Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ KINH DOANH NHẬP KHẨU TRONG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.17 KB, 35 trang )

CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ KINH DOANH NHẬP KHẨU TRONG
THƯƠNG MẠI.
I. TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ MARKETING
1. Tính tất yếu của kinh doanh xuất nhập khẩu.
Hoạt động kinh tế gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người.Cùng với sự phát triển của các quốc gia thì các nền kinh tế độc lập cũng dần
được hình thành.Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động dẫn
đến hoạt động kinh tế không chỉ bó hẹp trong phạm vi của quốc gia mà đã vượt ra
khỏi biên giới của từng nước.Kể từ khi hoạt động trao đổi buôn bán giữa các nước
ra đời thì nó đã trở thành một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát
triển kinh tế cho mỗi quốc gia.Song trên thực tế không phải Chính phủ quốc gia
nào cũng ủng hộ hoạt động thương mại quốc tế mà muốn xây dựng cho mình một
nền kinh tế độc lập mang tính tự cung tự cấp.Thực tế đã chứng minh rằng không
một quốc gia nào có thể đề ra cho mình một mục tiêu đầy tham vọng như vậy, con
đường thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển kinh tế của mỗi nước là phải hướng ra
bên ngoài, mở rộng quan hệ giao dịch với các nước trong khu vực và trên thế
giới.Do khác nhau về điều kiện tự nhiên như tài nguyên, khí hậu...nếu chỉ dựa vào
nền sản xuất trong nước không thể cung cấp đủ những hàng hoá, dịch vụ đáp ứng
sản xuất tiêu dùng của nền kinh tế mà cần phải nhập những mặt hàng cần thiết như
nguyên liệu, vật tư, máy móc thiết bị, hàng tiêu dùng thiết yếu mà trong nước
không sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu ttrong
nước cả về số lượng và chất lượng.Ngược lại, trên cơ sở khai thác tiềm năng và
những lợi thế kinh tế vốn có, nền kinh tế ngoài việc phục vụ đáp ứng nhu cầu trong
nước mà còn có thể tạo nên thặng dư để có thể xuất khẩu sang các nước khác, góp
phần tăng ngoại tệ cho đất nước để nhập khẩu các thứ thiếu hoặc để trả nợ.
Như vậy, do yêu cầu phát triển kinh tế mà phát sinh nhu cầu trao đổi giao dịch
hàng hoá giữa các nước với nhau, hay nói cách khác, hoạt động xuất nhập khẩu là
yêu cầu khách quan của nền kinh tế.
2. Vai trò và nhiệm vụ của hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá.
2.1. Vai trò.
2.1. Vai trò.


2.1.1. Đối với doanh nghiệp.
2.1.1. Đối với doanh nghiệp.
Cùng với xuất khẩu, thì hoạt động nhập khẩu là hình thức hoạt động chủ yếu
của kinh doanh thương mại quốc tế.Mà thương mại quốc tế là một bộ phận của
thương mại,cho nên trước hết nó phải đảm bảo lợi nhuận mục tiêu của doanh
nghiệp.Thông qua nó các doanh nghiệp có thể tăng năng lực sản xuất.
Nhập khẩu hàng hoá cũng góp phần làm đa dạng hoá thị trường, là động lực
bắt buộc thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phải cải tiến kĩ thuật, đa dạng hoá sản
phẩm để cạnh tranh với hàng hoá nước ngoài trên thị trường trong nước và quốc tế.
Kinh doanh thương mại quốc tế nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng
góp phần nâng cao vị thế của doanh nghiệp, tạo thế và lực cho doanh nghiệp,không
những ở thị trường quốc tế mà cả thị trường trong nước, thông qua việc mua bán
hàng hoá ở thị trường trong và ngoài nước cũng như việc mở rộng quan hệ bạn
hàng.
2.1.2. Đối với nền kinh tế quốc dân.
2.1.2. Đối với nền kinh tế quốc dân.
Nhập khẩu hàng hoá phục vụ đắc lực trong công cuộc đổi mới kinh tế thông
qua việc sử dụng tốt hơn nguồn lao động và tài nguyên của đất nước, tăng giá trị
ngày công lao động, tăng thu nhập quốc dân, tăng hiệu quả sản xuất.Nhập khẩu
công nghệ, thiết bị kĩ thuật tiên tiến từ nước ngoài giúp cho nền sản xuất trong
nước phát triển, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Từ đó,
hoạt động nhập khẩu kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm bật dậy
các nhu cầu tiềm tàng của người tiêu dùng.
Mở rộng hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị cũng là một trong những
phương pháp quan trọng để tạo công ăn việc làm, giảm bớt lượng người thất
nghiệp.Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các nước đang phát triển, ở đó tỷ lệ
thất nghiệp cao, người lao động khó có cơ hội tìm kiếm việc làm.
Nhập khẩu hàng hoá cũng là một trong những nhân tố góp phần mở rộng các
quan hệ kinh tế đối ngoại, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc
tế.

