Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

(Luận văn thạc sĩ) toàn cầu hóa, khu vực hóa và sự hội nhập của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.43 KB, 84 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
KHOA SP SỬ - ĐỊA VÀ GDCT

Bài giảng: TỒN CẦU HĨA, KHU VỰC HĨA VÀ SỰ HỘI
NHẬP CỦA VIỆT NAM

Người biên soạn: Ths Đinh Hồng Khoa

ĐỒNG THÁP 2019


MỤC LỤC

Trang

Chương 1. Tồn cầu hóa, khu vực hóa............................................................................... 01
1.1 Tồn cầu hóa......................................................................................................................... 01
1.1.1. Khái niệm.......................................................................................................................... 01
1.1.2. Những động lực thúc đẩy tồn cầu hóa và biểu hiện........................................ 07
1.2. Khu vực hóa......................................................................................................................... 14
1.2.1. Khái niệm.......................................................................................................................... 14
1.2.2. Những biểu hiện của khu vực hóa........................................................................... 16
1.3. Mối quan hệ giữa tồn cầu hóa và khu vực hóa..................................................... 21
1.3.1. Tính thống nhất giữa tồn cầu hóa và khu vực hóa về kinh tế...................... 21
1.3.2. Tính mâu thuẫn giữa khu vực hóa và tồn cầu hóa về kinh tế...................... 24
1.4. Tác động của tồn cầu hóa, khu vực hóa.................................................................. 25
1.4.1. Đối với các nước phát triển........................................................................................ 25
1.4.2. Đối với các nước đang phát triển............................................................................. 33
Tài liệu tham khảo chương 1.................................................................................................. 44
Câu hỏi và bài tập chương 1................................................................................................... 44
Chương 2. Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa, khu vực hóa.............................. 45


2.1. Việt Nam hội nhập khu vực và quốc tế...................................................................... 45
2.1.1. Khái niệm hội nhập quốc tế....................................................................................... 45
2.1.2. Tiến trình hội nhập Việt Nam đối với khu vực và quốc tế.............................49
2.2. Tác động toàn cầu hóa, khu vực hóa đối với Việt Nam...................................... 68
2.2.1. Tác động tích cực........................................................................................................... 68
2.2.2. Tác động tiêu cực........................................................................................................... 69
2.3. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam..................................................................... 70
2.3.1 Cơ hội.................................................................................................................................. 70
2.3.2 Thách thức.......................................................................................................................... 73
Tài liệu tham khảo chương 2.................................................................................................. 82
Câu hỏi và bài tập chương 2................................................................................................... 81


CHƯƠNG 1. TỒN CẦU HĨA, KHU VỰC HĨA
A. Mục tiêu
1. Kiến thức
- Nêu và giải thích được khái niệm tồn cầu hóa, khu vực hóa.
- Phân tích những biểu hiện và đặc điểm của khu vực hóa, tồn cầu hóa.
- Phân tích và đánh giá được mối quan hệ giữa tồn cầu hóa và khu vực

hóa.
2. Kỹ năng:
- Vẽ sơ đồ tồn cầu hóa, khu vực hóa và mối quan hệ giữa tồn cầu hóa,

khu vực hóa.
- Phân tích, đánh giá các vấn đề về tồn cầu hóa, khu vực hóa và những tác

động của nó đến các nước.
- Tổng hợp, so sánh và đưa ra những dự báo
- Biết cách sưu tầm tư liệu.


3. Thái độ
- Tiếp nhận tích cực, chủ động nội dung bài học.
- Tự đánh giá khách quan, tồn diện vấn đề.
- Có trách nhiệm, có kế hoạch học tập để hoàn thiện.

B. Nội dung
1.1. Toàn cầu hóa
1.1.1. Khái niệm
Thuật ngữ tồn cầu hố (Globalization) đã xuất hiện lần đầu tiên vào năm
1961, nhưng mãi đến những năm 80 thế kỉ XX thuật ngữ này mới được sử dụng
rộng rãi.
Có rất nhiều khái niệm về tồn cầu hóa nhưng có hai loại chính. Loại thứ
nhất tập trung vào sự tăng lên của các mối quan hệ lẫn nhau, hoặc sự phụ thuộc
lẫn nhau giữa các quốc gia. Định nghĩa điển hình cho loại này như sau: “Tồn cầu
hóa là q trình giảm thiểu những rào cản giữa các nước và khuyến khích sự

1


tác động qua lại chặt chẽ hơn về kinh tế, chính trị và xã hội” 1. Cịn một khái niệm
rộng hơn, nhưng về cơ bản cũng tương tự như khái niệm trên do Chủ tịch quỹ
Ford đưa ra như sau: “Thuật ngữ tồn cầu hóa phản ánh một mức độ ảnh hưởng
lẫn nhau toàn diện hơn so với trong quá khứ, cho thấy một số khác biệt với thuật
ngữ “quốc tế”. Nó ngụ ý tầm quan trọng ngày càng giảm của các đường biên giới
quốc gia và sự tăng cường những đặc tính lan tỏa ra ngồi biên giới bắt nguồn từ
một hoặc một khu vực nhất định”2. Định nghĩa này hội đủ những đặc trung cơ
bản của toàn cầu hóa về các nhân tố, các đặc tính và các mối quan hệ xã hội
xuyên biên giới, nhưng rất mơ hồ về tính chất của các mối quan hệ xã hội và
không đề cập đến các thứ bậc của quyền lực.

Loại định nghĩa thứ hai mang tính lý thuyết hơn và nhấn mạnh rút ngắn về
thời gian và không gian. Đặc biệt, đóng góp quan trong về khái niệm này là các
tác giả Anthony Giddens, David Harvey, Roland Robertson... Quan điểm của
Anthony Giddens cho rằng địa điểm là ý tưởng về nơi xảy ra, hoặc sự bố trí hoạt
động xã hội về mặt địa lý (được hiểu theo nghĩa vật chất), trong khi với tồn cầu
hóa, khơng gian được cấu trúc bởi những ảnh hưởng xã hội không hiện hữu trên
hiện trường, không gian ngày càng chệch ra khỏi địa điểm, và được kết nối bởi
những khung cảnh xã hội khác nhau. Do vậy, tồn cầu hóa có thể được định nghĩa
là “sự tăng cường các mối quan hệ xã hội trên toàn thế giới liên kết những địa
điểm xa xôi theo một cách mà những sự kiện xảy ra ở nơi này được định hình bởi
những sự kiện đang xảy ra ở nơi khác cách đó nhiều dặm và ngược lại” 3.
Theo cách tiếp cận của David Harvey cho rằng các trục thời gian được rút
ngắn bớt và khó có thể xác định rõ được khơng gian nào con người choán chỗ khi
xác định nguyên nhân và kết quả. Ông thừa nhận “sự thủ tiêu của không gian
1 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2005), Tồn cầu hóa chuyển đổi và phát triển tiếp cận đa
chiều, Nxb thế giới, trang 15
2 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2005), Tồn cầu hóa chuyển đổi và phát triển tiếp cận đa
chiều, Nxb thế giới, trang 15
3 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2005), Tồn cầu hóa chuyển đổi và phát triển tiếp cận đa
chiều, Nxb thế giới,trang 16

2


thông qua thời gian”4, những không gian từ các thế giới xa xơi cho đến nay được
hình thành như một loại hình nghệ thuật, khơng chỉ làm thay đổi các đặc trưng
văn hóa, như trong các cuộc triễn lãm nghệ thuật mà cịn làm thay đổi hàng hóa
trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Quan điểm Roland Robertson nhấn mạnh vào “các thực hành văn hóa và, về
các vấn đề gắn liền với tồn cầu hóa, một mức độ thay đổi lớn” 5. Đối với

