Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã y tý, huyện bát xát, tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 78 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NƠNG LÂM
--------------------------------

HỒNG THỊ THANH
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC
TẠI XÃ Y TÝ, HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo

: Chính quy

Chuyên ngành : Quản lý Tài nguyên rừng
Khoa

: Lâm Nghiệp

Khóa học

: 2015 - 2019

Thái Nguyên - 2019


ĐẠI HỌC THÁI NGUN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NƠNG LÂM
--------------------------------


HỒNG THỊ THANH
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC
TẠI XÃ Y TÝ, HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo

: Chính quy

Chuyên ngành

: Quản lý Tài nguyên rừng

Lớp

: K47 - QLTNR

Khoa

: Lâm Nghiệp

Khóa học

: 2015 - 2019

Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Thu Hiền

Thái Nguyên – 2019



i
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của bản
thân tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là q trình
điều tra trên thực địa hồn tồn trung thực, khách quan, chưa công bố trên
tài liệu nào. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện
luận văn này đã được cảm ơn và các thơng tin trích dẫn trong luận văn đã
được chỉ rõ nguồn gốc.
Một lần nữa, tôi xin khẳng định về sự trung thực của lời cam kết trên.
Thái Nguyên, tháng 05 năm 2019
Người viết cam đoan

Hoàng Thị Thanh


ii
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp này em xin gửi lời cảm ơn chân
thành tới toàn thể các thấy giáo, cô giáo trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên, đặc biệt là các thấy giáo, cô giáo của khoa Lâm Nghiệp đã truyền đạt
cho em những kiến thức quý báu và bổ ích trong suốt những năm học vừa qua
cũng như trong quá trình em đi thực tập tốt nghiệp.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cơ giáo TS. Nguyễn Thị Thu Hiền đã
tận tình giúp đỡ và hướng dẫn em trong suốt quá trình thực tập để hồn thành
khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn UBND xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai,
và cán bộ Chi cục Kiểm lâm huyện Bát Xát, cùng sự chỉ bảo tận tình của các
thấy lang, bà mế thuộc xã Y Tý.

Em xin bày tỏ lời biết ơn sâu sắc đến tồn thể gia đình, bạn bè đồng
nghiệp đã giúp đỡ và động viên em trong suốt quá trình học tập cũng như
trong thời gian thực tập tốt nghiệp.
Trong quá trình thực tập và tổng hợp báo cáo do em chưa có được nhiều
kinh nghiệm nên Khóa luận tốt nghiệp của em khơng tránh khỏi những sai
sót, hạn chế.
Em kính mong được sự góp ý hồn thiện của Q thấy cơ.
Em xin trân trọng cảm ơn !
Thái Nguyên, tháng 05 năm 2019
Sinh viên

HOÀNG THỊ THANH


iii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Mẫu bảng điều tra nguồn cây thuốc được cộng đồng dân tộc thiểu
số ở khu vực nghiên cứu ................................................................. 24
Bảng 4.1: Số loài cây thuốc đã phát hiện được ở khu vực nghiên cứu ........... 29
Bảng 4.2 Số lượng họ, chi, loài thuộc 2 lớp trong ngành Ngọc Lan .............. 30
Bảng 4.3 Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ ............................ 31
Bảng 4.4: So sánh các họ có nhiều lồi cây thuốc ở khu vực nghiên cứu (1)
với số họ của từng họ trong hệ thực vật Việt Nam (2) ................... 32
Bảng 4.5. Thống kê các chi có nhiều lồi được sử dụng làm thuốc ............... 33
Bảng 4.6 Sự đa dạng về dạng sống của các loài cây thuốc ở khu vực nghiên
cứu ................................................................................................... 34
Bảng 4.7. Sự phân bố nguồn cây thuốc theo môi trường sống ở khu vực
nghiên cứu ....................................................................................... 37
Bảng 4.8. Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận ở khu vực
nghiên cứu ....................................................................................... 40

Bảng 4.9. Đa dạng các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc của trong cộng
đồng dân tộc Hà Nhì ....................................................................... 41
Bảng 4.10. Đa dạng tần số các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc trong
cộng đồng dân tộc Hà Nhì .............................................................. 43
Bảng 4.11. Tỷ lệ số lồi có cơng dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể ............... 44
Bảng 4.12 . Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ cây Lạc tiên và cây Lá
gan ................................................................................................... 48


iv
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1. Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài .......................... 25
Hình 4.1. tỷ lệ các dạng sống của nguồn cây ở khu vực nghiên cứu .............. 35
Hình 4.2. Hình ảnh một số dạng sống của nguồn cây thuốc tại khu vực nghiên
cứu ................................................................................................... 36
Hình 4.3. Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống của nguồn cây thuốc ở
khu vực nghiên cứu ......................................................................... 39
Hình 4.4. Hoạt tính ức chế S. aureus và E. coli của cây Lạc tiên và cây Lá gan ...49


v
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................ iii
DANH MỤC HÌNH ......................................................................................... iv
Phần 1 MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài ................................................................... 3
1.3. Ý nghĩa của đề tài ....................................................................................... 3

1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học......................................................................... 3
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn ..................................................................................... 3
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................... 4
2.1. Cơ sở thực hiện đề tài................................................................................. 4
2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước ..................................... 5
2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới....................... 5
2.2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt nam ....................................................... 11
2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu ................................................................ 18
2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu ................................................ 18
2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu ..................................... 21
PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU ................................................................................................................ 22
3.1. Đối tượng, phạm vi thời gian và địa điểm nghiên cứu ............................ 22
3.2. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 22
3.3. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 23
3.3.1. Phương pháp kế thừa............................................................................. 23
3.3.2. Phương pháp điều tra cộng đồng .......................................................... 23
3.3.3. Phương pháp thu mẫu ........................................................................... 25


vi
3.3.4. Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc ........ 26
3.3.5. Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp .............................................. 26
3.3.6. Phương pháp nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn .................................. 26
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................... 29
4.1. Đa dạng nguồn cây thuốc sử dụng trong cộng đồng dân tộc Hà Nhì tại xã
Y Tý, huyện Bát xát, tỉnh Lào Cai .................................................................. 29
4.1.1. Đa dạng các bậc taxno........................................................................... 29
4.1.2. Đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc ...................................... 34
4.1.3. Đa dạng về môi trường sống của thực vật làm thuốc ........................... 37

