Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE Ô TÔ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.54 KB, 30 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE Ô TÔ
I- SỰ CẦN THIẾT VÀ TÁC DỤNG CỦA BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE Ô TÔ
1. sự cần thiết của bảo hiểm vật chất xe ô tô
Theo thời gian, dưới sự phát triển của khoa học kỹ thuật mà mọi đời sống của
con người đã từng bước được cải thiện. Lao động đã dần được máy móc hoá, máy
móc đã được đưa vào trong các ngành sản xuất để thay thế con người với năng suất
và hiệu quả cao hơn rất nhiều so với trước, từ đó làm cho đời sống con người ngày
càng được cải thiện rõ rệt. Trong đó không thể không kể đến ngành giao thông vận
tải mà đặc biệt là giao thông đường bộ, nhờ sự phát triển của ngành giao thông vận
tải mà hàng hoá được lưu chuyển dễ dàng và nhanh chong hơn góp phần thúc đẩy
sự phát triển của các ngành sản xuất vật chất…cũng như sự phát triển của kinh tế
nói chung. Vận chuyển đường bộ bằng ô tô là một hình thức vận chuyển rất phổ
biến và hiệu quả. Ôtô được dùng ở mọi lúc, mọi nơi trong mọi địa hình với khả
năng vận chuyển lớn, là phương tiện vẩn chuyển đem lại hiệu quả cao. Tuy nhiên,
vận chuyển bằng ô tô cũng có nhiều nhược điểm bất cập nhất là trong quá trình vận
chuyển nó mang tính nguy hiểm cao hơn so với các phương tiện khác.
Đáng lo hơn khi trong một số năm gần đây số lượng các phương tiện ô tô ngày
càng tăng trong khi hệ thống đường xá, cầu cống còn chưa kịp phát triển như :
đường xá còn chật hẹp, nhiều đoạn bị hư hỏng, chưa tu sửa kịp và mang tính tạm
thời, nhiều đoạn đường lại khá nguy hiểm như các đoạn đường đèo dốc, những nơi
có mật độ dân cư đông đúc…90% là đường khổ hẹp, chưa tráng nhựa hoặc bê tông
với 8000 cầu và 150 phà có khả năng thông hành kém, quốc lộ chính chỉ dài 15000
km. Với điều kiện địa lý phức tạp như vậy, xác suất xảy ra các vụ tai nạn giao
thông ở nước ta sẽ có khả năng lớn hơn rất nhiều.
Theo số liệu thống kê của cảnh sát giao thông, trong số các loại phương tiện
giao thông đường bộ thì mức độ gây tai nạn giao thông ở ô tô cao hơn mô tô. Cụ
thể, cứ 112 xe ô tô có 1 vụ tai nạn giao thông trong khi 526 xe mô tô mới có 1 vụ
tai nạn giao thông. Ô tô vẫn được xem là loại phương tiện có giá trị lớn đối với các
cá nhân, các tổ chức doanh nghiệp, do vậy khi gặp phải tai nạn thiệt hại mà chủ xe
phải gánh chịu sẽ rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình kinh doanh, gây khó
khăn về mặt tài chính cho họ, nên việc bù đắp bằng tài chính kịp thời là một nhu


