Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ SẢN PHẨM AN SINH GIÁO DỤC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.89 KB, 34 trang )

KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ SẢN PHẨM
AN SINH GIÁO DỤC
I. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ (BHNT).
Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông với một số ít trong số họ phải
gánh chịu những rủi ro. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi vào lịch
sử là năm 1583, ở thị trường Luân đôn một nhóm người đã thoả thuận góp tiền và
số tiền này sẽ được trả cho người nào trong số họ bị chết trong 1 năm. Đây cũng là
mầm mống của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ (BHNT).
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh
hàng ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy
cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro do nhiều nguyên nhân, ví dụ
như:
- Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, hạn hán...
- Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học kỹ thuật. Khoa học kỹ
thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản5 xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc
sống con người nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai nạn bất ngờ như tai nạn ôtô,
hàng không , tai nạn lao động...
- Các rủi ro do môi trường xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra
rủi ro cho con người, khi xã hội càng phát triển thì con người càng có nguy cơ gặp
nhiều rủi ro như thất nghiệp, tệ nạn xã hội, lạm phát...
Bất kể là do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người
những khó khăn trong cuộc sống như nguy hại đến bản thân, hao tổn tài chính gia
đình... làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội. Để đối phó với những rủi ro con
người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục những
hậu quả do rủi ro gây ra. Đó là nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro.
+ Nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi ro,
ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử dụng để
ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro. Tuy nhiên là biện pháp này đã
giúp chúng ta ngăn chặn và giảm thiểu rất nhiều rủi ro trong cuộc sống nhưng khi
rủi ro xảy ra chúng ta không ngăn ngừa hết được hậu quả.


+ Nhóm các biện pháp tài trợi rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro
và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục
đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có. Khi chấp nhận rủi ro
thì con người phải đối phó với những khó khăn không những cho bản thân mà còn
về mặt tài chính của gia đình nữa cho nên bảo hiểm là phương pháp tốt hơn để đối
phó với rủi ro. Bảo hiểm là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi
ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm cảu các nhà quản lý rủi ro,
bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã hội bảo
hiểm không chỉ chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do việc tập trung một
số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về các tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo
hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, có hiệu quả nhất.
Như vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc sống con người.
Sự ra đời và phát triển của BHNT đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự
phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia BHNT trở thành một
nhu cầu tất yếu của người dân các nước phát triển cũng như các nước đang phát
triển. Ở châu Á, những năm gần đây BHNT phát triển hết sức mạnh mẽ, thực hiện
chức năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, tạo nguồn đầu tư dài hạn cho
sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất
cao. Theo số liệu của Thời báo kinh tế thì trong năm 2001 doanh thu phí BHNT đạt
2500 tỷ đồng, chiếm 0,55% GDP. BHNT giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà
nước, góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề
giáo dục...Hiện nay hầu hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia BHNT
nhằm duy trì hoạt động của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi ro trong trường
hợp người chủ công ty phải ngừng làm việc do tử vong hoặc thương tật toàn bộ
vĩnh viễn.
Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện đường lối
đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng
phấn khởi và có ý nghĩa rất quan trọng. Đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài,
tạo ra được những cơ sở vật chất thuận lợi cho sự nghiệp phát triển đất nước, cho
phép chúng ta chuyển sang thời kỳ mới: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá

vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội văn minh".
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến 9% và tốc độ tiêu
dùng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì tiết kiệm trong dân sẽ không ngừng
tăng cả về số tuyệt đối và tỷ trọng so với GDP. Đa số với người dân, ngoài khả
năng gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng thì thường rất ít khả năng để đầu tư những
khoản tiền nhàn rỗi. Như vậy cùng với việc tăng nhanh số lượng và tỷ lệ tiết kiệm
trong dân, nhà nước cần phải có giải pháp, chính sách và công cụ để huy động
mạnh nguồn vốn trong dân cho đầu tư phát triển.
BHNT từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ BHNT hỗn hợp mang tính
chất vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được một lượng vốn không
nhỏ trong dân. Tuy bước đầu, lượng người tham gia bảo hiểm chưa lớn, số hợp
đồng tham gia ở mức trách nhiệm cao cũng chưa nhiều, nhưng đã mở ra thêm cho
người dân một cách thức tiết kiệm mới đồng thời góp phần vào phát triển nguồn
vốn, tăng đầu tư cho đất nước.
2. Vai trò và vị trí của BHNT
2.1. Vai trò của BHNT
Để đánh giá được đầy đủ ý nghĩa và vai trò của BHNT, trước hết chúng ta
cần hiểu rõ khái niệm về BHNT:
Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia
bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ
hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định
trước xảy ra (người được bảo hiềm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất định)
còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác,
BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi
thọ con người.
BHNT ra đời có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi
quốc qia:
Thứ nhất: BHNT góp phần ổn định tài chính cho người tham gia hoặc
người được hưởng quyền lợi bảo hiểm.
Nhắc đến BHNT là phải nhắc đến vai trò đầu tiên này, rủi ro là cái không thể

lường trước trong cuộc sống mỗi con người, xã hội càng phát triển càng có nhiều
cơ hội nhưng cũng đồng nghĩa với có nhiều rủi ro đe doạ cuộc sống con người dẫn
đến những bất ổn về tài chính cho cá nhân gia đình cũng như xã hội. Khi rủi ro
chẳng may xảy ra, nếu tham gia BHNT thì bản thân hoặc người thân, gia đình của
bạn sẽ dược đảm bảo về mặt tài chính bù đắp phần nào những tổn thất do rủi ro gây
ra. Còn khi rủi ro không xảy ra, thông qua một số loại hình sản phẩm khác như bảo
hiểm trợ cấp hưu trí, bảo hiểm hỗn hợp.. người tham gia vẫn nhận được số tiền bảo
hiểm cùng với lãi để sử dụng cho nhu cầu ngày càng cao của con người.
Thứ hai: BHNT góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và
tăng thêm quyền lợi cho người lao động.
Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, hàng năm ngân sách Nhà nước phải chi ra
một lượng tiền khá lớn để chi trả cho các cá nhân, công ty gặp rủi ro dưới hình
thức trợ cấp (trợ cấp ốm dau trợ cấp mất việc làm..). Các khoản chi này vừa làm
thâm hụt ngân sách Nhà nước, đôi khi lại còn gây tâm lý ỷ lại không cố gắng vì đã
có người khác chịu trách nhiệm giúp mình đối với cả cá nhân cũng như tổ chức.
Ngày nay khi BHNT ra đời, người tham gia đã có thể tự bảo vệ cho mình, chủ
động đối phó với các rủi ro đồng thời tạo ra một khoản tiết kiệm (không may rủi ro
xảy ra, bên cạnh các chế độ bảo hiểm y tế, BHXH người lao động còn được hưởng
quyền lợi từ BHNT nếu họ tham gia). Bên cạnh đó, tham gia bảo hiểm hưu trí tụ
nguyện người lao động còn được hưởng khoản trợ cấp hưu trí, tụ lo được cho bản
thân giảm gánh nặng cho gia đình cũng như xã hội.
Thứ ba: BHNT là công cụ thu hút vốn đầu tư hữu hiệu.
Phí trong BHNT khá lớn, nhờ vào những đặc trưng cũng như quyền lợi to lớn khi
tham gia BHNT mà ngày nay người ta ngày càng quan tâm đến BHNT, từ đó mà
lượng vốn được huy động từ dân chúng được tăng lên. Việt Nam đang trong thời
kỳ đổi mới “Công nghiệp hoá - hiện đại hoá” đất nước để phục vụ cho sự phát triển
kinh tế phảI có một lượng vốn đầu tư rất lớn. Chính vì nhận thức được tầm quan
trọng của BHNT nên tuy mới ra đời được 5 năm nhưng Nhà nước ta đã liên tục có
những chính sách để tạo điều kiện cho BHNTngày một phát triển mà bước tiến
quan trọng là sự cho phép các công ty BHNT nước ngoài tham gia vào thị trường

