Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Đánh giá đặc tính vật lý – hóa học đất vườn trồng cam quýt ở huyện Lai Vung – Đồng Tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.77 MB, 53 trang )

MỞ ĐẦU
Đất là một tài nguyên vô giá mà tự nhiên đã ban tặng cho con người để sinh tồn và
phát triển. Đất là tư liệu sản xuất, là đối tượng lao động, là vật mang được đặc thù bởi
tính chất độc đáo mà không vật thể tự nhiên nào có được – đó là độ phì nhiêu (Lê Văn
Khoa, 2004).
Đất được hình thành, phát triển và thoái hóa theo thời gian dưới tác động của điều
kiện tự nhiên và các hoạt động của con người (Wada, 2000).
Ở Đồng bằng sông Cửu Long, các nghiên cứu về sự thoái hoá vật lý, hoá học và
sinh học ở các vùng đất thâm canh 03 vụ lúa/năm; trên các vườn cây ăn trái nhiều năm
tuổi bước đầu nghiên cứu cho thấy sự giảm hàm lượng chất hữu cơ, độ nén dẽ cao, hệ số
thấm của nước thấp (Võ Thị Gương, 2004).
Do hiệu quả kinh tế cao, những năm gần đây nhiều nhà vườn đã cải tạo vườn tạp,
nhiều chủ vườn đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng cũ hiệu quả kinh tế thấp sang trồng
chuyên canh cây ăn trái. Bên cạnh những kết quả và lợi nhuận thu được thì cũng có
nhiều nhà vườn chưa hiểu biết rõ về kỹ thuật canh tác nên dẫn đến tình trạng làm cho
đất bị suy thoái nghiêm trọng. Đất có tình trạng lớp đất mặt bị đóng váng dẫn đến tình
trạng rễ cây không hấp thụ được nước và các chất dinh dưỡng khác.
Quýt Hồng là cây trồng chủ lực của huyện Lai Vung vì mang lại hiểu quả kinh
tế cao. Tuy nhiên trong canh tác nhà vườn còn mang tính tự phát, áp dụng các tiến bộ kỹ
thuật chưa đồng bộ, nên chất lượng đất dễ bị suy thoái
Vì thế, việc khảo sát đánh giá đặc tính vật lý – hóa học trên vùng đất trồng cam
quýt ở huyện Lai Vung – Đồng Tháp là một vấn đề rất cần thiết. Do đó, đề tài “Đánh
giá đặc tính vật lý – hóa học đất vườn trồng cam quýt ở huyện Lai Vung – Đồng
Tháp” được thực hiện.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ĐÁNH GIÁ TÍNH VẬT LÝ
– HÓA HỌC TRÊN ĐẤT TRỒNG CAM QUÝT
1.1. Các tính chất vật lý đất trên đất trồng cam, quýt
1.1.1 Thành phần cơ giới đất
Tỷ lệ các cấp hạt giữa các phần tử cơ giới có kích thước khác nhau trong đất được
biểu thị theo phần trăm trọng lượng được gọi là thành phần cơ giới (Nguyễn Thế Đặng


và ctv, 1999).
Thành phần cơ giới còn được hiểu là tỷ lệ giữa các cấp hạt cát, thịt, sét trong đất
(Henry et al, 1990).
Thành phần cơ giới của đất là hàm lượng phần trăm của những nguyên tố cơ học
có kích thước khác nhau khi đoàn lạp đất ở trong trạng thái bị phá huỷ (Trần Kông Tấu,
2006).
Các hạt có kích thước khác nhau trong thể rắn của đất gọi là phần tử cơ giới. Các
phần tử cơ giới hình thành chủ yếu do quá trình phong hoá đá mà ra. Tỷ lệ phần trăm
các cấp hạt có kích thước khác nhau trong đất gọi là thành phần cơ giới (Dương Minh
Viễn, 2004).
Theo Nguyễn Đăng Nghĩa và ctv (2005), đất là vật thể bao gồm các kích thước hạt
có kích thước khác nhau. Chính các cấp hạt này gọi là thành phần cơ giới. Tuỳ theo tỷ lệ
các cấp hạt mà đất có tính chất khác nhau. Ba cấp hạt: cát (Sand), thịt (Silt), sét (Clay)
sẽ tạo nên kết cấu của đất. Tỷ lệ các cấp hạt khác nhau dẫn đến sự khác nhau về đặc
điểm tính chất như: tỷ trọng, dung trọng, khả năng giữ nước, tính bền của đất... Thành
phần cơ giới là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá độ phì của đất (Nguyễn Đăng Nghĩa
và ctv, 2005). Đất Đồng bằng sông Cửu Long đa số là đất phù sa màu mỡ, có thành phần
cơ giới nặng nên khả năng giữ nước và hấp phụ chất dinh dưỡng tốt chính vì thế phục
vụ rất tốt cho việc sản xuất nông nghiệp.
Thành phần cơ giới đất là một chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng đến đặc tính của đất
như sự thấm nước, sự kiềm giữ nước, sự phát triển của rễ cây (Raymond W. Miller et al,
2001) Trong nông nghiệp, thành phần cơ giới có ý nghĩa rất quan trọng trong nghiên cứu
phát sinh đất, loại đất và các quá trình thổ nhưỡng của đất. Nhiều tính chất hoá học, vật
lý như khả năng giữ ẩm, khả năng giữ nhiệt và động thái nhiệt, chế độ khí và động thái
khí, CEC và khả năng điều tiết chất dinh dưỡng...đều liên quan đến thành phần cơ giới
(Viện thổ nhưỡng nông hóa, 1998).

1.1.2 Tính bền cấu trúc
Độ bền đoàn lạp là tính bền của tập hợp các phần tử đất, là đặc tính cấu trúc quan
trọng của đất giúp đo lường mức độ chịu đựng của đất dưới tác động của mưa, các lực

cơ giới khi cày hoặc hoạt động tưới nước.
Tính bền cấu trúc đất phụ thuộc vào hàm lượng của chất hữu cơ, hàm lượng sét và
các oxit sắt (Trần Kim Tính, 2003).
Tính bền của đất được xem như là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá
chất lượng đất đai. Tính bền của đất có thể tác động mạnh mẽ đến đặc tính đất cả về hoá
học và lý học (Lê Văn Khoa, 2003).
1.1.3 Dung trọng
Dung trọng đất là một đặc tính quan trọng dùng để đánh giá độ phì vật lý và hoá
học đất (Trần Bá Linh và ctv, 2006). Dung trọng phụ thuộc vào thành phần khoáng,
thành phần cơ giới, hàm lượng chất hữu cơ, cấu trúc và kỹ thuật làm đất. Độ tơi xốp của
đất thường cao nhất ngay sau khi làm đất, sau đó bị nén dẽ dần và dung trọng tăng lên,
sau một thời gian dung trọng sẽ đạt cân bằng và không thay đổi. Đất có dung trọng thích
hợp nhất cho cây là 1,0 -1,1 g/cm
3
. Đối với cây lúa, dung trọng thấp đôi khi có hại vì đất
không giữ được nước. Dung trọng >1,2 g/cm
3
và ở tầng đế cày >1,4 g/cm
3
là rất thích
hợp cho cây lúa (Võ Thị Gương và ctv, 2004).
Để đảm bảo cho cây trồng phát triển tốt đối với đất thịt thì dung trong 1,1- 1,4
g/cm
3
, đối với đất sét thì dung trọng 1,4 g/cm
3
và đất cát dung trọng khoảng 1,6 g/cm
3
(Raymond W. Miller et al, 2001). Theo Lê Văn Khoa (2004), giá trị dung trọng bình
quân của đất thịt có canh tác biến động trong khoảng 1,1- 1,4 g/cm