cầu hết sức cần thiết.
Nước ta lại là nước đang phát triển, hệ thống xe ô tô còn chưa được đảm bảo
đầy đủ kỹ thuật an toàn, tinh thần trách nhiệm của chủ xe chưa cao, phương pháp
phổ biến luật còn chưa hiệu quả. Chính vì thế đã gây ra tình trạng tai nạn giao
thông ngày một tăng lên theo chiều tăng của số đầu xe lưu hành trên đường bộ. Tai
nạn giao thông đã trở thành mối đe doạ thường trực đối với con người cũng như tài
sản của họ.
Sự thường xuyên phải tham gia giao thông của con người cũng như hàng hoá
được vận chuyển bằng ô tô là nguyên nhân khiến cho tinh thần trách nhiệm của các
chủ xe ô tô ngày một giảm đi nên khả năng gặp rủi ro lại càng tăng. Xem xét
nguyên nhân gây ra các vụ tai nạn giao thông đường bộ ở nước ta trong năm 2004
cho thấy, nguyên nhân do lỗi của chủ phương tiện chiếm tới 75%, 25% còn lại là
do các nguyên nhân khác. Hầu hết các lái xe chạy quá tốc độ, phóng nhanh, vượt
ẩu,... Các chủ xe mặc dù có chú ý đề phòng ngăn ngừa rủi ro đi chăng nữa nhưng
rủi ro xảy ra là hoàn toàn bất ngờ, không thể lường trước được nên rủi ro là không
thể tránh được, từ đó sẽ gây thiệt hại về con người và tài sản trên xe, nhất là có
những khi xe chở một khối lượng hàng hoá lớn lên đến hàng tỷ đồng.
Để khắc phục những rủi ro đó, hầu hết các chủ xe đều có những kế hoạch tài
chính riêng của mình. Có rất nhiều cách hạn chế tổn thất để các chủ xe có thể chọn
cho mình như lập quĩ dự phòng để khi rủi ro xảy ra sẽ dùng quĩ này bù đắp những
tổn thât gặp phải. Nhưng nhược điểm là đôi khi tổn thất xảy ra vượt quá quỹ dự
phòng gây khó khăn về mặt tài chính cho các chủ xe. Một phương pháp khác hữu
hiệu hơn và là biện pháp tốt nhất đã được chứng minh và vẫn đang được sử dụng
phổ biến đó là chuyển giao rủi ro cho các nhà bảo hiểm thông qua hình thức mua
bảo hiểm, người ta gọi phương pháp này là kỹ thuật tài trợ rủi ro. Với một số phí
hợp lý phải đóng cho công ty bảo hiểm để tham gia bảo hiểm vật chất xe ô tô, các
chủ xe có thể yên tâm phần lớn về việc khắc phục tình trạng khó khăn về mặt tài
chính khi xe ô tô bị tai nạn, nhanh chóng khôi phục xe về trạng thái ban đầu để tiếp
tục hoạt động kinh doanh.
Như vậy khi tham gia bảo hiểm vật chất xe ô tô, các công ty bảo hiểm sẽ bảo

hiểm cho mọi rủi ro bất ngờ xảy ra gây thiệt hại về vật chất của bản thân chiếc xe
đó, trừ những trường hợp cố ý. Từ đó mà các chủ xe cũng như bản thân người
tham gia giao thông bằng ô tô xe yên tâm hơn khi tham gia giao thông vì đã có các
nhà bảo hiểm lo cho họ nếu chẳng may gặp phải rủi ro không mong muốn. Qua
đây có thể thấy rằng, bảo hiểm vật chất xe ô tô là rất quan trọng và cần thiết với bất
kỳ chủ xe nào trong thời gian lưu hành của mình, góp phần khắc phục những rủi ro
và bảo đảm tài sản cho các chủ xe, giúp họ nhanh chóng ổn định được cuộc sống
của mình.
2. Tác dụng của bảo hiểm vật chất xe ô tô
Bảo hiểm vật chất xe ô tô là một hình thức chuyển giao tài trợ rủi ro, trong đó
người bảo hiểm chấp nhận gánh vác phần tổn thất tài chính khi rủi ro xuất hiện.
Thông qua việc bồi thường một cách hợp lý, kịp thời, chính xác, trung thực đã giúp
cho các cá nhân và các tổ chức nhanh chóng khắc phục được thiệt hại. Đặc biệt
trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, bảo hiểm vật chất xe
ô tô vẫn sẽ là chỗ dựa tinh thần, là lá chắn kinh tế cuối cùng tạo sự ổn định sản
xuất kinh doanh, đồng thời cũng thể hiện tính cộng đồng tương trợ nhân văn sâu
sắc. Những tác dụng chủ yếu của nghiệp vụ này thể hiện:
2.1. Góp phần ổn định tài chính, sản xuất kinh doanh cho các chủ xe
Ô tô là một loại tài sản có giá trị lớn, thậm chí là rất lớn đối với mỗi cá nhân
và tổ chức. Chính vì vậy, nếu xảy ra tai nạn, người chủ sở hữu sẽ gặp phải rất
nhiều khó khăn để khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, thông qua việc tham gia bảo
hiểm, các chủ xe sẽ nhận được một khoản tiền bồi thường đầy đủ, nhanh chóng từ
các nhà bảo hiểm, tình trạng khó khăn ban đầu về tài chính do rủi ro gây ra sẽ
nhanh chóng được giải quyết, nhờ đó các chủ xe có thể trang trải được các chi phí
bất ngờ phát sinh vượt quá khả năng tài chính của mình, sớm ổn định đời sống và
rút ngắn thời gian gián đoạn kinh doanh có thể xảy ra.
2.2. Tích cực ngăn ngừa và đề phòng tai nạn giao thông
Bằng việc tuyên truyền sâu rộng về các rủi ro, các nguy cơ và hậu quả của
chúng, đồng thời đóng góp tài chính một cách tích cực vào việc thực hiện các biện
pháp đề phòng hạn chế tổn thất như làm đường lánh nạn, trồng các biển báo nguy