Robertson, việc tồn cầu hóa các q trình văn hóa được thúc đẩy bởi ý thức tồn
cầu.
Ủy ban châu Âu cho rằng: “Tồn cầu hóa có thể được định nghĩa như là một
q trình mà thơng qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang
ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhau do có sự năng động của việc bn bán hàng
hóa và dịch vụ cũng như do có sự lưu thơng vốn tư bản và công nghệ. Đây không
phải là hiện tượng mới mà là sự tiếp tục của một tiến trình đã được khơi màu từ
khá lâu”6.
Như vậy, làm rõ khái niện tồn cầu hóa là điều khơng dễ dàng, điều này phụ
thuộc và cách tiếp cận vấn đề của các nhà nghiên cứu. Theo Lênin, muốn tìm
hiểu một sự vật, hiện tượng phải xem xét sự vật, hiện tượng ấy đã ra đời như thế
nào trong lịch sử, đã trải qua những giai đoạn gì, hiện nay ra sao.
Tồn cầu hóa là một q trình đa phương diện, bao hàm nhiều nhân tố như
kinh tế, chính trị, pháp luật, khoa học - cơng nghệ, văn hóa, xã hội. Tồn cầu hóa
là một thuật ngữ địi hỏi phải có cách tiếp cận liên ngành và đa chiều vì nó có liên
quan đến tất cả các hiện tượng xã hội đương đại. Tồn cầu hóa được tiếp cận từ
góc độ kinh tế học, xã hội học, công nghệ học, môi trường, văn hóa,...
Đến nay đã có hàng trăm định nghĩa về tồn cầu hóa được đưa ra từ nhiều góc độ
tiếp cận khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Nguyên nhân của sự khác nhau
4 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2005), Tồn cầu hóa chuyển đổi và phát triển tiếp cận đa
chiều, Nxb thế giới,trang 17.
5 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2005), Tồn cầu hóa chuyển đổi và phát triển tiếp cận đa
chiều, Nxb thế giới,trang 17.
6 Lê Hữu Nghĩa, Lê Ngọc Tịng (2004), Tồn cầu hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb CTQG, trang 33

3


hoặc đối lập đó khơng chỉ do khác nhau về lợi ích, về lập trường quan điểm mà

cịn do khác nhau về cách tiếp cận vấn đề, về mục đích tìm hiểu tồn cầu hóa.
Tồn cầu hóa là kết quả tất yếu từ sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản
xuất. Chúng là biểu hiện hệ quả của sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất
trong các nền kinh tế riêng biệt. Từ đó, q trình này dẫn đến phá vỡ sự biệt lập
của từng quốc gia, tạo ra mối quan hệ gắn kết, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau
giữa các quốc gia, dân tộc trên quy mơ tồn cầu trong sự vận động phát triển.
Kinh tế thị trường khẳng định được ưu thế của mình và tác động đến nhiều
quốc gia trên thế giới. Nó tạo ra động lực phát triển và mở rộng quan hệ giữa các
quốc gia, trước hết là các quan hệ kinh tế, sau đó tới các quan hệ khác như chính
trị, văn hóa, v.v. Hệ thống kinh tế thị trường càng phát triển theo hướng mở,
không bị giới hạn bởi các đường biên giới và ranh giới dân tộc, chủng tộc và tơn
giáo. Đó là mơi trường thuận lợi tạo thuận lợi cho q trình tự nhiên xích lại gần
nhau của các cộng đồng dân cư các thể chế toàn thế giới. Tồn cầu hố phản ánh
một q trình mà thơng qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau
đang trở nên ngày càng phụ thuộc lẫn nhau.
Tác động của các hành vi kinh tế toàn cầu dẫn tới hệ lụy của hệ thống chính
trị thế giới, ngược lại chính trị lại có tác động to lớn hơn đối với kinh tế. Tồn cầu
hóa ngày nay về bản chất chính là sự tăng trưởng của hoạt động kinh tế nói chung
đã được vượt khỏi biên giới quốc gia và khu vực. Nói cách khác, tồn cầu hóa
mang một nội dung chủ đạo là tồn cầu hóa kinh tế, phát triển kinh tế vừa là mục
tiêu, vừa là động lực tồn cầu hóa. Đặc trưng phát triển kinh tế là một nhu cầu
thực tế khách quan của nhân loại trong tồn cầu hóa hiện nay.
Làn sóng khoa học cơng nghệ ngày càng trở nên phổ biến, trình độ khoa học
công nghệ ngày cao, khả năng ứng dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực đời
sống. Việc hợp tác khai thác, sử dụng công nghệ làm cho các nước phụ thuộc vào
nhau nhiều hơn. Các làn sóng phát triển khoa học công nghệ là chất xúc tác làm
cho quan hệ giữa các quốc gia xích lại gần nhau hơn. Thành tựu
4



khoa học cơng nghệ dường như xóa nhịa dần biên giới địa lý của từng quốc gia,
làm cho khoảng cách không gian trên thế giới càng co hẹp giữa các châu lục.
Tồn cầu hố dường như làm cho tầm quan trọng ngày càng giảm của các đường
biên giới quốc gia và sự tăng cường những đặc tính lan toả ra ngoài biên giới bắt
nguồn từ một nước, hoặc một khu vực nhất định. Tức là, sự phụ thuộc lẫn nhau
phải đến mức tồn diện và vai trị của các đường biên giới quốc gia giảm dần.
Tồn cầu hóa xét về bản chất là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên
hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực,
các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới. Toàn cầu hóa thể hiện sự biến đổi
tương quan giữa quan hệ sản xuất nhằm tới sự điều chỉnh thích ứng lực lượng sản
xuất biến thiên liên tục trên quy mô thế giới.
Tồn cầu hóa làm cho các nền kinh tế quốc gia bị hoà nhập vào và được cấu
trúc lại trên quy mơ quốc tế thơng qua một loạt quy trình, giao lưu, trao đổi. Như
vậy, tồn cầu hố khơng chỉ là sự phụ thuộc lẫn nhau, dù là phụ thuộc toàn diện
giữa các nền kinh tế mà là sự hoà nhập các nền kinh tế này để xu thế hình thành
nên một nền kinh tế toàn cầu thống nhất.
Luận điểm cơ bản chứng minh nấc thang phát triển của lực lượng sản xuất
trong lịch sử dẫn tới hiện tượng quốc tế hóa, sau nay là tồn cầu hóa thuộc về
Mác. Luận điểm này được giải thích trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản”, xuất bản vào tháng 2 năm 1848. Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mác
và Ăngghen khơng sử dụng thuật ngữ tồn cầu hóa nhưng nhấn mạnh tới tính thế
giới trong q trình sản xuất, lưu thông, thị trường thế giới liên kết các nền kinh
tế ở khắp mọi nơi, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc về nhiều mặt, như sản
xuất vật chất và văn hóa tinh thần.
Nhờ có nhiều thành tựu khoa học - kĩ thuật, nhiều phát kiến địa lý và khai
phá các thị trường mới ở các châu lục, các nguồn lực và dịng sản phẩm được lưu
chuyển khắp tồn cầu.
Tính chất thế giới của việc sản xuất và tiêu dùng thể hiện rõ trong sự liên kết
quá trình sản xuất, ngành nghề sản xuất, mạng lưới nguyên vật liệu giữa
5



nhiều quốc gia, dân tộc. “...Những ngành công nghiệp không dùng những nguyên
liệu bản xứ mà dùng những nguyên liệu đưa từ những miền xa xôi nhất trên trái
đất đến và sản phẩm làm ra không những được tiêu thụ ngay trong xứ mà còn
được tiêu thụ ở tất cả các nơi trên trái đất nữa. Thay cho những nhu cầu cũ được
thỏa mãn bằng những sản phẩm trong nước, thì nảy sinh ra những nhu cầu mới,
địi hỏi được thỏa mãn bằng những sản phẩm đưa từ những miền và xứ xa xơi
nhất về. Thay cho tình trạng cơ lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn
tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến
giữa các dân tộc”7.
Một điểm đáng lưu ý nữa mà Mác và Ăngghen đã công bố trong tác phẩm
nổi tiếng này là dự báo về sự liên kết phụ thuộc của các dân tộc không chỉ về kinh
tế mà cả sự hội nhập nhiều lĩnh vực khác, chẳng hạn về tinh thần “...Sản xuất vật
chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế. Những thành quả
của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân
tộc. Tính chất đơn phương và phiến diện dân tộc ngày càng không thể tồn tại
được nữa; và từ những nền văn học dân tộc và địa phương, mn hình mn vẻ,
đang nảy nở ra một nền văn học tồn thế giới.”8
Như phân tích ở trên theo quan điểm Mác xít, bản chất của tồn cầu hóa có
tính hai mặt. Cụ thể như sau:
- Một mặt, tồn cầu hóa là xu thế khách quan gắn liền với sự phát triển của