4.1.4. Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được
tại xã Y Tý ....................................................................................................... 39
4.2. Đánh giá tình hính sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Hà Nhì
tại xã Y Tý. ..................................................................................................... 41
4.2.1. Đa dạng về bộ phận sử dụng của cây thuốc .......................................... 41
4.2.2 Đa dạng về cơng dụng chữa bệnh của các lồi cây thuốc ...................... 44
4.4. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng
trong cộng đồng dân tộc Hà Nhì khu vực nghiên cứu .................................... 47
PHẦN 5. KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ ................................... 50
5.1. Kết luận .................................................................................................... 50
5.2. Tồn tại ...................................................................................................... 51
5.3. Kiến nghị .................................................................................................. 51
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO


vii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ cái viết tắt/ký hiệu

Cụm từ đầy đủ

Cc

Cả cây

Đ

Sống ở đồi


HTKK

Hoạt tính kháng khuẩn

KVNC

Khu vực nghiên cứu

KH&CN

Khoa học & cơng nghệ

L



Lp

Dây leo

Me

Cây gỗ trung bình

Mi

Cây gỗ nhỏ

Na


Cây bụi

NCTN&MT

Nghiên cứu và tài nguyên và môi trường

NĐ – CP

Nghị định Chính phủ

Pp

Kí sinh và bán kí sinh

Q

Quả, hoa

R

Rễ

R

Sống ở rừng

ST&TNSV

Sinh thái và tài nguyên sinh vật


Th

Thân thảo/thân

UBND

Ủy ban nhân dân

V

Vỏ

Vs

Sống ven sông ven suối

Vu

Sống ở vườn


1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1.Tính cấp thiết của đề tài
Cây thuốc dân gian từ lâu đã được nhiều người quan tâm đến đây là
nguồn tài nguyên thực vật có giá trị thiết thực cho các cộng đồng địa phương
trong việc phòng chữa bệnh, ngồi ra nó cịn có giá trị trong việc bảo tồn
nguồn gen, cung cấp cho lĩnh vực dược học.
Cho đến nay Việt Nam vẫn được đánh giá là nước có nguồn tài nguyên

sinh vật đa dạng và phong phú, trong đó có tài nguyên cây thuốc, đặc biệt là
khu vực Trường Sơn. Thêm vào đó với những kinh nghiệm đã được tích lũy
qua 4000 năm lịch sử, đã sử dụng nguồn tài nguyên phục vụ cho nhu cầu cuộc
sống từ ăn, mặc, ở, chăm sóc sức khỏe và chữa bệnh vv… của cộng đồng 54
dân tộc anh em. Đó là một ưu thế lớn trong việc sử dụng nguồn tài nguyên
thực vật trong đó có nguồn tài nguyên cây thuốc góp phần nâng cao đời sống
và sức khỏe của mọi người đặc biệt là các đồng bào Dân tộc thiểu số ở các
vùng sâu, vùng xa nơi cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn phụ thuộc rất
nhiều vào tài nguyên thiên nhiên trong đó có rừng.
Theo các nhà phân loại thực vật ở Việt Nam giàu tài nguyên thực vật
nhất Đơng Nam Á, nơi có khoảng 12.000 lồi thực vật bậc cao. Trong đó có
3.948 lồi được dùng làm thuốc (Viện Dược liệu, 2004) [8] chiếm khoảng
37% số lồi đã biết. Đó chưa kể đến những cây thuốc gia truyền của 54 dân
tộc thiểu số Việt Nam, cho đến nay chúng ta chỉ mới biết được có một phần.
Ngồi ra các nhà khoa học Nơng Nghiệp đã thống kê được 1.066 lồi cây trồng
trong đó cũng có 179 loài cây sử dụng làm thuốc. Theo kết quả điều tra của
viện dược liệu trong thời gian 2002 – 2005 số loài cây thuốc ở một số
vùng trọng điểm thuộc các tỉnh gắn với dãy Trường Sơn như sau: Đắc Lắc
(751 loài), Gia Lai (783 loài), Kon Tum (814 loài), Lâm Đồng (756 loài).


2
Với hệ thực vật như vậy, thành phần các loài cây thuốc hết sức phong phú
và đa dạng.
Cây thuốc dân gian từ lâu đã được nhiều người quan tâm đến đây là
nguồn tài nguyên thực vật có giá trị thiết thực cho các cộng đồng địa phương
trong việc phòng chữa bệnh, ngồi ra nó cịn có giá trị trong việc bảo tồn
nguồn gen, cung cấp cho lĩnh vực dược học.
Dân tộc Hà Nhì là một trong những dân tộc thiểu số ít người. Nguồn
kiến thức bản địa của họ vơ cùng quý giá, nhất là nguồn kiến thức về các loài

