành chính thể hiện khả năng nhận thức của con người với hành vi vi phạm,
vì thế một cá nhân khi có hành vi vi phạm hành chính sẽ trở thành chủ thể
của vi phạm hành chính khi có hai yếu tố: Đạt độ tuổi theo quy định của
pháp luật, không mắc bệnh làm mất khả năng nhận thức của hành vi. Điều 5
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 xác định đối tượng bị xử phạt
hành chính là cá nhân bao gồm: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử
phạt hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên
bị xử phạt hành chính về mọi hành vi vi phạm hành chính do mình gây ra.
Người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vi phạm
hành chính thì bị xử lý như đối với cơng dân khác; trường hợp cần áp dụng
hình thức phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc
đình chỉ hoạt động có thời hạn liên quan đến quốc phịng, an ninh thì người
xử phạt đề nghị cơ quan, đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân có
thẩm quyền xử lý.
17


Mặt khác, tại các Điều 90, 92, 94 và 96 của Luật Xử lý vi phạm hành
chính năm 2012 quy định các cá nhân từ đủ 12 tuổi trở lên, tùy theo tính
chất, mức độ hành vi vi phạm hành chính bị áp dụng biện pháp xử lý hành
chính như: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. [25]
Đối với tổ chức: tổ chức là chủ thể đặc biệt của vi phạm hành chính bao
gồm: cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế. Cơ quan, tổ chức
nước ngồi nếu vi phạm hành chính trong phạm vi lãnh thổ, vùng tiếp giáp
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam; trên tàu bay
mang quốc tịch Việt Nam, tàu biển mang cờ quốc tịch Việt Nam thì bị xử
phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường

hợp tổ chức được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao.
Cuối cùng, khách thể của vi phạm hành chính là các quan hệ xã hội
được các quy tắc quản lý nhà nước bảo vệ. Các quan hệ xã hội bị hoặc có thể
bị vi phạm hành chính xâm phạm rất đa dạng, đó là: trật tự nhà nước và xã
hội, sở hữu xã hội chủ nghĩa, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân,...
Khách thể của vi phạm hành chính được chia thành các loại sau:
Khách thể chung: đó là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản
lý nhà nước, hay nói cách khác là trật tự quản lý nhà nước nói chung.
Khách thể loại: là những quan hệ xã hội có cùng hoặc gần tính chất với
nhau trong từng lĩnh vực nhất định của quản lý nhà nước. Các quan hệ này
được phát sinh trong cũng một lĩnh vực hoạt động quản lý nhà nước, do vậy
chúng có mối liên hệ với nhau, gắn liền với từng phạm vi quản lý nhà nước.
Khách thể trực tiếp: là quan hệ xã hội cụ thể được pháp luật quy định và
bảo vệ, bị chính hành vi vi phạm hành chính xâm hại tới.
1.1.2. Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng
Lĩnh vực xây dựng là một lĩnh vực phức tạp, nhiều biến động và được nhà
nước quản lý chặt chẽ bằng các quy định pháp luật với nhiều hình thức khác
nhau. Xây dựng là một quy trình thiết kế và thi cơng nên các cơ sở hạ tầng
18


hoặc cơng trình, nhà ở. Hoạt động xây dựng khác với hoạt động sản xuất ở
chỗ sản xuất tạo một lượng lớn sản phẩm với những chi tiết giống nhau, còn
xây dựng nhắm tới những sản phẩm tại những địa điểm dành cho từng đối
tượng khách hàng riêng biệt. Tại những nước phát triển, ngành cơng nghiệp
xây dựng đóng góp từ 6-9% tổng sản phẩm nội địa. Hoạt động xây dựng bắt
đầu bằng việc lên kế hoạch, thiết kế, lập dự tốn và thi cơng tới khi dự án
hồn tất và sẵn sàng đưa vào sử dụng. [14, tr.8-10]
Các công trình xây dựng vi phạm trật tự xây dựng gồm:
- Cơng trình xây dựng theo quy định của pháp luật phải có Giấy phép