3. Những thuận lợi và bất lợi của hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá đối với nền kinh tế quốc tế.
3.1. Thuận lợi từ hoạt động nhập khẩu.
3.1. Thuận lợi từ hoạt động nhập khẩu.
Nhập khẩu trong nền kinh tế nhiều thành phần giữa các quốc gia tất yếu dẫn
đến cạnh tranh, theo dõi, kiểm soát lẫn nhau giữa các chủ thể.Từ đó, dẫn đến chất
lượng hàng hoá sẽ tốt hơn, mẫu mã đẹp, giá hạ hơn góp phần tích cực vào định
hướng cho người tiêu dùng lựa chọn hàng hoá.
Nhập khẩu hàng hoá trong điều kiện kinh tế hàng hoá nhiều thành phần sẽ dẫn
đến hình thành các liên doanh liên kết giữa các chủ thể trong và ngoài nước một
cách tự giác nhằm tạo ra sức mạnh cho các chủ thể một cách tích cực.Xu hướng
hiện nay trên thế giới cho thấy các chủ đầu tư thường tiến hành xâm nhập thị
trường bằng cách xuất khẩu sản phẩm của mình để bán trong thị trường đó.Khi sản
phẩm của họ đã có uy tín và số lượng bán đã được tăng lên thì thường tiến hành
liên doanh liên kết để nhập khẩu công nghệ ngay tại chỗ, lúc đó việc làm cũng
nhiều lên thu nhập của người lao động cũng tăng lên.
Nhập khẩu hàng hoá cũng dẫn tới xoá bỏ nhanh chóng các chủ thể kinh doanh
sản xuất các sản phẩm lạc hậu không thể chấp nhận được.Điều này có thể thấy rõ ở
nước ta từ khi thực hiện chính sách mở cửa.Nhiều doanh nghiệp trong nước phải
đóng cửa vì không cạnh tranh được với hàng nhập khẩu có chất lượng tốt nhưng
giá lại hạ.
Nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến góp phần đẩy nhanh qúa
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Với kĩ thuật tiên tiến được nhập khẩu,
sản xuất trong nước sẽ phát triển, chất lượng và số lượng hàng hoá sản xuất trong
nước được nâng cao, đồng thời tỷ trọng xuất khẩu hàng thô sơ chế sẽ giảm đánh
kể.Điều này sẽ góp phần làm giảm tình trạng thậm hụt ngoại tệ cho các nước đang
phát triển, trong đó có Việt Nam.
Ảnh hưởng tổng hợp của hoạt động nhập khẩu hàng hoá có thể dẫn tới việc
trình độ khoa học tăng lên, nâng cao mức sống, tăng trưởng kinh tế cũng như gia
tăng cơ hội xâm nhập vào thị trường thế giới và khả năng cạnh tranh của các công
ty trong nước trên thị trường quốc tế.

