Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Đánh giá độ phì vật lý, hoá học của vùng đất trồng lúa nước trời điển hình huyện Long Phú - tỉnh Sóc Trăng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 60 trang )

MỞ ĐẦU
Đất là một thực thể sống hình thành trong nhiều thiên niên kỷ và là một trong
những thành phần quan trọng nhất của môi trường sống. Với đặc thù vơ cùng q giá là
có độ phì nhiêu, đất làm nhiệm vụ của một bà mẹ ni sống mn lồi trên trái đất. Tuy
nhiên, đất cũng tiềm ẩn những yếu tố hạn chế nhất định đối với từng loại cây trồng và
sinh vật (Shin-Ichiro Wada, 2000). Hàng năm có khoảng 5 – 7 triệu ha đất trên hành tinh
chuyển sang không sản xuất được và tốc độ này sẽ gia tăng đến hơn 10 triệu ha trong
thế kỷ 21 nếu như khơng có những nghiên cứu khoa học để duy trì độ phì tự nhiên của
tài nguyên đất và những hoạt động sản xuất, quản lý đất phù hợp được áp dụng (Lê
Văn Khoa, 2003). Bạc màu đất chủ yếu đang diễn ra hiện nay là suy thoái vật lý và hố
học đất như: nén dẽ, kết cứng-đóng ván, laterite hố và xói mịn, phèn hố, mặn hố...
Ở Đồng bằng sơng Cửu Long (ĐBSCL) các nghiên cứu về độ phì nhiêu đất và sự
suy thối về vật lý, hóa học và sinh học đất 2 vụ lúa, 3 vụ lúa, đất chuyên màu và đất
trồng cây ăn trái nhiều năm tuổi bước đầu cho thấy sự giảm hàm lượng chất hữu cơ, độ
nén dẽ cao, hệ số thấm thấp. Khi đất bị nén dẽ nghiêm trọng sẽ hạn chế sự phát triển của
hệ rễ cây trồng, làm giới hạn khả năng hút chất dinh dưỡng và nước. (Võ Thị Gương,
2004).
Đồng bằng sơng Cửu Long với tổng diện tích tự nhiên gần 4 triệu hecta, chiếm
7,9% diện tích của vùng châu thổ và gần 5% lưu vực sông Mê Kông. Trong đó diện tích
đất mặn chiếm 744.547 ha phần lớn phân bố ở bán đảo Cà Mau. Chỉ riêng tỉnh Sóc
Trăng diện tích đất mặn chiếm 158.547 ha (thực chất là đất phù sa nhiễm mặn), phân bố
ở các huyện Kế Sách, Mỹ Xuyên, Long Phú, Vĩnh Châu, Thạnh Trị, Mỹ Tú và Thị xã
Sóc Trăng. Các nhóm đất mặn chủ yếu là: Fluventic Ustropaquept Salic và Typic
Tropaquepts Salic (Tôn Thất Chiểu,1991). Do nằm ở vị trí giáp biển nên phần lớn diện
tích đất tỉnh Sóc Trăng bị nhiễm mặn. Do đó việc sản xuất nơng nghiệp của tỉnh phần
lớn dựa vào nước trời là chủ yếu, bên cạnh đó việc thâm canh lúa với kỹ thuật canh tác
chưa phù hợp, nơng dân chỉ sử dụng phân hóa học khơng sử dụng phân hữu cơ dẫn đến
đất đai bị bạc màu, mất cấu trúc, giảm độ phì, tính bền kém, gây khó khăn cho sản xuất
nơng nghiệp.
Đề tài: “Đánh giá độ phì vật lý, hố học của vùng đất trồng lúa nước trời điển
hình huyện Long Phú - tỉnh Sóc Trăng” được thực hiện nhằm đánh giá những trở ngại




có thể có của đất, khắc phục sự suy thối độ phì vật lý và hố học của các nhóm đất phù
sa nhiễm mặn tạo điều kiện sử dụng đất một cách có hiệu quả trong sản xuất nơng
nghiệp theo hướng bền vững.


CHƯƠNG 1
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.ĐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN LOẠI ĐỘ PHÌ NHIÊU ĐẤT
1.1.Định nghĩa độ phì nhiêu đất (soil fertility)
Theo Võ Thị Gương (2004), độ phì nhiêu đất đai là khả năng của đất đáp ứng nhu
cầu của cây trồng về các chất dinh dưỡng với số lượng, dạng và tỷ lệ thích hợp để cho
cây sinh trưởng, phát triển và tạo ra sinh khối lớn nhất.
Theo Wiliams: độ phì nhiêu của đất là khả năng cung cấp cho cây về nước, thức ăn
khoáng và các yếu tố cần thiết khác (khơng khí, nhiệt độ...) để cho cây sinh trưởng và
phát triển bình thường (Lê Văn Khoa, 2003).
Theo Henry (1997), độ phì nhiêu của đất là khả năng cung cấp những nguyên tố
cần thiết cho cây trồng phát triển, không có mặt của các độc chất (Henry et al, 1997).
Đánh giá độ phì nhiêu đất là đánh giá những thiếu hụt dinh dưỡng của cây trồng, phân
tích trạng thái của cây và phân tích đất (Henry et al, 1990).
Theo Đỗ Ánh (2000), thuật ngữ độ phì nhiêu chỉ ra khả năng vốn có của đất cung
cấp cho cây trồng đầy đủ có tỷ lệ thích hợp. Độ phì nhiêu đất là cơ sở của tiềm năng sản
xuất và chủ yếu được quan tâm nghiên cứu vì độ phì nhiêu đất là yếu tố quyết định năng
suất cây trồng.
Theo Forestier (1959), độ phì nhiêu của đất là do tổng số sét, thịt và tổng số bazơ
trong đất quyết định (Đỗ Ánh, 2002).
Bên cạnh đó, theo Vũ Hữu Yên và ctv (1998), độ phì nhiêu của đất là khả năng của
đất đảm bảo được những điều kiện thuận lợi thích hợp cho cây trồng đạt năng suất cao,
ổn định và những quần xã sống trên đất, trong đất phát triển hài hòa, bền vững.

Ngồi ra, theo Trần Thành Lập (1999), đất phì nhiêu là đất có khả năng cho nhiều
sản lượng cây trồng trong điều kiện canh tác tương đối thích hợp với mức đầu tư không
quá lớn và ngược lại. Như vậy “độ phì nhiêu đất đai” trên thực tế đã có trước khi việc
nghiên cứu đất trở thành khoa học thực thụ.
Theo Petecbuagsky (1957), độ phì nhiêu đất hiểu một cách vắn tắt là khả năng của
đất cung cấp cho cây trồng, trong quá trình sinh trưởng, một số lượng nước và chất dinh
dưỡng cần thiết. Đất phì nhiêu khơng chứa chất có hại cho cây trồng như H 2S, CH4... ở
đất trũng; sắt, nhôm ở đất phèn; Clo ở đất mặn.


Độ phì nhiêu đất đai là khả năng của đất đáp ứng nhu cầu cây trồng về các chất
dinh dưỡng, với số lượng, dạng và tỷ lệ thích hợp để cây sinh trưởng, phát triển và tạo
ra sinh khối lớn nhất.
Đất nào có khả năng thỏa mãn nhu cầu cây trồng cao, cho năng suất cao thì được
coi là phì nhiêu và ngược lại. Độ phì nhiêu đất là chỉ tiêu định tính và định lượng của
đất là kết quả của sự phát triển đất trong thời gian dài. Vì vậy, mỗi loại đất đều có độ
phì tự nhiên (natural fertility) hay cịn gọi là độ phì tiềm tàng (potential fertility) khác
nhau.
1.2. Các loại độ phì nhiêu đất
Theo Nguyễn Văn Điềm (2002), thì độ phì nhiêu đất gồm các loại sau:
- Độ phì tự nhiên: xuất hiện trong quá trình hình thành đất dưới tác động của đá mẹ, khí
hậu, sinh vật, các chất dinh dưỡng trong đất tác dụng trực tiếp với cây trồng.
- Độ phì tiềm tàng: phần độ phì tự nhiên mà cây trồng chưa sử dụng đựơc.
- Độ phì nhân tạo: tác động của con người làm thay đổi độ phì tự nhiên của đất (thường
là các tính chất xấu của đất) và tạo ra độ phì mới.
- Độ phì kinh tế: tính bằng năng suất lao động.
- Độ phì hiệu lực: sử dụng khoa học kỹ thuật chuyển từ độ phì tiềm tàng sang độ phì tự
nhiên tính bằng năng suất cây trồng.
2. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ ĐỘ PHÌ NHIÊU ĐẤT
2.1.Các chỉ tiêu vật lý

 Thành phần cơ giới đất
Tỷ lệ các cấp hạt giữa các phần tử cơ giới có kích thước khác nhau trong đất
được biểu thị theo phần trăm trọng lượng được gọi là thành phần cơ giới (Nguyễn Thế
Đặng và ctv, 1999).
Thành phần cơ giới còn được hiểu là tỷ lệ giữa các cấp hạt cát, thịt, sét trong đất
(Henry et al, 1990).
Thành phần cơ giới của đất là hàm lượng phần trăm của những ngun tố cơ học
có kích thước khác nhau khi đoàn lạp đất ở trong trạng thái bị phá huỷ (Trần Kông Tấu,
2006).


