Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Vị trí và vai trò và tác dụng của hoạt động nhóm trong xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.09 KB, 7 trang )

Vị trí và vai trò và tác dụng của hoạt động nhóm trong xây dựng; và giá trị
của nó quá trình tổ chức làm bài tập thuyết trình trước lớp cùa sinh viên
ngành xây dựng.
I. Khái niệm nhóm: nhóm được hình thành bởi các nhân tố sau:
1. Tương tác:
Các nhóm viên giao tiếp với nhau bằng lời nói hay ngôn ngữ cơ thể. Những ngôn ngữ này đôi khi
có ý nghĩa lớn hơn lời nói cách ăn mặc, dáng đứng, nét mặt và cử chỉ phát ra những thông điệp. Có
sự giao tiếp khi người đáp ứng những thông đạt gửi đi. Tương tác phải hai chiều, sự tham gia tích
cực của cá nhân sẽ đem lại sự thỏa mãn và gắn bó với nhóm.
2. Chia sẻ mục tiêu:
Một tập hợp người không thể gọi là nhóm nếu họ không có cùng mục tiêu, nhiều khi là nhiều mục
tiêu.
Mục tiêu chính là động lực là kim chỉ nam cho họat động nhóm. Mục tiêu giúp giải quyết mâu
thuẫn và xác định đánh giá lề lối nhóm. Mục tiêu phải khả thi, nhận diện được và góp phần thực
hiện mục đích lâu dài của nhóm.
3. Hệ thống các quy tắc:
Đây chính là luật lệ hướng dẫn hành vi mà nhóm đặt ra. Những quy tắc này có thể được thông báo
chính thức, hoặc được nhóm viên mặc nhiên chấp nhận không cần hình thức. Sự tuân thủ quy tắc
sẽ giúp nhóm họat động tốt. Các quy tắc này có thể được áp đặt từ bên ngòai.
4. Vai trò:
Là khuôn mẫu các hành vi quen thuộc mà cá nhân phát triển để phục vụ nhóm. Các vai trò này từ
từ thành nếp tùy đặc tính về nhân cách và nhu cầu nhóm viên và đồng thời xuất phát từ nhu cầu,
đặc điểm của nhóm. Các vai trò luôn ở thế động tùy theo tình huống khác nhau. Một người có thể
đóng nhiều vai trò.
Thường trong nhóm nổi bật các vai trò sau:
Vai trò liên quan đến công tác phải hòan thành
Vai trò liên quan đến sự củng cố và duy trì nhóm
Vai trò Liên quan đến nhu cầu cá nhân của nhóm viên:
5. Hành vi trong nhóm:
Khi nhóm thực hiện nhiệm vụ có 3 lọai hành vi mà thành viên thường có:
Hành vi hướng về công tác


Hành vi củng cố nhóm
Hành vi cá nhân
II. Hoạt động nhóm với hiệu quả trong lĩnh vực xây dựng:
Xây dựng là cộng việc đòi hòi cần làm việc tập thể, kĩ năng hợp tác là vấn đề vô cùng quan trọng,
hiệu quả công việc và chất lượng là vấn đề hàng đầu. Đòi hỏi mỗi cá nhân cần có tinh thần hợp
tác,biết lắng nghe và đưa ra ý kiến giúp nâng cao công việc.
Kỹ năng làm việc nhóm
Nhóm làm việc là một loạt những thay đổi diễn ra khi một nhóm những cá nhân tập hợp lại và
hình thành một đơn vị hoạt động gắn kết và hiệu quả. Nếu hiểu rõ quá trình này, có thể đẩy mạnh
sự hoạt động của nhóm.
Có hai tập hợp kỹ năng mà một nhóm cần phải có:
-Kỹ năng quản trị
-Kỹ năng giao tiếp giữa các cá nhân
Và việc tăng cường hoạt động của một nhóm đơn giản chỉ là việc tăng cường nắm bắt những kỹ
năng này
Là một đơn vị tự quản, một nhóm phải đảm nhiệm một cách tập thể phần lớn những chức năng của
một người lãnh đạo nhóm. Ví dụ như tổ chức các cuộc họp, quyết định ngân quỹ, vạch kế hoạch
chiến lược, thiết lập mục tiêu, giám sát hoạt động... Người ta ngày càng nhận ra rằng thật là một
điều sai lầm khi trông đợi một cá nhân bất chợt phải đảm nhiệm vai trò quản lý mà không có sự trợ
giúp; trong một nhóm làm việc thì điều này càng trở nên đúng hơn. Ngay cả khi có những nhà
quản lý thực sự trong nhóm, đầu tiên họ cũng phải đồng ý với một phương thức và sau đó là thuyết
phục và đào tạo những người còn lại trong nhóm.
Là một tập hợp nhiều người, một nhóm cần phải ôn lại một số cung cách và kỹ năng quản lý cơ
bản. Và để tránh tình trạng không tuân lệnh và xung đột, người đó cần nắm được những cách thức
quản lý tốt và cả nhóm cần phải biết cách thực hiện những cách thức này mà không gây ra tình
trạng đối đầu thiếu tính xây dựng.
Thúc đẩy sự phát triển
Một thực tiễn thường thấy trong việc thúc đẩy sự phát triển của nhóm là chỉ định, và nếu cần thiết,
đào tạo một "người hỗ trợ nhóm". Vai trò của người này là liên tục tập trung sự chú ý của nhóm
vào hoạt động của nhóm và gợi ý những cơ cấu cũng như biện pháp hỗ trợ và phát huy những kỹ