3.2. Bất lợi từ hoạt động nhập khẩu.
Nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng không có định hướng sẽ làm cho các doanh
nghiệp sản xuất trong nước gặp khó khăn vì phải cạnh tranh với hàng ngoại, đồng
thời tạo ra tâm lí sính dùng hàng ngoại trong dân chúng, dễ làm cho nền sản xuất
trong nước bị tụt hậu.
Việc cạnh tranh giữa các chủ thể nhập khẩu về nguồn hàng, mặt hàng, khách
hàng dễ dẫn đến thôn tính lẫn nhau bằng các biện pháp xấu như mua tranh hàng,
phá hoại hợp đồng nhập khẩu của nhau.
Nhập khẩu hàng hoá là loại mua hàng hoá của nước ngoài nhằm phát triển sản
xuất kinh doanh và phục vụ tiêu dùng trong nước.Nhưng việc mua hàng ở đây có
những đặc điểm riêng phức tạp hơn nhiều so với việc mua hàng hoá trong nước,
như phải giao dịch đàm phán với nước ngoài mà người nước ngaòi có quốc tịch
khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, thị trường hàng tiêu dùng để nhập khẩu rất rộng
lớn, khó kiểm soát khi mua hàng qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền
thanh toán thường là đồng tiền mạnh, hàng hoá phải vận chuyển qua các quốc gia,
qua các biên giới khác nhau, phải tuân thủ theo những tập quán thông lệ quốc tế
cũng như của địa phương.
Bên cạnh đó, có không ít các doanh nghiệp kinh doanh thương mại chỉ dựa
vào hoạt động nhập khẩu để kinh doanh đơn thuần nhằm thu lợi nhuận chênh lệch
chứ ít quan tâm đến xuất khẩu hàng hoá.Từ đó dẫn đến tình trạng hàng hoá tiêu
dùng được nhập khẩu tràn lan, máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất chưa được
chú trọng nhập khẩu.Tình trạng này đã làm cho đất nước lãng phí rất nhiều ngoại tệ
dành cho nhập khẩu những hàng hoá tiêu dùng mà trong nước đã có thể sản xuất
được.
4. Ảnh hưởng của môi trường đến kinh doanh xuất nhập khẩu doanh nghiệp nói chung.
Môi trường marketing của công ty bao gồm các tác nhân và các lực lượng
nằm ngoài chức năng quản trị marketing của công ty và tác động đến khả năng
quản trị marketing trong việc triển khai cũng như duy trì các cuộc giao dịch thành
công đối với các khách hàng trọng điểm.Môi trường marketing của công ty bao
gồm môi trường vĩ mô và môi trường vi mô.

4.1. Môi trường vĩ mô.
4.1. Môi trường vĩ mô.
Bao gồm những lực lượng mang tính chất xã hội rộng lớn ảnh hưởng tới toàn
bộ nhân tố thuộc môi trường vi mô của công ty.Đó là những lực lượng về dân số,
văn hoá xã hội, kinh tế chính trị, công nghệ và thiên nhiên.Đây là những lực lượng
tiêu biểu cho cái "không kiểm soát được" mà công ty phải tiên liệu và phản ứng lại.
*Môi trường nhân khẩu học.
Đây là yếu tố đầu tiên, tiền đề bởi con người là yếu tố kiến tạo thị
trường.Những người làm marketing phải chú ý đến quy mô, tốc độ tăng dân số.Bởi
vì, hai chỉ tiêu đó phản ánh trực tiếp quy mô nhu cầu khái quát trong hiện tại và
tương lai, do đó nó cũng phản ánh sự phát triển hay suy thoái của thị trường.
Vậy để thích ứng một cách tốt nhất với môi trường nhân khẩu học đòi hỏi các
nhà quản trị marketing phải phân tích đánh giá sự tăng trưởng dân số của từng khu
vực để từ đó tiên liệu nhu cầu của phân đoạn thị trường.
*Môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế có ảnh ảnh trực tiếp đến những cơ hội và nguy cơ mà công
ty phải đối mặt, nó ảnh hưởng mạnh mẽ tới sức mua của người tiêu dùng trong
nuớc.Khi nền kinh tế thịnh vượng có tốc độ tăng trưởng cao sẽ thúc đẩy tiêu dùng,
giảm áp lực cạnh tranh trên thị trường do đó mở ra cho công ty cơ hội tăng quy mô
kinh doanh nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói riêng.Ngược lại trong thời kì
suy thoái của nền kinh tế dẫn đến chỉ tiêu giảm, áp lực cạnh tranh tăng lên điều này
sẽ gây bất lợi cho hoạt động kinh doanh của công ty trên thị trường.Điều đó đòi hỏi
công ty kinh doanh phải sớm phát hiện ra những cơ hội hoặc thách thức mới trong
kinh doanh, từ đó điều chỉnh các hoạt động thích ứng, nhằm tránh những đảo lộn
lớn trong quá trình vận hành, duy trì và đạt được những mục đích trong kinh
doanh.
* Môi trường thiên nhiên.
Trong những năm gần đây, điều kiện môi trường tự nhiên ngày càng xấu đi đã
trở thành vấn đề nóng bỏng đặt ra khắp nơi trên thế giới, ở một vài nơi ô nhiễm
môi trường đã đặt trong tình trạng báo động.Những nhà marketing cần phải nhạy