BHNT Việt Nam và sự ra đời của Luật Bảo hiểm ngày 7/12/2000. Đây là một
trong các biện pháp của Nhà nước nhằm tạo ra các nguồn vốn dồi dào cho đầu tư
phát triển Đất nước với chủ trương là chủ yếu dựa vào nguồn nội lực và tranh thủ
nguồn ngoại lực, chúng ta có quyền hy vọng thông qua BHNT có thể trong thời
gian tới dần dần sẽ thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư vì lượng tiền này
được dự kiến sẽ lên tới hơn 10 tỷ (được dự trữ dưới dạng ngoại tệ cũng như vàng).
Ngoài ra, khi các công ty BHNT nước ngoài tham gia vào thị trường BH Việt Nam
nguồn vốn do họ đầu tư vào cũng sẽ rất lớn. Thêm vào đó, do đặc điểm của BHNT
là mang tính dài hạn, nguồn vốn huy động được có thể đem đầu tư trong một thời
gian dài đây là đựoc coi là nguồn vốn tuyệt vời nhất cho các dự án kinh tế lớn.
Thứ tư: BHNT tạo ra một số lượng lớn công ăn việc làm cho người lao
động.
Với dân số gần 80 triệu lại là dân số trẻ, hàng năm riêng số lượng sinh viên
ra trường cũng là cả một thách thức đối với xã hội, việc làm luôn là vấn đề nóng
bỏng khi mà lượng người không có việc làm ngày càng nhiều và trong đó ngoài
những người không có trình độ thì cũng có rất nhiều người có trình độ không được
sử dụng đúng mục đích. Hoạt động BHNT cần một mạng lưới rất lớn các đại lý
khai thác bảo hiểm, đội ngũ nhân viên tin học, tài chính, kế toán, quản lý kinh tế...
Vì vậy, phát triển BHNT đã góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm bớt số
lượng người thất nghiệp, bớt đi gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Cứ nói riêng ở
công ty BHNT Hà Nội, với số lượng cán bộ khai thác ở mỗi phòng lên đến trên
dưới 50 người, riêng nội thành đã có 16 phòng khai thác, đa số đấy đều là các cán
bộ chuyên nghiệp chưa kể đến các đại lý bán chuyên nghiệp rải rác ở từng quận
huyện, ngoài ra BHNT còn có 60 công ty khác ở khắp các quận huyện trong cả
nước.
Thứ năm: BHNT là biện pháp đầu tư hợp lý cho giáo dục và góp phần tạo
nên một tập quán, một phong cách sống mới.
Đối với những nước đang phát triển, đầu tư cho giáo dục là rất quan trọng và
phải coi là nền tảng của sự phát triển. Tuy nhiên khi chi phí cho giáo dục ngày một
tăng thì nguồn lực của các nước này lại rất hạn hẹp, bên cạnh các biện pháp hỗ trợ