xây dựng mà khơng có Giấy phép xây dựng.
- Cơng trình xây dựng sai nội dung Giấy phép xây dựng được cơ quan
có thẩm quyền cấp.
- Cơng trình xây dựng sai thiết kế được cấp có thẩm quyền thẩm định
phê duyệt; sai quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt (đối với cơng
trình xây dựng được miễn Giấy phép xây dựng).
- Cơng trình xây dựng có tác động đến chất lượng cơng trình lân cận;
ảnh hưởng đến môi trường, cộng đồng dân cư.
Tại các dự án xây dựng cơng trình có thể xảy ra các hành vi vi phạm
trong hoạt động xây dựng. Hoạt động xây dựng bao gồm: lập quy hoạch xây
dựng, lập dự án đầu tư xây dựng cơng trình, khảo sát xây dựng, thiết kế xây
dựng, thi công xây dựng, giám sát xây dựng, quản lý dự án, lựa chọn nhà
thầu, nghiệm thu, bàn giao đưa cơng trình vào khai thác sử dụng, bảo hành,
bảo trì cơng trình xây dựng và hoạt động khác có liên quan đến cơng trình
xây dựng. Nghị định 121/2013/NĐ-CP đã xác định các nhóm hành vi vi
phạm hành chính trong hoạt động xây dựng là:
+ Nhóm hành vi vi phạm hành chính đối với chủ đầu tư xây dựng;
+ Nhóm hành vi vi phạm hành chính đối với nhà thầu xây dựng;
+ Nhóm hành vi vi phạm hành chính đối với tổ chức, cá nhân khác.
Một là, nhóm hành vi vi phạm hành chính đối với chủ đầu tư xây dựng
19


Trong hoạt động xây dựng, một trong những chủ thể của hoạt động này
là chủ đầu tư xây dựng. Đây là chủ thể quan trọng nhất, quyết định đến mục
đích, yêu cầu của hoạt động xây dựng.
Chủ đầu tư xây dựng cơng trình là người sở hữu vốn hoặc là người
được giao quản lý và sử dụng vốn để đầu tư xây dựng cơng trình. Chủ đầu tư
có thể là tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc nước ngoài. [4, tr.3-5]
Những hành vi vi phạm của chủ đầu tư xây dựng cơng trình là:

- Vi phạm về quy định khảo sát xây dựng;
- Vi phạm quy định về lưu trữ, điều chỉnh quy hoạch xây dựng;
- Vi phạm quy định về lập dự án đầu tư xây dựng cơng trình;
- Vi phạm quy định về thiết kế, dự toán xây dựng cơng trình;
- Vi phạm quy định về quản lý dự án đầu tư xây dựng cơng trình;
- Vi phạm quy định về đầu tư phát triển đô thị;
- Vi phạm quy định về khởi cơng xây dựng cơng trình;
- Vi phạm quy định về tổ chức thi công xây dựng;
- Vi phạm quy định về giải phóng mặt bằng xây dựng cơng trình;
- Vi phạm quy định về giám sát thi cơng xây dựng cơng trình;
- Vi phạm quy định về quản lý chất lượng cơng trình xây dựng;
- Vi phạm quy định về bảo hành, bảo trì cơng trình xây dựng;
- Vi phạm quy định về nghiệm thu, thanh tốn khối lượng hồn thành
và quyết tốn cơng trình xây dựng đối với cơng trình sử dụng vốn nhà nước;
- Vi phạm quy định về đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo
Luật Xây dựng;
- Vi phạm quy định về quản lý dự án đầu tư xây dựng cơng trình của
nhà thầu tư vấn quản lý dự án đầu tư xây dựng cơng trình.
Nhóm hành vi vi phạm hành chính đối với nhà thầu xây dựng
Nhà thầu trong hoạt động đầu tư xây dựng (gọi là nhà thầu) là tổ chức,
cá nhân có đủ điều kiện năng lực hoạt động xây dựng, năng lực hành nghề
xây dựng khi tham gia quan hệ hợp đồng trong hoạt động đầu tư xây dựng
20


(Khoản 28, Điều 3, Luật Xây dựng năm 2014). Nhà thầu là một chủ thể tham
gia vào hoạt động xây dựng với vai trò là người thực hiện ở các khâu thiết kế
cơng trình xây dựng và thi cơng cơng trình xây dựng theo hợp đồng thỏa
thuận với chủ đầu tư xây dựng. Các hành vi vi phạm hành chính của nhà thầu
gồm:

- Vi phạm quy định về điều kiện hoạt động xây dựng, năng lực hành
nghề xây dựng;
- Vi phạm nội dung hồ sơ dự thầu;
- Vi phạm quy định về quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, tiêu chuẩn được áp
dụng, sử dụng số liệu, tài liệu trong hoạt động xây dựng;
- Vi phạm quy định về khảo sát xây dựng;
- Vi phạm quy định về công tác lập quy hoạch xây dựng;
- Vi phạm quy định về lập thiết kế, dự tốn xây dựng cơng trình;
- Vi phạm quy định về thi công xây dựng;
- Vi phạm quy định về an tồn trong thi cơng xây dựng cơng trình;
- Vi phạm quy định về quản lý chất lượng cơng trình xây dựng;
- Vi phạm quy định về giám sát thi cơng xây dựng cơng trình;
- Vi phạm quy định về nghiệm thu, thanh tốn khối lượng cơng trình
xây dựng;
- Vi phạm của nhà thầu nước ngoài tham gia hoạt động xây dựng tại
Việt Nam;
Nhóm hành vi vi phạm hành chính đối với tổ chức, cá nhân khác
Những hành vi vi phạm hành chính đối với tổ chức, cá nhân trong hoạt
động xây dựng, gồm:
- Vi phạm quy định về ngừng cung cấp điện, cung cấp nước đối với
công trình vi phạm trật tự xây dựng;
- Vi phạm quy định về thẩm tra, kiểm định, thí nghiệm, đào tạo trong
hoạt động xây dựng.

21


Trên cơ sở định nghĩa về vi phạm hành chính (Khoản 1, Điều 2, Luật
Xử lý vi phạm hành chính năm 2012) thì có thể hiểu: vi phạm hành chính
trong lĩnh vực xây dựng là các hành vi vi phạm pháp luật về hoạt động xây

dựng do tổ chức, cá nhân thực hiện cố ý hoặc vô ý nhưng chưa đến mức bị
truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy
định của pháp luật.
1.1.3. Đặc điểm vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng có đặc điểm vi phạm hành
chính nói chung, bên cạnh đó nó cũng có những đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, xuất phát từ tính đa dạng và phong phú của các hoạt động xây
dựng nên vi phạm hành chính trong lĩnh vực này được pháp luật quy định có
đặc điểm khá rộng và đa dạng. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng
được biểu hiện là những hành vi vi phạm của cá nhân hoặc tổ chức, có tính
đa dạng, phức tạp. Có thể được phân loại thành các nhóm: về chủ thể vi
phạm, loại cơng trình xây dựng, quy trình xây dựng...
Thứ hai, tính lỗi cố ý chi phối đa số vi phạm trong lĩnh vực xây dựng:
vi phạm hành chính trong lĩnh vực này cũng cần phải xem xét đến năng lực
nhận thức trách nhiệm pháp lý và trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành
vi trái pháp luật mà chủ thể vi phạm. Tuy nhiên, hoạt động xây dựng là một
hoạt động đặc thù, phức tạp, đa dạng với nhiều hình thức khác nhau, nó diễn
ra ở nhiều khâu và cần tuân thủ quy trình về các quy chuẩn kỹ thuật nhất
định, mang tính tư duy cao. Các chủ thể (cá nhân hoặc tổ chức) có kế hoạch
cụ thể, tính tốn kỹ lưỡng quy trình khi tham gia hoạt động xây dựng để đạt
được mục đích. Do đó, các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng có năng lực
hành vi nhận thức trách nhiệm pháp lý. Dưới góc độ trạng thái tâm lý của
chủ thể trong khi tham gia hoạt động xây dựng thì tùy vào điều kiện, hồn
cảnh thực hiện hành vi của chủ thể để có thể xác định tính có lỗi của hành vi
vi phạm.