thực vật được sử dụng làm dược liệu. Kho kiến thức của họ về dược liệu được
đúc kết qua rất nhiều thế hệ và được lưu truyền từ đời này sang đời khác.
Nguồn kiến thức này chưa được khoa học công nhận nhưng qua việc sử dụng
và kiểm nghiệm trên thực tế đã được người dân sử dụng một cách có hiệu quả
và tốt hơn cả mong đợi. Bằng chứng là bao đời nay họ đã sử dụng chúng để
chữa bệnh cho cộng đồng, các bài thuốc Đông Nam đều được chế biến từ các
lồi cây dược liệu có nguồn gốc từ rừng tự nhiên. Những kinh nghiệm quý
báu, công thức pha chế, cách sử dụng cây cỏ tự nhiên làm thuốc đã được lưu
truyền và tích luỹ qua nhiều thế hệ. Các ông lang, bà mế của đồng bào các
dân tộc miền núi nước ta đã tích luỹ nhiều đời tạo nên nhiều bài thuốc dân
gian quý giá lấy từ cây cỏ. Những kiến thức này chủ yếu được người dân
truyền miệng, truyền từ đời này sang đời khác. Vấn đề đặt ra là làm thế nào có
thể ghi nhận và gìn giữ vốn kiến thức qúy báu trong việc trong việc sử dụng cây
thuốc, bài thuốc đồng thời làm sao để việc khai thác nguồn tài nguyên cây thuốc
của cộng đồng dân tộc Hà Nhì đạt một cách hiệu và bền vững.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tế trên và được sự đồng ý của Ban
giám hiệu nhà trường, ban chủ nhiệm khoa Lâm Nghiệp, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài:
"Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Y Tý, huyện Bát
Xát, tỉnh Lào Cai”.


3
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài
- Đánh giá được tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc và kinh
nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Hà Nhì tại xã Y Tý, huyện
Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
- Đánh giá được hoạt tính kháng khuẩn của một số lồi cây thuốc có giá
trị cao được cộng đồng dân tộc Hà Nhì tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, Tỉnh Lào
Cai sử dụng trong phòng và trị bệnh.

- Xác định được những cây thuốc thuộc diện quý hiếm ở Việt Nam, hiện
có ở khu vực nghiên cứu.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học
- Xác định tri thức bản địa sử dụng các loài cây thuốc của cộng đồng dân
tộc thiểu số tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
- Xác định được hoạt tính kháng khuẩn của lồi cây thuốc có giá trị cao
tại khu vực nghiên cứu.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả thu được sẽ là cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất công tác bảo tồn
và phát triển nguồn gen cây thuốc của cộng đồng dân tộc Hà Nhì tại xã Y Tý,
huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.


4
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở thực hiện đề tài
Tri thức bao gồm sự hiểu biết về sự vật, hiện tượng của thế giới tự nhiên
xung quanh con người. Hệ thống tri thức là sản phẩm trí tuệ của lồi người
được tích lũy từ những kinh nghiệm của q trình lao động sản xuất thực tiễn
trong cuộc sống hàng ngày. Hệ thống tri thức này hình thành trong thời gian
dài lịch sử, tồn tại và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội qua
sự trải nghiệm của nhân dân lao động.
Vậy tri thức bản địa là gì? Theo định nghĩa chung của tổ chức Di sản văn
hóa thế giới (UNESCO), tri thức bản địa là tri thức hồn thiện được duy trì,
tồn tại và phát triển trong một thời gian dài với sự tương tác qua lại gần gũi
giữa con người với môi trường tự nhiên nó được truyền miệng từ đời này sang
đời khác và rất ít khi được ghi chép lại. Tri thức bản địa là tri thức được tạo ra
bởi một nhóm người qua nhiều thế hệ sống và quan hệ chặt chẽ với thiên

nhiên trong một vùng nhất định. Tri thức bản địa là nguồn tài nguyên quốc gia
giúp ích rất nhiều cho q trình phát triển theo những phương sách ít tốn kém,
có sự tham gia của người dân và đạt được sự bền vững. Các dự án phát triển
dựa trên cơ sở tri thức bản địa sẽ lôi kéo được nhiều người dân tham gia, vì nó
hợp với suy nghĩ của nhân dân, dân biết phải làm gì và làm như thế nào. Đó
chính là cơ sở của sự thành công. Đặc điểm quan trọng của tri thức bản địa là
ln thích ứng với sự thay đổi của mơi trường, các cộng đồng cư dân địa
phương ln có ý thức bản địa hóa những du nhập từ bên ngồi có lợi và thích
hợp với cộng đồng.
Trước đây người ta khái niệm lâm sản chủ yếu là gỗ, ít quan tâm đến các
thành phần khác gỗ. Ngày nay, trong các chiến lược phát triển bền vững của
các dự án lâm nghiệp xã hội, nông lâm kết hợp người ta đã chú ý nhiều đến


5
các lâm sản khác ngồi gỗ. Và có khái niệm cơ bản về Lâm sản ngoài gỗ là
bao gồm tất cả các sản phẩm có nguồn gốc sinh học và các dịch vụ thu được
từ rừng hoặc từ bất kỳ vùng đất nào có kiểu sử dụng đất tương tự, loại trừ gỗ
ở tất cả các hình thái của nó. Các loài cây thuốc đa phần là các sản phẩm Lâm
sản ngoài gỗ thuộc một phần của tài nguyên thực vật. Tài nguyên thực vật là
tổng hợp của sinh quyển trong một loạt các thảm thực vật. Tài nguyên thực
vật như là các nhà sản xuất chính, để duy trì chu kỳ dinh dưỡng sinh quyển và
cơ sở dòng năng lượng trên trái đất. Tài nguyên thực vật giữ một vai trị vơ
cùng quan trọng đối với cuộc sống của con người nói riêng và sinh vật nói
chung. Nhưng trong thời gian vừa qua tài nguyên này đã bị suy thoái nghiêm
trọng do sự tác động tiêu cực của con người, chính vì vậy, gần đây Đảng và
nhà nước ta đã có những chủ trương, đường lối mới như: Luật Bảo vệ và phát
triển rừng năm 2004, Luật đất đai năm 2013, Luật đa dạng sinh học năm
2008, Nghị định 32 của Chính phủ năm 2010,…cùng với hàng loạt các văn
bản khác đã ra đời nhằm bảo vệ và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên

hợp lí. Đây là một cơ sở pháp lí quan trọng để thực hiện thành công đề tài tri
thức bản về khai thác và sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Hà Nhì ở
xã Y Tý
2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước
2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới
Trên thế giới, nhiều nước đã sử dụng nguồn Lâm sản ngoài gỗ để làm
thuốc, họ đã sớm phát hiện những cây cỏ trong tự nhiên có thể sử dụng làm
thuốc, các nước đã có các đề tài nghiên cứu về thuốc và họ cũng đã sử dụng
nhiều nguồn tài nguyên này để xuất khẩu làm dược liệu và thu được một
nguồn tài chính khá lớn.
Trong những năm gần đây, những nghiên cứu về sử dụng cây thuốc cho
mục đích chữa bệnh của người dân bản địa ở các khu vực, các quốc gia được
các nhà khoa học thực hiện trên khắp các châu lục trên Thế giới:


6
Châu Á là châu lục có nhiều dân tộc bản địa sinh sống, với vốn tri
thức bản địa về việc sử dụng các loài thực vật làm thuốc phong phú và đa
dạng, đã có những nghiên cứu cụ thể ở các cộng đồng người, các khu vực
khác nhau như:
“Nghiên cứu việc sử dụng truyền thống cây thuốc giữa các cộng đồng
của vùng
Manju Panghal và cộng sự (2010) khi nghiên cứu kiến thức bản địa về
cây thuốc được sử dụng ở cộng đồng Saperas của làng Khetawas, quận
Jhajjar, Haryana, Ấn Độ đã tìm thấy 57 lồi thực vật thuộc 51 chi và 35 họ
được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau, theo nghiên cứu này
cây thuốc được cộng đồng Saperas sử dụng nhiều nhất là các cây thuộc họ
Fabaceae [10].
Arshad Abbasi và cộng sự (2013) khi thẩm định về thực vật học và các
giá trị văn hóa của các loại rau ăn được hoang dã quan trọng trong y học của

Lesser dãy Hymalaya đã ghi nhận 45 loại rau ăn được hoang dã thuộc 38 chi
và 24 họ đã được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau và tiêu
thụ [34].
Mi-Jang Song và cộng sự (2013) khảo sát cây thuốc ở đảo Jeju, Hàn
Quốc đã tìm thấy 171 lồi thực vật thuộc 141 chi và 68 họ, 777 cách sử dụng
các loài cây thuốc của người dân bản địa được ghi lại [54].
Auemporn Junsongduang và cộng sự (2013) nghiên cứu về cây thuốc từ
nương rẫy và rừng thiêng của dân tộc Karen và Lawa ở Thái Lan đã chỉ ra
365 loài thực vật thuộc 244 chi và 82 họ được sử dụng làm thuốc, trong đó
các cây thuộc họ Euphorbiaceae và Lauraceae được người dân sử dụng nhiều
nhất [35].
Homervergel G. Ong và Young - Dong Kim (2014) nghiên cứu về thực
vật học định lượng của các cây thuốc được sử dụng bởi các nhóm bản địa Ati


7
Negrito ở đảo Guimaras, Philippin đã tìm thấy 142 lồi cây dược liệu thuộc
55 họ được sử dụng trong 16 loại bệnh [47].
Mi-Jang Song và cộng sự (2014) khi điều tra và phân tích các kiến thức
truyền thống về cây thuốc được sử dụng bởi các cư dân tại Vườn quốc gia
(VQG) Gayasan, Hàn Quốc đã điều tra và thống kê 200 loài thực vật thuộc
168 chi và 87 họ được các cư dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau
như: rối loạn cơ xương, đau nhức, rối loạn hệ hô hấp, bệnh gan và các vết cắt
vết thương [55].
Dol Luitel và cộng sự (2014) khi nghiên cứu cây thuốc được sử dụng bởi
cộng đồng người Tamang ở quận Makawanpur của Trung tâm Nepal đã tìm
thấy 161 loài thực vật thuộc 144 chi và 86 họ đã được người dân sử dụng để
điều trị các loại bệnh khác nhau [42]
Ở châu Âu, những năm gần đây, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa
học về việc sử dụng các loài thực vật để điều trị các loại bệnh của người dân

bản địa được thực hiện: “Một nghiên cứu về thực vật học của cây thuốc trong
công viên tự nhiên của Joana Camejo – Rodrigues và cộng sự (2004) khi
nghiên cứu về thực vật học của cây thuốc trong công viên tự nhiên của Sera
de Saox Mamede, Bồ Đào Nha đã cung cấp thơng tin của 165 lồi thực vật
được sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau [48].
Y học dân gian châu Âu có một lịch sử lâu dài, những tri thức dân gian
bản địa được truyền lại cho các thế hệ sau bằng việc ghi chép lại và thông qua
truyền miệng qua nhiều thế kỉ (Cassandra L. Quave và cộng sự 2012) [39].
Những năm gần đây, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học về việc sử
dụng các loài thực vật để điều trị các loại bệnh của người dân bản địa được
thực hiện:
Maria Leporatti và cộng sự (2007) khi nghiên cứu về một số công
dụng của cây thuốc trong khu vực Alto Tirreno Cosentino, Calabria, miền
Nam nước Ý đã chỉ ra 52 loài thực vật thuộc 35 họ được người dân sử dụng