bén với những mối đe doạ và cơ hội gắn liền với những xu hướng đang thay đổi
trong môi trường tự nhiên để đưa ra các chiến lược kinh doanh phù hợp nhằm nâng
cao hiệu quả kinh doanh của mình.
* Môi trường chính trị pháp luật.
Đây là một trong yếu tố có ảnh hưởng mạnh tới quyết định marketing của
công ty. Sự tác động của môi trường chính trị pháp luật tới các quyết định
marketing được thể hiện dưới các khía cạnh sau :
- Tác động của hệ thống pháp luật tới các quyết định marketing:các văn bản
luật pháp như luật thương mại, luật thuế…đã chỉ rõ công ty được kinh doanh hoặc
cấm hay hạn chế kinh doanh hàng hoá gì, chất lượng hàng hoá như thế nào, có bị
kiểm soát hay không…vì vậy buộc các công ty phải tính toán khi thông qua các
quyết định marketing.
- Hệ thống các công cụ chính sách như : tài chính tiền tệ, thu nhập, xuất nhập
khẩu…những công cụ chính sách trên đều liên quan đến khuyến khích hay hạn chế
cả sản xuất và tiêu dùng do đó buộc các công ty phải tính đến khi đưa ra các quyết
định marketing.
Cơ chế điều hành cuả chính phủ tác động lớn đối với các hoạt động của công
ty: Nếu một chính phủ mạnh, điều hành chuẩn mực và tốt thì sẽ khuyến khích kinh
doanh.Ngược lại, chính phủ điều hành không tốt thì các quyết định marketing trở
nên mất phương hướng.Chẳng hạn như trong điều hành xuất nhập khẩu nếu số
lượng, thời điểm, giá cả...hàng xuất nhập khẩu không được điều hành tốt đều có
thể làm cho thị trường trong nước biến động và gây khó khăn cho hoạt động kinh
doanh.
* Khoa học và công nghệ.
Khoa học và công nghệ nó ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của đất
nước.Một đất nước không thể đi lên, không thể trở thành một cường quốc mạnh
nếu chỉ có những công nghệ cũ kĩ lạc hậu, mà cần phải có những máy móc thiết bị,
công nghệ tiên tiến hiện đại mới đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước.với
hàng công nghiệp nhập khẩu từ các nước phát triển, với công nghệ cao hiện đại
cho phép chúng ta thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất

Công ty
Đối thủ cạnh tranh
Trung gian marketing Khách hàng
Công chúng trực tiếp
nước.Chính vì thế việc nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp phục vụ nhu cầu
trong nước là rất cần thiết và cần được quan tâm hỗ trợ hơn nữa của các cấp các
nghành có liên quan nhằm góp phần thoã mãn ngaỳ càng tốt nhu cầu tiêu dùng nội
địa cả về số lượng và chất lượng.
* Môi trường văn hoá.
Môi trường văn hoá có ảnh hưởng đặc biệt đến hoạt động marketing trên thị
trường trong nước và quốc tế.Nó được xem như rào cản vô hình đối với hoạt động
kinh doanh quốc tế do mỗi quốc gia, khu vực có một nền văn hoá riêng quyết định
mạnh mẽ đến hành vi, thái độ, tâm lí, sở thích..của người tiêu dùng nước đó.Để
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh đòi hỏi các nhà quản lí, các nhà kinh
doanh cần am hiểu về nền văn hoá của phía đối tác trong quan hệ giao dịch buôn
bán.
4.2. Môi trường vi mô.
4.2. Môi trường vi mô.
Để hoạt động marketing thành công, bộ phận marketing của công ty phải phối
hợp hoạt động với các bộ phận khác của công ty và cân nhắc sự ảnh hưởng của
những người cung cấp, các đối thủ cạnh tranh, các trung gian marketing và khách
hàng.Tất cả các lực lượng đó tạo thành môi trường vi mô được mô tả như sau:
Biểu các yếu tố và lực lượng của môi trường vi mô
nhà
cung cấp