nền sản xuất xã hội, lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Bản chất
khách quan của tồn cầu hóa được quy định bởi tính tất yếu khách quan của q
trình quốc tế hóa. Những phát kiến địa lý, giao thơng vận tải đã mở ra cơ hội cho
quá trình quốc tế hóa kinh tế vào thế kỷ XV, nhưng tiến trình này chỉ thực sự tăng
tốc sau cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh. Q trình quốc tế hóa mang tính tất
yếu khách quan, do đòi hỏi của bản thân nền sản xuất, đặc biệt là do sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Cách mạng khoa học - công nghệ tạo tiền đề


7 C. Mác và F. Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập IV, Nxb CTQG, Hà Nội, trang 601 - 602.
8 C. Mác và F. Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập IV, Nxb CTQG, Hà Nội, trang 602.

6


cho bước quá độ từ cơ sở vật chất - kĩ thuật truyền thống sang cơ sở vật chất - kĩ
thuật hoàn toàn mới về chất ở một số nước kinh tế phát triển.
Dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - cơng nghệ, lồi người
đang từng bước tiến vào kinh tế tri thức, lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội
hóa cao độ, phân cơng lao động quốc tế ngày càng sâu rộng, quốc tế hóa nền kinh
tế và đời sống xã hội, thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển, đồng thời tạo ra
những phương tiện có hiệu quả đẩy nhanh q trình tồn cầu hóa.
- Mặt khác, tồn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay gắn liền với chủ nghĩa tư

bản và hiện đang bị chủ nghĩa tư bản, nhất là các nước tư bản phát triển chi phối,
lợi dụng để phục vụ cho mục đích của họ. Hay nói cách khác, tồn cầu hóa hiện
nay đang trong quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
Theo C.Mác, q trình quốc tế hóa kinh tế dù mang trong nó yếu tố khách
quan, nhưng bên trong nó và thúc đẩy nó ln là ý muốn áp đặt chủ quan của
những thế lực chủ yếu nắm giữ sức mạnh kinh tế. Nói cách khác, tồn cầu hóa
khơng phải là cái gì khác ngồi kết quả của tính tất yếu khách quan của sản xuất
và ý đồ chủ quan của chủ nghĩa tư bản vì mục tiêu lợi nhuận.
1.1.2. Những động lực thúc đẩy tồn cầu hóa và biểu hiện
Thứ nhất, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ
Sự phát triển của khoa học công nghệ làm thay đổi căn bản nền tảng cơ sở
và phương thức giao dịch giữa các nước trên thế giới. Nền công nghệ cơ khí về
cơ bản vẫn là một nền cơng nghệ có tính quốc gia, vì nó ln phải lấy thị trường
trong nước làm chính. Hiệu năng của nền cơng nghệ cơ khí chưa cho phép các

quan hệ kinh tế quốc tế có thể phát triển xa hơn xét về mặt hiệu quả kinh tế.
Nhưng trong những thập kỷ gần đây cơng nghệ thơng tin và vận tải đã có
những tiến bộ vượt bậc, đã làm giảm chi phí vận tải quốc tế xuống cả chục lần và
giảm chi phí liên lạc viễn thông xuống tới vài trăm lần. Tiến bộ khoa học - cơng
nghệ này đã có tác động cực kỳ quan trọng đến toàn bộ các quan hệ kinh tế quốc
tế, nó đã biến các cơng nghệ có tính quốc gia thành cơng nghệ tồn cầu. Các cơng
nghệ sản xuất xe máy, ơ tơ, máy tính điện tử, máy bay... đã ngày càng
7


có tính tồn cầu sâu rộng. Tính tồn cầu này đã thể hiện ngay từ khâu sản xuất
(được phân công chun mơn hố ở nhiều nước) đến khâu phân phối (tiêu thụ
tồn cầu). Những cơng nghệ ngay khi ra đời đã có tính tồn cầu như cơng nghệ vệ
tinh viễn thơng đã hiện diện.
Chính khoa học - cơng nghệ sáng tạo ra những ứng dụng rộng rãi cho nhiều
quốc gia, góp phần cho sự đẩy mạnh q trình tồn cầu hố. Nhờ có cơng nghệ
phát triển, sự hợp tác giữa các quốc gia, các tập đồn có thể mở rộng từ sản xuất
đến phân phối dịch vụ trên phạm vi tồn cầu, những quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau
cùng có lợi phát triển.
Thứ hai, các quan hệ kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển
Một nền cơng nghệ tồn cầu xuất hiện là cơ sở cho các quan hệ kinh tế toàn
cầu phát triển. Đầu tiên là các quan hệ thương mại. Chi phí vận tải liên lạc càng
giảm đi, thì khả năng bán hàng đi các thị trường xa càng tăng lên, thương mại
tồn cầu càng có khả năng phát triển. Đồng thời q trình phân cơng, chun mơn
hố sản xuất càng có thể diễn ra giữa các quốc gia và châu lục. Các quan hệ sản
xuất, thương mại có tính tồn cầu, đã kéo theo các dịng tiền tệ, vốn, dịch vụ...
vận động trên phạm vi toàn cầu. Thương mại điện tử xuất hiện với kim ngạch
ngày càng tăng và đang trở thành một loại hình bn bán tồn cầu khơng biên
giới đầy triển vọng.
Nhu cầu nội tại của các nước ngày càng lớn hối thúc các nước vươn ra khỏi

biên giới quốc gia để tìm kiếm những quan hệ giao dịch mới, kỳ vọng nhiều lợi
ích cho bản thân. Việc hợp tác, liên kết để phát huy các lợi thế so sánh và tận
dụng nguồn lực từ nhiều vị trí trên thế giới trở nên dễ dàng dưới sự hậu thuẫn của
thành tựu khoa học công nghệ và chuyển đổi tư duy khép kín sang tư duy mở là
những tác nhân góp phần cho q trình tồn cầu hóa diễn trên thực tế.
Thứ ba, nhiều vấn đề tồn cầu địi hỏi sự phối hợp nhiều quốc gia
Những vấn đề tồn cầu bao gồm: Các vấn đề có quan hệ trực tiếp đến hoạt
động sống của mọi người trên trái đất, không phân biệt địa vị giai cấp, chính trị xã hội; đến sự phát triển của tồn thể nhân loại, đến vận mệnh của các quốc gia
8