8
để điều trị các loại bệnh chủ yếu như: bệnh ngồi da, bệnh về đường hơ
hấp, đau răng, sâu răng và đau thấp khớp [50].
Maria Leporatti và Kamel Gheddira (2009) khi phân tích so sánh các cây
thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền tại Ý và Tunisia đã ghi nhận 153 loài
thực vật thuộc 60 họ được người dân sử dụng trong việc điều trị các bệnh khác
nhau [51].
Behxhet Mustafa và cộng sự (2012) nghiên cứu về các loài thực vật
được sử dụng làm thuốc của dãy núi Alps Albania ở Kosovo đã ghi nhận 98
loài thực vật thuộc 39 họ được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác
nhau, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu thuộc các họ Rosaceae,
Asteraceae và Lamiaceae [37].
Gorka Menedez-Baceta và cộng sự (2014) nghiên cứu về cây dược liệu
truyền thống được sử dụng ở phía Tây Bắc của xứ Basque, bán đảo Iberia đã

chỉ ra 139 loài thực vật thuộc 58 họ được người dân sử dụng để điều trị bệnh,
trong đó các cây được sử sụng nhiều nhất thuộc họ Asteraceae [46].
Cecilia Almeida và cộng sự (2006) nghiên cứu cây thuốc phổ biến được
sử dụng trong các khu vực Xingo – một khu vực khơ hạn ở Đơng Bắc Brazil
đã tìm thấy 187 lồi thực vật thuộc 128 chi và 64 họ được người dân sử dụng để
điều trị các bệnh: cảm lạnh thông thường, viêm phế quản, bệnh tim mạch, bệnh
thận, viêm và an thần [40]. Gabriele Volpato và cộng sự (2009) nghiên cứu sử
dụng cây thuốc của người nhập cư Haiti và con cháu của họ ở tỉnh Camaguey,
Cuba đã chỉ ra 123 loài thực vật thuộc 112 chi và 63 họ được người nhập cư Haiti
sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau [44]
Gaia Luziatelli và cộng sự, (2010) khi nghiên cứu cây thuốc của cộng
đồng Ashaninka, một nghiên cứu từ các cộng đồng bản địa của Bajo
Quimiriki, Junin, Peru đã tìm thấy 402 lồi thực vật được cộng đồng sử dụng
để điều trị các loại bệnh, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu


9
thuộc các họ: Asteraceae, Araceae, Rubiaceae, Euphorbiaceae, Solanaceae và
Piperaceae [45].
Theo nghiên cứu “Thực vật dân tộc của người dân Rayones, Nuevo
Ln, Mexico” năm 2014, đã ghi nhận 252 lồi thực vật thuộc 228 chi và 91
họ được người dân Rayones sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó các họ
được sử dụng chủ yếu là: Asteraceae và Fabaceae (Eduardo Estrada-Castillón
và cộng sự, 2014) [43].
Ở châu Phi, nhiều nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc của Người dân
đã sử dụng cây thuốc bản địa hàng nghìn năm nay để bảo vệ sức khỏe của họ,
những nghiên cứu gần đây cho thấy việc sử dụng cây thuốc của những người
dân bản địa ở châu Phi rất đa dạng và phong phú:
Theo nghiên cứu của David J. Simbo “Một cuộc khảo sát về các loài
thực vật được sử dụng làm thuốc trong Babungo, khu vực Tây Bắc,

Cameroon”, đã xác định và ghi nhận 107 loài thực vật thuộc 98 chi và 54 họ
được người dân địa phương sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó họ được sử
dụng chủ yếu là họ Asteraceae (David J. Simbo, 2010) [40].
“Nghiên cứu về thực vật học và kiến thức bản địa về sử dụng cây thuốc
của các thầy lang trong khu vực Oshikoto, Namibia”, đã tìm thấy 61 lồi cây
thuốc thuộc 25 họ được các thầy lang trong khu vực sử dụng để điều trị các
bệnh khác nhau như: Tâm thần, nhiễm trùng da, vết thương ngoài da, rắn cắn
và các vấn đề tim mạch (Ahmad Cheikhyoussef và cộng sự, 2011) [33].
“Nghiên cứu cây thuốc của Otwal và Ngãi ở quận Oyam, Bắc Uganda”,
đã chỉ ra 71 loài thực vật thuộc 41 họ được người dân địa phương sử dụng để
điều trị các loại bệnh khác nhau, trong đó họ được sử dụng chủ yếu là họ
Asteraceae (Maud M. Kamatenesi và cộng sự, 2011) [52].
Nghiên cứu “cây thuốc được sử dụng bởi phụ nữ từ rừng ven biển
Agnalazaha Đông Nam Madagascar”, đã thống kê được 152 loài cây thuốc
được sử dụng bởi người dân địa phương để điều trị các bệnh, trong đó ghi


10
nhận 8 loài được sử dụng bởi những người phụ nữ để điều trị các biến chứng
trong khi sinh, các bệnh nhiệt đới như: sốt rét, giun chỉ và các bệnh liên quan
đến tình dục như bệnh lậu và giang mai (Mendrika Razafindraibe và cộng sự,
2013) [53].
Nghiên cứu về “sử dụng và quản lý cây thuốc truyền thống của cộng
đồng dân tộc thiểu số Maale và Ari, ở miền nam Ethiopia”, đã ghi nhận 128
loài cây thuốc thuộc 111 chi và 49 họ được cộng đồng người Maale và Ari
sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau (Berhane Kidane và cộng sự,
2014) [38].
Kết quả nghiên cứu về cây thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền bởi
những người Oromo, quận Ghimbi, Tây Nam Ethiopia, đã thống kê được 49
loài cây thuốc thuộc 31 họ và 46 chi được người Oromo sử dụng để điều trị