năng làm việc nhóm. Tuy nhiên, điều này nhất định chỉ là một chiến lược ngắn hạn vì sự tồn của
một người hỗ trợ nhóm đơn lẻ có thể ngăn cản nhóm nhận những trách nhiệm chung cho hoạt
động của cả nhóm. Mục đích của bất kỳ một nhóm nào cũng là sự hỗ trợ được thực hiện bởi tất cả
các thành viên một cách công bằng và liên tục. Nếu trách nhiệm này mọi người được nhận biết và
thực hiện ngay từ đầu, sẽ tránh được giai đoạn Xung đột và nhóm sẽ phát triển thẳng lên giai đoạn
Bình thường hóa.
Sau đây là một loạt những gợi ý có thể giúp hình thành một nhóm làm việc. Chúng chỉ nên được
coi như những gợi ý; một nhóm sẽ làm việc với những biện pháp và phương thức riêng của mình.
- Trọng tâm
Hai trọng tâm cơ bản là nhóm và nhiệm vụ.
- Nếu có điều gì đó được quyết định, chính nhóm là nơi quyết định đó được sinh ra.
- Nếu có một vấn đề nào đó, nhóm sẽ giải quyết nó.
- Nếu một thành viên làm việc không đạt mức mong đợi, chính nhóm sẽ yêu cầu anh ta thay đổi.
- Nếu những xung đột cá nhân phát sinh, hãy nhìn chúng dưới góc độ nhiệm vụ.
- Nếu ban đầu có thiếu một cơ cấu hoặc mục đích trong công việc, hãy đặt chúng trên khía cạnh
nhiệm vụ.
- Nếu có những tranh cãi giữa những phương thực hành động khác nhau, hãy thảo luận chúng cũng
theo hướng nhiệm vụ.
- Làm minh bạch
Trong bất kỳ công tác quản lý nào, tính minh bạch của các tiêu chí là cực kỳ quan trọng trong
nhóm làm việc, điều đó thậm chí còn trở nên quan trọng hơn rất nhiều. Giả sử rằng có 80% xác
suất một cá nhân có thể hiểu được nhiệm vụ một cách rõ ràng (một tỷ lệ rất cao). Nếu có 8 thành
viên trong nhóm, lúc đó xác suất của toàn bộ nhóm làm việc với cùng một nhiệm vụ chỉ là 17%.
Và tất cả những quyết định và hành động trong suốt thời gian tồn tại của nhóm đều có chung một
nguyên nhân như vậy.
Trách nhiệm đầu tiên của nhóm là xác định một cách rõ nhiệm vụ của mình và ghi lại nó để luôn
xem xét nó một cách thường xuyên. Bản cam kết nhiệm vụ này có thể được sửa chữa hay thay thế
nhưng luôn luôn phải là một tiêu điểm cho những mục đích xem xét và hành động của nhóm.
- Nhân tố chìm
Trong bất kỳ nhóm nào cũng luôn có một người im lặng và không phát biểu nhiều. Cá nhân đó là