3
. Để cây trồng phát
triển tốt dung trọng nên giới hạn trong khoảng 1,4-1,6 g/cm
3
với đất cát. Dung trọng
cũng được tính toán tổng lượng nước có thể bị giữ bởi đất theo một thể tích nào đó và
cũng để đánh giá khả năng phát triển của hệ thống rễ cây trồng và độ thoáng khí của đất
(Lê Văn Khoa, 2004).
1.1.4 Tỷ trọng
Tỷ trọng thể rắn của đất là tỉ số giữa trọng lượng thể rắn đất (đất không có khoảng
trống) của một thể tích nhất định và trọng lượng của nước cùng thể tích (Viện thổ
nhưỡng nông hóa, 1998).
Tỷ trọng đất là một thông số quan trọng giúp ta có thể ước lượng thành phần
khoáng chủ yếu cũng như hàm lượng chất hữu cơ của một loại đất (Trần Bá Linh và ctv,
2006). Theo Trần Kim Tính (2003), tỷ trọng của đất thay đổi từ 2,5 g/cm
3
đến 2,8 g/cm
3
.
Ở những loại đất khác nhau tỷ trọng sẽ khác nhau. Thường trong những đất khoáng hay
có thạch anh, fenspat, kaolinite, tỷ trọng của chúng thay đổi trong khoảng 2,55 – 2,74 g/
cm
3
. Tỷ trọng thể rắn của những đất nghèo mùn trên các tầng mặt thay đổi trong khoảng
2,50 – 2,74 g/cm
3
. Ở những tầng tích tụ sâu hơn, do chứa một lượng lớn hợp chất sắt
nên tỷ trọng thường tăng, có trường hợp đạt 2,75 – 2,8 g/cm
3
. Ngược lại ở những đất

giàu mùn tỷ trọng của chúng giảm đến 2,40 – 2,30 g/cm
3
(Trần Kông Tấu, 2006).
Nhìn chung tỷ trọng của đất đa số nhỏ ở các loại đất mùn và thường lớn ở những
loại đất khoáng. Do vậy thông thường ở những tầng mặt thì tỷ trọng của đất nhỏ so với
các tầng sâu hơn.
1.1.5 Độ xốp
Độ xốp của đất là phần trăm thể tích của đất được chiếm bởi không khí và nước
(Trần Bá Linh và ctv, 2006). Độ xốp là tổng các tế khổng trong đất biểu thị bằng % thể
tích đất. Độ xốp đất phụ thuộc vào cấu trúc đất, thành phần cơ giới, dung trọng và tỷ
trọng đất. Khả năng thoáng khí, khả năng giữ nước phụ thuộc lớn vào độ xốp đất. Đối
với cây lúa độ xốp là chỉ tiêu không quan trọng, ngoại trừ các mao quản, lượng tế khổng
lớn chứa khí trong đất phải không dưới 25% cho đất canh tác cây trồng cạn. Độ xốp
thích hợp cho hầu hết sự tăng trưởng của cây trồng là 50%. (Võ Thị Gương và ctv,
2004).
Sự trao đổi không khí đặc biệt là sự khuếch tán oxy có ý nghĩa rất quan trọng cho
cây trồng. Việc giảm chất hữu cơ trong đất sẽ đưa đến giảm độ xốp đất. Đất kém thông
thoáng có thể giới hạn sự phát triển của rễ, đặc biệt ảnh hưởng đến việc hấp thu chất
dinh dưỡng (Lipiec and Stepniewski, 1995).
1.1.6 Hệ số thấm (Ksat)
Hệ số thấm bảo hoà Ksat là thông số chính để dự đoán dòng chảy bảo hoà trong
đất, ngoài các tác nhân khác làm ảnh hưởng đến hệ số thấm, sa cấu và cấu trúc đất cũng
làm cho hệ số thấm bị thay đổi một cách đáng kể. Chỉ tiêu này dùng để phân biệt khả
năng thấm và thoát nước của đất. Đất có giá trị Ksat cao sẽ có tác dụng thấm nước và
thoát nước nhanh không bị ngập úng (Radeliffe and Rasmussen, 2000).
Hầu hết đất lúa nước đạt năng suất cao tại Nhật Bản có tốc độ thấm trong khoảng
20 – 30mm/ngày (Takai and Mada, 1997). Riêng ở Trung Quốc để đạt được năng suất
cao, tốc độ thấm trong đất từ 9 – 15 mm/ngày (Yang and Chen, 1961). Thực tế thì tốc độ
thấm tối hảo cho năng suất lúa tuỳ thuộc vào hàm lượng chất hữu cơ trong đất và điều
kiện hoạt động thích hợp của vi sinh vật đất. Khi ruộng lúa bị ngập liên tục (với tốc độ

nhỏ hơn 5 mm/ngày) thì tốc độ phân huỷ chất hữu cơ và sự khoáng hoá đạm rất thấp do
đất trong tình trạng bị khử cao.
1.1.7 Lượng nước hữu dụng
Lượng nước hữu dụng là lượng nước được đất dự trữ lại: cây trồng sử dụng dễ
dàng nhất. Nói cách khác độ ẩm hữu dụng là sự chênh lệch giữa độ ẩm đồng ruộng và
độ ẩm cây héo. Độ ẩm có sẳn cho cây là tỉ lệ của ẩm độ hữu hiệu mà cây trồng hấp thu
dễ dàng nhất, thường chiếm khoảng 75 – 80% ẩm độ hữu dụng (Chu Thị Thơm và ctv,
2006).
Lượng nước hữu dụng trong đất được đánh giá thông qua chỉ số pF (lực giữ
nước của nền đất) và trị số này thay đổi đối với các loại đất khác nhau (Kisu, 1978). Các
nhà khoa học đã xác định độ ẩm trong đất bằng khoảng 60 – 75% độ trữ ẩm tối đa để có
một lượng trữ không khí khoảng 15 – 35% thể tích của đất là ẩm độ thích hợp nhất
(Nguyễn Đăng Nghĩa và ctv, 2005).
1.1.8 Sự kết cứng và đóng váng trên bề mặt đất
Đây là sự kết cứng bề mặt đất trong suốt thời gian đất bị khô cho đến khi đất được
bảo hòa nước trở lại. Đất dưới sự khô cứng trở nên rất cứng và không có cấu trúc. Sự
khô cứng này không bị ảnh hưởng bởi tác nhân bên ngoài (cày, dậm, trục…do động vật
máy móc hoặc con người) mà do tính chất đất tạo ra. Sự khô cứng của đất thay đổi theo
các yếu tố sau đây: Loại sét, tính trương co của đất, sức bền của đất, sự đóng ván bề mặt
đất, tình trạng ngập lũ.
Đất không có cấu trúc có cấu tạo rời rạc, điều đó làm cho trạng thái đất quá chặt,
dính, đường mao quản mỏng, nhỏ, độ xốp kém. Những đất như vậy có tính thấm nước
kém, nước dự trữ trong đất sẽ rất ít, độ dẫn mao quản cao, nước dễ đưa lên bề mặt và
mất nhiều do bốc hơi. Điều đó dẫn đến việc hình thành những lớp váng trên mặt ruộng,
sau khi mưa những lớp váng này dễ bị cứng lại gây cản trở cây trồng và khi khô đất dễ
bị nứt nẻ.
Ở các đất thịt, tác động của các hạt mưa có thể hình thành lớp váng cứng trên mặt
đất. Lớp vỏ cứng trên mặt đất này có thể dầy vài milimet nhưng nó sẽ làm giảm khả
năng thấm nước và tăng dòng chảy trên mặt gây xói mòn đất, làm giảm khả năng nẩy
mầm và phát triển của cây trồng (Lê Văn Khoa và ctv, 2003).