Các hạt có kích thước khác nhau trong thể rắn của đất gọi là phần tử cơ giới. Các
phần tử cơ giới hình thành chủ yếu do quá trình phong hoá đá mà ra. Tỷ lệ phần trăm
các cấp hạt có kích thước khác nhau trong đất gọi là thành phần cơ giới (Dương Minh
Viễn, 2004).
Theo Nguyễn Đăng Nghĩa và ctv (2005), đất là vật thể bao gồm các kích thước hạt
có kích thước khác nhau. Chính các cấp hạt này gọi là thành phần cơ giới. Tuỳ theo tỷ lệ
các cấp hạt mà đất có tính chất khác nhau. Ba cấp hạt: cát (Sand), thịt (Silt), sét (Clay)
sẽ tạo nên kết cấu của đất. Tỷ lệ các cấp hạt khác nhau dẫn đến sự khác nhau về đặc
điểm tính chất như: tỷ trọng, dung trọng, khả năng giữ nước, tính bền của đất... Thành
phần cơ giới là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá độ phì của đất (Nguyễn Đăng Nghĩa
và ctv, 2005). Đất Đồng bằng sông Cửu Long đa số là đất phù sa màu mỡ, có thành
phần cơ giới nặng nên khả năng giữ nước và hấp phụ chất dinh dưỡng tốt chính vì thế
phục vụ rất tốt cho việc sản xuất nông nghiệp.
Thành phần cơ giới đất là một chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng đến đặc tính của đất
như sự thấm nước, sự kiềm giữ nước, sự phát triển của rễ cây (Raymond W. Miller et al,
2001) Trong nông nghiệp, thành phần cơ giới có ý nghĩa rất quan trọng trong nghiên cứu

phát sinh đất, loại đất và các quá trình thổ nhưỡng của đất. Nhiều tính chất hố học, vật
lý như khả năng giữ ẩm, khả năng giữ nhiệt và động thái nhiệt, chế độ khí và động thái

khí, CEC và khả năng điều tiết chất dinh dưỡng...đều liên quan đến thành phần cơ giới
(Viện thổ nhưỡng nơng hóa, 1998).
 Tính bền cấu trúc
Độ bền đồn lạp là tính bền của tập hợp các phần tử đất, là đặc tính cấu trúc quan
trọng của đất giúp đo lường mức độ chịu đựng của đất dưới tác động của mưa, các lực
cơ giới khi cày hoặc hoạt động tưới nước.
Tính bền cấu trúc đất phụ thuộc vào hàm lượng của chất hữu cơ, hàm lượng sét và
các oxit sắt (Trần Kim Tính, 2003).
Tính bền của đất được xem như là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá
chất lượng đất đai. Tính bền của đất có thể tác động mạnh mẽ đến đặc tính đất cả về hố
học và lý học (Lê Văn Khoa, 2003).
 Dung trọng


Dung trọng đất là một đặc tính quan trọng dùng để đánh giá độ phì vật lý và hố
học đất (Trần Bá Linh và ctv, 2006). Dung trọng phụ thuộc vào thành phần khoáng,
thành phần cơ giới, hàm lượng chất hữu cơ, cấu trúc và kỹ thuật làm đất. Độ tơi xốp của
đất thường cao nhất ngay sau khi làm đất, sau đó bị nén dẽ dần và dung trọng tăng lên,
sau một thời gian dung trọng sẽ đạt cân bằng và khơng thay đổi. Đất có dung trọng thích
hợp nhất cho cây là 1,0 -1,1 g/cm3. Đối với cây lúa, dung trọng thấp đơi khi có hại vì đất
khơng giữ được nước. Dung trọng >1,2 g/cm3 và ở tầng đế cày >1,4 g/cm3 là rất thích
hợp cho cây lúa (Võ Thị Gương và ctv, 2004).
Để đảm bảo cho cây trồng phát triển tốt đối với đất thịt thì dung trong 1,1- 1,4
g/cm3, đối với đất sét thì dung trọng 1,4 g/cm3 và đất cát dung trọng khoảng 1,6 g/cm3
(Raymond W. Miller et al, 2001). Theo Lê Văn Khoa (2004), giá trị dung trọng bình qn
của đất thịt có canh tác biến động trong khoảng 1,1- 1,4 g/cm 3. Để cây trồng phát triển
tốt dung trọng nên giới hạn trong khoảng 1,4-1,6 g/cm3 với đất cát. Dung trọng cũng
được tính tốn tổng lượng nước có thể bị giữ bởi đất theo một thể tích nào đó và cũng
để đánh giá khả năng phát triển của hệ thống rễ cây trồng và độ thống khí của đất (Lê
Văn Khoa, 2004).

 Tỷ trọng

Tỷ trọng thể rắn của đất là tỉ số giữa trọng lượng thể rắn đất (đất khơng có khoảng
trống) của một thể tích nhất định và trọng lượng của nước cùng thể tích (Viện thổ
nhưỡng nơng hóa, 1998).
Tỷ trọng đất là một thơng số quan trọng giúp ta có thể ước lượng thành phần
khoáng chủ yếu cũng như hàm lượng chất hữu cơ của một loại đất (Trần Bá Linh và ctv,
2006). Theo Trần Kim Tính (2003), tỷ trọng của đất thay đổi từ 2,5 g/cm3 đến 2,8 g/cm3.
Ở những loại đất khác nhau tỷ trọng sẽ khác nhau. Thường trong những đất khống hay
có thạch anh, fenspat, kaolinite, tỷ trọng của chúng thay đổi trong khoảng 2,55 – 2,74 g/
cm3. Tỷ trọng thể rắn của những đất nghèo mùn trên các tầng mặt thay đổi trong khoảng
2,50 – 2,74 g/cm3. Ở những tầng tích tụ sâu hơn, do chứa một lượng lớn hợp chất sắt
nên tỷ trọng thường tăng, có trường hợp đạt 2,75 – 2,8 g/cm3. Ngược lại ở những đất
giàu mùn tỷ trọng của chúng giảm đến 2,40 – 2,30 g/cm3 (Trần Kông Tấu, 2006).


Nhìn chung tỷ trọng của đất đa số nhỏ ở các loại đất mùn và thường lớn ở những
loại đất khống. Do vậy thơng thường ở những tầng mặt thì tỷ trọng của đất nhỏ so với
các tầng sâu hơn.
 Độ xốp
Độ xốp của đất là phần trăm thể tích của đất được chiếm bởi khơng khí và nước
(Trần Bá Linh và ctv, 2006). Độ xốp là tổng các tế khổng trong đất biểu thị bằng % thể
tích đất. Độ xốp đất phụ thuộc vào cấu trúc đất, thành phần cơ giới, dung trọng và tỷ
trọng đất. Khả năng thoáng khí, khả năng giữ nước phụ thuộc lớn vào độ xốp đất. Đối
với cây lúa độ xốp là chỉ tiêu không quan trọng, ngoại trừ các mao quản, lượng tế khổng
lớn chứa khí trong đất phải khơng dưới 25% cho đất canh tác cây trồng cạn. Độ xốp
thích hợp cho hầu hết sự tăng trưởng của cây trồng là 50%. (Võ Thị Gương và ctv,
2004).
Sự trao đổi khơng khí đặc biệt là sự khuếch tán oxy có ý nghĩa rất quan trọng cho
cây trồng. Việc giảm chất hữu cơ trong đất sẽ đưa đến giảm độ xốp đất. Đất kém thơng

thống có thể giới hạn sự phát triển của rễ, đặc biệt ảnh hưởng đến việc hấp thu chất
dinh dưỡng (Lipiec and Stepniewski, 1995).
 Hệ số thấm (Ksat)
Hệ số thấm bảo hồ Ksat là thơng số chính để dự đốn dịng chảy bảo hồ trong
đất, ngồi các tác nhân khác làm ảnh hưởng đến hệ số thấm, sa cấu và cấu trúc đất cũng
làm cho hệ số thấm bị thay đổi một cách đáng kể. Chỉ tiêu này dùng để phân biệt khả
năng thấm và thoát nước của đất. Đất có giá trị Ksat cao sẽ có tác dụng thấm nước và
thốt nước nhanh khơng bị ngập úng (Radeliffe and Rasmussen, 2000).
Hầu hết đất lúa nước đạt năng suất cao tại Nhật Bản có tốc độ thấm trong khoảng
20 – 30mm/ngày (Takai and Mada, 1997). Riêng ở Trung Quốc để đạt được năng suất
cao, tốc độ thấm trong đất từ 9 – 15 mm/ngày (Yang and Chen, 1961). Thực tế thì tốc
độ thấm tối hảo cho năng suất lúa tuỳ thuộc vào hàm lượng chất hữu cơ trong đất và
điều kiện hoạt động thích hợp của vi sinh vật đất. Khi ruộng lúa bị ngập liên tục (với tốc
độ nhỏ hơn 5 mm/ngày) thì tốc độ phân huỷ chất hữu cơ và sự khoáng hoá đạm rất thấp
do đất trong tình trạng bị khử cao.