hiểm,... các công ty bảo hiểm đã góp phần nâng cao được ý thức của nhiều người
lái xe, từ đó giảm thiểu nhiều vụ tai nạn giao thông có thể xảy ra, giúp chủ xe yên
tâm làm việc và nâng cao hiệu quả hoạt động.
2.3. Tăng thu cho ngân sách nhà nước
Hàng năm, bảo hiểm nộp vào ngân sách nhà nước một khoản tiền rất lớn
thông qua việc đóng thuế bao gồm thuế doanh thu và thuế giá trị gia tăng. Nhờ đó,
nhà nước có thêm điều kiện đầu tư trở lại để nâng cấp và xây dựng mới cơ sở hạ
tầng, đường xá giao thông, tạo đà cho nền kinh tế phát triển và tạo thêm công ăn
việc làm cho người lao động.
Ngoài ra, nhà nước có thể tiết kiệm được những khoản chi khắc phục hậu quả
tổn thất, tránh được những biến động chi tiêu ảnh hưởng đến kế hoạch của ngân
sách nhà nước.
2.4. Thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển và mở rộng mối quan hệ kinh tế
với các nước trên thế giới
Vì đối tượng tham gia bảo hiểm của công ty không chỉ là các chủ xe trong
nước mà còn cả các chủ xe là người nước ngoài, các tổ chức nước ngoài và các
doanh nghiệp nước ngoài cho nên số phí bảo hiểm mà những người này đóng góp
cho công ty là rất lớn. Số phí bảo hiểm này sẽ hình thành nên nguồn quỹ của công
ty, một phần để chi trả bồi thường, phần còn lại công ty có thể cho vay, mua trái
phiếu, kinh doanh bất động sản, tham gia vào thị trường chứng khoán,.... hoạt động
kinh tế nhờ vậy mà sôi động hơn, hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, công ty bảo hiểm còn tiến hành tái bảo hiểm cho các công ty
trong nước và ngoài nước, góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các
nước với nhau.
2.5. Tăng thu ngoại tệ cho đất nước
Khi triển khai loại hình bảo hiểm này, công ty đã góp phần làm tăng nguồn
thu ngoại tệ cho đất nước bởi vì đa số người nước ngoài, các tổ chức nước ngoài và
các doanh nghiệp nước ngoài đều đóng phí bằng đồng đô la, một đồng tiền có giá
trị lớn trên thế giới và cần thiết cho nền kinh tế nước ta.
Hơn nữa, nhờ có dịch vụ bảo hiểm này, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ yên tâm