Sự hình thành nên lớp váng ở bề mặt (do sự bong đất mặt) thì thường được thấy
nhiều hơn trên những vùng đất có hàm lượng thịt cao, hay cát mịn và hàm lượng sét của
nó tương đối thấp (Trần Kim Tính, 2003).
Việc canh tác làm phá huỷ cấu trúc đất sẽ làm giảm lượng tế khổng lớn trong đất
và tăng các tế khổng nhỏ ở bề mặt của tầng canh tác ảnh hưởng đến tính thấm của đất
(S.S Prihar et al, 1985).
Sự kết cứng của đất tác động trực tiếp đến sự nẩy mầm của hạt giống, sự tăng
trưởng của cây trồng, khả năng thoáng khí và thoát nước của đất. Tuy nhiên, ở một số
loại đất ở Châu Âu điều này có thể được thay đổi bởi sự thêm vào một lượng các
hydroxide sắt, nhôm vào trong đất như là tác nhân liên kết (Lê Văn Khoa, 2003).
Hình 1.7: Sự đóng váng kết cứng bề mặt khi đất khô
1.2. Hoá học đất
1.2.1 Độ chua hiện tại(pH
H20
)
Theo Ngô Ngọc Hưng và ctv (2004), pH đất là chỉ tiêu đánh giá đất quan trọng, vì
nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của cây trồng, vi sinh vật đất, vận tốc phản ứng
hóa học và sinh hóa trong đất. Độ hữu dụng của dưỡng chất trong đất, hiệu quả của
phân bón cũng phụ thuộc rất nhiều vào độ chua của đất.
pH đất ảnh hưởng đến độ hữu dụng của dinh dưỡng cây trồng, độc chất trong
đất, đến hoạt động của vi sinh vật đất (Tất Anh Thư, 2006). Theo Trần Thành Lập
(1999), đất Đồng bằng sông Cửu Long thường có pH thấp, đất phù sa không phèn
thường có pH = 4,0-5,5. Đất có pH thấp nhất là đất phèn, trên đất phèn nặng pH có thể
<3,0, ở trị số pH này cây chịu phèn mới sống nổi. Đất bị nhiễm mặn thường có pH từ 7
trở lên. Một lọai đất rất acid có pH thấp, đất này thiếu Ca và Mg trao đổi, các chất Al,
Fe, Mn và Bo hòa tan rất nhiều, chất Mo ít hòa tan, độ hữu dụng của N và P rất thấp.
Một loại đất kiềm có pH cao đất này nhiều Ca, Mg và Mo, có ít Al, độ hữu dụng đạm
cao (Trần Thành Lập, 1999). Trên đất mặn pH từ 6,0-7,5 và tỷ lệ với độ mặn (Nguyễn
Văn Luật, 2003). Nếu đất có pH quá cao, đất sẽ thiếu Fe, Mn, Cu, Zn và nhất là thiếu P
và Bo. Ngoài ra vi khuẩn hoạt động tích cực ở các pH trung bình sẽ hoạt động kém.

Tổng quát mà nói thì đất có pH = 6 - 7 là tốt nhất vì ở mức pH này có sự hữu dụng tối
đa của chất dinh dưỡng (Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004). Theo H.Eswaran (1985), đất lúa
nước thường có pH trong khoảng 4,5 và 6. pH tốt nhất cho cây lúa phát triển là pH=5,5
-7,5. Đất có pH thấp hơn 5,2 hay lớn hơn 8,2 đều ảnh hưởng đến sự phát triển của cây
lúa.
1.2.2 Độ chua tiềm tàng (pH
KCl
)
Độ chua tiềm tàng được tính bằng ion H
+
tự do và hấp thu trên bề mặt keo đất.
Thông thường độ chua này lớn hơn độ chua hiện tại và biểu thị khả năng gây chua tiềm
tàng của đất (Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004).
Theo Nguyễn Đăng Nghĩa và ctv (2005), nếu trong dung dịch đất tồn tại nhiều
muối axit mạnh và bazơ mạnh sẽ làm đất có phản ứng trung tính (pH trong khoảng từ
6,0 – 7,0). Nếu trong đất tồn tại nhiều muối axit mạnh và muối bazơ yếu thì đất có phản
ứng chua (pH < 6,0). Nếu trong đất nhiều muối bazơ mạnh và muối bazơ yếu thì đất có
phản ứng kiềm (pH > 7,5). Độ pH của đất còn phụ thuộc vào mức độ thực hiện các phản
ứng trao đổi ion giữa keo đất với dung dịch đất, giữa dung dịch đất và rễ cây.
1.2.3 Chất hữu cơ trong đất
Nguồn gốc nguyên thủy của chất hữu cơ trong đất là mô thực vật, chất hữu cơ gồm
xác bả hữu cơ chưa phân hủy, đang phân hủy và đã phân hủy trong đó có xác bã hữu cơ
động vật, vi sinh vật. Tùy theo thành phần và hàm lượng hữu cơ trong đất mà chúng có
vai trò khác nhau (Trần Thành Lập, 1999).
Theo Nguyễn Thế Đặng và ctv (1999), chất hữu cơ là thành phần cơ bản kết hợp
với các sản phẩm phong hoá từ đá mẹ để tạo thành.
Chất hữu cơ góp phần cải thiện các tính chất lý, hoá và sinh học đất và cung cấp
nhiều chất dinh dưỡng cho cây trồng (Prihar et al, 1985).
Theo Đỗ Ánh (2002) chất mùn trong đất là một nguồn dinh dưỡng có tương quan
rất chặt chẽ với độ phì nhiêu của đất, nhất là trong điều kiện nhiệt đới ẩm của chúng ta.