 Lượng nước hữu dụng
Lượng nước hữu dụng là lượng nước được đất dự trữ lại: cây trồng sử dụng dễ
dàng nhất. Nói cách khác độ ẩm hữu dụng là sự chênh lệch giữa độ ẩm đồng ruộng và
độ ẩm cây héo. Độ ẩm có sẳn cho cây là tỉ lệ của ẩm độ hữu hiệu mà cây trồng hấp thu
dễ dàng nhất, thường chiếm khoảng 75 – 80% ẩm độ hữu dụng (Chu Thị Thơm và ctv,
2006).
Lượng nước hữu dụng trong đất được đánh giá thông qua chỉ số pF (lực giữ nước
của nền đất) và trị số này thay đổi đối với các loại đất khác nhau (Kisu, 1978). Các nhà
khoa học đã xác định độ ẩm trong đất bằng khoảng 60 – 75% độ trữ ẩm tối đa để có một
lượng trữ khơng khí khoảng 15 – 35% thể tích của đất là ẩm độ thích hợp nhất (Nguyễn
Đăng Nghĩa và ctv, 2005).
2.2. Các tính chất hóa học
 Độ chua hiện tại(pHH20)


Theo Ngô Ngọc Hưng và ctv (2004), pH đất là chỉ tiêu đánh giá đất quan trọng, vì
nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của cây trồng, vi sinh vật đất, vận tốc phản ứng
hóa học và sinh hóa trong đất. Độ hữu dụng của dưỡng chất trong đất, hiệu quả của
phân bón cũng phụ thuộc rất nhiều vào độ chua của đất.
pH đất ảnh hưởng đến độ hữu dụng của dinh dưỡng cây trồng, độc chất trong
đất, đến hoạt động của vi sinh vật đất (Tất Anh Thư, 2006). Theo Trần Thành Lập
(1999), đất Đồng bằng sơng Cửu Long thường có pH thấp, đất phù sa khơng phèn
thường có pH = 4,0-5,5. Đất có pH thấp nhất là đất phèn, trên đất phèn nặng pH có thể
<3,0, ở trị số pH này cây chịu phèn mới sống nổi. Đất bị nhiễm mặn thường có pH từ 7
trở lên. Một lọai đất rất acid có pH thấp, đất này thiếu Ca và Mg trao đổi, các chất Al,
Fe, Mn và Bo hòa tan rất nhiều, chất Mo ít hịa tan, độ hữu dụng của N và P rất thấp.
Một loại đất kiềm có pH cao đất này nhiều Ca, Mg và Mo, có ít Al, độ hữu dụng đạm
cao (Trần Thành Lập, 1999). Trên đất mặn pH từ 6,0-7,5 và tỷ lệ với độ mặn (Nguyễn
Văn Luật, 2003). Nếu đất có pH quá cao, đất sẽ thiếu Fe, Mn, Cu, Zn và nhất là thiếu P
và Bo. Ngồi ra vi khuẩn hoạt động tích cực ở các pH trung bình sẽ hoạt động kém.
Tổng qt mà nói thì đất có pH = 6 - 7 là tốt nhất vì ở mức pH này có sự hữu dụng tối
đa của chất dinh dưỡng (Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004). Theo H.Eswaran (1985), đất lúa
nước thường có pH trong khoảng 4,5 và 6. pH tốt nhất cho cây lúa phát triển là pH=5,5


-7,5. Đất có pH thấp hơn 5,2 hay lớn hơn 8,2 đều ảnh hưởng đến sự phát triển của cây
lúa.
 Độ chua tiềm tàng (pHKCl)

Độ chua tiềm tàng được tính bằng ion H+ tự do và hấp thu trên bề mặt keo đất.
Thông thường độ chua này lớn hơn độ chua hiện tại và biểu thị khả năng gây chua tiềm
tàng của đất (Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004).
Theo Nguyễn Đăng Nghĩa và ctv (2005), nếu trong dung dịch đất tồn tại nhiều
muối axit mạnh và bazơ mạnh sẽ làm đất có phản ứng trung tính (pH trong khoảng từ

6,0 – 7,0). Nếu trong đất tồn tại nhiều muối axit mạnh và muối bazơ yếu thì đất có phản
ứng chua (pH < 6,0). Nếu trong đất nhiều muối bazơ mạnh và muối bazơ yếu thì đất có
phản ứng kiềm (pH > 7,5). Độ pH của đất còn phụ thuộc vào mức độ thực hiện các phản
ứng trao đổi ion giữa keo đất với dung dịch đất, giữa dung dịch đất và rễ cây.
 Chất hữu cơ trong đất
Nguồn gốc nguyên thủy của chất hữu cơ trong đất là mô thực vật, chất hữu cơ
gồm xác bả hữu cơ chưa phân hủy, đang phân hủy và đã phân hủy trong đó có xác bã
hữu cơ động vật, vi sinh vật. Tùy theo thành phần và hàm lượng hữu cơ trong đất mà
chúng có vai trị khác nhau (Trần Thành Lập, 1999).
Theo Nguyễn Thế Đặng và ctv (1999), chất hữu cơ là thành phần cơ bản kết hợp
với các sản phẩm phong hố từ đá mẹ để tạo thành.
Chất hữu cơ góp phần cải thiện các tính chất lý, hố và sinh học đất và cung cấp
nhiều chất dinh dưỡng cho cây trồng (Prihar et al, 1985).
Theo Đỗ Ánh (2002) chất mùn trong đất là một nguồn dinh dưỡng có tương quan
rất chặt chẽ với độ phì nhiêu của đất, nhất là trong điều kiện nhiệt đới ẩm của chúng ta.
Những thành tựu nghiên cứu về chất mùn ở điều kiện nhiệt đới ẩm của Castagnol 1942,
Fridland 1958-1964, Duchaufour 1968...đã ghi nhận, về sau Ngô Văn Phụ (1970-1979)
đều cho rằng mùn ở đất Việt Nam rất quan trong việc tạo độ phì nhiêu đất (Đỗ Ánh và
ctv, 2000). Viện nghiên cứu lúa quốc tế cho rằng hàm lượng chất hữu cơ tối thích cho
đất lúa nước là 4%. Nếu giảm 1% chất hữu cơ thì lân bị giữ chặt trong đất tăng
50mg/100g đất (Đỗ Ánh và ctv, 2000).
Theo Thái Công Tụng (1971), sự ảnh hưởng của chất hữu cơ đến tính chất đất đai.


-

Ảnh hưởng của màu sắc đất đai: nâu đến đen

-


Ảnh hưởng đến tính chất hóa học của đất như: khả năng giữ nước, độ dẻo dính.

-

Ảnh hưởng đến khả năng trao đổi base như: làm cho đất đai hấp thụ được nhiều
chất base hơn, 30 - 90% ngoại hấp là do chất hữu cơ.

-

Cung cấp và tăng độ hữu dụng của chất dinh dưỡng.
Theo Trần Thành Lập (1999), đất ĐBSCL thường có hàm lượng chất hữu cơ vào

độ trung bình. Đất xám bạc màu có hàm lượng hữu cơ rất thấp 0,3 - 1,2%. Đất giàu hữu
cơ nhất ĐBSCL là đất than bùn, có hàm lượng hữu cơ đến 25%, đất phèn cũng giàu chất
hữu cơ ở tầng mặt.
Theo Lê Văn Khoa và ctv (2000), chất hữu cơ là chỉ tiêu số một về độ phì, nó ảnh
hưởng đến nhiều tính chất đất như khả năng cung cấp dinh dưỡng, khả năng hấp phụ,
giữ nhiệt và kích thích sinh trưởng cây trồng. Chất hữu cơ là nguồn cung cấp chất dinh
dưỡng chính trong hệ sinh thái đất. Để nơng nghiệp phát triển bền vững nhất thiết phải
giảm sự mất mát chất hữu cơ đất, nhất là việc sử dụng đất vùng nhiệt đới (Lê Văn Khoa
và ctv, 2000). Ở vùng nhiệt đới thường có hàm lượng chất hữu cơ thấp do kết quả của
q trình phong hố mạnh làm chúng bị phân giải nhanh. (Nguyễn Xuân Cự, 2005).
Trong đất hàm lượng chất hữu cơ cao làm tăng ẩm độ đất, cải thiện cấu trúc đất tăng
khả năng đệm của đất (Charles A. Black, 1993). Trong q trình khống hố chất hữu
cơ tạo ra nhiều dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng, chất hữu cơ làm giảm sự cố định K,
P trong đất (Nguyễn Tử Siêm và ctv, 1999). Chất hữu cơ có khả năng tạo phức với kim
loại (Jones and Jarvis, 1981). Chất hữu cơ có khả năng tạo phức với Al làm giảm Al trao
đổi và Al hoà tan trong dung dịch do đó làm giảm khả năng gây độc của Al cho cây
trồng (Hargrove and Thomas, 1981). Trong đất hàm lượng chất hữu cơ cao làm tăng ẩm
độ đất, cải thiện cấu trúc đất tăng khả năng đệm của đất (Charles A. Black, 1993).