nhân tố ít được sử dụng nhất trong toàn nhóm và điều đó thể hiện rõ nhất sự hiệu quả của nỗ lực
tối thiểu của nhóm.
- Trách nhiệm của người đó là phải phát biểu và đóng góp.
- Trách nhiệm của nhóm là khuyến khích và phát triển cá nhân đó để đưa anh ta vào những cuộc
thảo luận và hoạt động và có những hỗ trợ tích cực mỗi khi có những thảo luận và hoạt động đó.
- Người tích cực có ý kiến
Trong bất kỳ nhóm nào cũng có một người nổi bật, ý kiến của người đó luôn chiếm phần lớn trong
cuộc thảo luận.
- Trách nhiệm của mỗi cá nhân là xem xét xem họ có thiên về ý kiến của người đó hay không.
- Trách nhiệm của cả nhóm là hỏi xem liệu người này có thể trình bày vấn đề ngắn gọn lại và yêu
cầu anh ta trình bày về một ý kiến khác.
- Hồi âm (Tiêu cực)
Tất cả những lời phê bình phải trung lập: tập trung vào nhiệm vụ chứ không phải cá nhân. Do đó,
thay vì gọi ai đó là người khờ khạo, tốt hơn hết là chỉ ra sai sót của anh ta và giúp anh ta sửa chữa.
Điều cần thiết là phải áp dụng chính sách lấy phản hồi một cách thường xuyên, đặc biệt là đối với
những vấn đề nhỏ -điều này có thể được xem như là việc huấn luyện chung và giảm những tác
động tiêu cực của việc phê bình gây ra khi mọi việc diễn ra không suôn sẻ. Tất cả mọi lời phê bình
phải kèm theo một lời gợi ý thay đổi.
- Phản hồi (tích cực)
Nếu một ai đó làm tốt việc gì đó, đừng ngần ngại khen. Điều này không chỉ củng cố những việc
làm đáng khen ngợi mà còn làm giảm những phản hồi tiêu cực có thể có sau này. Sự tiến triển
trong nhiệm vụ cũng nên được nhấn mạnh.
- Giải quyết những sai lầm
Sự thành công lâu dài của một nhóm phụ thuộc vào việc nhóm giải quyết những sai lầm như thế
nào. Bất kỳ một sai sót nào cũng nên được cả nhóm tìm hiểu. Làm thế không phải để đổ lỗi cho ai
đó (vì sai lầm là do cả nhóm và một người nào đó chỉ làm theo nhiệm vụ được giao) mà để kiểm
tra những nguyên nhân và tìm kiếm phương pháp kiểm soát và ngăn chặn sự lặp lại sai lầm đó.
Một lỗi lầm chỉ xảy ra một lần khi nó được giải quyết một cách đúng đắn.
Một thực tiễn đặc biệt hữu dụng đó là ủy quyền thực hiện một giải pháp sửa chữa đã được thống
nhất cho chính cá nhân hay nhóm con đã mắc lỗi. Biện pháp này cho phép nhóm có được sự tin

tưởng và sự tự giác sửa đổi.
2. Học tập hợp tác theo nhóm
Học tập hợp tác theo nhóm là hình thức giảng dạy mà sinh viên được đặt vào môi trường học tập
tích cực, trong đó sinh viên được tổ chức thành nhóm một cách thích hợp. Học tập hợp tác theo
nhóm đang là một trong những hình thức học tập tích cực vì:
Thứ nhất, để có thể tiến tới việc giảm bớt giờ lên lớp lý thuyết và tăng giờ tự học, tăng tính chủ
động cho sinh viên, giúp sinh viên phát triển tư duy sáng tạo trong học tập thì hình thức học tập
hợp tác theo nhóm lại tỏ ra khá phù hợp. Nó là một hình thức học tập trong các nhóm nhỏ với
những sinh viên có khả năng khác nhau, trong đó giáo viên sử dụng rất nhiều các hoạt động để làm
tăng sự hiểu biết của họ về một vấn đề nào đó
Thứ hai, việc tạo nhóm như vậy cho phép sinh viên làm việc cùng nhau để tối ưu hóa việc học tập
của mình và của các bạn khác trong nhóm. Quá trình tương tác trong nhóm được đặc trưng bởi sự
ràng buộc giữa mục tiêu tích cực và trách nhiệm của các cá nhân. Mục tiêu cuối cùng của việc tổ
chức lớp học theo nhóm hợp tác là để sinh viên tham gia tích cực vào quá trình học tập của mình.
Thứ ba, học tập hợp tác làm thay đổi vai trò của giáo viên và sinh viên trong lớp, việc tổ chức hoạt
động giảng dạy của giáo viên được chia sẻ cho các nhóm sinh viên và giáo viên không còn là
người chịu trách nhiệm duy nhất trong lớp
Thứ tư, sinh viên có thêm nhiều cơ hội để tham gia tích cực trong hoạt động học tập của mình, đặt
câu hỏi và trao đổi lẫn nhau, chia sẻ và thảo luận về ý tưởng và tiếp thu kết quả học tập của mình.
Cùng với việc nâng cao trình độ chuyên môn, học tập hợp tác giúp sinh viên tham gia vào các buổi
thuyết trình, xêmina, thảo luận nhóm….
Thứ năm, qua trải nghiệm học tập hợp tác sẽ hình thành và phát triển cho SV kĩ năng hợp tác góp
phần hiện thực hóa trụ cột “ Học để chung sống với mọi người”
3. Việc hợp nhóm trong quá trình thuyết trình:
Sinh viên được chia thành các nhóm nhỏ, gồm 5 - 6 người (tùy theo nội dung và số lượng người
tham dự). Nhiệm vụ của mỗi nhóm là tìm hiểu về một khía cạnh của chủ đề môn học chọn đề tài
dể thuyết trình. Cùng thảo luận và chia sẻ vấn đề với các nhóm khác. Trong nhóm này, sinh viên
sẽ cùng nhau nghiên cứu và hợp tác để xây dựng nội dung bài thuyết trình một đề tài đã chọn.

×