Những thành tựu nghiên cứu về chất mùn ở điều kiện nhiệt đới ẩm của Castagnol 1942,
Fridland 1958-1964, Duchaufour 1968...đã ghi nhận, về sau Ngô Văn Phụ (1970-1979)
đều cho rằng mùn ở đất Việt Nam rất quan trong việc tạo độ phì nhiêu đất (Đỗ Ánh và
ctv, 2000). Viện nghiên cứu lúa quốc tế cho rằng hàm lượng chất hữu cơ tối thích cho
đất lúa nước là 4%. Nếu giảm 1% chất hữu cơ thì lân bị giữ chặt trong đất tăng
50mg/100g đất (Đỗ Ánh và ctv, 2000).
Theo Thái Công Tụng (1971), sự ảnh hưởng của chất hữu cơ đến tính chất đất đai.
- Ảnh hưởng của màu sắc đất đai: nâu đến đen
- Ảnh hưởng đến tính chất hóa học của đất như: khả năng giữ nước, độ dẻo dính.
- Ảnh hưởng đến khả năng trao đổi base như: làm cho đất đai hấp thụ được nhiều
chất base hơn, 30 - 90% ngoại hấp là do chất hữu cơ.
- Cung cấp và tăng độ hữu dụng của chất dinh dưỡng.
Theo Trần Thành Lập (1999), đất ĐBSCL thường có hàm lượng chất hữu cơ vào
độ trung bình. Đất xám bạc màu có hàm lượng hữu cơ rất thấp 0,3 - 1,2%. Đất giàu hữu
cơ nhất ĐBSCL là đất than bùn, có hàm lượng hữu cơ đến 25%, đất phèn cũng giàu chất
hữu cơ ở tầng mặt.
Theo Lê Văn Khoa và ctv (2000), chất hữu cơ là chỉ tiêu số một về độ phì, nó ảnh
hưởng đến nhiều tính chất đất như khả năng cung cấp dinh dưỡng, khả năng hấp phụ,
giữ nhiệt và kích thích sinh trưởng cây trồng. Chất hữu cơ là nguồn cung cấp chất dinh
dưỡng chính trong hệ sinh thái đất. Để nông nghiệp phát triển bền vững nhất thiết phải
giảm sự mất mát chất hữu cơ đất, nhất là việc sử dụng đất vùng nhiệt đới (Lê Văn Khoa
và ctv, 2000). Ở vùng nhiệt đới thường có hàm lượng chất hữu cơ thấp do kết quả của
quá trình phong hoá mạnh làm chúng bị phân giải nhanh. (Nguyễn Xuân Cự, 2005).
Trong đất hàm lượng chất hữu cơ cao làm tăng ẩm độ đất, cải thiện cấu trúc đất tăng khả
năng đệm của đất (Charles A. Black, 1993). Trong quá trình khoáng hoá chất hữu cơ tạo
ra nhiều dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng, chất hữu cơ làm giảm sự cố định K, P
trong đất (Nguyễn Tử Siêm và ctv, 1999). Chất hữu cơ có khả năng tạo phức với kim
loại (Jones and Jarvis, 1981). Chất hữu cơ có khả năng tạo phức với Al làm giảm Al trao
đổi và Al hoà tan trong dung dịch do đó làm giảm khả năng gây độc của Al cho cây
trồng (Hargrove and Thomas, 1981). Trong đất hàm lượng chất hữu cơ cao làm tăng ẩm

độ đất, cải thiện cấu trúc đất tăng khả năng đệm của đất (Charles A. Black, 1993).
1.2.4 Dung tích hấp phụ cation (CEC)
Dung tích hấp phụ cation hay còn gọi là khả năng trao đổi cation của đất càng cao
chứng tỏ đất có khả năng giữ và trao đổi các dưỡng chất tốt. Đất ĐBSCL thường chứa
nhiều sét và ít hữu cơ nên dung tích hấp phụ thuộc loại trung bình đến khá (Ngô Ngọc
Hưng và ctv, 2004).
CEC của đất liên quan đến khả năng chứa đựng và điều hòa dinh dưỡng và có liên
quan đến phương pháp bón phân hợp lý. Đất giàu chất hữu cơ, có CEC cao cũng là đất
có khả năng bảo quản cao dinh dưỡng cây trồng. Nếu đất chứa Al chiếm 60% CEC thì
gây độc cho cây trồng. Đất bạc màu có CEC thấp thì CEC trở thành yếu tố hạn chế (Đỗ
Ánh và ctv, 2000). Theo Nguyễn Vy (2003), dung tích hấp phụ trong các loại đất Việt
Nam trong khoảng 5 - 30 meq/100g đất. Nhìn chung giá trị dung tích hấp phụ càng cao
thì đất càng phì nhiêu. Tuy nhiên độ phì nhiêu của đất còn phụ thuộc vào thành phần và
tỷ lệ các cation trong dung tích hấp phụ đó (Nguyễn Vy, 2003).
1.2.5 Độ dẫn điện dung dịch đất (EC)
Độ mặn trong đất làm cản trở quá trình hút nước và dinh dưỡng của cây trồng, giảm
lượng nước hữu dụng trong đất, phá huỷ cấu trúc của đất (Tất Anh Thư, 2006).
EC được tính bằng đơn vị mmhos trên centimet, chính mmhos cũng là trị số nghịch
đảo của đơn vị đo sức cản điện (ohms). Trị số mhos/cm là một đơn vị rất lớn, phần lớn
EC của dung dịch đất thì nhỏ hơn trị số này rất nhiều (Trần Kim Tính, 2003).
EC là độ mặn của đất, biểu thị trực tiếp hoặc gián tiếp nồng độ muối hoà tan trong dung
dịch đất. Không chỉ có đất mặn mới có lượng muối hoà tan cao, mà trong đất phèn sự
tác động của acid vào khoáng sét, nồng độ muối có thể cao và gây độc cho cây (Đỗ Thị
Thanh Ren, 1999). Theo H. Eswaran (1985), cây lúa rất nhạy cảm với độ mặn, cây lúa
sẽ không phát triển được nếu trên đất lúa nước có EC > 6 mmhos/cm. EC = 4 – 6
mmhos/cm thì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của cây lúa, nếu EC < 2 mmhos/cm thì
cây lúa phát triển bình thường.
1.3. Đặc điểm vùng nghiên cứu
1.3.1. Vị trí địa lý
Huyện Lai Vung nằm phía nam tỉnh

Đồng Tháp, có diện tích 23.793,55 ha,
chiếm 6,79% diện tích toàn tỉnh Đồng
Tháp. Với dân số năm 2006 là 164.953
người, mật độ dân số khoảng 693,28
người/km
2
.
Về hành chính, Huyện có 12 đơn vị
hành chính bao gồm 01 thị trấn và 11 xã.
 Toạ độ địa lý:
Hình 1.9: Bản đồ đất huyện Lai Vung
Từ 10
o
08’ đến 10
o
24’vĩ độ Bắc.
Từ 105
o
33’ đến 105
o
44’ kinh độ Đông.
 Tứ cận:
Phía Bắc giáp huyện Lấp Vò;
Phía Nam giáp tỉnh Vĩnh Long;
Phía Đông giáp thị xã Sa Đéc và huyện Châu Thành;
Phía Tây giáp Thành phố Cần Thơ;
Nhìn chung vị trí địa lý của huyện thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội nói
chung và tình hình sử dụng đất nói riêng, đồng thời cũng là sức ép không nhỏ trong sử
dụng đât.
Hình 1.10. vị trí huyện Lai Vung trong tỉnh Đồng Tháp