dân tộc. Những vấn đề toàn cầu đều thể hiện là nhân tố khách quan của sự phát
triển xã hội và thể hiện ở mọi nơi trên trái đất. Tất cả những vấn đề tồn cầu đều
địi hỏi phải được giải quyết vì nếu khơng được giải quyết thì chúng sẽ đe dọa
phá hủy cơ sở tồn tại của chính con người. Việc giải quyết các vấn đề tồn cầu
địi hỏi phải có sự đầu tư về phương tiện vật chất, sự hợp tác quốc tế về mọi mặt
không phân biệt chế độ xã hội, tơn giáo, chính kiến, hệ tư tưởng; đòi hỏi sự nỗ
lực tối đa của cả nhân loại cả về mặt nhận thức lẫn về những hành động thực tế.
Sự phối hợp của nhiều quốc gia liên quan trong việc xử lý các vấn đề toàn
làm cho quan hệ của các quốc gia ngày càng bận rộn và phụ thuộc vào nhau
nhiều hơn. Tất yếu hình thành các cơ chế hợp tác, phối hợp chung cho các vấn đề
toàn cầu. Các nhà nước buộc phải đưa ra nhiều hành động chung vì lợi ích của
cộng đồng thế giới. Từ đó, hình thành nên các thể chế quốc tế vận hành trên
phạm vi toàn cầu nhằm thực thi các cơ chế mang tính tồn cầu.
Do cách tiếp cận và quan điểm khác nhau khi xem xét về q trình của tồn
cầu hố nên đã có những ý kiến khác nhau. Theo nghĩa cổ điển, tồn cầu hóa đã
bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ XV, sau khi có những cuộc thám hiểm hàng hải
quy mơ lớn. Cuộc thám hiểm lớn lần đầu tiên vòng quanh thế giới do Ferdinand
Magellan thực hiện vào năm 1522. Cũng như việc xuất hiện các trục đường trao
đổi thương mại giữa châu Âu, châu Á, châu Phi và châu Mĩ không phải là hiện

tượng gần đây. Ngoài những trao đổi về hàng hoá vật chất, một số giống cây cũng
được đem trồng từ vùng khí hậu này sang vùng khí hậu khác (chẳng hạn như
khoai tây, cà chua và thuốc lá).
Do có hai khía cạnh kĩ thuật và chính trị, tồn cầu hố sẽ có nhiều lịch sử
khác nhau. Trong phạm vi của mơn kinh tế học và kinh tế chính trị học, tồn cầu
hố chỉ là lịch sử của việc trao đổi thương mại không ngừng giữa các nước dựa
trên những cơ sở ổn định trao đổi hàng hoá với nhau một cách tốt nhất.
Khơng ít các học giả đã cho rằng tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế đã
bắt đầu từ đầu thế kỷ XX và đến nay đã có ba làn sóng tồn cầu hóa.

9


Làn sóng thứ nhất bắt đầu từ đầu thế kỷ XX đến chiến tranh thế giới thứ hai
với những biểu hiện: mậu dịch quốc tế phát triển mạnh mẽ, các luồng vốn đầu tư
tăng nhanh, gia tăng di cư liên lục địa; bắt đầu thực hiện phương pháp sản xuất
Taylor; các nước TBCN đi xâm chiếm thuộc địa, chiếm lĩnh thị trường; các công
ty xuyên quốc gia xuất hiện; các tàu biển đang phát triển cùng với đường sắt.
Làn sóng tồn cầu hố thứ hai từ sau chiến tranh thế giới thứ hai tới cuối
thập niên 60. Làn sóng này có những biểu hiện sau: sự hình thành và phát triển
của hai khối kinh tế đối lập nhau: khối kinh tế TBCN và khối kinh tế XHCN; các
thể chế liên kết kinh tế toàn cầu và khu vực phát triển mạnh, sự ra đời của Quỹ
tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại (GATT) có chức năng điều phối hoạt động tiền tệ tài chính và thương
mại tồn cầu; các luồng thương mại, dịch vụ, đầu tư trực tiếp và gián tiếp, công
nghệ và lao động gia tăng mạnh về cả tốc độ và quy mô; bùng nổ các công ty siêu
quốc gia.
Làn sóng thứ ba từ thập niên 70 tới nay với những đặc trưng là: Hệ thống
tiền tệ thế giới chuyển sang thả nổi; kinh tế thế giới trải qua các chấn động lớn
như giá dầu mỏ tăng cao trong thập niên 70; lạm phát cao; thâm hụt ngân sách

lớn; Liên Xô sụp đổ, hệ thống XHCN tan rã; chiến tranh lạnh chấm dứt; các
ngành công nghệ cao đặc biệt là công nghệ thông tin phát triển, GATT chuyển
thành tổ chức thương mại thế giới (WTO) v.v..
Giai đoạn từ cuối thập niên 80 thế kỉ XX đến nay vẫn là một giai đoạn tồn
cầu hố rõ nhất với những biểu hiện sau đây:
(1) Chấm dứt chiến tranh lạnh và sự sụp đổ của hệ thống XHCN thế giới đã

kết thúc thời kỳ thế giới hai cực, chấm dứt sự đối đầu giữa hai hệ thống, mở ra
thời kỳ hội nhập kinh tế toàn cầu thực sự với sự chuyển đổi của các quốc gia từng
là XHCN, các nước đang phát triển sang kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập kinh
tế quốc tế; xu thế hồ bình, hợp tác phát triển đã trở thành xu thế chính của thời
đại.
(2) Sự bùng nổ của thị trường tài chính tồn cầu.

10


Bước vào nửa cuối thập kỷ 80, tốc độ và quy mơ giao dịch tài chính tồn cầu
đạt mức độ cao hơn chưa từng thấy. Trong thời kỳ này các giao dịch ngoại tệ đã
lớn hơn 100 lần giá trị của những trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Trung bình mỗi
ngày doanh số trao đổi ngoại hối đạt hơn 20 tỷ USD/ ngày năm 1973; tăng lên
590 tỷ USD/ngày năm 1989; 1.500 tỷ USD/ngày năm 1998, và hiện nay khoảng
trên 2000 tỷ USD/ngày. Tổng giá trị tài chính được trao đổi trên thị trường toàn
cầu năm 1980 là 5000 tỷ USD, đến năm 1996 tăng vọt lên 35.000 tỷ, năm 2000 là
83.000 tỷ, gấp gần 3 lần GDP của các nước OECD9.
(3) Sự phát triển mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia
Các công ty xuyên quốc gia kinh doanh tồn cầu đã gia tăng nhanh chóng và
ngày càng trở thành những chủ thể cơ bản chi phối nền kinh tế toàn cầu. Nếu năm
1914, tại 14 nước đứng đầu thế giới có 7,3 ngàn cơng ty xun quốc gia với 27,3
ngàn chi nhánh tại nước ngồi, thì năm 2005 đã tăng lên tới 70 ngàn với 690 ngàn

chi nhánh và tập trung chủ yếu ở các nước phát triển (UNCTAD, 2005). Ngày
nay các nước đang phát triển cũng có các cơng ty này. Theo báo cáo đầu tư thế
giới 1998 của LHQ, thì các nước đang phát triển đã có 10.165 cơng ty xun
quốc gia.
500 cơng ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới tập trung ở các nước phát triển,
nhiều nhất ở Mĩ và Nhật. Ngày nay khơng chỉ có các đại cơng ty mới hoạt động
xuyên quốc gia, mà ngày càng xuất hiện các công ty nhỏ và vừa cũng hoạt động
kinh doanh xuyên quốc gia. Các cơng ty xun quốc gia có vai trị chi phối trong
các quan hệ toàn cầu về thương mại, đầu tư, tài chính, tiền tệ và cơng nghệ với tỷ
trọng vào khoảng 60- 90% tổng giá trị toàn cầu.
(4) Các nhà nước quốc gia với chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế đang

ngày càng trở thành những chủ thể quan trọng của tồn cầu hố
Từ cuối thập niên 80 thế kỉ XX, sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, hầu hết
các quốc gia đã bắt đầu thời kỳ chuyển đổi sang kinh tế thị trường, mở cửa hội
nhập quốc tế. Các quốc gia nói chung cho đến nay đã chấp nhận tồn cầu hố và
9 Tồn cầu hóa - quan điểm và thực tiễn, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương Nxb
Thống kê, HN, 1999

11


hội nhập kinh tế quốc tế, do vậy đã tham gia IMF, WB và WTO, và các tổ chức
kinh tế khu vực.
(5) Các tổ chức xã hội dân sự ngày càng có vai trị lớn hơn trong nền kinh tế

tồn cầu
Các tổ chức xã hội dân sự gồm các hiệp hội tự nguyện, các loại quỹ từ thiện,
các thể chế tơn giáo, hoạt động đa dạng bên ngồi các phạm vi chức năng của gia
đình và Nhà nước, nghĩa là các tổ chức này làm những gì mà Nhà nước và các gia

