Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

TỔNG QUAN VỀ SỞ GIAO DỊCH HÀNG HOÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.8 KB, 38 trang )

QUAN VỀ SỞ GIAO DỊCH HÀNG HOÁ
1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN SỞ GIAO DỊCH HÀNG HOÁ
1.1.1. Quá trình phát triển sở giao dịch hàng hoá
Đối với nhiều người thì nhắc đến sở giao dịch hàng hoá là nhắc đến một hệ thống
thị trường phức tạp với một hệ thống giao dịch phát triển các giao dịch tương lai và quyền
chọn hàng hoá như những sở giao dịch nổi tiếng như sở Thương Mại Chicago (CBOT), sở
giao dịch ngũ cốc Tokyo (Tokyo Grain Exchange), hay là sở giao dịch kim loại Luân Đôn
(London Metal Exchange). Đối với một số người khác thì lại cho rằng sở giao dịch là một
cơ cấu thị trường tiên tiến được sử dụng ở các nước công nghiệp các nước có thu nhập
thấp không thể mơ tới.
Lịch sử về sự phát triển thị trường ở Chicago đã cho thấy rằng, hệ thống thị trường
sẽ dần phát triển cùng với sự phát triển của các thị trường này cũng như khi sự tăng tưởng
kinh tế chứ không phải xuất phát từ một thị trường phức tạp ngay từ đầu. Hay nói khác đi,
sở giao dịch Chicago không bắt đầu từ một thị trường phát triển ngay như ngày hôm nay.
Vào những năm 1840, khi mà việc sản xuất ngũ cốc ngày càng phát triển nhờ sự cải tiến về
công nghệ thì những người nông dân ở phía Tây nước Mĩ thường đến Chicago để bán ngũ
cốc cho các thương gia, rồi sau đó những người này sẽ đưa lượng hàng hoá này đi khắp cả
nước. Dần dần, hoạt động này trở nên sôi nổi đến mức hầu như không đủ nhà kho chứa lúa
mì của nông dân. Khối lượng sản xuất ngày càng lớn trong khi hệ thống vận tải chưa phát
triển phù hợp không thể đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hóa. Khi những người
nông dân này đến Chicago họ không hề biết trước giá cả thị trường, hơn nữa ở Chicago lúc
này có rất ít các công cụ để cất trữ hàng hoá và cũng không có một quy trình chuẩn nào để
cân và đánh giá chất lượng ngũ cốc, khiến cho nông dân rơi vào thế bị động và phụ thuộc
vào thương nhân. Thị trường tiêu thụ hỗn loạn, các nhà đầu cơ lợi dụng tình trạng này ép
giá làm giá ngũ cốc giảm mạnh sau vụ thu hoạch rồi sau đó lại tăng lên khi nguồn cung đã
được giải toả. Những hiện tượng mang tính chu kỳ như vậy đã gây nên những thiệt hại
nghiêm trọng cho người sản xuất lương thực, do đó những người nông dân đã tìm cách
tránh rủi ro bằng cách bán ngũ cốc trước khi vận chuyển đến nơi tiêu thụ, kể cả với mức
giá thấp hơn một ít so với giá dự kiến khi ngũ cốc được đưa đến thị trường. Người mua và
người bán lúc này phải thoả thuận với nhau về số lượng ngũ cốc, chất lượng, giá cả, thời
gian, địa điểm giao hàng và nhận tiền. Ban đầu, những hoạt động này diễn ra tự phát và