Nằm giáp sông Hậu thuận lợi cho việc giao thông thuỷ, cung cấp nguồn nước ngọt,
bồi đắp phù sa cho đồng ruộng. Huyện có các trục giao thông quan trọng như kênh
mương khai, tuyến vận tải thuỷ quốc gia rạch Sa Đéc, rạch Lấp Vò nối với cảng Đồng
Tháp, cảng Sa Đéc, cảng Cần Thơ và thành phố Hồ Chí Minh tạo điều kiện vận chuyển
nông sản, vật tư phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của huyện.
Quốc lộ 80, quốc lộ 54 đi qua huyện, được nâng cấp sẽ thuận lợi cho sự phát triển
hệ thống giao thông bộ gắn chặt với thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Vĩnh Long, An
Giang và các địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam khác.
Huyện Lai Vung là huyện thuộc vùng ngập nông, nguồn nước ngọt dồi dào, đất đai
màu mỡ thuận lợi cho việc phát triển nền sản xuất nông nghiệp theo hướng đa dạng hoá
cây trồng, vật nuôi đem lại hiệu quả kinh tế cao. Có nhiều điều kiện thuận lợi để phát
triển một nền kinh tế toàn diện.
Tuy vậy, Lai Vung là huyện nằm xa các thành phố, cảng, sân bay và các trung tâm
kinh tế lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa Vùng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương….
Nên ít được sức lan toả của các khu vực này và khó khăn trong việc kêu gọi đầu tư lớn
từ bên ngoài cho phát triển công nghiệp.
1.3.2 Đặc điểm địa chất với vấn đề chất lượng đất đai và khả năng sử dụng đất
huyện Lai Vung.
Huyện Lai Vung có mẫu chất đơn giản tạo cho huyện một quỹ đất tương đối đồng
nhất, Huyện có các mẫu chất sau:
+ Đặc điểm địa chất huyện Lai Vung mang cấu trúc chung của tỉnh Đồng Tháp
cũng như vùng Đồng bằng sông Cửu Long, là loại trầm tích trẻ sông biển.
+ Loại đất được hình thành từ trầm tích sông, phân bổ ven sông lớn hình thành đất
phù sa chiếm hầu hết diện tích trong huyện.
Từ các đặc điểm địa chất và địa hình đã tạo nên lớp vỏ thổ nhưỡng thể hiện cấu
trúc đất đai khác nhau giữa các vùng trong huyện. Từ đó bố trí sử dụng đất sẽ khác
nhau.
1.3.3 Đặc điểm địa hình với vấn đề chất lượng đất đai và khả năng sử dụng đất.
Căn cứ bản đồ địa hình do viện Khảo sát Thiết Kế Thuỷ lợi Nam bộ lập năm 1982
cho thấy xu thế địa hình toàn huyện tương đối bằng phẳng thuận lợi cho canh tác nông

nghiệp.
Địa hình của huyện cao ở ven sông Tiền và phía sông Hậu, trũng lòng máng ở
giữa, cao độ phổ biến (+0,9)-(+0,1), cao nhất (+2,0), thấp nhất (+0,8), bề mặt địa hình bị
chia cắt bởi hệ thống kênh mương dầy đặc thuận lợi cho tưới, tiêu, song hạn chế trong
việc cơ giới hoá nông nghiệp.
Đất đai vùng ven sông Hậu là các dải đất phù sa ven sông và ven các kênh rạch lớn
lâu đời, hàng năm được phù sa bồi bắp, nguồn nước ngọt dồ dào quanh năm thuận lợi
cho việc phát triển lúa, màu, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn trái và nuôi trồng thuỷ
sản.
1.3.4 Đặc điểm khí hậu
Huyện Lai Vung có đặc điểm khí hậu chung của tỉnh Đồng Tháp, nằm ở Đồng
bằng sông Cửu Long, chịu ảnh hưỏng của khí hậu nhiệt đới gió mùa gần xích đạo.
a- Gió:
Thịnh hành theo 2 hướng Tây Nam và Đông Bắc (tháng 5 – tháng 11), ngoài ra còn
có gió chướng (tháng 2 – tháng 4), cá biệt mùa mưa có gió lốc xoáy.
b- Bốc hơi:
Tập trung lớn vào các tháng 3, 4, 5 và 6, lượng bốc hơi trung bình 3-5 ly/ngày, cao
nhất 6 –8 ly/ngày. Tổng lượng bốc hơi năm là 1.657,2 ly, tương ứng với lượng mưa song
lệch về thời gian.
Độ ẩm bình quân cả năm 82,5%, bình quân thấp nhất là 50,3%, trong tháng 3 có
ẩm độ cao 32,0%.
c- Nắng: Vùng có số giờ nắng cao (208 h/tháng) tháng 3 có số giờ nắng cao nhất
là 9,1 h/ngày.
d- Bức xạ: Bức xạ tổng cộng bình quân: 155,0 Kcal/Km
2
/năm.
- Bức xạ trực tiếp 82 Kcal/cm
2
/năm
- Bức xạ khuếch tán 72 Kcal/cm

2
/năm
- Bức xạ hấp thụ 29 Kcal/cm
2
/năm
e- Mưa:
Mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa chiếm 90 – 92% lượng mưa cả
năm, trong đó tập trung tháng 9 và tháng 10 (30 – 40% lượng mưa năm), còn lại mùa
khô chiếm 8 – 10% lượng mưa năm.
+ Mùa khô kéo dài trong 6 tháng, từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa rất
thấp, chỉ chiếm khoảng 8 – 10% lượng mưa cả năm. Trong khi đó lượng bốc hơi khá
cao, nó chiếm khoảng 64 –67% tổng lượng bốc hơi cả năm.
+ Mùa mưa: kéo dài trong 6 tháng, từ tháng 5 đến tháng 10, mưa rất tập trung,
lượng mưa trong 6 tháng chiếm 87-90% tổng lượng bốc hơi cả năm, chỉ riêng tháng 4
mưa lớn nhất, lượng mưa chiếm 62 - 63% tổng lượng bốc hơi cả năm. Ngược lại lượng
bốc hơi và nền nhiệt thấp hơn mùa khô. Lượng mưa và tập trung kết hợp với nước
nguồn đã xảy ra lũ lụt lớn trong vùng.
1.3.5. Thuỷ văn
Chịu tác động của 3 yếu tố: Lũ, mưa nội đồng và thuỷ triều biển đông, hàng năm
hình thành hai mùa rõ rệt: Mùa lũ trùng hợp với mùa mưa và mùa kiệt trùng với mùa
khô.
+ Mùa kiệt nối tiếp sau mùa lũ từ tháng 12 đến tháng 6 năm sau. Chế độ thuỷ văn
trong sông, kênh chịu tác động trực tiếp của thuỷ triều biển Đông, mực nước giảm dần
đến tháng 1, 2 trở đi bắt đầu thấp hơn mặt ruộng, từ một số khu vực phía Nam có thể lợi
dụng thuỷ triều khai thác tưới tự chảy.
- Biên độ các tháng mùa kiệt lớn, biên độ bình quân từ 0,4 – 1,7 m.
+ Mùa lũ : Lũ xuất hiện ở Đồng Tháp từ tháng 7 đến tháng 11 vào loại sớm nhất ở
khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó các huyện thị phía Nam cũng như huyện
Lai Vung, lũ về muộn hơn so với các huyện đầu nguồn ảnh hưởng đến sản xuất, sinh
hoạt. Việc tăng cường và hoàn chỉnh hệ thống thuỷ lợi là biện pháp quan trọng để khắc