đầu tư vốn vào nước ta, mang theo nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước.
Như vậy, bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài có rất nhiều tác dụng cả về
kinh tế và xã hội. Nó ngày càng khẳng định được tầm quan trọng của mình đối với
sự phát triển kinh tế đất nước nói chung và sự phát triển của ngành bảo hiểm nói
riêng.
II- NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE Ô TÔ
1. Đối tượng bảo hiểm
Đối tượng của bảo hiểm vật chất xe ô tô là bản thân chiếc xe. Tuy nhiên các
loại xe như xe dùng để tập đua, tập lái, chạy thử không phải là đối tượng được bảo
hiểm nhưng nếu có thoả thuận riêng thì có thể được bảo hiểm.
Đối tượng được bảo hiểm cần có điều kiện là đã được cấp giấy chứng nhận
đăng ký, có biển kiểm soát và được cấp giấy phép lưu hành theo chê độ quy định
kiểm soát của công an và nhà nước. Cơ quan bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm chính
về bản thân chiếc xe đó gồm: vỏ, máy, trang thiết bị… Trong thời gian lưu hành
xe phải được kiểm tra kỹ thuật định kỳ để đảm bảo an toàn khi tham gia giao
thông, còn người điều khiển xe phải có bằng lái phù hợp với loại xe đó.
Đối tượng bảo hiểm vật chất xe ô tô bao gồm tất cả các loại xe ô tô của người
Việt Nam và người nước ngoài đang sống, làm việc tại Việt Nam, của các tổ chức
trong nước và nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam và của các doanh nghiệp
Việt Nam, các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vốn vào Việt Nam, đang còn giá
trị, đảm bảo được những điều kiện về mặt kỹ thuật và pháp lý cho sự lưu hành
đồng thời có đầy đủ các loại giấy đăng ký xe, biển kiểm soát, giấy chứng nhận
kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường, giấy phép lưu hành xe do cơ quan có
thẩm quyền cấp, hoạt động trên lãnh thổ nước Việt Nam.
Nhưng xét trên phương diện kỹ thuật bảo hiểm, người ta thường phân chia xe
thành các tổng thành sau:
* Tổng thành động cơ: bao gồm bộ li hợp, chế hoà khí, bơm cao áp, bầu lọc
gió, bơm hơi và hệ thống điện.
* Tổng thành hộp số: bao gồm hộp số chính, hộp số phụ và các lăng.
* Tổng thành hệ thống lái: bao gồm vô lăng, trục lái, hộp tay lái, thanh kéo

ngang và thanh kéo dọc.
* Tổng thành lốp: bao gồm toàn bộ lốp lắp vào xe và được trang bị dự phòng
trên xe.
* Tổng thành trục trước: bao gồm dầm cầu xe, may ơ, hệ thống treo, má
phanh, tăm bua và trục láp.
* Tổng thành cầu chủ động: bao gồm vỏ và ruột cầu.
* Tổng thành thân vỏ: bao gồm khung xe, ca bin, chắn bùn, kính, gương, ghế
ngồi, các đường ống dẫn khí, dẫn dầu, két nước, tổng trơn, bộ điều hoà lực
phanh,...
Với cách phân chia như trên, công ty bảo hiểm có thể tiến hành bảo hiểm toàn
bộ vật chất thân xe hoặc bảo hiểm từng bộ phận của chiếc xe. Tuy nhiên, trong số
các tổng thành trên thì tổng thành thân vỏ vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất về mặt giá
trị (chiếm 53% giá trị của chiếc xe), hơn thế nữa lại chịu ảnh hưởng của những hậu
quả tai nạn nhiều nhất. Vì thế, hiện nay các công ty bảo hiểm Việt Nam thường
khuyến khích khách hàng mua bảo hiểm toàn bộ xe hoặc bảo hiểm thân vỏ xe.
2. Phạm vi bảo hiểm 2.1. Rủi ro được bảo hiểm
Phạm vi bảo hiểm là giới hạn các rủi ro được bảo hiểm và cũng là giới hạn
trách nhiệm của người bảo hiểm.
Nhà bảo hiểm bồi thường cho chủ xe những thiệt hại vật chất xảy ra cho chiếc
xe được bảo hiểm trong những trường hợp sau đây:
 Tai nạn do đâm va, lật đổ
Cháy, nổ, bão, lũ lụt, sét đánh, động đất, mưa đá
Mất cắp toàn bộ xe
 Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên
Ngoài việc được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho xe được bảo
hiểm trong những trường trên , các công ty bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe
tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm:
Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi
ro được bảo hiểm.
Chi phí bảo vệ xe và kéo xe bị thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất.

Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm .
Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, tổng số tiền bồi thường( bao gồm cả chi phí)
của công ty bảo hiểm không vượt qúa số tiền bảo hiểm đã ghi trên giấy chứng
nhận bảo hiểm.
2.2. Rủi ro loại trừ
Công ty bảo hiểm không nhận bảo hiểm và không chịu bồi thường cho những
thiệt hại vật chất của xe xảy ra do:
Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật
hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa.Hao mòn tự nhiên thường được tính dưới hình
thức khấu hao và thường được tính theo tháng.
 Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị( kể cả máy thu thanh điều
hoà nhiệt độ), săm lốp hư hỏng mà không do tai nạn gây ra.
Mất cắp bộ phận của xe
Ngoài ra để tránh những “nguy cơ đạo đức giả “ lợi dụng bảo hiểm, những
hành vi vi phạm pháp luật, luật lệ an toàn giao thông hay một sô rủi ro đặc biệt
khác, những thiệt hại, tổn thất xảy ra bởi những nguyên nhân sau cũng không được
bồi thường:
Hành động cố ý của chủ xe, lái xe.
Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo qui định
trong điều lệ trật tự an toàn giao thông vận tải đường bộ của liên bộ giao thông vận
tải- nội vụ .
Chủ xe(lái xe) vi phạm nghiêm trọng luật an toàn giao thông đường bộ như:
+Xe không có giấy phép lưu hành
+Xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp lệ.
+Lái xe bị ảnh hưởng của rượu, bia, ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự
khác trong khi điều khiển xe.
+Xe chở chất cháy, nổ trái phép.
+Xe chở quá trọng tải hoặc quá số hành khách qui định
+Xe đi vào đường cấm .
+Xe đi đêm không có đèn hoặc chỉ có đèn bên phải.

+Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa
 Những thiệt hại gián tiếp như: Giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản
xuất kinh doanh.
 Thiệt hại do chiến tranh
 Tai nạn xảy ra ngoại lãnh thổ quốc gia trừ khi có thoả thuận riêng.3. Giá trị bảo
hiểm và số tiền bảo hiểm 3.1. Giá trị bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm của xe ô tô là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời
điểm người tham gia mua bảo hiểm.
Việc xác định đúng giá trị của xe là công việc rất quan trọng vì đây là cơ sở
để bồi thường chính xác thiệt hại thực tế cho chủ xe tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên
giá trị xe trên thị trường luôn biến động và có thêm nhiều chủng loại xe mới gây
khó khăn cho việc xác định xe. Trong thực tế các công ty bảo hiểm thường dựa
trên các yếu tố sau để xác định giá trị của xe:
-Loại xe.
-Năm sản xuất.
-Mức độ mới cũ của xe.
-Thể tích làm việc của xi lanh.
v…v
Một phương pháp khác xác định giá trị của xe mà các công ty bảo hiểm hay
áp dụng đó là căn cứ vào giá trị ban đầu của xe và mức khấu hao, cụ thể:
Giá trị bảo hiểm = Giá trị ban đầu – khấu hao + chi phí sửa chữa, đại tu.
Hiện nay trên thị trường Việt Nam càng ngày càng có nhiều xe ô tô đời mới
được nhập từ nước ngoài về. Do đó giá trị thực tế của xe nhập khẩu được tính như
sau:
GTTT = CIF x (100% +T
S
T
NK
) x (100%+