đình khơng làm và có ích cho con người. Những tổ chức này đang gia tăng hoạt
động trên phạm vi tồn cầu.
Trong q trình tồn cầu hố, có quá nhiều vấn đề mà các quốc gia và gia
đình khơng thể quan tâm hết như: sự thối hố của mơi sinh, nạn nghèo đói, bệnh
tật, những bất cơng, những mặt trái của tồn cầu hố v.v. Các tổ chức xã hội dân
sự vào cuộc gây sức ép lên các chính phủ phải giải quyết các vấn đề trên, và bản
thân các tổ chức này cũng trực tiếp tham gia giải quyết các vấn đề đó.
(6) Gia tăng hoạt động các tổ chức kinh tế toàn cầu

Tháng 12/1945, Hiệp định chính thức thành lập các tổ chức: Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF), Ngân hàng quốc tế tái thiết và phát triển (IBRD) tiền thân của
Ngân hàng thế giới (WB), Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT),
tiền thân của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã được ký kết. IBRD đã chính
thức đi vào hoạt động tháng 6/1946. IMF chính thức hoạt động 3/1947. GATT
cũng chính thức hoạt động vào 1947. Những tổ chức kinh tế toàn cầu này đã thu
hút hầu hết các quốc gia và các nền kinh tế lớn nhỏ tham gia, có chức năng điều
tiết các hoạt động tiền tệ, tài chính, thương mại toàn cầu theo các nguyên tắc đã
được thoả thuận.
Hoạt động của IMF, WB, WTO ngày càng được thừa nhận rộng rãi, và ngày
càng phù hợp hơn với những xu thế phát triển của thế giới. Điều này đã được thể
hiện trên các mặt sau đây:

12


- Hầu hết các Chính phủ của các quốc gia cho đến nay đều đã tham gia ba tổ

chức trên, các Chính phủ chưa tham gia cũng đang đàm phán để tham gia. Điều
này chứng tỏ hoạt động của các tổ chức trên đã mang lợi ích thiết thực cho các
quốc gia thành viên.

- Các nguyên tắc hoạt động, các thể chế được thể hiện trên các cam kết, các

Hiệp định, các văn bản pháp lý của các tổ chức trên nói chung đã được đánh giá
là tiến bộ, phù hợp với lợi ích của các nước tham gia và xu thế phát triển.
- Hoạt động hỗ trợ tài chính của IMF và WB cho các quốc gia khi gặp khó

khăn là hồn tồn cần thiết và trên thực tế đã có những tác động ích cực rõ rệt đối
với sự phát triển của các quốc gia này.
- Hoạt động tư vấn chính sách, các chương trình cải cách cơ cấu của IMF

WB dựa trên cơ sở thoả thuận với các quốc gia nhận tài trợ, khơng có tính bắt
buộc, nghĩa là các quốc gia có thể bác bỏ các điều kiện nhận tài trợ và không
nhận tài trợ. Malayxia năm 1997 không nhận tài trợ và bác bỏ chương trình cải
cách cơ cấu của IMF là một ví dụ.
- Các chương trình cải cách cơ cấu và hoạt động tư vấn của IMF và WB nói

chung là dựa trên các nguyên tắc của thị trường và hội nhập quốc tế, tuy nhiên có
thể có những giải pháp mà IMF và WB đề xuất đã khơng phù hợp với hồn cảnh
cụ thể của các nước nhận tài trợ, và đã có những tác động tiêu cực. Đây cũng là
một lý do làm cho một số chương trình của IMF đã khơng được hồn tất. Nhìn
chung các chương trình cải cách cơ cấu này đã có những tác động tích cực. Việt
Nam đã nhận tài trợ của IMF theo chương trình cải cách cơ cấu và chương trình
này đã có những tác động tích cực rõ rệt.
Tuy nhiên hiện đang có quá nhiều vấn đề đặt ra vượt ra khỏi khuôn khổ của
IMF, WB và WTO. Những vấn đề đó là:
- Nền kinh tế thế giới ngày càng tồn cầu hố sâu rộng, các quan hệ tiền tệ
- tài chính phát triển mau lẹ, nhưng trên thế giới lại có quá nhiều đồng tiền khác

nhau với những tỷ giá thả nổi, và những chính sách tiền tệ, tài chính khác biệt
nhau của các quốc gia. Với các chức năng hạn chế hiện nay, IMF và WB khó có

13


thể ứng phó được những biến động và thách thức của thị trường tiền tệ và tài
chính thể giới, khó đảm bảo được sự ổn định của những thị trường này.
- Nguyên nhân dẫn tới các cuộc khủng hoảng tiền tệ, tài chính ở các quốc

gia trước hết là do những sai lầm trong chính sách kinh tế của các quốc gia đó.
Nhưng IMF và WB lại khơng có khả năng can thiệp, điều chỉnh chính sách kinh
tế của các quốc gia này, nhiều lắm thì cũng chỉ có thể làm tư vấn hỗ trợ ở mức
hạn chế.
- WTO muốn đẩy tới xu hướng tự do hoá thương mại - giảm thấp hơn hàng

rào bảo hộ, nhưng Chính phủ của các quốc gia rất khó thoả thuận được mức độ
giảm này. Cuộc tranh cãi này kéo dài cho đến nay chưa có hồi kết, do vậy vịng
đàm phán Doha vẫn đang bế tắc.
- Những thể chế toàn cầu do IMF, WB, WTO đã thoả thuận được tuy là khá

nhiều, nhưng cịn rất thơ sơ, và chưa bao phủ được hết các vấn đề kinh tế toàn cầu
đang đặt ra bức xúc. Chẳng hạn những vấn đề phát triển kinh tế tồn cầu, xố đói
giảm nghèo, ơ nhiễm mơi trường, bệnh tật... là những vấn đề vượt quá phạm vi
điều tiết của IMF, WB, WTO.
- Có thể sẽ phải tính đến những cải cách căn bản hơn như: WTO sẽ phải cải

tổ thành tổ chức kinh tế toàn cầu, IMF sẽ phải là Ngân hàng Trung ương toàn cầu,
WB sẽ là Ngân hàng Chính sách tồn cầu.
1.2 Khu vực hóa
1.2.1. Khái niệm
Cùng với tồn cầu hố và bổ sung cho tồn cầu hoá là xu thế khu vực hoá.
Theo Nguyễn Khắc Thanh, khu vực hóa được xem như là “một quá trình diễn ra

những liên kết về nhiều mặt giữa các quốc gia cùng nằm trong một khu vực địa lý
nhằm tối ưu hóa những lợi ích chung trong nội bộ khu vực và tối đa hóa sức cạnh
tranh đối với các đối tác bên ngoài” 10. Xu thế khu vưc hoá vừa là sự thể hiện vừa
là sự phản ứng đối với xu thế tồn cầu hố. Trong quan hệ với tồn cầu hố thì xu
thế khu vực hố được xem là bước chuẩn bị để tiến tới toàn cầu hố,
10 Lê Hữu Nghĩa, Lê Ngọc Tịng (2004), Tồn cầu hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb CTQG, trang 179.