đơn lẻ nhưng dần dần do tính ưu việt của nó trong việc tiêu thụ cũng như lưu thông hàng
hoá nó lại trở nên ngày càng phổ biến. Do vậy, một thị trường mới dần được hình thành,
một thị trường mà ở đó người mua và người bán gặp nhau để thoả thuận, cam kết với nhau
về việc mua bán, giao hàng và nhận tiền trong tương lai. Tuy nhiên, ở một thị trường mới
như vậy, việc tìm được người mua hay người bán đúng với số lượng và chất lượng hàng
hoá nông sản mình cần không phải là một việc dễ dàng. Chính vì vậy, trên thị trường lúc
này xuất hiện một người thứ ba - người trung gian với vai trò môi giới chắp nối những
người cần mua và cần bán lại với nhau. Nhưng việc chắp nối của người trung gian thực
không đơn giản, để hành nghề họ cũng phải bỏ thời gian và sức lao động và để thu được
lợi nhuận họ cũng phải gánh chịu những rủi ro khi không gặp được đúng người mua và
người bán. Các hiện tương như vậy đã đặt ra cho các nhà kinh tế một nhiệm vụ cần phải
giải quyết, một mặt để giải toả được những ách tắc trong lưu thông, làm ảnh hưởng tới sự
phát triển của nền kinh tế, mặt khác đây cũng là một thị trường kinh doanh hết sức hấp
dẫn. Chính vì vậy vào năm 1848, Chicago Board of Trade (CBOT) đã được mở ra bởi 82
thương nhân buôn ngũ cốc ở một thị trấn nhỏ là Midwestern như là một trung tâm mua bán
nơi mà những người nông dân và các thương nhân gặp gỡ để đổi tiền lấy việc giao ngay
những loại hàng hoá nông sản như lúa mì, trên cơ sở những quy định nhất định đã được
CBOT thiết lập sẵn về việc đánh giá và cân đo lúa mì, và việc cất trữ những phần lúa mì
còn lại chưa được giao dịch, cũng như là việc đấu thầu giá cả, và giải quyết những tranh
chấp diễn ra. Đây chính là sở giao dịch hàng hóa đầu tiên trên thế giới.
Sự phát triển các loại hình sở giao dịch hàng hóa: khi cả những người chế biến,
nông dân đều thấy được lợi ích từ việc mua bán giao dịch qua sở giao dịch thì vào năm
1851, những người nông dân và các thương nhân đã bắt đầu áp dụng các hợp đồng kỳ hạn
(forwards). Người nông dân sẽ thỏa thuận một mức giá để bán một lượng ngũ cốc nhất
định tại một thời điểm trong tương lai. Khi những hợp đồng kỳ hạn này trở nên phổ biến
thì vào năm 1865, CBOT đã đưa ra một hợp đồng chuẩn được biết đến là hợp đồng tương
lai với ngày giao hàng được xác định trước và một khoản tiền bảo chứng để ràng buộc việc
thực hiện nghĩa vụ. Ngay sau năm đó thì Sở giao dịch bông New York cũng được thành lập
và đã bắt đầu chi phối thị trường bông, từ việc mua bán bông rồi sau đó là thực hiện mua
các các loại nông sản khác. Dựa trên những sự phát triển này, năm 1859 nghĩa là đúng một

thập niên sau khi được thành lập, chính phủ Mĩ đã chính thức trao quyền cho CBOT và do
đó uỷ quyền cho CBOT việc đặt ra những tiêu chuẩn về chất lượng của hàng hoá và đảm
nhận việc giám sát thường xuyên vào mặt hàng ngũ cốc được giao dịch trên sở giao dịch,
nhằm bảo đảm sự thống nhất của thị trường. Sự cải tiến này đã giảm những rủi ro và chi
phí liên quan đến việc thoả thuận các hợp đồng kỳ hạn trên cơ sở cá nhân.
Ban đầu hoạt động của các thị trường tương lai không có gì đặc biệt. Lúc đó người
ta gọi những người hoạt động theo kiểu này là những “kẻ đầu cơ liều mạng”. Những người
này thành công trong việc mua vét hàng hay ép giá một mặt hàng nào đó trên thị trường
nhất định. Một biến cố nổi tiếng đã xảy ra đó là: ngày thứ sáu đen tối năm 1869 là ngày giá
vàng bị phá. Việc hai nhà kinh doanh Jay Gould và Jim Fisk mua vét giá vàng đã bị đổ bể
khi tổng thống Grant ra lệnh bán vàng của kho bạc Mỹ. Với ấn tượng là việc mua bán
tương lai hàng hoá mang tính chất đầu cơ tạo nên sự bất ổn định về tài chính và sự biến
động giá giao ngay quá lớn làm cho những nhà lập pháp liên tiếp phản đối và thậm chí họ
còn muốn loại bỏ hình thức giao dịch này trên thị trường. Cuối cùng vào năm 1922 tức là
khoảng 74 năm sau ngày thành lập đầu tiên của sở giao dịch Chicago, chính phủ Mỹ đã
thành lập Grain Futures Administration là một cơ quan giám sát để giám sát sự mở rộng
của hoạt động giao dịch trên sở giao dịch ngũ cốc và năm 1936 ban hành luật về sở giao
dịch hàng hoá. Năm 1968, các luật trên lại được sửa đổi và điều chỉnh với các điều khoản
phù hợp trong việc mua bán tương lai. Năm 1974 ủy ban mua bán tương lai (CFTC) được
thành lập. Vai trò và quyền hạn của CFTC hết sức quan trọng vì đó là tổ chức duy nhất
thay mặt chính quyền quản lý các hoạt động của thị trường tương lai. Tuy sự hình thành và
phát triển của thị trường tương lai đã tiếp thu được tất cả những ưu việt đồng thời cũng
khắc phục được những hạn chế của thị trường kỳ hạn nhưng các sở giao dịch tương lai
hàng hóa không thay thế hoàn toàn thị trường kỳ hạn - tiền thân của giao dịch tương lai, mà
chúng song song tồn tại. Các giao dịch kỳ hạn vẫn tiếp tục tồn tại với tư cách là những hoạt
động giao dịch ngoài sở, lúc này sở giao dịch trong thị trường tương lai đóng vai trò như
người trung gian chắp nối cho các nhu cầu mua và bán trong thị trường kỳ hạn một cách có
tổ chức.
Cùng với làn sóng tự do hoá thương mại trên toàn cầu thì sự hình thành các sở giao
dịch hàng hoá ngày càng nhiều với khối lượng giao dịch ngày càng lớn