T
S
T
TTDB
)
Trong đó:
+GTTT: Giá trị thực tế của xe.
+CIF: Giá CIF (bao gồm giá mua xe ô tô tại cửa khẩu nước xuất khẩu cộng
với phí bảo hiểm cho chiếc xe vận chuyển từ nước ngoài về Việt Nam cộng với
cước phí vận chuyển )
+T
S
T
NK
: Thuế xuất, thuế nhập khẩu.
+T
S
T
TTDB
: Thuế xuất thuế tiêu thụ đặc biệt.
Giá trị thực tế của xe là cơ sở để tính phí bảo hiểm vì vậy giá trị thực tế cần
được các chủ xe kê khai một cách đầy đủ, chính xác. Các nhà bảo hiểm nên khuyến
khích khách hàng tham gia đúng giá trị thực tế của xe và trong mọi trường hợp
không bảo hiểm vượt quá giá trị thực tế của xe.
3.2. Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm là khoản tiền được xác định trong hợp đồng bảo hiểm thể
hiện giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm hay giới hạn bồi thường tối đa của
nhà bảo hiểm. Nói cách khác, trong bất kỳ trường hợp nào, số tiền bồi thường, chi
trả cao nhất của người bảo hiểm cũng chỉ bằng số tiền bảo hiểm.
Cơ sở để xác định số tiền bảo hiểm trong bảo hiểm vật chất xe ô tô là giá trị

bảo hiểm và được chia thành ba trường hợp sau:
- Bảo hiểm dưới giá trị: theo hình thức này, số tiền bảo hiểm < giá trị bảo
hiểm.
- Bảo hiểm ngang giá trị: số tiền bảo hiểm = giá trị bảo hiểm.
- Bảo hiểm trên giá trị: số tiền bảo hiểm > giá trị bảo hiểm.
Thông thường, số tiền bảo hiểm do công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm
thoả thuận tức là số tiền bảo hiểm do người bảo hiểm yêu cầu và người được bảo
hiểm chấp nhận. Trên thực tế, do giá trị của ô tô là rất lớn và rất khó xác định cho
nên các công ty thường tiến hành bảo hiểm theo hình thức dưới giá trị hoặc ngang
giá trị mà không thực hiện bảo hiểm trên giá trị để tránh hiện tượng trục lợi của
chủ xe, gây nên hậu quả xấu. 4. Phí bảo hiểm
4.1. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng cho doanh
nghiệp bảo hiểm theo thời hạn và phương thức do các bên thoả thuận trong hợp
đồng bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm và chủ xe có thể thực hiện bảo hiểm theo biểu phí và
mức trách nhiệm bảo hiểm tối thiểu do Bộ Tài Chính quy định hoặc có thể thoả
thuận với nhau theo biểu phí và mức trách nhiệm cao hơn hoặc phạm vi bảo hiểm
rộng hơn- biểu phí và mức trách nhiệm mà doanh nghiệp đã đăng ký với Bộ Tài
Chính.
4.2. Phương pháp xác định phí bảo hiểm
Việc xác định chính xác phí bảo hiểm trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất ô tô
nói riêng và trong các nghiệp vụ bảo hiểm khác nói chung là rất quan trọng trong
hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Có như vậy mới hình thành được quỹ bảo hiểm
đủ lớn để bù đắp cho những thiệt hại bất ngờ xảy ra và những thiệt hại mang tính
thảm hoạ nhưng đồng thời phí bảo hiểm cũng phải phù hợp với khả năng tài chính
của người tham gia.
Khi xác định phí bảo hiểm cho từng đối tượng tham gia cụ thể, công ty bảo
hiểm thường căn cứ vào những nhân tố sau:
Loại xe: do mỗi loại xe có những đặc điểm kỹ thuật khác nhau, có độ rủi ro

khác nhau nên phí bảo hiểm vật chất được tính riêng cho từng loại xe. Thông
thường, các công ty bảo hiểm đưa ra những biểu phí xác định phí bảo hiểm phù
hợp cho hầu hết các xe thông dụng thông qua việc phân loại thành các nhóm. Việc
phân loại này dựa trên cơ sở tốc độ tối đa của xe, tỷ lệ gia tốc, chi phí và mức độ
khó khăn khi sửa chữa, sự khan hiếm của phụ tùng, trọng tải xe. Đối với các xe
hoạt động không thông dụng như xe kéo Rơmooc, xe chở hàng nặng do mức độ rủi
ro cao nên phí bảo hiểm thường được cộng thêm một tỷ lệ nhất định dựa trên mức
phí cơ bản.

×