 Dung tích hấp phụ cation (CEC)
Dung tích hấp phụ cation hay cịn gọi là khả năng trao đổi cation của đất càng cao
chứng tỏ đất có khả năng giữ và trao đổi các dưỡng chất tốt. Đất ĐBSCL thường chứa
nhiều sét và ít hữu cơ nên dung tích hấp phụ thuộc loại trung bình đến khá (Ngô Ngọc
Hưng và ctv, 2004).
CEC của đất liên quan đến khả năng chứa đựng và điều hòa dinh dưỡng và có liên
quan đến phương pháp bón phân hợp lý. Đất giàu chất hữu cơ, có CEC cao cũng là đất


có khả năng bảo quản cao dinh dưỡng cây trồng. Nếu đất chứa Al chiếm 60% CEC thì
gây độc cho cây trồng. Đất bạc màu có CEC thấp thì CEC trở thành yếu tố hạn chế (Đỗ
Ánh và ctv, 2000). Theo Nguyễn Vy (2003), dung tích hấp phụ trong các loại đất Việt
Nam trong khoảng 5 - 30 meq/100g đất. Nhìn chung giá trị dung tích hấp phụ càng cao
thì đất càng phì nhiêu. Tuy nhiên độ phì nhiêu của đất còn phụ thuộc vào thành phần và
tỷ lệ các cation trong dung tích hấp phụ đó (Nguyễn Vy, 2003).
 Độ dẫn điện dung dịch đất (EC)
Độ mặn trong đất làm cản trở quá trình hút nước và dinh dưỡng của cây trồng, giảm
lượng nước hữu dụng trong đất, phá huỷ cấu trúc của đất (Tất Anh Thư, 2006).
EC được tính bằng đơn vị mmhos trên centimet, chính mmhos cũng là trị số
nghịch đảo của đơn vị đo sức cản điện (ohms). Trị số mhos/cm là một đơn vị rất lớn,
phần lớn EC của dung dịch đất thì nhỏ hơn trị số này rất nhiều (Trần Kim Tính, 2003).
EC là độ mặn của đất, biểu thị trực tiếp hoặc gián tiếp nồng độ muối hồ tan trong
dung dịch đất. Khơng chỉ có đất mặn mới có lượng muối hồ tan cao, mà trong đất phèn
sự tác động của acid vào khống sét, nồng độ muối có thể cao và gây độc cho cây (Đỗ
Thị Thanh Ren, 1999). Theo H. Eswaran (1985), cây lúa rất nhạy cảm với độ mặn, cây
lúa sẽ không phát triển được nếu trên đất lúa nước có EC > 6 mmhos/cm. EC = 4 – 6
mmhos/cm thì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của cây lúa, nếu EC < 2 mmhos/cm thì
cây lúa phát triển bình thường.
 Đạm tổng số
Theo Ngơ Ngọc Hưng và ctv (2004), đạm tổng số vùng nhiệt đới thường thấp hơn

đất vùng ơn đới. Ở ĐBSCL, đất phèn có hàm lượng N cao nhất, thường 0,2%. Đất phù
sa hàm lượng đạm từ trung bình đến khá. Đạm là yếu tố giới hạn năng suất chủ yếu trên
đa số các loại đất và cây trồng ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Theo Đỗ Thị Thanh Ren (1999), đạm được xem là nguyên tố quan trọng trong việc
gia tăng năng suất. Trên hầu hết các loại đất bón phân đạm giúp gia tăng sự tăng trưởng
cây trồng đặc biệt là sự phát triển của thân và lá.
 Lân tổng số


Lân tổng số trong đất phụ thuộc vào thành phần khoáng đất. Đất ĐBSCL được
tạo thành từ các khoáng nghèo lân. Đất phù sa được bồi đắp hàng năm và đất mặn có
hàm lượng lân tổng số cao nhất, thấp nhất là các loại đất phèn (Ngô Ngọc Hưng và ctv,
2004).
Theo Đỗ Thị Thanh Ren (1999), hàm lượng lân trong cây trồng và đất thấp hơn N và
kali. Trong đất lân có khuynh hướng phản ứng với các thành phần trong đất tạo ra các
hợp chất khơng hồ tan, chậm hữu dụng cho cây trồng. Nguyên tố lân trong tự nhiên kết
hợp với oxy để cho ra P2O5, kết hợp với nước để cho ra acid orthophosphoric. Đơn vị
tính của lân trong đất là % P2O5 hoặc % P.
Trong đất lân có thể ở dạng hữu cơ hoặc lân khống tuỳ thuộc vào sự hình thành
và phát triển của đất. Hàm lượng lân tổng số trong đất biến thiên trung bình từ 0,02 –
0,015 % P2O5. Đất ĐBSCL nhìn chung nghèo lân tổng số, hàm lượng lân trung bình của
các nhóm đất chính là 0,006 % P2O5 (Đỗ Thị Thanh Ren, 1999).
Trong đất lân tổng số chia làm hai dạng là: lân hữu cơ và lân vơ cơ (lân khống).
Tỷ lệ này phụ thuộc vào sự hình thành và phụ thuộc vào điều kiện đất. Lân hữu cơ
thường chiếm khoảng 20 – 80% lân tổng số. Hàm lượng lân khoáng gia tăng theo độ sâu
phẫu diện đất, trong khi hàm lượng lân hữu cơ cao nhất ở tầng mặt (Tisdale and Nelson,
1975).
 Lân dễ tiêu
Các đất nghèo lân dễ tiêu nhất ở đồng bằng là đất phèn, đất xám và đất cát. Đất
giàu lân nhất là đất phù sa được bồi đắp hàng năm (Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004).

Theo Nguyễn Xuân Cự (1992), sự cố định lân trong đất chua chủ yếu do tạo thành
các hợp chất Fe, Al phosphate, đây chính là nguyên nhân cơ bản làm cho lượng lân dễ
tiêu trong đất thường thấp.
Theo Lê Văn Căn (1978), sự cố định lân thường xảy ra rất nhanh ở nồng độ lân
thấp và tuỳ thuộc vào đặc tính của đất. Nhìn chung, đất có khả năng hấp phụ lân rất cao,
có khoảng 80% lượng lân đưa vào được đất hấp phụ ở các nồng độ thấp dưới 100ppm.
Theo Nguyễn Xuân Cự (2001), khi nồng độ dung dịch là 300ppm thì đất có khả năng
hấp phụ khoảng 40% lượng lân đưa vào.
 Kali tổng số


Kali hiện diện với số lượng lớn trong hầu hết các loại đất. Hàm lượng lân của
vỏ Trái Đất chỉ khoảng 0,11%, trái lại hàm lượng kali tổng số trong đất biến động rất
lớn từ 4,29% đến nhỏ hơn 0,11%, với khoảng biến động thông thường là 0,3 đến 0,2%
(Mutscher, 1951), và hàm lượng kali trung bình là 1,7% (Reitemeier, 1995).
Theo Nguyễn Bảo vệ (2003) lượng phù sa bồi đắp hàng năm từ sông Cửu Long
không làm gia tăng đáng kể độ phì của đất, kali chỉ tăng thêm 3,2 Kg/ha khi lớp phù sa
bồi đắp dầy 1mm. Như vậy, lượng kali bổ sung hàng năm từ nguồn phù sa mang lại là
không đáng kể so với lượng mất đi.
Kali tổng số trong các loại đất ở ĐBSCL thường cao và quyết định bởi thành
phần khóang sét. Đa số các loại đất đều có kali tổng số >1,5% và được đánh giá là khá
và giàu. Đất các và đất xám có hàm lượng kali thấp (Ngơ Ngọc Hưng và ctv, 2004).
 Kali trao đổi
Kali trao đổi là nguồn kali chính cho cây trồng trong đất. Các loại đất ĐBSCL
có hàm lượng K trao đổi khá và lượng K này luôn được bù đắp bởi lượng K tổng số dồi
dào trong đất (Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004).
Kali là nguyên tố đa lượng rất quan trọng đối với sự sinh trưởng của cây trồng
sau đạm và lân. Kali là chất duy nhất duy trì áp suất thẩm thấu của tế bào. Trong cây, nó
giữ nhiều vai trị sinh lý quan trọng là chất hoạt hoá các enzyme, tham gia tổng hợp
protein, vận chuyển carbohydrate...(Evans and Wildes, 1971).