*Công ty.
Một công ty có cơ cấu tổ chức hợp lí, ăn khớp với nhau là tiền đề cho hoạt
động kinh doanh có hiệu quả .Các mục tiêu, chiến lược mà công ty đặt ra phải phù
hợp với hoàn cảnh, có tính khả thi cao và phải áp dụng một cách có triệt để.Mọi

hoạt động kinh doanh của các phòng ban đều phải báo cáo lên cấp trên, để cấp trên
có những biện pháp giải quyết thích hợp. Đối với hàng hoá công nghiệp nhập khẩu
đòi hỏi phải có những đội ngũ bán hàng có kinh nghiệm,có kiến thức, hiểu biết về
tất cả các thông số kĩ thuật....do đó các nhân viên trong công ty cần phải thường
xuyên bổ xung kiến thức kịp thời.Hơn thế nữa uy tín truyền thống của công ty
đóng vai trò không nhỏ trong hoạt động kinh doanh của công ty nhằm duy trì và
thu hút khách hàng.Đối với hoạt động công nghiệp này, vì nó có giá trị lớn nên
trước khi nhập khẩu công ty cần phải nghiên cứu kĩ xác định rõ nhu cầu của thị
trường thì mới cung cấp được loại hàng hoá công nghiệp thoã mãn nhu cầu mong
đợi của khách hàng, nó giúp cho việc kinh doanh của công ty đạt được kết quả cao
nhất, thu được lợi nhuận cao nhất.
* Đối thủ cạnh tranh.
Đó là các tổ chức đơn vị khác trong cùng nghành hàng cạnh tranh với công ty
về cả nguồn lực và doanh số bán.Để có được những nhận định xác đáng về các đối
thủ cạnh tranh, công ty phải nắm bắt được đặc điểm của các đối thủ cạnh tranh về
các mặt như: sức mạnh, điểm yếu, mục tiêu, nguồn lực, chiến lược
marketing....công ty phải xác định được đối thủ cạnh tranh trực tiếp,đối thủ cạnh
tranh tiềm tàng.Thông thường các đối thủ cạnh tranh có chiến lược tương tự như
công tylà các đối thủ trực tiếp và nguy hiểm nhất.
Trên cơ sở phân tích các đối thủ cạnh tranh, công ty phải xây dựng cho mình
một chiến lược kinh doanh đúng đắn và có hiệu quả như vậy công ty mới đạt được
những thành công to lớn trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá, ngược
lại sẽ đem lại cho công ty những thất bại thảm hại hoặc có thể dẫn đến sự phá sản
trong hoạt động kinh doanh của mình.
* Người cung cấp.
Việc lựa chọn nhà cung cấp là rất quan trọng vì trên thị trường quốc tế có rất
nhiều nhà cung cấp sản phẩm mà ta muốn nhập.Việc lựa chọn cho mình được nhà
cung ứng làm sao có thể cung cấp hàng hoá với chất lượng tốt nhất, giá cả hợp lí,
có tính cạnh tranh trên thị trường...đòi hỏi các nhà quản trị trong công ty phải nắm
bắt tất cả các thông tin về các nhà cung ứng, trên cơ sở đó phân tích, đánh giá và

lựa chọn cho mình những nhà cung ứng tốt nhất, đáp ứng được các yêu cầu đề ra
nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Khi nghiên cứu và lựa chọn đối tác để nhập khẩu cần lưu ý một số vấn đề:
- Tình hình sản xuất, lĩnh vực kinh doanh, phạm vi hoạt động, chất lượng, giá
cả và uy tín của đối tác trên thị trường.
- Khả năng về tài chính, cơ sở vật chất kĩ thuật của đối tác.
- Xem xét môi trường chính trị, kinh tế,chính sách và tập quán thương mại của
nước nhập khẩu, điều kiện về địa lí...
Sau khi lựa chọn được nhà cung ứng thích hợp công ty cần phải tạo được uy
tín và thiết lập mối quan hệ thân thiết gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa công ty và
các nhà cung ứng nước ngoài có như vậy mới tạo điều kiện cho hoạt động kinh
doanh của công ty có những bước đi vững chắc, đảm bảo nguồn hàng cung cấp đầy
đủ khi có nhu cầu.
* Khách hàng.
Khách hàng là người quyết đinh sự thanh công hay thất bại của công ty kinh
doanh trên thương trường.Bởi vì khách hàng tạo nên thị trường, quy mô khách
hàng tạo nên quy mô thị trường.Khách hàng sẽ bao hàm nhu cầu, bản thân nhu cầu
lại không giống nhau giữa các nhóm khách hàng và thường xuyên biến đổi.Nhu
cầu và sự biến đổi của nhu cầu lại chịu chi phối của nhiều yếu tố, đến lượt mình
nhu cầu và sự biến đổi của nhu cầu lại ảnh hưởng đến toàn bộ các quyết định
marketing của công ty.Vì vậy, công ty phải thường xuyên theo dõi khách hàng và
tiên liệu những biến đổi về nhu cầu của họ.Để nắm bắt và theo dõi về thông tin
khách hàng, công ty thường tập trung vào năm loại thị trường khách hàng như sau:
người tiêu thụ, nhà sản xuất, cơ sở mua đi bán lại,chính quyền và thị trường quốc
tế.
* Trung gian marketing.
Các trung gian marketing là các nhà bán buôn, bán lẻ, các tổ chức dịch vụ như
tư vấn, nghiên cứu marketing, ngân hàng, công ty tài chính, bảo hiểm...tham gia
vào quá trình marketing của công ty giúp công ty tìm kiếm khách hàng và tổ chức
tốt việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của mình tới người mua cuối