giáo dục như kêu gọi đóng góp, viện trợ của các cơ quan trong vá ngoài nước, cho
sinh viên vay vốn tín dụng đều mang tính nhất thời, không ổn định, tham gia BH
An sinh giáo dục là một biện pháp hợp lý để đầu tư cho việc học hành của con em
nhờ tiết kiệm thường xuyên của gia đình. Đây cũng là giải pháp góp phần xây
dựng mục tiêu công bằng xã hội vì đầu tư cho tương lai con em mình không chỉ là
trách nhiệm của Xã hội mà còn là trách nhiệm của từng gia đình.
Ngoài ra, tham gia BHNT còn thể hiện một nếp sống đẹp thông qua việc tạo
cho mỗi người thói quen biết tiết kiệm, biết lo lắng cho tương lai của người thân,
đồng thời giáo dục con em mình cũng biết tiết kiệm và sống có trách nhiệm đối với
người khác.
Tham gia BHNT vừa tạo quyền lợi cho chính mình vừa tạo quyền lợi cho
người thân đồng thời đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Con người là nhân tố
quyết định sự phát triển. Do vậy, việc thực hiện chiến lược, chính sách về con
người là vô cùng quan trọng, thực hiện BHNT chính là thực hiện chiến lược phát
triển toàn diện con người của Đảng và Nhà nước.
Có thể nói, BHNT đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết một số vấn đề xã hội
như giáo dục, xoá đói giảm nghèo, giảm thất nghiệp bù đắp tổn thất, bất hạnh trong
cuộc sống, góp phần giảm gánh nặng trách nhiệm xã hội đối với người lao động,
người cao tuổi....
2.2 Vị trí của BHNT trong lĩnh vực bảo hiểm.
2.2.1 BHNT là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời sớm nhất
Bảo hiểm thương mại trên thế giới đã có lịch sử phát triển hơn 500 năm. Bảo
hiểm hoạt động trên nguyên tắc “số đông bù số ít” đó là sự chia sẻ rủi ro giữa một
số đông và một vài người trong số họ chẳng may gặp phải rủi ro. Bảo hiểm ra đời
là một biện pháp hữu hiệu để xử lý các rủi ro tồn tại khách quan. Tham gia bảo
hiểm đang ngày càng trở thành một tác nghiệp không thể thiếu được đối với các
chủ doanh nghiệp, một thói quen tốt trong dân chúng.
Ban đầu bảo hiểm chỉ dừng lại ở một số hình thúc như bảo hiểm hoả hoạn,
bảo hiểm hàng hải.. Đến nay, bảo hiểm đã phát triển rất mạnh mẽ với những loại
hình bảo hiểm hết sức phong phú và đa dạng. Một trong các loại hình bảo hiểm ra

đời khá lâu là BHNT với lịch sử phát triển 400 năm, nó đang ngày càng chứng tỏ
vị thế của mình trong thị trường bảo hiểm nói chung.
2.2.2 BHNT ngày càng lớn mạnh và trở thành một bộ phận quan trọng không thể
thiếu được trên thị trường BH.
Thực tế cho thấy tốc độ phát triển của nghiệp vụ BHNT trên thế giới không
ngừng tăng và chiếm tỉ lệ lớn doanh thu trong tổng doanh thu của các nghiệp vụ
BH. Tuy nhiên tốc độ phát triển của BHNT rất không đồng đều. Nếu như ở châu
Mỹ Latinh phí BH từ hoạt động kinh doanh BHNT rất thấp, chỉ chiếm khoảng
21,4% thì ở châu Âu phí BHNT đạt tỉ lệ cân đối trong khoảng từ 41,8% - 49,3%
còn tỉ lệ phí BHNT ở châu Đại đương chiếm 52,3% trong toàn bộ doanh thu phí
nghiệp vụ BH.
Tóm lại, dù đứng trên giác độ khách quan hay chủ quan chúng ta cũng phải
thừa nhận rằng BHNT vẫn ngày càng phát triển và khẳng định vị trí quan trọng của
mình trong thị trường BH nói riêng và trong nền kinh tế của các quốc gia, nền kinh
tế thế giới nói chung.
3. Những đặc điểm cơ bản của BHNT.
3.1 BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro.
Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với BH phi
nhân thọ, tham gia BHNT người mua có trách nhiệm nộp phí BH cho người BH
theo định kỳ đồng thời người bảo hiểm cũng có trách nhiệm trả một số tiền lớn
(STBH) cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thoả thuận khi có các sự kiện
bảo hiểm xảy ra. Số tiền bảo hiểm này trả khi người được bảo hiểm sống đến một
độ tuổi nhất định, hoặc cho người thừa hưởng khi người được bảo hiểm tử vong
trong thời hạn được bảo hiểm. Số tiền này không thể bù đắp về mặt tình cảm
nhưng bù đắp phần nào những tổn thất về mặt tài chính.
Tính tiết kiệm trong bảo hiểm thể hiện ở ngay trong từng cá nhân, gia đình
một cách thường xuyên, có kế hoạch và có kỷ luật. Tiết kiệm bằng cách mua bảo
hiểm khác với các loại hình tiết kiệm khác ở chỗ, người bảo hiểm không những
tích luỹ về mặt tài chính mà còn mang tính bảo vệ cho bản thân, khi có rủi ro xảy
ra cho bản thân thì vẫn được đảm bảo về mặt tại chính, dó chính là đặc điểm cơ