3. ĐẤT LÚA NƯỚC
3.1. Đất lúa nước và các tầng phát sinh cơ bản của đất lúa nước
Do bị ngập nước liên tục nên trong đất trồng lúa ln xảy ra q trình khử Oxy,
dẫn đến lượng O2 trong đất giảm và lượng CO2 tăng cùng với các khí khác như CH4,
H2S... là những chất có hại cho cây lúa. Đất lúa ngập liên tục nếu không luân canh cây
trồng cạn sẽ làm giảm sút một số tính chất vật lý của đất như ảnh hưởng đến kết cấu đất,
tính dẻo dính, tính liên kết, chế độ khí, chế độ nhiệt.
Khi ngập nước, độ pH sẽ tăng dần do đất sản sinh ra các ion NH4+, Mn2+, Fe2+,
chính những ion này đã trung hồ bớt ion H+. Do thiếu oxy thành phần và tỷ lệ hệ sinh
vật đất cũng thay đổi, chủ yếu là tồn tại các vi sinh vật yếm khí. Do vậy tốc độ phân huỷ
chất hữu cơ trong đất xảy ra chậm. Khi đất ngập nước q trình tích luỹ đạm dưới dạng


NH4+ có ưu thế hơn, tăng cường hồ tan phosphate. Trong điều kiện yếm khí thường xảy
ra q trình nitrate hoá. Đạm dạng NO3- dễ chuyển thành đạm tự do N2 bay vào khơng
khí làm mất đạm trong đất.
Theo Nguyễn Thế Đặng và ctv (1999), trải qua quá trình canh tác trong điều kiện
ngập nước đa số đất lúa nước có phân tầng rõ. Phẩu diện đặc trưng của đất lúa nước bao
gồm các tầng như sau:

Lớp oxy hoá
Tầng canh tác -Ap

Lớp khử

Tầng đế cày- P
Tầng tích tụ- B
Tầng mẫu chất
(có thể)
Hình 1: Phẩu diện đất lúa nước


3.1.1. Tầng canh tác-Ap
Là tầng trên cùng của phẩu diện, nó chịu sự tác động của con người mạnh mẽ
nhất. Ap là tầng mà gần như toàn bộ hoạt động của rễ lúa tập trung thu hút chất dinh
dưỡng. Vì vậy sự chuyển hóa vật chất của tầng này cũng như hoạt động của vi sinh vật
là mạnh mẽ nhất. Khi đánh giá độ phì đất lúa nước người ta cũng chủ yếu dựa vào tầng
canh tác.
Tầng canh tác có hai lớp là:
- Lớp oxy hóa, cịn gọi là lớp bùn lỏng dày vài milimet, bao gồm các hạt co giãn rất
nhỏ nên có thể kết thành váng khi cạn nước. Đây là lớp ln ở trạng thái oxy hóa (Eh:
250-400mV). Vì vậy chất hữu cơ ở đây được phân giải mạnh.
- Lớp khử oxy, còn gọi là lớp bùn nhão. Do bị ngập nước và chất hữu cơ phân giải
trong điều kiện yếm khí nên Eh thấp (xung quanh 200mV).
Sự phân hóa của tầng canh tác ra thành lớp oxy hóa và lớp khử ảnh hưởng đến
trạng thái tồn tại của N. Nếu Đạm amơn được đưa vào lớp oxy hóa sẽ bị oxy hóa thành


NO3 và sự rửa trôi NO-3 xuống lớp khử thiếu oxy sẽ xuất hiện q trình phản ứng nitrat
hóa làm mất N.
Về màu sắc của tầng canh tác: Khi ngập nước thường có màu xám nâu và nâu.
Người ta cũng có thể căn cứ vào màu sắc của tầng canh tác để xác định mức độ thuần
thục của đất lúa. Tầng Ap có thể dày từ 8-20 cm (Nguyễn Thế Đặng và ctv, 1999).
3.1.2.Tầng đế cày-P
Là tầng đất chặt dưới tầng canh tác. Tầng P dày khoảng 8-10 cm, được hình thành
do quá trình trồng lúa lâu đời. Khi làm đất trong điều kiện ngập nước các hạt sét sẽ lắn
xuống cộng với sức nén của công cụ làm đất và đi lại của gia súc và con người, nên ở
độ sâu nhất định đã hình thành nên tầng đế cày. Quá trình trồng lúa nước càng lâu đời
thì tầng đế cày càng rõ và mỏng dần đến ổn định khoảng 6-10 cm. Đối với đất lầy thụt,
đất mới khai phá trồng lúa nước hoặc đất phù sa được bồi đắp thường xun có thể
khơng có tầng đế cày.

Sự hình thành tầng đề cày có ý nghĩa quan trọng đối với độ phì đất luá nước. Vì
tầng đế cày ngăn cản sự thấm nước qua nhanh giúp đất giữ nước tốt, ngăn cản sự rửa
trôi các chất dinh dưỡng ở tầng canh tác. Nhưng nếu tầng đế cày quá chặt thì nước thấm
bị trở ngại, một số hợp chất sản sinh trong quá trình thu hút chất dinh dưỡng của rễ lúa
bị tích động lại, làm thay đổi mơi trường sống của vi sinh vật tầng canh tác, từ đó ảnh
hưởng xấu đến sự hoạt động của bộ rễ lúa (Nguyễn Thế Đặng và ctv, 1999).
3.1.3.Tầng tích tụ-B
Tầng tích tụ được hình thành do sự tích tụ các vật chất rửa trôi từ tầng trên xuống.
Mùa sắc thường loang lổ đỏ, vàng, trắng, đen... do vệt rửa trôi Fe, Mn và sét.
Độ dày của tầng tích tụ phụ thuộc vào thời gian canh tác lúa và mực nước ngầm
cao hay thấp. Nếu canh tác lúa lâu đời và mực nước ngầm sâu thì tầng này sẽ dày và
ngược lại.
Tầng tích tụ quan hệ đến độ phì của đất lúa nước thể hiện ở độ dày và khả năng
tích lũy vật chất: Càng dày càng dẻo thì mức độ thuần thục của đất lúa nước càng cao
(ngoại trừ đất lầy thụt) (Nguyễn Thế Đặng và ctv, 1999).


3.1.5. Tầng mẩu chất
Chỉ có với đất biến đổi do trồng lúa nước hoặc đất mới khai phá. Tầng này liên
quan khơng lớn đối với độ phì khi trải qua canh tác lâu dài (Nguyễn Thế Đặng và ctv,
1999).
3.2. Một số đặc tính đất lúa nước
3.2.1. Thành phần cơ giới
Trong điều kiện có nước, cây lúa có thể sinh trưởng phát triển trên các loại đất có
thành phần cơ giới khác nhau, nhưng thành phần cơ giới thích hợp nhất cho lúa nước là
thịt (có thể thịt trung bình, thịt nhẹ, thịt nặng). Vì vậy lúa nước cần đất có tính giữ nước
nhưng cũng cần có tính thấm nước nhất định.
Một số kết quả nghiên cứu của Trung Quốc cho thấy lớp bùn lỏng (oxy hóa) chủ
yếu là sét, cịn lớp bùn nhão (khử) thì ít sét hơn. Như vậy bất kỳ nột loại đất lúa nước
nào và có thành phần cơ giới thế nào thì lớp bùn lỏng đều có thành phần cơ giới nặng

hơn. Các tổng kết về đất lúa nước có năng suất cao thì tỉ lệ cát/bùn là 3/7-4/6. Đất lúa
tốt ở Thái Lan có 48% thịt và 27% sét, cịn ở Ý thì lại thấy có 90% sét vật lý là cho năng
suất lúa cao.
Tuy nhiên trong thực tế người ta vẫn có thể đạt năng suất lúa cao trên đất cát,
trong điều kiện thâm canh tốt (Nguyễn Thế Đặng và ctv, 1999).
3.2.2. Kết cấu đất
Trong quá trình canh tác ở điều kiện ngập nước các hạt kết lớn sẽ bị phá vỡ thành
hạt kết bé có kích thước 0,25 -0,005mm. Nếu đất lúa có kết cấu tốt thì dù hạt kết bị phá
vỡ mạnh thì phần lớn cũng dừng lại ở kích thước vi hạt kết chứ khơng thể phá vỡ đến
kích thước hạt đơn. Vì thế khi đánh giá kết cấu đất lúa nước người ta thường căn cứ vào
tỉ lệ hạt kết. Các tác giả Trung Quốc cho rằng đất lúa tốt thường chứa trung bình 20 27% vi hạt kết (Nguyễn Thế Đặng và ctv, 1999).
3.2.3. Tính thấm nước
Đất lúa cần có tính thấm nước tốt nhưng cũng cần có tính thấm để đổi mới hoàn
cảnh dinh dưỡng cho tầng canh tác. Như vậy độ chặt của tầng đế cày có vị trí rất quan
trọng, nếu tầng đế cày quá chặt thì đất bị bí, nếu q xốp thì thấm nước nhanh mất