các loại bệnh khác nhau (Balcha Abera, 2014) [36].
Ở châu Úc: Những nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc bản địa được
thực hiện ở châu Úc cịn rất ít. Một nghiên cứu về các loài cây thuốc được
sử dụng bởi cộng đồng thổ dân Yaegl ở miền Bắc New South Wales,
Australia, đã ghi nhận 32 loài cây thuốc thuộc 21 họ được thổ dân Yaegl sử
dụng để điều trị các bệnh (Joanne Packera và cộng sự, 2012) [49].
Như vậy, việc điều tra và thống kê các loài cây thuốc đã để lại những
cơng trình mang tính khoa học, tính dân tộc sâu sắc, cho thấy vốn tri thức dân
gian bản địa về sử dụng cây thuốc trên thế giới là vô cùng đa dạng và phong phú.
Vậy để, phục vụ cho mục đích chăm sóc bảo vệ sức khỏe con người và để
chồng lại các bệnh nan y là vấn đề thực sự cần thiết của các nhà khoa học, các nhà
y học cổ truyền. Có thể thấy việc điều tra và nghiên cứu các loài cây thuốc của các
nhà khoa học, để lại những cơng trình nghiên cứu mang tính khoa học, tính dân
tộc sâu sắc, cho thấy vốn tri thức dân gian bản địa về sử dụng cây thuốc trên thế
giới là vô cùng đa dạng và phong phú.


11
2.2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt nam
Ở Việt Nam, phong tục tập quán sử dụng cây thuốc đã có từ lâu đời.
Hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã trải qua cuộc
đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đấu tranh với thiên nhiên và bệnh tật.
Ngay từ những buổi đầu sơ khai, khi con người cịn sống theo lối ngun
thủy, trong q trình tìm thức ăn, tổ tiên chúng ta đã phát hiện ra công
dụng và tác hại của nhiều loại cây. Suốt một thời gian dài như vậy, tổ tiên
chúng ta đã dần dần tích lũy được nhiều kinh nghiệm, biết lợi dụng tính
chất của cây rừng để làm thức ăn và làm thuốc chữa bệnh (Trần Thúy và
cộng sự, 2005) [27].
Thế kỷ thứ XI (TCN), nhân dân ta có tục ăn trầu cho ấm người, thơm
miệng, uống nước chè xanh cho mát, nụ vối cho dễ tiêu,… điều đó nói lên

những hiểu biết về dinh dưỡng và sử dụng thuốc của dân tộc (Lê Trần Đức,
1997) [12].
Từ thời Hùng Vương, tổ tiên ta đã biết nấu rượu, biết dùng Thủy ngân để
ướp xác và sử sách đã ghi chép về một lương y tên là Thôi Vỹ đã biết chữa
bệnh lao hạch ở thời An Dương Vương (257 – 207) (Trần Thúy và cộng sự,
2005) [27].
Thời nhà Lý (1010 – 1221) đã có tổ chức Ty Thái Y chăm lo và bảo vệ
sức khỏe cho nhà vua, có nhiều thầy thuốc chuyên lo việc chữa bệnh cho nhân
dân và phương pháp chữa bệnh bằng tâm lý liệu pháp phát triển. Trong sử
sách còn ghi lại năm 1136, vua Lý Thần Tông bị điên được lương y Nguyễn
Chí Thành người Gia Viễn – Ninh Bình dùng tâm lý liệu pháp và tắm nước
Bồ hịn chữa cho khỏi bệnh. Nhà Lý đặt quan hệ với Tống Huy Tông (Trung
Quốc) trao đổi thuốc Nam lấy thuốc Bắc (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [27].
Ở thời này, làng Đại Yên là một làng thuốc nổi tiếng, chuyên trồng và bán các
loại cây thuốc Nam phục vụ công tác chữa bệnh (Viện Dược liệu, 1993) [30].


12
Thời nhà Trần (1224 – 1399), y học cũng khá phát triển, đã có kế hoạch
tự túc thuốc Nam để kháng chiến. Tướng Phạm Ngũ Lão đã trồng cây thuốc ở
Vạn An và Dược Sơn (xã Hưng Đạo – Chí Linh – Hải Dương) để cung cấp
cho quân y (Lê Trần Đức, 1997) [12]. Nổi bật ở thời này là nhà sư Tuệ Tĩnh
(Nguyễn Bá Tĩnh) – được nhân dân tơn trọng, gọi là “Ơng thánh thuốc Nam”.
Tuệ Tĩnh đã xây dựng 74 ngôi chùa chữa bệnh cho nhân dân không lấy tiền
và gây phong trào trồng thuốc ở gia đình. Ơng là một đại sư nước Việt dùng
thuốc Nam giảm giá trị của thuốc Bắc, sắc thuốc chữa bệnh cho nhân dân với
phương châm: “thuốc Nam chữa bệnh người Nam” ông đã truyền bá y dược
cổ truyền cho nhân dân trong các tác phẩm (Lê Trần Đức, 1997) [12]. Thời kỳ
nhà Lê (1428 – 1876) đã có những chủ trương tiến bộ trong việc chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe của nhân dân, tổ chức Thái Y Viện, có lương y chăm lo

việc chữa bệnh cho quân đội, hàng năm tổ chức các đợt phòng và chống
dịch bệnh cho nhân dân. Trong giai đoạn này có làng thuốc ở thơn Nghĩa
Trai, huyện Văn Lâm, hiện nay vẫn cịn tồn tại và phát triển (Trần Thúy và
cộng sự, 2005) [27].
Thế kỷ XVIII, Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông (1729 – 1791)
đã thừa kế dược học của Tuệ Tĩnh chép vào tập “Lĩnh Nam bản thảo” nội
dung gồm 496 vị thuốc Nam của “Nam dược thần hiệu” và phát hiện thêm
hơn 300 vị nữa. Tác giả đã để lại bộ sách thuốc rất có giá trị là: “Tân Hoa Hải
Thượng Lãn Ơng y tơng tâm lĩnh dương an tồn trạch” gọi tắt là “Lãn Ơng Y
Nghiệp” hay “Lãn Ông Y Tập” gồm 66 quyển (Nguyễn Nhân Thống, 2008)
[25]. Suốt 30 năm của cuộc dời mình, tác giả đã xây dựng được nền móng cho
nền y học cổ truyền Việt Nam toàn diện cả về lý luận, phương pháp điều trị
và dược liệu.
Ngồi các bộ sách trên, cịn kể đến tập “Vạn phương thập nghiệm” của
Nguyễn Nho và Ngô Văn Tĩnh gồm 8 tập, xuất bản 1763. Tập “Nam bang