phục khó khăn này.
1.3.6. Cảnh quan môi trường
Những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sinh thái của huyện là:
- Đất phèn chiếm khoảng 43,79% tổng diện tích đất tự nhiên.
- Khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa nắng và mùa mưa.
- Nguồn nước ngọt sông Tiền rất dồi dào, chất lượng tốt.
Về cảnh quan của Lai Vung mang đặc trưng cơ bản của vùng đồng bằng Nam Bộ,
với sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Địa hình bằng phẳng sông ngòi chằng chịt, dân cư
sống ven theo đường giao thông và kênh rạch, nhà ở chủ yếu là nhà tre, lá, cơ sở hạ tầng
kém phát triển. Môi trường ít bị ô nhiễm bởi chất thải công nghiệp. Tuy nhiên, đất phèn
chiếm khoảng 43,79% tổng diện tích đất, mấy năm gần đây lũ lụt xảy ra thường xuyên,
dân cư đổ mọi chất thải ra kênh rạch, môi trường nước bị ô nhiễm. Nhân dân lại sử dụng
nước mặt để sinh hoạt ăn uống nên ảnh hưởng rất lớn tới sức khoẻ của nhân dân nhất là
sau khi ngập lụt.
Mặt khác Lai Vung có hơn 80% dân số sống bằng nghề nông trong sản xuất đã sử
dụng một lượng lớn thuốc bảo vệ thực vật, nên môi trường đất, nước, không khí ít nhiều
đã bị ô nhiễm.
1.4 Đặc điểm của cây cam, quýt:
Trái cam quýt được sử dụng rộng rãi vì có chứa nhiều chất dinh dưỡng cần thiết
cho cơ thể, nhất là vitamin C. vị chua nhẹ và hơi đắng (bưởi) giúp dễ tiêu hóa và tuần
hoàn của máu. Vỏ trái giàu pectin được sử dụng làm mứt, kẹo, làm thuốc nam hay chích
lấy tinh dầu. trái được chế biến thành nhiều loại sản phẩm như nước giải khát, xy rô,
mứt, rượu…
Cam: phiến lá hình xoan hay bầu dục, dài 7-10 cm, rộng 3-4 cm, cuống dài 2-3 cm,
cánh lá nhỏ. Hoa lớn mọc ở nách lá, trắng, rất thơm, có 20-25 nhị đực, 4-5 cánh hoa, bầu
noãn có 10-12 ngăn. Trái gần hình cầu, vỏ dầy, nhám sần, đường kính 4-6 cm, thường có
màu đỏ cam khi chin, thơm. Thịt trái rất chua và đắng, phần lõi giữa thì xốp. Trái nặng
trung bình 4-5 trái/kg, nhiều hột, đa phôi.
Quýt: cây nhỏ, cao khoảng 2-8 mét đôi khi có gai. Lá nhỏ, hẹp, hình xoan, dài 4-8
cm, rộng 1,5-4 cm màu xanh đậm bóng ở phía trên mặt và xanh vàng nhạt ở mặt dưới,

cuống có cánh nhỏ. Hoa nhỏ, đường kính 1,5-2,5 mm, 5 cánh trắng, 20 nhị đực, bầu
noãn có 10-15 ngăn. Trái dạng hình cầu hơi dẹp, đường kính 5-8 cm, vỏ mỏng dễ lột,
màu xanh vàng hay đỏ cam khi chín, nhiều nước màu cam, ngọt. Trái nặng trung bình
6-7 trái/kg. Đây là giống khó trồng nhất trong các giống cam quýt. Cây chịu nóng kém,
trồng tốt nhất ở vùng có độ cao trung bình. Hột đa phôi, tử diệp xanh.
1.4.1 Đặc điểm sinh học và thực vật
a. Rễ:
các giống cam quýt khi trồng bằng hột thường có một rễ cái và những rễ nhánh. Từ
rễ nhánh mọc ra các rễ lông yếu ớt. sự phát triển của rễ thường xen kẽ với sự phát triển
của thân cành trên mặt đất.
các nghiên cứu cho thấy, trong năm hoạt động của rễ có các thời kỳ nhất định như:
− Trước lúc mọc cành mùa xuân
− Sau khi rụng trái đợt đầu đến trước lúc mọc cành mùa hè
− Sau khi cành mùa thu đã phát triễn đầy đủ
Thường thì khi rễ hoạt động mạnh, rễ lông phát triễn, thân cành sẽ hoạt động
chậm và ngược lại. sự hoạt động của bộ rễ thường kéo dài cả sau các đợt cành mọc rộ,
do đó việc bón phân vào giai đoạn cành phát triễn có tác dụng cung cấp dinh dưỡng cho
cây trong giai đoạn rễ hoạt động.
Sự phân bố của bộ rễ tùy thuộc các yếu tố: tầng đất canh tác, hình thức nhân
giống, loại giống, loại gốc ghép, mực thủy cấp và kỹ thuật trồng. các yếu tố này có ảnh
hưởng làm rễ mọc sâu hay cạn, xa hay gần. Nói chung, rễ cam quýt thường mọc cạn, đa
số rễ hút dinh dưỡng phân bố gần lớp đất mặt. do đó việc giữ cho lớp đất mặt tơi xốp
êm mát có tác dụng giúp cây hút thu được dinh dưỡng tốt hơn.
Rễ mọc ra từ hột thường khỏe, mọc sâu, nếu đất thoát nước tốt và tơi xốp rễ có thể
mọc sâu trên 4 mét. Do đó ở ĐBSCL, trên những vùng đất thấp việc trồng cam quýt
bằng hột hay gốc tháp thường bị ảnh hưởng bởi mặt thủy cấp. Nếu không lên líp trồng
cao và thiết kế bờ bao vườn để điều tiết nước, cây có thể bị suy yếu dần và chết do thối
rễ. Trái lại rễ mọc ra từ cây chiết hay cành giâm thường ăn cạn hơn, ít bị tác hại bởi mặt
thủy cấp.
b. Thân, cành:

cam quýt thuộc loại thân gỗ, dạng bụi hay bán bụi. Các cành chính thường mọc ra
ở các vị trí trong khoảng 1 mét cách mặt đất. Cành có thể có gai, nhất là khi trồng bằng
hột. tuy nhiên sau giai đoạn ra hoa trái, các gai thường ít phát triển. Ở một vài loài, gai
chỉ mọc ra từ những cành sinh trưởng mạnh.
Cành cam quýt phát triển theo lối hợp trục, khi cành mọc dài đến một khoảng nhất
định thì ngừng lại, các mầm bên dưới đỉnh sinh trưởng của ngọn cành sẽ mọc ra, các
cành thứ cấp này cũng mọc dài đến một khoảng nhất định thì ngừng và các mầm bên
dưới đỉnh sinh trưởng lại tiếp tục phát triển giống như cũ.
Trong một năm cây có thể cho 3-4 đợt cành. Tùy theo chức năng của cành trên
cây, có thể gọi nhự sau:
− Cành mang trái:
Là những cành có mang trái, thường mọc ra trong mùa xuân, cành ngắn nhỏ, mau
tròn mình, dài trung bình < 10cm trên cành có lá hoặc vết lá, các cành có mang lá cho
trái tốt hơn. Cành mang trái mọc ra từ những cành lớn hơn gọi là cành mẹ, nững cành
mang trái mọc ở ngọn hay gần ngọn cành mẹ là những cành đậu trái tốt so với các cành
mọc bên trong. Vì phải tập trung dinh dưỡng để nuôi trái nên thường cành mang trái
không tiếp tục cho ra những cành mới trong năm kế tiếp. Sau khi thu hoạch các cành
mang trái thường héo khô đi.
− Cành mẹ:
Là cành tạo ra cành mang trái, thường phát triển mạnh trong mùa hè và mùa thu.
Cành to khỏe, lâu tròn mình. Cần nắm được thời vụ ra cành mẹ của cây để có biện pháp
bồi dưỡng tích cực, giúp mọc được nhiều cành mang trái hơn trong mùa xuân.
− Cành dinh dưỡng:
Là tên chỉ chung tất cả các loại cành trong giai đoạn chưa ra hoa trái, thường mọc
ra ở các mùa trong năm.
− Cành vượt:
Là loại cành mọc thẳng lên bên trong tán cây, từ những cành chính hay thân. Cành
thường mọc ra trong mùa hè phát triển mạnh, dẹp, màu xanh, lá to bóng láng, đôi khi có
gai dài. Loại cành này khi phát triển đã sử dụng nhiều chất dinh dưỡng của cây mà
không có ích lợi nhiều, chúng lại là nơi sâu bệnh thích tấn công. Do đó khi cây còn non