cùng.Các trung gian là các nhà kinh doanh độc lập, họ có mục tiêu riêng, sức mạnh
riêng và có chiến lược riêng trên thị trường.Công ty cần phải nghiên cứu kĩ về các
trung gian để có thể lựa chọn và sử dụng tốt nhất trong quá trình làm marketing
của mình.Công ty phải phát triển các tiêu chuẩn lựa chọn các trung gian cho phù
hợp.
* Quan hệ công chúng.
Bất kì công ty nào cũng hoạt động trong môi trường bao gồm bảy loại công
chúng trực tiếp sau: giới tài chính, các phương tiện thông tin đại chúng, cơ quan
nhà nước, các tổ chức quần chúng trực tiếp, quần chúng đông đảo và công chúng
nội bộ(cán bộ công nhân viên trong nội bộ của công ty).
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HOẠT ĐỘNG CÔNG NGHỆ MARKETING NHẬP KHẨU Ở
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HOẠT ĐỘNG CÔNG NGHỆ MARKETING NHẬP KHẨU Ở
CÔNG TY KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU.
CÔNG TY KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU.
1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu và lựa chọn cặp sản phẩm thị trường của công ty xuất nhập khẩu.
1.1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu.
1.1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu.
1.1.1. Nghiên cứu khái quát thị trường.
1.1.1. Nghiên cứu khái quát thị trường.
Nội dung nghiên cứu này còn gọi là nghiên cứu thăm dò và xâm nhập thị
trường của công ty nhằm mục tiêu nhận định và đánh giá khái quát xâm nhập và
tiềm năng của thị trường để đánh giá định hướng quyết định lựa chọn thị trừơng
tiềm năng và chiến lược kinh doanh của công ty.Nội dung nghiên cứu bao gồm:
- Nghiên cứu các nhân tố môi trường để phân tích được những rằng buộc
ngoài tầm kiểm soát của công ty, cũng như những thời cơ có thể phát sinh có thể
nắm bắt và xúc tiến chúng.
- Thu thập thông tin khái quát về quy mô thị trường chủ yếu thông qua các tài
liệu thông kê về tiêu thụ và bán hàng giữa các không gian thị trường.
- Nghiên cứu tổng quan kết cấu địa lí, mặt hàng...của thị trường tổng thể.
- Nghiên cứu động thái và xu thế vận động của thị trường nghành, nhóm