14


mặt khác khu vực hoá hiện nay phản ánh một thực trạng co cụm nhằm bảo vệ
những lợi ích tương đồng giữa một vài quốc gia trước những nguy cơ, những tác
động tiêu cực do tồn cầu hố đăt ra.
Khu vực hoá phản ánh sự khác biệt, mâu thuẫn về lợi ích giữa các quốc gia
khu vực trong một thế giới đa dạng, trong đó sự hợp tác liên kết quốc tế ngày
càng tăng lên nhưng cuộc đấu tranh vì lợi ích quốc gia, dân tộc, khu vực cũng rất
gay gắt quyết liệt.
Khu vực hố có nhiều mức độ khác nhau từ một vài nước hoặc một vài vùng
lãnh thổ đến nhiều nước tham gia vào một tổ chức nhằm hỗ trợ cho nhau trong
phát triển, tận dụng nhưng ưu thế của khu vực trong quá trình tham gia nền kinh
tế tồn cầu.
Nếu như tồn cầu hố là hình thành một thị trường thế giới thống nhất, một
hệ thống tài chính, tín dụng tồn cầu, là việc phát triển và mở rộng phân công lao
động quốc tế theo chiều sâu, là sự mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học cơng
nghệ giữa các nước trên quy mơ tồn cầu; là việc giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội có tính chất tồn cầu như vấn đề dân số, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ
mội trường sinh thái… Trong khi đó, khu vực hố kinh tế chỉ diễn ra trong một
không gian địa lý nhất định dưới nhiều hình thức như: khu vực mậu dịch tự do,
liên minh thuế quan, liên minh tiền tệ, thị trường chung, liên minh kinh tế…
Nhằm mục đích hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, từng bước xoá bỏ những

cản trở trong việc di chuyển tư bản, lực lượng lao động, hàng hố dịch vụ... Tiến
tới tự do hố hồn tồn những di chuyển nói trên giữa các nước thành viên trong
khu vực.
Ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển (hay cịn gọi là các quốc

gia cơng nghiệp phát triển), thì xu hướng tham gia hội nhập vào nền kinh tế các
nước trong khu vực và bảo hộ mậu dịch ngày càng gia tăng. Việc tham gia mạnh
mẽ và rộng rãi vào các khối liên kết kinh tế khu vực, từng bước tiến tới sự nhất
thể hoá cao thơng qua các văn bản, hiệp định kí kết đã đưa lại cho các quốc gia
trong liên minh sự ổn định, hợp tác cùng phát triển. Trong điều kiện đó, các
15


doanh nghiệp của các quốc gia thành viên được hưởng những ưu đãi về thương
mại cũng như phải gánh vác các nghĩa vụ về tài chính, giảm thuế cũng như các
miễn giảm khác... (các quốc gia trong hiệp hội mậu dịch tự do Bắc Mĩ NAFTA),
các quốc gia trong Liên minh châu Âu (EU) là những liên kết phản ánh rõ nét các
xu hướng trên). Kinh tế giữa các nước thành viên, theo thoả thuận hợp tác này,
các quốc gia trong liên minh bên cạnh việc xoá bỏ thuế quan và những hạn chế về
mậu dịch khác giữa các quốc gia thành viên, còn cần phải thiết lập một biểu thuế
quan chung của khối đối với các quốc gia ngoài liên minh, tức là phải thực hiện
chính sách cân đối mậu dịch với các nước không phải là thành viên.
Thị trường chung: Đây là một liên minh quốc tế ở mức độ cao hơn liên minh
thuế quan, tức là ngoài việc áp dụng các biện pháp tương tự như liên minh thuế
quan trong trao đổi thương maị, hình thức liên minh này còn cho phép tư bản và
lực lượng lao động tự do di chuyển giữa các nước thành viên thơng qua từng
bước hình thành thị trường thống nhất (các quốc gia trong cộng đồng kinh tế châu
Âu).
Liên minh tiền tệ: Đây là một liên minh chủ yếu trên lĩnh vực tiền tệ. Theo
thoả thuận này các nước thành viên phải phối hợp chính sách tiền tệ thống nhất

trong tồn khối, thống nhất đồng tiền dự trữ và đồng tiền sử dụng chung trong
khối.
Liên minh kinh tế: Đây là một liên minh quốc tế với một mức độ cao hơn về
sự tự do di chuyển hàng hoá, dịch vụ, tư bản và lực lượng lao động giữa các quốc
gia thành viên, đồng thời thống nhất biểu thuế quan chung áp dụng cho cả nước
khơng phải là thành viên. Ngồi ra, các nước thành viên cịn thực hiện thống nhất
các chính sách kinh tế; tài chính, tiền tệ (Liên minh châu Âu: EU từ năm 1994
được coi là liên minh kinh tế).
1.2.2. Những biểu hiện của khu vực hóa
Về lịch sử, q trình khu vực hóa xuất hiện từ nữa sau thế kỉ XX, những cơ
cấu mang tính khu vực đã từng được hình thành trong những giai đoạn khác
16


nhau ở một số nơi trên thế giới. Đó là kết quả của việc áp đặt bằng bạo lực của
các cường quốc với các quốc gia nhỏ hơn trong khu vực. Sự áp đặt như vậy
không thể đem lại sự bền vững vì nó phụ thuộc vào sự hưng suy của các cường
quốc, trong các thời đại khác nhau các cường quốc đã từng sử dụng con đường
bạo lực để xây dựng nên. Vì thế, nếu bỏ qua tính chất sôvanh nước lớn, các quốc
gia cùng nằm trong một khu vực địa lý cần có những mối quan hệ hợp tác cùng
có lợi, cùng tồn tại và phát triển là một vấn đề có tính tất yếu.
Tính tất yếu được định hình bởi chính những điều kiện tự nhiên và xã hội
của mỗi nước, đồng thời cũng chịu tác động ngày càng mạnh của những nhân tố
bên ngoài trong quá trình phát triển. Chính những điều kiện này ảnh hưởng đến
bản chất và hình thức của các khu vực.
Điều kiện tiên quyết có tính chất quyết định đối bản chất và hình thức của
khu vực đó là điều kiện tự nhiên và xã hội. Trong hầu hết các tổ chức khu vực
đều được hình thành bởi các quốc gia có lãnh thổ nằm trong cùng một khu vực
địa lý. Nếu xét kỹ hơn thì cũng chỉ có những tổ chức khu vực trong quá trình liên
kết coi vấn đề vị trí địa lý là một trong những điểm xuất phát mới tồn tại và phát

triển lâu dài, trở thành hình mẫu của q trình khu vực hóa như EU, ASEAN,...
Sự tương đồng về mặt địa lý có tầm quan trọng rất lớn trong trong hầu hết các
quan hệ hợp tác khu vực từ an ninh, kinh tế cho đến các quan hệ về văn hóa, dân
tộc, tơn giáo... Trong cùng một phạm vi địa lý có thể có những khác biệt về địa
hình, quy mơ lãnh thổ, ngơn ngữ... nhưng về kinh tế các quốc gia ln có nhiều
điểm chung. Ngày nay dưới sự tác động của tình hình thế giới thì sự lựa chọn
nghiên về hợp tác nhiều hơn cạnh tranh giữa các nước trong cùng một khu vực là
một thực tế hiển nhiên.
Yếu tố địa lý có vai trị quan trọng trong q trình khu vực hóa cịn bởi vì nó
liên quan ðến vấn ðề giao thơng, vận tải. Sự phát triển của nền kinh tế càng cao
càng cần ðến những hệ thống và các phýõng tiện giao thơng vận tải hiện ðại.
Ngồi những điểm tương đồng để cùng hợp tác, các quốc gia cùng khu vực cịn
có những khác biệt về quy mô lãnh thổ, chủ quyền biên giới quốc gia, các nguồn
17


tài ngun. Chính những khác biệt đó giúp cho các nước phát huy được lợi thế
của mình, đồng thời tạo cơ hội để khắc phục những bất lợi so với các quốc gia
trong khu vực.
Đối với các điều kiện xã hội, tham gia vào khu vực hóa các quốc gia còn bị
chi phối bởi các điều kiện xã hội vốn được hình thành từ bên trong mỗi nước như
dân số, văn hóa, lao động xã hội... những thuận lợi và khó khăn cũng gắn liền với
nhau trong mỗi lĩnh vực và điều rõ ràng là trong thời đại ngày nay không thể phát
huy triệt để các yếu tố thuận lợi cũng như khơng thể khắc phục có hiệu quả
những khó khăn nếu không mở cửa hợp tác với thế giới bên ngoài mà trước hết là
các nước trong cùng một khu vực.
Do các điều kiện lịch sử, tôn giáo, phong tục và tập quán khác nhau cho nên
dân số của các nước thường khác nhau về nhiều mặt, trong đó quan trọng nhất
nếu xét từ góc độ kinh tế là quy mô và cơ cấu. Về quy mô dân số có thể coi là
một nước đơng dân hoặc ít dân. Đơng dân vừa có lợi thế là nguồn lao động dồi