bản của BHNT mà các loại hình tiết kiệm khác không có dược. Điều này giải thích
tại sao nói bảo hiểm vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính bảo vệ.
3.2 BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo
hiểm.
Khác với nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một mục đích
là góp phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia BH gặp rủi ro, BHNT do
vừa mang tính bảo vệ vừa mang tính tiết kiệm đã đáp ứng được nhiều mục đích
khác nhau của con người, mỗi mục đích được thể hiện khá rõ trong từng sản phẩm
bảo hiểm. Chẳng hạn như Bảo hiểm An hưỏng hưu trí sẽ đáp ứng yêu cầu của
người được bảo hiểm là có một khoản tiền góp phần ổn định cuộc sống khi họ về
hưu, bảo hiểm An gia thịnh vượng đáp ứng yêu cầu của người tham gia là có được
một khoản tiền lớn sau một thời gian ấn định trước... Ngoài ra, hợp đồng BHNT
đôi khi còn có vai trò như một vật thế chấp để vay vốn khi người tham gia bảo
hiểm gặp những khó khăn về mặt tài chính, thủ tục cho vay được công ty bảo hiểm
giải quyết rất nhanh gọn không như đi vay vốn ngân hàng hơn nữa số tiền cho vay
này có thể trả hay không trả lại cho công ty BH (tất nhiên số tiền cho vay được giới
hạn theo quy định trong hợp đồng bảo hiểm).
Chính vì đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau mà BHNT đang có thị
trường ngày càng rộng rãi và được nhiều người quan tâm.
3.3 Các hợp đồng trong BHNT rất đa dạng
Tính đa dạng của các hợp đồng BHNT xuất phát từ mục đích của người
tham gia và từ các sản phẩm bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Mỗi sản phẩm của
công ty thiết kế ra là để phù hợp với từng đối tượng tham gia khác nhau, cho nên
bất cứ ai cũng có thể tham gia bảo hiểm và có được sản phẩm phù hợp với mục
đích của bản thân khi tham gia bảo hiểm.
3.4.Phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, vì vậy quá trình định phí
khá phức tạp.
Để đưa được sản phẩm BHNT đến với người tiêu dùng, người BH đã phải
bỏ ra rất nhiều chi phí để tạo ra sản phẩm bao gồm: chi phí khai thác, chi phí quản
lý hợp đồng... Tuy nhiên những chi phí đó mới chỉ là một phần để cấu tạo nên phí