nghành, lĩnh vực kinh doanh.
- Từ những phân tích các nội dung trên, công ty có cái nhìn tổng quan về định
hướng chọn cặp sản phẩm thị trường triển vọng nhất, đánh giá tiềm năng thị trường
tổng thể, đo lường thị phần khả hữu hiệu và tập khách hàng tiềm năng của công ty.
* Lựa chọn thị trường mục tiêu.
Do tính chất của hàng hoá là hàng công nghiệp , là loại hàng hoá phục vụ cho
tiêu dùng nên công ty đã chọn cho mình được thị trường mục tiêu hợp lí. Các sản
phẩm nhập khẩu của công ty thường được tiêu thụ ở một số thị trường đang có tốc
độ tăng trưởng cao và ổn định như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí
Minh....vì ở các khu vực thị trường này quá trình đô thị hoá và phân bổ dân cư
đang diễn ra một cách mạnh mẽ, các khu công nghiệp và khu chế xuất đang được
các bộ nghành quan tâm đầu tư lớn do đó nhu cầu về máy móc thiết bị, phương
tiện vận tải tăng nhanh sẽ mở ra cho công ty nhiều cơ hội kinh doanh trong hiện tại
cũng như tương lai.
1.1.2. Nghiên cứu khách hàng và người tiêu thụ.
1.1.2. Nghiên cứu khách hàng và người tiêu thụ.
Đây là một nội dung nghiên cứu trọng yếu đối với công ty thương mại trên thị
trường vì việc xác định hiểu biết các dạng khách hàng có tập tính tiêu dùng mua
hàng hiện thực và tinh thần xác định sẽ tạo lập mối quan hệ thích ứng phù hợp và
hữu hiệu với thị trường của mình.Nội dung nghiên cứu bao gồm:
* Xác định các thông số và phân loại tập khách hàng tiềm năng theo các chỉ
tiêu kinh tế và xã hội học như giới tính, tuổi, nghề nghiệp và tầng lớp xã hội...
* Nghiên cứu các tập tính hiện thực của khách hàng nghĩa là nắm bắt được tập
tính hoạt động, thói quen của khách hàng trong việc mua hàng và thu thập thông
tin về sản phẩm.
* Nghiên cứu tập tính tinh thần của khách hàng tiềm năng:đó là những điều
mà khách hàng suy nghĩ, cách lựa chọn sản phẩm và quyết định mua hàng, ý kiến
và thái độ của khách hàng đối với sản phẩm được thể hiện qua mức độ tự chủ của
khách hàng trong các quyết định mua hàng và mức độ ảnh hưởng của gia đình, ý
kiến khen chê của khách hàng đối với các yếu tố chất lượng của sản phẩm, giá cả

và mức giá được chấp nhận.
* Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng:dung lượng thị
trường của một được hiểu là sức dung nạp sản phẩm tối đa được mua bởi toàn bộ
thị trường ở một mức giá xác định trong một thời gian xác định.Điều đó có nghĩa
nhu cầu thị trường đạt trạng thái bão hoà.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường được chia thành:
+ Các nhân tố làm dung lượng thị trường biến đổi có tính chu kì.
+ Các nhân tố tác động thường xuyên.
+ Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị trường.
+ Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đến dung lượng thị trường.
1.1.3. Nghiên cứu cạnh tranh.
1.1.3. Nghiên cứu cạnh tranh.
Nghiên cứu cạnh tranh là việc tìm hiểu toàn diện mục tiêu chiến lược, hoạt
động của các đối thủ cạnh tranh, để tạo ra một lợi thế cạnh tranh mạnh nhất có thể
có được trong những điều kiện cụ thể của nguồn lực công ty có thể phát huy được
cũng như trong điều kiện môi trường cạnh tranh luôn luôn biến động đòi hỏi công
ty phải thích ứng.Nghiên cứu cạnh tranh giúp công ty xây dựng được kế hoạch
phòng thủ chặt chẽ và kế hoạch tấn công có hiệu quả với đối thủ, giành thắng lợi
trên thương trường .
Nội dung này bao gồm những hoạt động linh hoạt và đa dạng nhất tuỳ thuộc
vào các yếu tố đối thủ cạnh tranh từ cạnh tranh sản phẩm, giá, chất lượng, quảng
cáo chiêu khách, chào hàng và quan hệ với công chúng, marketing hỗn hợp, dịch
vụ sản phẩm, thương mại, lợi thế môi trường....
1.2. Nghiên cứu nguồn cung ứng nước ngoài.
1.2. Nghiên cứu nguồn cung ứng nước ngoài.
1.2.1. Nghiên cứu mặt hàng và nguồn cung ứng.
1.2.1. Nghiên cứu mặt hàng và nguồn cung ứng.
* Nghiên cứu và lựa chọn mặt hàng nhập khẩu.
Việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu, trước tiên phải dựa vào nhu cầu của sản
xuất và tiêu dùng về quy cách chủng loại, kích cỡ, giá cả, thời vụ và các thị hiếu

cũng như tập quán của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất.Nắm bắt được đầy đủ về
giá cả hàng hoá, các mức giá cho từng điều kiện mua bán và phẩm chất hàng
hoá,khả năng sản xuất và nguồn cung cấp chủ yếu của các công ty cạnh tranh, các
hoạt động dịch vụ phục vụ cho hàng hóa như bảo hành cung cấp phụ tùng, sửa
chữa thiết bị, hướng dẫn sử dụng....

×