dào, giá trị lao động thấp nhưng đồng thời cũng lại có những bất lợi kèm theo là
thất nghiệp cao, việc cải thiện chất lượng cuộc sống ln ln địi hỏi những chi
phí lớn. Một quốc gia có cơ cấu dân số trẻ hay già gần như đồng nghĩa với dư
thừa hoặc thiếu lao động. Trong phần lớn các trường hợp thì hợp tác quốc tế về
lao dộng là lối thoát để vượt qua khỏi những nguy cơ nay sinh vấn đề lao động
đối với nền kinh tế của nhiều nước.
Tuy nhiên, khác với xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa hoặc vốn và cơng
nghệ, xuất khẩu hay tiếp nhận lao động đòi hỏi sự hợp tác ở mức độ cao nhiều
hơn, các nước cùng đi đến thống nhất về hàng loạt những vấn đề khó khăn, phức
tạp liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ mỗi bên. Tất cả cần phai rõ ràng và cơng
khai thì hợp tác mới có hiệu quả.
Sự phát triển khơng đều giữa các nước ngay trong cùng một khu vực dẫn
đến kết quả thu nhập quốc dân tính theo đầu người cũng khác nhau, có khi mức
độ chênh lệch khá lớn. Chẳng hạn như giữa Malayxia với Xingapo, Thái Lan với
Lào, Nhật Bản với Trung Quốc.... Sự khác biệt đó tác động trực tiếp tới chi phí
18


vè cơng nhân và nếu khơng có các hình thức hợp tác giữa các nước có liên quan
sẽ tất yếu dẫn đến tình trạng di dân kinh tế “bất hợp pháp”, một vấn nạn khó giải
quyết đối với tất cả các nước. Khu vực hóa nhất là khu vực hóa kinh tế cho phép
các nhà đầu tư di chuyển vốn, công nghệ tới những nơi công nhân rẻ trước khi di
dân kinh tế xuất hiện.
Cùng với quy mô và cơ cấu dân số thì các yếu tố về văn hóa cũng ảnh hưởng
đến q trình khu vực hóa. Tuy cùng nằm trong một khu vực địa lý, có bề dày
lịch sử tương đương nhau, nhưng giữa các quốc gia có sự khác biệt về văn hóa.
Trong trường hợp có cùng ngơn ngữ, tín ngưỡng,... vẫn có những nét đặc thù
khác hẳn nhau không chỉ về nếp sống, tập quán sinh hoạt, mà cịn cả về những di
sản văn hóa do lịch sử để lại. Xét từ góc độ kinh tế, chính sự khác nhau về văn
hóa đó đã hình thành nên một số cơ sở thực tiễn đặt nền móng cho sự hợp tác

quốc tế mang lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia. Ngoài những nhu cầu về vật
chất cịn có các nhu cầu về tinh thần như nhu cầu tìm hiểu, chiêm ngưỡng di sản
văn hóa của nước khác là nhu cầu có thể và cần phải được đáp ứng. Sự bùng nổ
về du lịch trong những nền kinh tế đã tương đối phát triển cho phép các nước giữ
gìn được những nét đặc sắc văn hóa dân tộc biến chúng thành lợi thế để phát huy
và thu được những lợi ích khơng nhỏ khi mở cửa thu hút du khách nước ngoài.
Ngoài những điều kiện về tự nhiên và xã hội, khu vực hóa cịn chịu sự tác
động của q trình tồn cầu hóa. Trong đó, việc tái cơ cấu kinh tế của các nước
trong phân cơng khu vực và việc hình thành kết cấu hạ tầng mang tính khu vực
trong tổng thể kết cấu hạn tầng kinh tế thế giới là hai vấn đề cơ bản nhất. Do tác
động mạnh của cuộc cách mạng khoa học - cơng nghệ, tình hình quốc tế sau
chiến tranh lạnh, q trình tồn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. Nó khơng chỉ lơi cuốn
các quốc gia vào đó mà còn thúc đẩy cuộc đua tranh về kinh tế trên quy mô thế
giới lên một nấc thang mới.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa, hầu hết các nền kinh tế đều có thể trở nên lạc
hậu về cơ cấu khá nhanh. Đứng trước một thị trường thế giới mỗi quốc gia
19


khơng cịn là người sản xuất và cung ứng hàng hóa thành phẩm như trước. Sự
phân cơng quốc tế mới về sản xuất khơng cịn chấp nhận các biên giới quốc gia là
các tiêu chuẩn giới hạn, nó đã trở nên quá nhỏ hẹp đối với quá trình sản xuất ra
những hàng hóa tiêu dùng phổ biến. Mặt khác, những chủ thể mới tham gia vào
q trình phân cơng khơng chỉ là những doanh nghiệp tầm cỡ quốc gia mà là
những tập đồn xun quốc gia khổng lồ có sức mạnh vượt trội so với nhiều nước
cả về vốn và công nghệ. Phân công về công nghệ đang dần trở thành tiêu chuẩn
chính trọng phân cơng quốc tế về lao động, tạo nhiều lợi thế cho các tập đoàn
xuyên quốc gia khống chế các chi nhánh tại các nước và có vai trị ngày càng lớn
trên thị trường thế giới.
Khu vực hóa với biểu hiện ban đầu rõ nhất của nó là hình thành thị trường tự

do tồn khu vực với mức thuế quan thống nhất. Với điểm xuất phát này, các nước
thành viên vẫn có thể duy trì chế độ bảo hộ mang tính tập thể đối với hàng hóa,
dịch vụ được cung ứng từ bên ngồi khu vực trong một thời gian nhất định. Đồng
thời, thông qua cạnh tranh nội bộ trong khu vực để xác định lại các lợi thế và bất
lợi của nền kinh tế quốc dân. Trên cơ sở đó, thực hiện tái cơ cấu tồn bộ nền kinh
tế theo hướng tối ưu hóa trong phân công nội bộ khu vực trên cơ sở phát huy lợi
thế so sánh, tiến tới tự do hóa việc di chuyển vốn, lao động và chuyển giao công
nghệ, cuối cùng là một đồng tiền chung cho toàn bộ khu vực.
Những thành công trong việc ứng dụng thành tựu khoa học cơng nghệ làm
xuất hiện nhu cầu hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế quốc tế. Mạng lưới viễn
thơng, hệ thống định vị tồn cầu,... tất cả địi hỏi phải tồn cầu hóa kết cấu hạ
tầng. Đến lượt nó kết cấu hạ tầng kinh tế tồn cầu khơng thể chấp nhận bất kỳ
một khoảng trống nào mang tính khu vực, tương tự các quốc gia trong khu vực
cũng không thể không cần đến kết cấu hạ tầng này.
Để xây dựng và hiện đại hóa các hệ thống kết cấu hạ tầng, các nước trong
một khu vực dù muốn hay không cũng vẫn cần phải hợp tác với nhau trong xây
dựng các tuyến đường bộ, đường sắt, đường không, đường thủy, tuyến cáp quang,
các hệ thống dẫn dầu, khí đốt... Họ cũng phải hợp tác với nhau để cùng
20