chưa có hoa trái thì có thể giữ lại để tạo khung tán, còn khi cây đã trưởng thành thì nên
cắt bỏ.
Nói chung sự phát triển của cành tùy thuộc nhiều vào số trái trong năm. Trong
điều kiện tự nhiên, nếu năm nay cây sai trái thì năm sau số trái ra ít đi vì số lượng cành
mọc ra không nhiều. Do đó cần phải chú ý bồi dưỡng cho cây ở giai đoạn sau thu hoạch
để giúp cây có đủ dinh dưỡng tạo nhiều cành mới.
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. PHƯƠNG TIỆN
2.1.1 Phương tiện nghiên cứu
- 20 mẫu đất được lấy tầng mặt canh tác (0-30cm)
- Các dụng cụ lấy mẫu đất: khoan, ring, bao nilong, ….
- Dụng cụ xử lý mẫu: hệ thống sấy mẫu, hệ thống rây, hệ thống ống hút
Robinson…
- Phần mềm hỗ trợ: Word, Excel, chương trình thống kê ANOVA,….
2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu Đánh giá tính vật lý – hóa học trên vùng đất trồng cam quýt ở huyện
Lai Vung – Đồng Tháp. Đề tài được thực hiện từ ngày 01 tháng 01 năm 2009 đến ngày
01 tháng 01 năm 2010.
2.1.3. Địa điểm phân tích mẫu
Bộ môn Khoa học đất & Quản Lý Đất Đai, Khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng
Dụng, Trường Đại học Cần Thơ.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Các mẫu đất được lấy ở tầng mặt canh tác (0-30cm) từ những vườn trồng cam, quýt
điển hình tại huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Mẫu đất được làm khô không khí,
nghiền và qua rây theo yêu cầu của mỗi chỉ tiêu khác nhau.
2.2.1. Phương pháp phân tích các chỉ tiêu vật lý
2.2.1.1. Tính bền cơ học đất
Tính bền của đất được phân tích theo phương pháp rây khô và rây ướt của Đại học
Gent, Bỉ (Verplancke, 2002). Hai nghiệm thức tác động ẩm độ khác nhau trước khi rây

ướt được thực hiện:
• Phá vỡ tập hợp đất bằng cách không làm ẩm: tập hợp đất được chuyển từ hệ
thống rây khô sang hệ thống rây ướt mà không được làm ẩm
• Phá vỡ tập hợp đất bằng cách làm ẩm: tập hợp đất được làm ẩm đến ẩm độ
thủy dung ngoài đồng theo hệ thống Mariotte, trong đó chiều cao và đường
kính giọt nước được thực hiện theo mô hình mưa trong phòng thí nghiệm. Sau
đó các mẫu đất được đặt trong tủ ủ 24h (khoảng 20
o
C và ẩm độ 80%-100%).
Các nghiệm thức được tiến hành trên mỗi loại đất khác nhau và được lập lại 3 lần
với mẫu đất đã được xủ lý nhẹ nhàng qua rây 8 mm
Tính bền của tập hợp được biểu diễn bằng đường kính khối lượng trung bình
(MWDs và MWDf). Chỉ số tính bền (SI) và tính bền cấu trúc (SQ) sẽ được tính toán.

Khối lượng đất *

- Chỉ số không bền (Instability index -IS) = MWD dry – MWD wet
- Chỉ số bền (Stability index (SI) =

- % của tập hợp >2mm
- Tính bền cấu trúc - Stability Quotient (SQ) = SI* % của tập hợp >2mm
(Structural stability)
2.2.1.2. Phương pháp xác định mức độ đóng váng và kết cứng của đất
Phương pháp được đề nghị bởi Pla (1991). Mẫu đất được qua rây 8 mm, sau đó cho
mẫu đất vào một rây lưới, rây có đường kính bằng 10 cm Tập hợp đất được đặt trong
một cái phiễu với độ dầy 1 cm. Trên rây có đặt một cái phiểu cao 10cm để tránh nước bị
văng ra ngoài. Mẫu đất được tác động bởi các hạt mưa nhân tạo. Năng lượng của các hạt
Đường kính lớn nhất + đường kính nhỏ nhất
2
2

MWD =Σ
Khối lượng ban đầu (+/- 200gram)
1
MWD dry – MWD wet
mưa nhân tạo được thiết lập theo năng lượng trung bình của trận mưa tự nhiên là 8.026
erg (8,026*10
-4
joule). Lượng nước thấm qua mẫu đất được đo cách nhau 5 phút một lần
cho đến khi đạt hằng số. Giá trị hệ số thấm bảo hòa (Ks) được tính toán cho mỗi lần đo
cho đến khi Ks đạt giá trị thấp nhất dựa trên lượng nước chảy qua tiết diện đất và
gradient thủy lực.
V L
Suy ra: Ks = -
A t ∆H
Trong đó:
Ks: Hệ số thấm bảo hòa của đất,
s
m
.
V: Thể tích nước thấm qua đất trong khoảng thời gian t, m
3

t: Thời gian, s
L: Chiều sâu của mẩu đất, m (l ring)

H: Số gia thủy lực, m (H trong - H ngoài)
A: Tiết diện của mẩu đất, m
2
(r
2

*3,14)
Thực hiện tương tự đối với mẫu đất được bảo vệ sự tác động của các hạt mưa
bằng tấm lưới chắn (Kcs).
Giá trị chỉ số đóng váng tương đối (RSI) biểu thị mức độ làm giảm tính thấm của
đất gây ra bởi đóng váng, được tính toán bằng cách lấy Kcs chia cho Ks. RSI cũng chỉ ra
mức độ ảnh hưởng của việc che phủ đất trong việc ngăn chặn sự hình thành lớp váng.
Lớp váng được để khô tự nhiên, sau đó dùng penetrometer đo độ cứng của lớp
váng (RR). Mỗi mẫu đất được phân tích lặp lại 3 lần.
2.2.1.3. Thành phần cơ giới đất
Được thực hiện theo phương pháp ống hút Rhobinson và phân loại sa cấu theo
USDA.
Hình 2.11: Hệ thống ống hút Robinson
2.2.1.4. Dung trọng
Dung trọng (g/cm
3
) sử dụng ống ring và được tính trên cơ sở khối lượng đất khô
(được sấy khô ở 105
o
C) trên đơn vị thể tích đất ở điều kiện tự nhiên và không bị xáo
trộn.
Hình 2.12: Dụng cụ lấy mẩu không xáo trộn (ring)
Hình 2.13: Cách lấy mẩu
Tính kết qủa
W
ov
- W
r
ρ
b
=