13
thảo mộc” của Trần Nguyệt Phương mơ tả 100 lồi cây thuốc Nam, xuất bản
năm 1858 (Lê Trần Đức, 1997) [12].
Thời kỳ Tây Sơn (1788 – 1808) Nguyễn Hoành đã để lại tập “Nam
dược” với 590 vị thuốc, với các phương thuốc kinh nghiệm gia truyền (Lê
Trần Đức, 1997) [12].
Thời kỳ từ năm 1802 – 1883, nhà Nguyễn cũng tổ chức Thái Y Viện, tổ
chức điều trị bệnh phong tập trung, mở trường dạy thuốc ở Huế (Trần Thúy
và cộng sự, 2005) [27]. Nguyễn Quang Lượng, Nguyễn Kinh,… là những
danh y nổi tiếng thời này, đã góp phần phát triển nền y học với quyển: “Nam
dược tập nghiệm quốc âm” bằng chữ Nôm của Nguyễn Quang Lượng về
phương thuốc dân gian.
Trong thời Pháp thuộc (1848 – 1945), y học cổ truyền nước ta có một số

hoạt động như: thành lập các hội y học ở Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ; mở các
lớp huấn luyện y học cổ truyền, mở các phòng chữa bệnh, tổ chức triển lãm y
học cổ truyền,… (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [27]. Đến đầu thế kỷ XX, đã
cho xuất bản một số sách Y học cổ truyền bằng chữ quốc ngữ như “Việt Nam
dược học” của Phó Đức Thành. Nhiều nhà thực vật học người Pháp và người
Việt góp cơng nghiên cứu cây thuốc Việt Nam, như: bộ “Trung Việt dược tính
hợp biên” của Đinh Nho Chân với 1.600 vị thuốc Nam Bắc.
Sau cách mạng tháng 8 – 1945, y dược học cổ truyền đạt được những
thành tựu to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Bộ y tế cùng y học hiện đại, sức
khỏe của người dân được quan tâm và chăm lo chu đáo hơn. Chỉ thị số 210
TTG/VG ngày 06/12/1966 của thủ tướng chính phủ đã nhận định như sau:
“Dược liệu nước ta rất nhiều, gồm các loài cây thuốc và một số động vật.
Có nhiều lồi q, hiếm ở trên thế giới. Dược liệu ở nước ta chẳng những
là cơ sở cho nền y học dân tộc mà cịn có một vị trí quan trọng trong
nền y học hiện đại, chẳng những là nguồn tự cung tự cấp về các loài
cây thuốc Nam, thuốc Bắc, thuốc Tây, mà còn là loại hàng xuất khẩu có


14
giá trị,… phải coi trọng dược liệu như cây công nghiệp cao cấp” (Võ
Văn Chi, 1996) [7].
Vì vậy, sau khi nước nhà thống nhất, việc nghiên cứu cây thuốc ở nước
ta được quan tâm nhiều hơn. Có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu, tìm tịi và
phát hiện thêm nhiều lồi cây thuốc mới. Tiêu biểu có thể kể đến bộ sách
“Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam” gồm 3 tập, do Đỗ Tất Lợi biên
soạn năm 1957 và đến năm 1961, cuốn sách này được tái bản in thành 2 tập.
Trong đó, tác giả đã mơ tả chi tiết và nêu công dụng của hơn 100 cây thuốc
nam (Nguyễn Tập, 2007) [21]. Đỗ Tất Lợi đã tiếp tục dày công nghiên cứu và
trrong những năm từ 1959 – 1965, tác giả cho xuất bản bộ “Những cây thuốc
và vị thuốc Việt Nam” gồm 6 tập, năm 1969 tái bản trong 2 tập. Cuốn sách

này của tác giả đã đề cập đến trên 500 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc, động
vật và khoáng vật. Tác giả đã kiên trì nghiên cứu, bổ sung liên tục các lồi cây
thuốc trong các cơng trình nghiên cứu của mình và sách đã được tái bản nhiều
lần và các năm 1970, 1977, 1981, 1986, 1995, 1999, 2001 và năm 2003. Lần
tái bản thứ 7 vào năm 1995 số cây thuốc của tác giả nghiên cứu đã lên tới 792
loài và gần đây nhất là lần tái bản lần thứ 13 (dẫn theo Lê Thị Thanh Hương,
2007) [16]. Bộ sách của tác giả đã mang lại giá trị khoa học và giá trị thực
tiễn sâu sắc, thể hiện sự kết hợp giữa khoa học dân gian và khoa học hiện đại.
Trong những năm này, nhiều cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa
học đã được xuất bản thành các tập sách như: “Tài Nguyên cây thuốc Việt
Nam” vào 1993 của Viện Dược liệu, với khoảng 300 loài cây thuốc (Phạm
Hoàng Hộ, 2006); Trần Đình Lý với cuốn “1900 lồi cây có ích” năm 1995,
đã thống kê ở Việt Nam có khoảng 76 loài cho nhựa thơm, 260 loài cho dầu
béo, 160 loài có tinh dầu, 40 lồi tre nứa, 40 lồi song mây (dẫn theo Lê Thị
Thanh Hương, 2007) [16]. Lương y lão thành, thầy thuốc ưu tú Lê Trần Đức
với cuốn: “Cây thuốc Việt Nam” năm 1995 đã giới thiệu hơn 830 lồi cây
thuốc chính, phụ (Lê Trần Đức, 1997) [12]. Võ Văn Chi là một nhà thực vật