khai thác hiệu quả các hệ thống vệ tinh viễn thông, khoảng không vũ trụ, các
nguồn tài nguyên biển... khi quy mô không gian của nhiều nước không đủ để khai
thác một mình với chi phí rẻ.
Ngồi ra, đối với những nước có trình đọ phát triển chưa thể đáp ứng đủ các
tiêu chuẩn về hàng hóa và dịch vụ thì việc hình thành các tiêu chuẩn khu vực
cũng đáp ứng được lợi ích chung của các nước trong khu vực. Trong trường hợp
tiêu chuẩn khu vực cũng có thể được chấp nhận một cách rộng rãi ở quy mô quốc
tế một khi tiêu chuẩn đó chưa có hoặc cịn đang tiếp tục đàm phán, tranh cãi.
Chẳng hạn như rất nhiều hàng hóa tiêu chuẩn châu Âu nhưng được chấp nhận ở

hầu hết các thị trường trên thế giới.
1.3. Mối quan hệ giữa tồn cầu hóa và khu vực hóa
Tồn cầu hóa và khu vực hóa có mối quan hệ tác động qua lại, vừa thống
nhất vừa mâu thuẫn.
1.3.1. Tính thống nhất giữa tồn cầu hóa và khu vực hóa về kinh tế
Khu vực hóa và tồn cầu hóa kinh tế có nhiều điểm thống nhất, chúng chỉ
khác nhau về phạm vi và mức độ:
- Khu vực hóa và tồn cầu hóa về kinh tế đều là biểu hiện của liên kết kinh

tế quốc tế, đều nảy sinh từ nguồn gốc là quốc tế hóa đời sống kinh tế, đều là kết
quả tổng hợp của các nhân tố: sự phát triển theo chiều sâu của phân công quốc tế;
sự mở rộng không ngừng thị trường thế giới; cách mạng khoa học và công nghệ;
sự bành trướng mạnh mẽ và chiến lược tồn cầu của các cơng ty xun quốc gia.
Liên kết kinh tế diễn ra trên phạm vi toàn cầu hóa kinh tế, cịn diễn ra trên phạm
vi khu vực là khu vực hóa kinh tế.
- Khu vực hóa là một bộ phận tổ thành của tồn cầu hóa, xu hướng của khu

vực hóa là từng bước phá vỡ tính hạn hẹp để vươn ra rộng hơn trong khơng gian
tồn cầu. Ví dụ, các thành viên trong ASEAN mở rộng liên kết với Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc hay khu vực mậu dịch tự do Bắc Mĩ (NAFTA) và khu vực
mậu dịch tự do Đông Nam Á (AFTA) hợp thành Tổ chức hợp tác kinh tế châu Á
- Thái Bình Dương (APEC).

21


Theo Linda Low khái quát bốn kiểu chủ nghĩa khu vực: Chủ nghĩa khu vực
vi mơ gồm một ít nước kề nhau; chủ nghĩa khu vực trung mô gồm một số nước

(ASEAN); chủ nghĩa khu vực vĩ mô gồm nhiều nước (EU) và chủ nghĩa khu vực

đại quy mô như APEC, gồm một số nước lớn, xuyên khu vực hay liên khu vực 11.
Như vậy, sự phát triển của khu vực hóa sẽ ngày càng tiệm cận tồn cầu hóa, từ đó
thúc đẩy tồn cầu hóa.
- Khu vực hóa và tồn cầu hóa đều thúc đẩy các nước thành viên mở cửa

kinh tế và ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi nước tham gia khu vực hóa và tồn
cầu hóa đều phải từng bước tháo gỡ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, mở
rộng môi trường cạnh tranh giữa các thành viên và thúc đẩy phân cơng, chun
mơn hóa giữa các nước thành viên. Biểu hiện rõ nhất là độ phụ thuộc mậu dịch
đối ngoại, tức là so sánh giữa mức xuất, nhập khẩu của một nước với GDP của
nước đó.
Tình hình phát triển kinh tế quốc dân của mỗi nước ngày càng chịu ảnh
hưởng sâu sắc của sự biến đổi trong việc phát triển kinh tế thế giới và khu vực.
Ngay cả sự tăng trưởng của nền kinh tế lớn như kinh tế Mĩ cũng một phần quan
trọng phụ thuộc vào xuất, nhập khẩu.
- Cả khu vực hóa và tồn cầu hóa về kinh tế đều mang tính hai mặt do chịu

tác động bởi tính hai mặt của phân cơng quốc tế. Nó vừa phản ánh sự phát triển
của lực lượng sản xuất quốc tế vừa phản ánh quan hệ quốc tế của sản xuất. Do sự
phát triển của đại công nghiệp, việc phân công lao động đã vượt qua biên giới
quốc gia dân tộc hình thành phân cơng quốc tế, hình thành xu hướng quốc tế hóa
kinh tế. Do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển nhanh chóng, làm cho phân cơng quốc tế càng sâu rộng, từ đó quốc tế
hóa kinh tế chuyển thành tồn cầu hóa kinh tế mà nấc thang trung gian là khu vực
hóa.
Mặt khác, tính chất của khu vực hóa và tồn cầu hóa kinh tế đươch quyết
định bởi tính chất quan hệ sản xuất mà các nước tham gia vào phân công quốc
11
Lê Hữu Nghĩa, Lê Ngọc Tịng (2004), Tồn cầu hóa những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb CTQG, trang 203.


22


tế. Phân công quốc tế trong thời kỳ mới nảy sinh chủ yếu là phân công quốc tế
của chủ nghĩa tư bản. Trong thế giới ngày nay dù có nhiều nước có chế độ chính
trị - xã hội khác nhau cùng tham gia phân công quốc tế, nhưng các nước tư bản
chủ nghĩa phát triển vẫn chiếm vị thế chủ thể của hệ thống phân công này, vẫn
giữ địa vị chi phối, do đó tính chất của phân cơng quốc tế hiện nay vẫn chủ yếu
do quan hệ tư bản chủ nghĩa quyết định.Tuy nhiên, khơng thể đồng nhất tồn cầu
hóa và khu vực hóa với tư bản hóa. Khi quan hệ sản suất tư bản chủ nghĩa bị thay
thế bởi quan hệ sản xuất mới thì tính chất của khu vực hóa và tồn cầu hóa cũng
sẽ biến đổi theo.
- Khu vực hóa và tồn cầu hóa địi hỏi mỗi nước thành viên phải điều chỉnh

luật pháp và phương thức quản lý kinh tế quốc dân thích nghi với những quy tắc
chung đã hình thành trong lịch sử. Do những mâu thuẫn có thể xuất hiện giữa lợi
ích và chủ quyền quốc gia với lợi ích chung của tổ chức khu vực hay toàn cầu,
nên mỗi nước đều phải có chiến lược và lộ trình phù hợp để tham gia liên kết khu
vực và liên kết trên phạm vi toàn cầu, sao cho phát huy được nội lực, tranh thủ
được ngoại lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao nâng suất lao động và
cải thiện đời sống nhân dân.
- Khu vực hóa kích thích việc thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ từ

các công ty xun quốc gia, do đó sẽ thúc đẩy tồn cầu hóa kinh tế. Các cơng ty
xun quốc gia trở thành lực lượng quan trọng thúc đẩy tồn cầu hóa kinhh tế,
khống chế 1/3 sản xuất toàn thế giới, 2/3 mâu dịch quốc tế, 70% đầu tư trực tiếp
nước ngoài và trên 70% bản quyền chuyển nhượng công nghệ 12. Những nước
đang phát triển có thị trường trong nước hẹp thường thiếu hâp dẫn đối với các
công ty xuyên quốc gia, nhất là những công ty lớn. Đặc trung của các tổ chức

kinh tế khu vực là đối nội tự do hóa, đối ngoại bảo hộ. Vì vậy, một mặt thị trường
bên trong của tổ chức khu vực mở rộng, nguồn lực tại chỗ dồi dào, tăng sức hút
vốn và công nghệ mới từ các công ty xuyên quốc gia. Mặt khác, hàng rào bảo hộ
của các tổ chức kinh tế khu vực khiến các công ty xuyên quốc gia
12
Lê Hữu Nghĩa, Lê Ngọc Tịng (2004), Tồn cầu hóa những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb CTQG, trang 205.

23


×