V
r
Trong đó:
ρ
b
: Dung trọng khô, (g/cm
3
)
W
vo
: Khối lượng mẩu đất và ring ngay sau khi sấy khô ở 105
0
C (g)
W
r
: Khối lượng của ring (g)
V
r
: Thể tích ban đầu của mẩu đất (cm
3
)
2.2.2. Các chỉ tiêu phân tích hóa học
2.2.2.1. pH
+ pH
H2O
: trích bằng nước (1/2,5) và đo bằng pH kế.
+ pH
KCl
: trích bằng KCl và đo bằng pH kế.
Hình 2.14: Máy đo pH

Hình 2.15: Giấy đo pH
2.2.2.2 Chất hữu cơ
Chất hữu cơ trong đất được xác định theo phương pháp Walkley- Black. Dựa trên
nguyên tắc oxy hoá chất hữu cơ bằng K
2
Cr
2
O
7
trong môi trường H
2
SO
4
đậm đặc, sau đó
chuẩn độ lượng dư K
2
Cr
2
O
7
bằng FeSO
4
0.1N.
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ THẢO LUẬN
3.1. Đặc điểm canh tác cam, quýt tại huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long là vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc
sản xuất nông nghiệp. Trong đó huyện Lai Vung có một vị trí và điều kiện rất thuận lợi
cho việc canh tác các giống cây có múi như: cam, quýt, bưởi,….
Do hiệu quả của việc canh tác cam, quýt nên trong thời gian gần đây nhiều nông dân

trong địa bàn huyện Lai Vung – Đồng Tháp đang tăng cường chuyển giao khoa học kỹ
thuật nông nghiệp, khuyến nông, du nhập các giống cây trồng mới có nhiều ưu điểm,
khuyến khích nông dân trồng cam, quýt đạt năng suất cao đáp ứng nhu cầu không những
trong nước mà còn mang tầm vóc xuất khẩu phù hợp với xu thế mới trong nền kinh tế
thị trường.
Hiện Đồng Tháp có trên 20.000 ha cây ăn trái, trong đó Lai Vung là một trong
những huyện trọng điểm. Nhờ có vị trí địa lý thuận lợi (ven bờ sông Hậu, tiếp giáp với
Cần Thơ và Vĩnh Long) nên Lai Vung rất phù hợp với loại cây có múi như quýt hồng.
Loại cây này được trồng nhiều ở các xã Tân Phước, Tân Thành và Long Hậu. (báo kinh
tế nông thôn, đăng ngày 3 tháng 6 năm 2009).
Với việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng hợp lý, hiện nay năng suất cam, quýt đã tăng
lên một cách đáng kể, trung bình tăng 30 - 40%. Nông dân đã tận dụng khai thác được
việc áp dụng kỹ thuật tiên tiến, thực hiện tốt quy trình GAP nên sản lượng tăng cao, sản
lượng thu hoạch năm 2008 đạt 269 tấn/3ha, còn với diện tích 6.500m
2
đất canh tác đã
mang về lợi nhuận 145 triệu đồng. (báo kinh tế nông thôn, đăng ngày 3 tháng 6 năm
2009).
Bảng 3.3. Hiện trạng trồng cam, quýt tại huyện Lai Vung năm 2009
TT Xã/ Thị Trấn
Hiện trạng đất trồng cam, quýt năm 2009 (đơn vị tính ha)
Tổng số Quýt Cam
1 TT. Lai Vung 90,04 1,5 0,8
2 Long Hậu 687,00 593,0 31,7
3 Tân Phước 366,00 353,5 8,0
4 Tân Thành 592,73 236,4 69,4
5 Vĩnh Thới 442,00 183,0 56,0
6 Tân Hòa 319,00 18,0 7,0
7 Định Hòa 139,00 4,0
8 Phong Hòa 589,00 10,0 6,0

9 Long Thắng 215,93 0,5 1,5
10 Hòa Long 142,10 15,5 1,5
11 Tân Dương 156,50 2,5 7,6
12 Hòa Thành 182,02 0,8 0,1
Tổng cộng 3.921,32 1.418,8 189,57
(Nguồn: phòng nông nghiệp và PTNT huyện Lai Vung, tháng 10 năm 2009)
3.2. Tính chất đất trồng cam, quýt tại các vị trí nghiên cứu
3.2.1. Tính chất hóa học đất
3.2.1.1. pH
H2O
Kết quả phân tích pH
H2O
được trình bày ở hình 3.16 cho thấy phần lớn các địa điểm
nghiên cứu có pH < 6,0 chiếm 75% trong tổng số các vị trí nghiên cứu. Giá trị pH tại
hầu hết các vị trí nghên cứu đều đạt mức tối hảo (từ 5,1 đến 6,4) chiếm 95%, ngoại trừ
Tân Thành 3 giá trị pH hơi thấp hơn ngưỡng tối hảo (pH = 4,9). Giá trị pH ở các điểm
nghiên cứu đều thích hợp cho sự phát triển của cây ăn trái, vi sinh vật đất, vận tốc phản
ứng hóa học và sinh hóa trong đất, độ hữu dụng của dưỡng chất trong đất, hiệu quả sử
dụng phân bón cũng nâng cao. Nguyên nhân làm cho giá trị pH ở các vị trí lấy mẫu tăng
cao và đạt ngưỡng tối hảo cho cây trồng là do trong quá trình canh tác người dân lên
liếp rữa phèn, kết hợp sử dụng vôi trong canh tác cam, quýt.
3.2.1.2. pH
KCl
Độ chua tiềm tàng được tính bằng ion H
+
và Al
3+
tự do và hấp thu trên bề mặt keo
đất. Thông thường độ chua này lớn hơn độ chua hiện tại và biểu thị khả năng gây chua
tiềm tàng của đất (Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004).

Tại các vị trí nghiên cứu giá trị pH
KCl
được trình bày trong hình 3.17 biến động từ
3,8 đến 5,7, hầu hết các giá trị pH
KCl
tại vùng nghiên cứu ở mức chua nhiều (3,8 đến
4,5) chiếm 65% trong tổng số các vị trí nghiên cứu và giá trị pH
KCl
ở các vị trí nghiên
cứu còn lại được đánh giá ở mức chua ít có giá trị biến đổi từ (4,6 đến 5,6). Nguyên
nhân giá trị pH
KCl
thấp là do đây là vùng đất phù sa Đồng bằng sông Cửu Long. Điều
này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Trần Thành Lập (1999), đất Đồng bằng sông
Cửu Long thường có pH thấp, đất phù sa không phèn thường có pH = 4,0-5,5. Từ kết
nghiên cứu này ta thấy có sự khác biệt lớn giữa giá trị pH
KCl
và pH
H2O.
Vì vậy, mặt dù độ
chua hiện tại của đất ở khu vực nghiên cứu này rất thích hợp cho cây trồng phát triển
nhưng trong quá trình canh tác người dân phải luôn chú trọng việc nâng cao pH cho đất
bằng cách bón vôi thường xuyên, vì đây là vùng đất có tiềm năng gây chua rất lớn.

×