15
lớn của Việt Nam, đã đóng góp rất nhiều trong q trình nghiên cứu về các
lồi thực vật ở Việt Nam và ông đã biên soạn cuốn “Từ điển cây thuốc Việt
Nam”, trong đó ơng mơ tả rất tỷ mỷ về các cây được sử dụng làm thuốc ở
Việt Nam bao gồm 3.200 cây (Nguyễn Thượng Dong và cộng sự 2006) [11].
Ngồi ra, cuốn “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” tập I, II đề cập đến rất nhiều cây
cỏ có ích như làm gỗ, làm lương thực, làm thuốc (Nguyễn Thượng Dong và
cộng sự, 2006) [11].
Trong những năm từ 2000 đến nay, đã có nhiều cuốn sách và các tài liệu
về cây thuốc được xuất bản nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều người quan tâm
tới cây thuốc trên khắp đất nước Việt Nam như: “577 bài thuốc dân gian gia

truyền” (Âu Anh Khâm, 2001) [18]; “Thuốc Nam, thuốc Bắc và các phương
thang chữa bệnh” (Tào Duy Cần, 2001) [3] và cuốn “Thuốc bệnh 24 chuyên
khoa” (Tào Duy Cần, 2006) [4]; “Nghiên cứu cây thuốc từ thảo dược”
(Nguyễn Thượng Dong và cộng sự, 2006) [11]; “Cây có vị thuốc ở Việt Nam”
do Phạm Hoàng Hộ nghiên cứu và tập hợp (Phạm Hoàng Hộ, 2006) [15];
“Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược” của Phạm Thiệp và cộng sự, (2000) [22]
đề cập tới 327 cây thuốc phổ biến,… Đồng thời, có nhiều cơng trình nghiên
cứu về cây thuốc trên cả nước cơng bố trên các tạp chí về cây thuốc như:
Đặng Quang Châu (2011) [5] đã công bố một số dẫn liệu về cây thuốc của
dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn (Nghệ An) gồm 177 loài, thuộc 149 chi,
thuộc 71 họ khác nhau; Đặng Quang Châu và Bùi Hồng Hải (2003) [6] khi
điều tra các loài cây của dân tộc Thái ở huyện Quỳ Châu (Nghệ An) đã thu
được 93 loài thuộc 7 chi, 42 họ.
Các tác giả đã phân loại cây được sử dụng theo các nhóm bệnh: bệnh
ngồi da, bệnh về đường tiêu hóa, bệnh về gan, bệnh về xương… Lưu Đàm
Cư và cộng sự, (2004) [10] khi điều tra các lồi cây có ích của dân tộc
H’mơng ở vùng núi cao phía Bắc đã phân loại được 4 nhóm theo cơng dụng:
cây lương thực – thực phẩm, cây làm thuốc, cây có độc, cây để nhuộm màu,


16
cây ăn quả. Trong nhóm này cây làm thuốc đã thống kê được 657 lồi thuộc
118 họ mà người H’Mơng sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người và gia súc.
Nguyễn Thị Thủy và Phạm Văn Thỉnh (2004) [26] đã xây dựng các mơ hình
vườn bảo tồn cây thuốc ở vùng cao Sa Pa, như vườn rừng, trang trại, vườn các
hộ gia đình. Bước đầu đã bảo tồn được 52 lồi cây thuốc thuộc 28 họ, trong
đó có nhiều lồi đang có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Trong Hội nghị Khoa học Toàn quốc lần thứ 4 năm 2011 tại Hà Nội, đã
có nhiều báo cáo khoa học về tài nguyên cây thuốc và cách sử dụng các loài
cây thuốc trong điều trị các bệnh của cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam

được công bố như: một số kết quả nghiên cứu “Các loài thực vật được đồng
bào dân tộc Mường tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò sử dụng
làm thuốc trị bệnh thận” của các tác giả Đỗ Sĩ Hiến và Đỗ Thị Xuyến (2011)
[13] đã chỉ ra 65 loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường sử dụng làm
thuốc chữa bệnh về thận; “Những cây thuốc được sử dụng thay thế mật gấu
theo kinh nghiệm dân gian và đông y ở một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên” của
tác giả Lê Thị Thanh Hương và Nguyễn Thị Thuận, (2011) [17] đã thu được
35 loài thuộc 27 chi, 21 họ của 2 ngành thực vật bậc cao được sử dụng làm
thuốc chữa bệnh thay thế mật gấu ở một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên; “Điều
tra các loài cây thuốc và giá trị sử dụng của chúng ở một số xã thuộc huyện
Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp” của tác giả Võ Thị Phượng và Ngô Trực Nhã
(2011) [20] đã điều tra và thống kê 232 loài cây được sử dụng làm thuốc
thuộc 186 chi, 90 họ tại các xã của huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
“Tri thức sử dụng cây thuốc tại xã Yên Ninh, Huyện Phú Lương, tỉnh
Thái Nguyên” của tác giả Dương Văn Hưng đã điều tra thống kê được 149
loài thực vật thuộc 137 chi, 74 họ được cộng đồng 2 dân tộc Tày và Sán Chí
sử dụng làm thuốc, (Dương Văn Hưng, 2018) Khóa luận tốt nghiệp trường
Đại học Nông lâm Thái Nguyên, [31].
Nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số
lồi cây thuốc tại xã Yên Lạc, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên đã thu


×