22


Tính có lỗi của hành vi vi phạm trong lĩnh vực xây dựng rất phức tạp và

đa dạng. Nó vừa có tính cố ý cao, vừa có tính che giấu hành vi vi phạm. Chủ
thể nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, khơng được thực hiện,
nếu thực hiện sẽ bị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, xử phạt
nhưng vẫn cố tình thực hiện và tìm mọi cách để tránh né việc kiểm tra, phát
hiện. Đồng thời lợi dụng những kẽ hở của pháp luật để lách luật, sự yếu kém,
chậm trễ, thiếu sót của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để hạn chế việc
bị xử phạt vi phạm hành chính.
Ngồi ra, các chủ thể khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính đã tính
tốn và chấp nhận rủi ro khi bị cơ quan chức năng có thẩm quyền kiểm tra,
xử phạt vi phạm hành chính để bất chấp thực hiện cơng trình vi phạm xây
dựng và tồn tại. Trường hợp này thường xảy ra đối với cơng trình xây dựng
sai giấy phép, sai thiết kế được phê duyệt; chủ thể vi phạm chấp nhận chịu
mức phạt tiền mà pháp luật quy định. Đối với cơng trình xây dựng khơng
phép, chủ thể vi phạm còn chấp nhận rủi ro thiệt hại vì cơng trình vi phạm có
thể bị xử lý cưỡng chế dỡ bỏ, buộc khôi phục lại hiện trạng ban đầu.
Thứ ba, tính nguy hiểm đối với xã hội của hành vi vi phạm: vi phạm
hành chính trong lĩnh vực xây dựng không chỉ ảnh hưởng trên cơ sở thiệt hại
thực tế mà còn ảnh hưởng đến trật tự quản lý về xây dựng đã được pháp luật
về xây dựng điều chỉnh, xâm phạm, ảnh hưởng đến các quan hệ đã được
pháp luật quy định.
Từ tính đa dạng, phong phú và phức tạp của các hoạt động xây dựng thì
phạm vi bảo vệ trật tự an tồn xây dựng cũng có đặc điểm khá rộng và đa
dạng. Đặc điểm này được thể hiện ở các quy định của Luật Xây dựng năm
2014 và Nghị định số 121/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản; khai thác, sản
xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý cơng trình hạ tầng kỹ thuật;
quản lý phát triển nhà và công sở.

23



Một vấn đề quan trọng khi nghiên cứu vi phạm hành chính trong lĩnh
vực xây dựng đó là việc phân định giữa vi phạm hành chính và vi phạm hình
sự về xây dựng khác nhau về: chủ thể, mức độ nguy hiểm, tính trái pháp luật.
Dưới góc độ khoa học pháp lý hình sự có thể hiểu: vi phạm hình sự về
xây dựng là các hành vi vi phạm trong các lĩnh vực khảo sát, thiết kế, thi
công, sử dụng ngun liệu, vật liệu, máy móc, nghiệm thu cơng trình hay các
lĩnh vực khác gây nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự
Việt Nam, xâm hại tới các quan hệ xã hội về đảm bảo an tồn xây dựng.
Điều 229, Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định:
“Tội vi phạm quy định về xây dựng gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng có
hình phạt tù cao nhất là hai mươi năm. Người phạm tội cịn có thể bị phạt
tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.
Điều 270, Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định:
“Tội vi phạm các quy định về quản lý nhà ở có hình phạt tù cao nhất là hai
năm”.
Điểm khác nhau giữa vi phạm hành chính và vi phạm hình sự trong lĩnh
vực xây dựng là mức độ nguy hiểm gây hại cho xã hội của hành vi. Hành vi
vi phạm hành chính về xây dựng ít gây nguy hiểm cho xã hội hơn so với vi
phạm hình sự về xây dựng. Để xác định mức độ nguy hiểm khác nhau cho xã
hội của vi phạm hành chính và vi phạm hình sự trong lĩnh vực xây dựng nói
chung, có thể dựa trên những tiêu chí: Chủ thể, mức độ, tính trái pháp luật,
lỗi, động cơ, mục đích.
Việc xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính và vi phạm hình sự về
xây dựng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn trong công tác đảm bảo trật
tự an toàn xây dựng. Việc xác định thiếu chính xác các hành vi có thể là
bước ngoặt cho những sai phạm trong quá trình áp dụng pháp luật của các cá
nhân, tổ chức có thẩm quyền. Phạm vi luận văn tập trung vào nội dung chính
là hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng trên địa

24


bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Tức là tiếp cận vấn đề dưới góc độ
hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước.
1.2. Khái niệm và đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực xây dựng
1.2.1. Khái niệm của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây
dựng
Để tìm hiểu khái niệm về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
xây dựng thì cần làm rõ khái niệm về xử phạt vi phạm hành chính. Hoạt
động xử phạt vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và
các biện pháp khắc phục hậu quả.
Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính bao gồm: “Cảnh cáo; Phạt
tiền; Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc
đình chỉ hoạt động có thời hạn; Tịch thu tang vật vi phạm hành chính,
phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính (sau đây gọi chung là tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính); Trục xuất” (Theo Khoản 1, Điều 21,
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012).
Các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Khoản 1, Điều 28, Luật
Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 :
“Buộc khơi phục lại tình trạng ban đầu;
Buộc tháo dỡ cơng trình, phần cơng trình xây dựng khơng có giấy phép
hoặc xây dựng không đúng với giấy phép;
Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ơ nhiễm mơi trường, lây
lan dịch bệnh;
Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện;
Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật
nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại;

Buộc cải chính thơng tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn;

25


×