1
, đặc biệt là ở các
quốc gia đang phát triển và để thu hẹp khoảng cách để lại do hệ thống giá cả cố định trước
đây chứ không chỉ có trong phạm vi nước Mỹ
2
. Những sở giao dịch còn tồn tại được và
hiện nay là những sở giao dịch lớn nhất trên thế giới và đang giao dịch những loại hàng
hoá hoàn toàn khác so với những loại hàng hoá mà ban đầu nó vẫn giao dịch. Ví dụ như sở
giao dịch Chicago (Chicago Mercantile Exchange) ban đầu chủ yếu giao dịch nông sản,
còn hiện tại lại chủ yếu giao dịch các hợp đồng tương lai tài chính; sở giao dịch năng
lượng lớn nhất hiện nay, sở giao dịch New York (New York Mercantile Exchange) trước
đây giao dịch chủ yếu là khoai tây và bơ. Hiện nay rất nhiều sở giao dịch đang phải đối
mặt với một câu hỏi là liệu họ có nên tiếp tục tập trung vào việc giao dịch những loại hàng
hoá truyền thống hay là tìm kiếm một loại hình hợp đồng mới. Sự cân nhắc này dẫn tới
việc xuất hiện hợp đồng dầu mỏ trên sở giao dịch hàng nông sản, các hợp đồng quyền chọn
đối với các hợp đồng tương lai đã được giao dịch, thậm chí là cả những hợp đồng phái sinh
phức tạp khác như ( bảo hiểm mùa vụ, chi phí vận tải, quyền thải khí ô nhiễm, v.v…). Do
đó, ngày nay hàng hoá giao dịch trên các sở giao dịch ‘hàng hoá’ trên thị trường thế giới
hiện nay hết sức đa dạng chứ không chỉ gói gọn trong mặt hàng nông sản truyền thống
nữa.
3
Xu hướng sáp nhập các sở giao dịch hàng hóa: Các sở giao dịch hàng hóa ngày
nay đã trải qua một số giai đoạn sáp nhập, các sở giao dịch ở Mĩ vào những năm 1980, hầu
hết đều là kết quả của các vụ sát nhập của hai hay thậm chí là nhiều sở giao dịch. Những
năm 90 của thế kỉ 20 thậm chí còn chứng kiến nhiều vụ sáp nhập hơn nữa. Một trong
những nguyên nhân của xu hướng này chính là tính cạnh tranh ngày càng tăng của các giao
1 Xem phô lôc 1
2 Xem phô lôc 3 vµ phô lôc 4
3 Xem phô lôc 10 vµ phô lôc 11
dch hp ng tng lai: mi e da t h thng giao dch in t i vi nhng s giao