nước, trôi mất dinh dưỡng. Theo tài liệu nghiên cứu thì tại Nhật Bản tốc độ thấm nước ở
ruộng lúa năng suất cao là 2,3-2,5cm/ngày. Còn ở Trung Quốc nghiên cứu tốc độ thấm
nước đất lúa là 1,3-1,5cm/ngày. Ở Việt Nam Một số tác giả cho rằng 2-3cm/ngày là tốt
nhất (Nguyễn Thế Đặng và ctv, 1999).
3.2.4. Trạng thái pH và các chất dinh dưỡng
Cây lúa nước có thể sinh trưởng trong mơi trường pH biến động từ 4-9, sinh
trưởng bình thường ở pH =5-8, nhưng sinh trưởng thích hợp nhất ở pH =6-7. Ở Việt
Nam pH xung quanh 5,9 cho năng suất cao nhất.
Đáng lưu ý là khi Eh giảm thì pH, lân dễ tiêu, NH4+, tăng lên ở đất chua. Tuy
nhiên quan hệ giữa pH đất và lân dễ tiêu là một vấn đề khá phức tạp, nhiều kết quả
nghiên cứu sơ bộ kết luận khi pH từ 5,5-6,5 lân sẽ giải phóng nhiều nhất cịn nếu thấp
hơn hoặc cao hơn đều bị cố định khá nhiều.
Kali trong đất lúa, khi mà việc cung cấp N và P chưa cao thì vai trị của nó bị mờ

nhạt. Nhưng khi bón đầy đủ N và P cho lúa nhiều năm thì Kali bị thiếu và trở thành yếu
tố hạn chế năng suất lúa (Nguyễn Thế Đặng và ctv, 1999).
4. CÁC NHÓM ĐẤT NGHIÊN CỨU (ĐẤT PHÙ SA NHIỂM MẶN)
Đất phù sa diện tích khoảng 3,4 triệu ha, tập trung chủ yếu Đồng bằng sông
Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), được hình thành và bồi đắp bởi phù sa
của hệ thống sông lớn. Đây là loại đất tương đối màu mỡ, thành phần chất dinh dưỡng
đầy đủ, nước chủ động, phản ứng trung tính ít chua. Thích hợp với nhiều loại cây trồng
như lúa, rau, màu, cây ăn quả. Đây cũng là vùng đất trọng điểm lúa của cả nước.
Sự phân hố các loại hình khác nhau của đất phù sa nhiễm mặn dựa trên cơ sở
mức độ ảnh hưởng mặn. Dựa vào chỉ tiêu hoá học như: EC (độ dẫn điện), SAR (tỉ số
natri hấp thụ), ESP (phần trăm Natri trao đổi) và hàm lượng các muối hoà tan trong đất,
có thể phân thành các loại đất khác nhau như đất nhiễm mặn thường xuyên, đất nhiễm
mặn cục bộ, hoặc các loại đất mặn khác.
Riêng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, trị số EC được dùng làm chỉ tiêu để xác
định tầng chẩn đoán salic. Nếu trị số EC > 15mmhos.cm- trong tầng 0 -50 cm cho thấy
đây là nhóm đất mặn thường xuyên, nếu EC > 15mmhos.cm- ở độ sâu 50-100 cm cho
nhóm đất mặn cục bộ.


Phần lớn nhóm đất mặn phân bố dọc theo đường vòng cung (Rạch Giá đi Hà
Tiên, Bán đảo Cà Mau và vùng ven biển các tỉnh: Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre và Tiền
Giang) bao gồm các loại đất: Typic Tropaquepts salic, Typic Humaquepts salic, Aeric
Humaquepts salic, Fluventic Ustroquepts salic.
Đất chủ yếu hình thành và phát triển trên các đầm mặn cổ, đồng thuỷ triều thuộc
hệ ven biển hoặc trầm tích giữa sơng. Địa hình thay đổi từ trung bình đến hơi cao biến
động từ 1-1,5 m. Nhìn chung đây là nhóm đất đang phát triển đã hình thành các tầng rõ
rệt. Độ phì nhiêu trung bình - khá, lân dễ tiêu và kali tổng số khá, đạm trung bình, phản
ứng đất trung tính (Trần Kim Tính, 2003).
4.1. Nhóm đất Fluventic salic (đất phù sa nâu phát triển mạnh, nhiễm mặn)
Theo Trần Kim Tính (2003), nhóm đất Fluventic salic thuộc bộ phụ Tropepts là

những Inceptisols thoát nước tốt của vùng ẩm ướt, chênh lệch nhiệt độ đất ở độ sâu 50
cm giữa tháng lạnh nhất và ẩm nhất, không quá 50C. Một nhóm lớn được tìm thấy là:
 Nhóm lớn Ustropepts

Ustropepts là tropepts giàu base, thường gặp ở vùng có mùa khô phân biệt. Tiêu
chuẩn để phân loại Tropepts là chế độ ẩm của đất là Ustic và có chế độ bảo hòa base
bằng hoặc trên 50 % trong tất cả các tầng giữa độ sâu 25cm và 100cm. Có hai nhóm
phụ:
-

Nhóm phụ Typic Ustropepts: là Ustropepts khơng có đốm, có chroma bằng
hoặc nhỏ hơn 2 trong vịng 1 mét .

-

Nhóm phụ Fluventic Ustropepts: là Ustropepts có chất hữu cơ trên 0,2 % đến
độ sâu 1,25 m. Nhóm đất Fluventic salic thuộc nhóm phụ Fluventic Ustropepts
nhưng được hình thành trong điều kiện có mặn.

4.2. Nhóm đất Tropaquepts salic (đất phù sa đang phát triển điển hình, nhiễm
mặn)
Theo Trần Kim Tính (2003), Nhóm đất Tropaquepts salic thuộc bộ phụ Aquepts là
những Inceptisols bị bão hịa nước ít nhất một phần trong năm, hoặc hàm lượng Natri
cao trong 50 cm lớp đất mặt, hoặc có màu xám và đốm rỉ đỏ ngập nước từng thời kỳ.


Tiêu chuẩn để phân loại Aquepts là đất có chế độ ẩm aquic, hoặc được thốt thủy nhân
tạo và có một trong những đặc tính:
-


Có tầng Histic.

-

Có tầng Sulfuric mà giới hạn trên nằm trong vịng 50 cm lớp mặt.

-

Có tầng Umbric hoặc Mollic và Chroma của tầng nằm dưới tiếp theo đó hoặc ở
độ sâu nhỏ hơn 50cm bằng hoặc nhỏ hơn 1 nếu khơng có đốm, hoặc là < 2 nếu
có đốm rỉ.

-

Có tầng Uchric, và dưới đó là tầng Cambric ở độ sâu 50 cm có chroma là 1 hoặc
nhỏ hơn nếu khơng có đốm, hoặc là 2 nếu có đốm .

Có ba nhóm lớn được tìm thấy
 Nhóm lớn Sulfaquepts
Đó là đất phèn nó trở nên rất chua ở tầng mặt sau khi bị thoát thủy và oxy hóa.
Tiêu chuẩn phân loại Sulfaquepts là tầng sulfuric mà giới hạn trên nằm trong vịng
50 cm. Có hai nhóm phụ:
-

Nhóm phụ Typic sulfaquepts: là sulfaquepts khơng tầng Histic trên mặt.

-

Nhóm phụ Histic sulfaquepts: là Sulfaquepts có tầng Histic trên mặt .


 Nhóm lớn Tropaquepts
Là Aquepts ở vùng ấm áp liên tục, có màu xám ở tầng mặt và có đốm rỉ ở tầng dưới
sâu. Mức thủy cấp dao động theo mùa nhưng thường cao quanh năm. Tiêu chuẩn phân
loại là sự khác biệt nhiệt độ bình quân của đất ở độ sâu 50cm giữa mùa hè và mùa đơng
dưới 5oC có 4 nhóm phụ:
-

Nhóm phụ typic Tropaquepts: là Tropaquepts có màu nền của tầng đất ở độ sâu
20 đến 50cm có một trong những điểm sau:
• Chroma bằng hoặc nhỏ hơn 1, dù có đốm hay khơng.
• Chroma bằng hoặc nhỏ hơn 2, nếu Hue vàng hơn 2,5Y.
• Chroma bằng hoặc nhỏ hơn 2, và value trên 5, nếu Hue đỏ hơn 2,5Y.