BHNT, còn phần chủ yếu là phụ thuộc vào:
+ Độ tuổi của người tham gia bảo hiểm
+ Tuổi thọ bình quân của con người
+ Số tiền bảo hiểm
+ Thời hạn tham gia bảo hiểm
+ Phương thức thanh toán
+ Lãi suất đầu tư
+ Tỉ lệ lạm phát, thiểu phát của đồng tiền
......
Đối với sản phẩm BHNT, để định giá phí BHNT thì phải dựa trên từng vùng
địa lý, từng quốc gia, từng chế độ xã hội, tình hình kinh tế chính trị của mỗi nước
khác nhau là khác nhau. Hơn nữa còn phải nắm vững đặc trưng cơ bản của từng
loại sản phẩm, phân tích dòng tiền tệ, phân tích chiều hướng phát triển chung của
mỗi loại sản phẩm trên thị trường...
3.5 BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định.
Trên thế giới, BHNT đã ra đời hàng trăm năm nay nhưng cũng có những quốc
gia chưa triển khai được BHNT mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trò và lợi ích của
nó. Nguyên nhân của hiện tượng này được các nhà kinh tế giải thích rằng, cơ sở
chủ yếu để BHNT ra đời và phát triển là phải có những điều kiện kinh tế xã hội
nhất định:
- Những điều kiện về kinh tế
+ Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) phải đạt đến một mức
độ nhất định, thể hiện sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
+ Tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân đầu người phải đạt mức trung bình
trở lên.
+ Mức thu nhập của dân cư phải phát triển đến một mức độ nhất định để không
những đảm bảo nhu cầu tối thiểu của con người mà còn đáp ứng được những nhu
cầu cao hơn.
+ Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền phải tương đối ổn định
+ Tỷ giá hối đoái phải ổn định ở mức hợp lý thì người dân mới tin tưởng mà

đầu tư vào BHNT
.......
- Những điều kiện xã hội bao gồm:
Tình hình xã hội tương đối ổn định, không xảy ra nội chiến, bạo động. Một xã hội
phát triển ổn định thì người dân mới tin tưởng đầu tư cho những kế hoạch trung và
dài hạn.
Ngoài ra, môi trường pháp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự ra đời và
phát triển của BHNT. Ở Việt Nam trong thời gian gần đây, khi tình hình đất nước
ngày càng phát triển thì luật pháp cũng được sửa đổi sao cho phù hợp và tạo điều
kiện thuận lợi cho các ngành phát triển đặc biệt là những ngành mới như bảo hiểm.
4. Lịch sử ra đời của BHNT.
4.1. Trên thế giới:
Hình thức BHNT đầu tiên ra đời năm 1583 ở Luân đôn, người được bảo hiểm là
William Gybbon. Như vậy, BHNT có phôi thai từ rất sớm, nhưng lại không có điều
kiện phát triển ở một số nước do thiếu cơ sở kỹ thuật ngẫu nhiên, nó giống như một
trò chơi nên bị nhà thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng cuộc sống con người, nên
BHNT phải tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên sau đó do sự phát
triển kinh tế mạnh mẽ, cuộc sống của con người được cải thiện rõ rệt, thêm vào đó là
sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật nên bảo hiểm đã có điều kiện phát
triển trên phạm vi rộng lớn. Hợp đồng BHNT đầu tiên ra đời ở Philadenphia (Mỹ).
Công ty đó đến nay vẫn còn hoạt động nhưng ban đầu nó chỉ bán bảo hiểm cho các
con chiên ở nhà thờ của mình. Năm 1762, công ty BHNT Equitable ở Anh được
thành lập và bán BHNT cho mọi người dân.
Ở Châu Á, công ty BHNT đầu tiên ra đời ở Nhật Bản. Năm 1868 công ty bảo
hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, hai công ty khác là Kyoei và
Nippon ra đời và phát triển cho đến nay.
4.2.Tại Việt Nam
Ở nước ta, Công ty Bảo hiểm Việt Nam trước đây và Tổng công ty Bảo Hiểm
Việt Nam hiện nay (gọi tắt là BAOVIET) là doanh nghiệp Bảo hiểm đầu tiên của
Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, BAOVIET đã ra đời ngày 17/12/1964 và bắt