-

Nhóm phụ Aeric Tropaquepts: là Tropaquepts khơng đạt qui định màu sắc như ở
typic Tropaquepts.

-

Nhóm phụ Sulfic Tropaquepts: là trpaquepts có tầng Sulfuric xuất hiện ở độ sâu
từ 50-100cm.


-

Nhóm phụ Pale Sulfic Tropaquepts: là Tropaquepts có tầng sulfic xuất hiện ở độ
sâu từ 100-150cm.
Nhóm đất Tropaquepts salic thuộc nhóm lớn Tropaquepts nhưng được hình
thành trong điều kiện có mặn.


 Nhóm lớn Humaquepts

Là Aquepts có tầng mặt gần như đen hoặc than bùn, rất ướt, chua. Nếu khơng được
thốt nước, hầu hết đất này đều bị ngập nước một thời gian trong năm chúng hầu hết ở
thời kỳ trầm tích Holocen hoặc Pleistocene muộn. Tiêu chuẩn phân loại là những
Aquepts có tầng Umbric, Mollic hoặc Histic có 4 nhóm phụ:
-

Nhóm phụ Typic Humaquepts: là những Humaquepts có màu nền của tầng đất ở
độ sâu từ 20 đến 50cm có một trong những đặc tính sau:
• Chroma bằng hoặc nhỏ hơn 1, dù có đốm hay khơng .


Chroma bằng hoặc nhỏ hơn 2, nếu Hue vàng hơn 2,5Y.

• Chroma bằng hoặc nhỏ hơn 2 và value trên 5, nếu Hue đỏ hơn 2,5Y.
-

Nhóm phụ Aeric Humaquepts: là Humaquepts khơng đạt qui định màu như
Typic.

-

Nhóm phụ Sulfic Humaquepts: là Humaquepts có tầng sulfuric xuất hiện ở độ
sâu từ 50-100cm.

-

Nhóm phụ Pale Sulfic Humaquepts: là Humaquepts có tầng sulfuric xuất hiện ở

độ sâu từ 100-150cm.

5. THỰC TRẠNG ĐỘ PHÌ NHIÊU ĐẤT ĐBSCL VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA
THÂM CANH LÚA ĐẾN GIẢM ĐỘ PHÌ
5.1. Thực trạng
Theo Võ Tòng Xuân (1997), hội nghi tư vấn FAO về lương thực lâu bền tại
Bangkok vào cuối tháng 10 năm 1996 vừa qua cho thấy tốc độ tổng gộp tăng trưởng về
sản lượng và năng suất lúa của Châu Á đã giảm từ 2,6 % trong những năm 1960 xuống
1,5% trong những năm cuối thập kỷ 1990, chậm hơn tỷ lệ tăng dân số Á Châu. Những
nguyên nhân liên quan đến tài nguyên đất ảnh hưởng đến sự giảm sản lượng lúa có thể
được bao gồm các nguyên nhân như:
- Sự thối hóa đất: ngập úng, mặn hóa, axit hóa, xói mịn.


- Giảm độ phì: giảm hữu cơ và các dưỡng chất khác, giảm một số vi sinh vật (trùng, vi
khuẩn).
- Mất cân đối dinh dưỡng: giữa N và P hoặc K, giữa NP và K, giữa NPK.
Các chuyên gia tư vấn của FAO cho rằng để được xếp vào hệ thống thâm canh
một hệ thống canh tác phải sản xuất ít nhất 8 tấn/ha/năm qui ra thóc, với tốc độ quay
vịng của thóc ít nhất là 2. Các hiện tượng giảm năng suất trên thường chỉ xảy ra trên
các ruộng lúa thâm canh (Võ Tòng Xuân, 1997).
Theo Nguyễn Hữu Chiếm và ctv (1999), về ảnh hưởng thâm canh ở ba nhóm
ruộng có thời gian canh tác 3 vụ lúa khác nhau (nhóm dưới 8 năm, nhóm 8-15 năm, và
nhóm trên 15 năm) thì năng suất lúa có xu hướng giảm dần theo thời gian canh tác cả 3
vụ Đông Xuân, Hè Thu, Thu Đông. Kết quả cũng cho thấy muốn tăng năng suất lúa
phải tăng lượng phân bón. Kết quả trên cũng tương tự của Cassman và Descalsota
(1992) với những thí nghiệm thâm canh lúa ở Phillipines và Ấn Độ cho rằng năng suất
lúa giảm từ 50 - 142 kg/ha mỗi năm theo thời gian canh tác liên tục trong gần 30 năm.
Giảm năng suất ngoài những yếu tố do giống, bức xạ mặt trời mà còn những yếu tố khác
như: sự mất cân đối về dưỡng chất, ngộ độc hữu cơ và sự thay đổi của vi sinh vật do áp

dụng nhiều thuốc hóa chất nơng nghiệp.
5.2. Ảnh hưởng của thâm canh lúa đến độ phì
5.2.1. Ảnh hưởng đến đặc tính vật lý đất
Theo Võ Quang Minh (2006), qua khảo sát đánh giá một số đặc tính hóa lý đất trên
vùng đất thâm canh 3 vụ lúa tại Tiền Giang cho thấy tầng đất mặt do ngập nước liên tục
có hiện tượng lầy thụt, tầng B có xu hướng bị tích tụ sét và bị nén dẽ theo thời gian. Đa
số nông dân chuẩn bị đất bằng cơ giới và độ sâu cày mỏng 10-15cm nên sự nén chặt
càng mạnh. Nông dân chuẩn bị đất trong lúc đất ngập nước nên tiến trình rửa trơi theo
chiều sâu đất càng tăng mạnh, chiều dày của tầng đế cày càng tăng theo thời gian canh
tác. Tầng đế cày làm tăng khả năng giữ nước trên ruộng lâu hơn, kiểm soát cỏ dại dễ
hơn, phân bón vào đất ít bị rửa trơi xuống tầng bên dưới, nhưng độ dày tầng đế cày cũng
hạn chế sự phát triển rễ cây trồng.
Trên vùng đất thâm canh 2 - 3 vụ lúa tại huyện Chợ Mới - An Giang thì nơng dân
khơng sử dụng phân hữu cơ cho lúa và rơm rạ bị lấy đi hoặc đốt ngồi đồng sau thu
hoạch, và nếu chỉ bón phân khống và canh tác độc canh, khơng chú ý đến việc bón


phân hữu cơ thì trong vịng 20-50 năm đất sẽ bị bạc màu, mất cấu trúc, rời rạc, năng
suất cây trồng giảm mạnh. Hơn 40 năm qua nhờ hiệu quả nhanh và rõ nên phân hóa học
đã trở nên thơng dụng trong canh tác lúa cao sản. Khi sử dụng phân vơ cơ thường xun
đất cũng bị thối hóa do mất cấu trúc vì một lượng lớn bazơ bị đẩy khỏi keo đất vào
dung dịch và có thể bị rửa trơi làm cho đất bị ciment hóa (Võ Quang Minh, 2006).
5.2.2. Ảnh hưởng đến đặc tính hóa học đất
 Chua hóa trên đất thâm canh lúa
Việc sử dụng phân bón vô cơ nhất là loại phân vô cơ thuộc sinh lý chua (Urea,
K2SO4, (NH4)2SO4, KCl, super photphat) còn tồn dư axit luôn làm cho đất chua. Theo Đỗ
Thị Thanh Ren (1999), do bón thêm đạm vơ cơ, lân, và kali để tăng năng suất cây trồng
trong quá trình canh tác, mà cây trồng chỉ sử dụng một phần lượng phân bón này, phần
cịn lại bị rửa trơi, hoặc bị kiềm giữ lại trong đất như đạm nitrate chuyển thành NO 3- và
NO2- hoặc NH4 sẽ biến chuyển thành NO3-, trong q trình biến chuyển sẽ phóng thích ra

nhiều ion H+ sẽ làm cho đất trở nên chua. Hoặc sử dụng các loại phân bón có chứa một
ít lượng acid tự do, nên khi bón vào đất cũng làm cho đất trở nên chua thêm.
 Sự thay đổi đạm trong đất
Theo Võ Thị Gương (1998), trong điều kiện thâm canh ba vụ lúa ở ĐBSCL trên
đất phù sa cho thấy do thường xuyên ở trạng thái khử nên đã làm giảm tốc độ khống
hóa và sự phản ứng đạm của cây lúa.
Theo Nguyễn Bảo Vệ và ctv (1998) cũng cho thấy, đất trồng ba vụ lúa tuy hàm
lượng N tổng số có cao hơn đất trồng hai vụ hoặc trồng màu, nhưng phần trăm khống
hóa của đất trồng ba vụ lúa kém nhất. Có lẽ do đất trồng ba vụ lúa bị ngập nước quanh
năm, sự phân hủy chậm đã tạo được chất hữu cơ nhưng chất hữu cơ này kém chất lượng
đã ảnh hưởng đến khả năng khống hóa N của đất trồng lúa ba vụ.
Theo Trần Quang Tuyến (1997), canh tác 3 vụ lúa càng dài thì càng ảnh hưởng đến
đất đai. Đất canh tác 3 vụ lúa/năm tại Chợ Mới, An Giang có hàm lượng đạm trung bình
là 0,19% được đánh giá ở mức trung bình đến khá.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái độ phì nhiêu đất như xói mịn, rửa
trơi,... nhưng quan trọng nhất là qua nhiều năm cây trồng đã lấy đi từ đất một lượng chất