đầu hoạt động chính thức từ ngày 15/01/1965. Kể từ đó cho tới trước năm 1993, ở
nước ta chỉ có một doanh nghiệp bảo hiểm là Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam
(BAOVIET) trực thuộc Bộ Tài chínhTrong những năm gần đây, Đảng và Nhà
nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới về kinh tế, từng bước đưa nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, tạo ra tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển kinh tế mới, đẩy
mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ : “Khuyến khích
phát triển, đa dạng hoá hoạt động kinh doanh bảo hiểm cuả các thành phần kinh tế
và mở cửa hợp tác với nước ngoài...”. Đường lối đổi mới kinh tế, xây dựng nền
kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thi trường với định hướng xã hội chủ nghĩa
đã thể hiện trong lĩnh vực bảo hiểm thương mại, cụ thể là ngày 18/12/1993 Chính
phủ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã ban hành nghị định 100/CP về kinh
doanh bảo hiểm. Đây là văn bản pháp lý chuyên ngành đầu tiên đặt nền móng cho
pháp luật về bảo hiểm trong điều kiện kinh tế thị trường. Nghị định này là bước
ngoặt quan trọng tuyên bố chấm dứt sự độc quyền Nhà nước về kinh doanh bảo
hiểm tại Việt Nam. Theo nghị định này các doanh nghiệp bảo hiểm có thể là doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần, Hội bảo hiểm tương hỗ, công ty liên
doanh với nước ngoài, chi nhánh hay công ty 100% vốn nước ngoài. Và có thể nói
đây là thời kỳ bắt đầu của việc “tự do hoá” và mở cửa thị trường Việt Nam.
Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của BHNT, trong những
năm qua Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát triển nghiệp vụ Bảo hiểm.
Với sự ra đời của công ty BHNT chính thức đầu tiên ở Việt Nam năm 1996 đã
khẳng định rõ sự quan tâm của các cơ quan Nhà nước tầm vĩ mô. Mặc dù chúng ta
mới tiến hành nghiệp vụ BHNT hơn 5 năm, nhưng những gì BVNT Việt Nam đạt
được trong thời gian đó rất đáng ghi nhận. Tạo nên cho người dân Việt Nam một
phong tục sống mới, một hình thức tiết kiệm mới.
Năm 1999 với sự tham gia của một số công ty BHNT có vốn nước ngoài thị
trường BHNT Việt Nam đã trở nên sôi động hơn và phong phú hơn. Giúp cho
người dân có thể lựa chọn cho mình sản phẩm bảo hiểm phù hợp nhất. Cho đến

nay thì đã có 5 công ty BHNT hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đó là:
- Bảo Việt là công ty BHNT duy nhất ở Việt Nam có 100% vốn trong nước,
đồng thời có số vốn kinh doanh và thời gian hoạt động lâu nhất: vốn kinh
doanh là 55 triệu USD, phát hành hợp đồng đầu tiên ngày 01/8/1996, thời
gian hoạt động là không kỳ hạn
- Manulife là công ty 100% vốn nước ngoài của Canada khai trương hoạt
động 12/6/1999, vốn đăng ký kinh doanh là 10 triệu USD, thời gian hoạt
động 50 năm.
- Prudential là công ty 100% vốn nước ngoài của Anh quốc đây là công ty
BHNT đầu tư vào Việt Nam có số vốn lớn sau Bảo Việt 40 triệu USD, khai
trương hoạt động ngày 29/10/1999 và có thời gian hoạt động là 50 năm.
- Bảo Minh - CMG liên doanh giữa tập đoàn CMG (Australia) và Công ty bảo
hiểm TP Hồ Chí Minh (Bảo Minh) khai trương hoạt động ngày 12/10/1999,
vốn đăng ký kinh doanh 6 triệu USD, thời gian hoạt động 30 năm.
- AIA công ty Bảo hiểm 100% vốn nước ngoài của Mỹ khai trương hoạt động
22/2/2000, vốn đăng ký kinh doanh 10 triệu USD, thời gian hoạt động là 50
năm.

×