dinh dưỡng đáng kể mà khơng hồn trả lại cho đất đầy đủ, do thâm canh tăng vụ và việc
sử dụng phân bón khơng cân đối.
 Sự thay đổi chất P trong đất
Theo Đỗ Thị Thanh Ren (1985), sự cầm giữ lân bởi các thành phần khoáng của đất
chua thường là kết quả từ phản ứng của các ion photphat với sắt nhơm và có thể các
khống sét silicate. Phân lân bón vào đất phèn chủ yếu chuyển sang dạng Fe-P và Fe-P
sau 15 ngày ngập nước, chiếm 80 - 90% tổng lượng phân lân của 4 nhóm phân vơ cơ.
Hàm lượng sắt nhơm trong đất giảm đi nhanh chóng sau 15 - 20 ngày. Đất ở điều kiện
oxy hóa cố định nhiều P hơn dưới điều kiện khử.
Số lượng chất lân hàng năm cây trồng lấy đi của đất nhiều hơn là trả lại cho đất, thí
nghiệm bón phân cho lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy để có thể thu hoạch 1
tấn lúa, cây đã hút từ đất 6 - 7 kg P2O5. Ở vùng ngập lũ phù sa và bồi hàng năm cũng

góp phần cung cấp chất lân cho cây trồng. Những lớp phù sa dày 1cm thì sẽ có 19 kg
P2O5. Nơng dân ĐBSCL thường bón vụ đơng xn và hè thu cùng một lượng phân, điều
này chưa phù hợp mà cần phải giảm 20% P2O5 cho vụ đông xuân và tăng 20% cho vụ hè
thu thì sẽ tăng năng suất rõ rệt (Võ Quang Minh, 2006).
 Sự thay đổi chất K trong đất thâm canh 3 vụ lúa
Theo các thí nhiệm về sự cố định kali của Nguyễn Bảo Vệ và ctv (1998), cho thấy
hầu hết đất lúa ĐBSCL đều có sự cố định kali, nhưng sự cố định nhiều nhất ở đất 3 vụ
lúa. Có lẽ sau nhiều năm canh tác khơng bón kali hay bón khơng đủ lượng bị lấy đi, nên
kali ở giữa những phiến sét được phóng thích ra ở dạng dễ tiêu hơn, nên khi bón kali
vào đất sẽ dẫn đến tình trạng sự hấp phụ mạnh kali để bù đắp vào những vị trí trên, gây
nên sự cố định kali.
Theo Nguyễn Mỹ Hoa (2003) cũng cho thấy, trên đất thâm canh hai vụ lúa ở
ĐBSCL nếu được bón thêm một ít phân K và khơng lấy đi rơm rạ thì có sự cân bằng
dương giữa lượng K vào và mất đi, trong khi có sự cân bằng âm ở đất cơ cấu 3 vụ lúa.
Theo Võ Quang Minh (2006), cho thấy trên đất phù sa và đất phèn vùng ĐBSCL
có khả năng hấp phụ K rất cao sau khi bón. Với liều lượng 50 kg K/ha thì chưa thấy tác
dụng rõ rệt nếu bón với liều lượng 100kg/ha thì có tác dụng tăng năng suất rõ rệt nhưng
không đem lại hiệu quả kinh tế.


Theo Võ Thị Gương và ctv (1997), sau 30 năm canh tác lúa nhiều vụ trong năm
cho thấy khả năng cung cấp kali giảm đáng kể, lượng kali giảm liên tục qua các vụ. Do
đó kali là thành phần cân bằng điện tích của khống sét, kali mất đi dẫn đến sự mất cân
bằng, phá vở khóang sét điển hình để hình thành nên những khóang sét mới có chất
lượng kém hơn, dẫn đến sự suy thối. Do đó dù cây lúa khơng đáp ứng phân kali nhưng
cần bón để duy trì sự bền vững của đất.
 Sự ngộ độc chất hữu cơ trên đất thâm canh

Ở ĐBSCL do phải tránh lũ trong năm nên một số vùng các vụ lúa diễn ra liên tục
và đất trồng lúa gần như ln ở tình trạng khử, đặc biệt ở những vùng canh tác ba vụ luá

trong năm điều này dẫn đến cây dễ ngộ độc chất hữu cơ (Lê Quang Trí, 1998).
 Ảnh hưởng đến các đặc tính sinh học
Canh tác độc canh lúa nhiều năm liên tục tạo điều kiện cho sâu bệnh phát triển do
nguồn thức ăn cung cấp liên tục tạo nơi ẩn náo giúp sâu bệnh tồn tại từ vụ này sang vụ
khác, do đó phải sử dụng một lượng lớn thuốc bảo vệ thực vật. Việc sử dụng nông dược
một cách thường xuyên đã làm giảm sự phong phú về loài và số lượng quần thể của
lồi. Sử dụng nhóm thuốc gốc carbamat thì tất cả động vật đều mẫn cảm như nhau đối
với loại thuốc này. Ngoài ra thuốc trừ sâu carbofuran (furadan) khi tồn tại trong đất với
liều lượng cao có thể làm giảm mật số các loài trùng (Võ Quang Minh, 2006).
Trong thâm canh lúa thì lượng phân hóa học được sử dụng để tăng năng suất lúa là
chủ yếu. Sử dụng phân hóa học với liều lượng cao liên tục trong nhiều năm đã ảnh
hưởng đến vi sinh vật sống trong môi trường đất. Các Rhizobum sẽ bị giảm khả năng cố
định đạm khi mà hàm lượng đạm dễ tiêu trong đất cao hoặc bón quá nhiều đạm. Bón rải
phân đạm thường làm thuận lợi cho các lồi tảo khơng cố định đạm (Võ Quang Minh,
2006).


6. ĐẶC ĐIỂM VÙNG NGHIÊN CỨU
6.1. Điều kiện tự nhiên
Tỉnh Sóc Trăng nằm giáp tỉnh Hậu Giiang ở phía Tây-Bắc, giáp tỉnh Bạc Liêu ở
phía Tây-Nam, giáp tỉnh Trà Vinh ở
phía Đơng-Bắc và giáp biển Đơng ở
phía Đơng Nam.
Có tọa độ địa lý:
9014’28’’ đến 9055’30” vĩ Bắc.
105034’16” đến 160017’50” kinh độ
đơng.
Theo thống kê 2003 thì tổng diện
tích tự nhiên của tỉnh là 322.330,36 ha,
dân số toàn tỉnh là 1.243.982 người

gồm 8 huyện 1 thị xã với

Hình 2: Bản đồ ranh giới hành chánh tỉnh Sóc Trăng

105 xã, phường, thị trấn và 741 ấp (Nguyễn Hồng Phúc, 2005).
6.1.1. Vị trí địa lý kinh tế
Tỉnh Sóc Trăng nằm trong vùng ĐBSCL có bờ biển dài 72 km rất thuận lợi cho việc phát
triển kinh tế biển. Ngồi hai cửa sơng lớn Trần Đề và Định An. Sóc Trăng cịn là cửa ngõ ra
vào bán đảo Cà Mau. Tỉnh có 56 km quốc lộ1A nối liền hai tỉnh Bạc Liêu và Hậu Giang. Tỉnh
Sóc Trăng cùng nằm trong vùng biển Thái Bình Dương với các nước: Philippin, Indonesia,
ThaiLand, Malaysia, Singapore (Nguyễn Hoàng Phúc, 2005).
6.1.2. Khí hậu:

 Nhiệt độ
Nhiệt độ trung bình 26,7 - 26,8 0C và ổn định. Trong năm nhiệt độ cao nhất là
37,80C (vào tháng 4/1958) và thấp nhất 190C (vào 1/1998).
 Nắng
Tổng bức xạ trung bình trong năm tương đối cao, trong năm đạt 140 - 150
Kcal/cm2, cao nhất thường vào tháng 3 thấp nhất thường vào tháng 10.
 Ẩm độ
Ẩm độ trung bình 83,4% cả năm, cao nhất là 96% vào mùa mưa và thấp nhất là
62% vào mùa khô.


×