dch vi nhng h thng giao dch truyn thng. Thờm vo ú mt nguyờn nhõn na l t
phớa cỏc quy nh ca chớnh ph c bit l nhng quc gia nh Nht Bn v Trung
Quc. Nhng nguyờn nhõn ú ó dn ti mt lot cỏc cuc sỏp nhp: Nht s lng cỏc
cuc sỏp nhp ó lm cho s lng cỏc s giao dch nc ny gim xung hn mt na
t 17 s giao dch nm 1993 xung cũn 8 nm 1997. Anh, Liffe ó sỏp nhp vi S giao
dch hng húa Luõn ụn vo thỏng 9/1996. Ti M, NYMEX sn giao dch tng lai nng
lng ln nht th gii lỳc by gi ó sỏp nhp vi Comex (Comex hin nay ang hot
ng nh l mt cụng ty con ca Nymex), v cỏc thnh viờn ca c NYCE v CSCE ó
u b phiu ng ý sỏp nhp v thnh lp NYBT (Board of Trade of city New York). Xu
hng sỏp nhp cỏc s giao dch hng húa trờn th gii c d oỏn l s tip tc kộo di,
in hỡnh l v sỏp nhp gia hai s giao dch ln nht ca M l CBOT v CME hỡnh
thnh mt s giao dch ln nht th gii.
4

iu ỏng chỳ ý t cỏi nhỡn tng quỏt v s lch s phỏt trin ca s giao dch hng
hoỏ ny chớnh l vic th trng Chicago ó c thnh lp v phỏt trin gii quyt
nhng vn v chi phớ cng nh l ri ro m nụng dõn phi gỏnh chu trờn th trng, v
nhu cu phi sp xp th trng hng hoỏ nụng sn qua nhng ngi tham gia th trng,
qua khụng gian v thi gian. Cng cn phi nhn mnh rng quy nh ca chớnh ph tng
lờn khi th trng phỏt trin l thỳc y s phỏt trin th trng ch khụng phi l kim
soỏt th trng.
1.1.2. c im s giao dch hng húa
Xột v bn cht mt s giao dch hng hoỏ ch n gin l mt ni m ngi mua
v ngi bỏn tp trung trao i theo mt cỏch thc ó c nh trc, vi nhng quy
nh c th v ht sc rừ rng. Vi ngha rng ny, mt s giao dch hng hoỏ l bt c
th trng cú t chc no, giao dch hng hoỏ thc hoc khụng, c tp trung qua mt b
mỏy duy nht, cho phộp s cnh tranh hiu qu nht gia nhng ngi mua v nhng
ngi bỏn. Do ú giao dch qua s giao dch hng húa l mt phng thc giao dch c
4 Xem phụ lục 7: các tập đoàn sở giao dịch thế giới
biệt so với các phương thức giao dịch khác như mua bán trực tiếp, mua bán qua trung gian,

mua bán đối lưu,…ở những đặc điểm sau đây
1.1.2.1. Các hợp đồng phải có tiền bảo chứng
Tiền bảo chứng (hay mức ký quỹ) là biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng,
bắt buộc đối với cả bên bán và bên mua. Thay vì phải bỏ ra một khoản tiền lớn để
đặt cọc hoặc một lượng tiền bằng với giá trị hàng hóa (thế chấp) để bảo đảm cho
việc mua bán thì sở giao dịch chỉ quy định một mức bảo chứng rất thấp, tùy vào loại
hàng hóa. Mức yêu cầu về tiền bảo chứng thấp khi tham gia vào các hợp đồng tại sở
giao dịch là một trong những nguyên nhân làm cho chúng trở thành những công cụ
đòn bẩy tài chính mạnh mẽ. Các loại tiền bảo chứng trên sở giao dịch gồm
• Tiền bảo chứng ban đầu (Initial Margin): Tiền bảo chứng ban đầu là khoản
tiền ký quỹ vào tài khoản bảo chứng để bảo đảm trang trải bất cứ khoản lỗ nào do
những biến động xấu trên thị trường. Việc ký quỹ tiền bảo chứng ban đầu này được
xem như khoản tiền đặt cọc cam kết thi hành hợp đồng mà hai bên mua bán phải
thực hiện. Mức tiền bảo chứng ban đầu cũng khác nhau tùy loại hợp đồng và phải
trả trước khi chuyển lệnh cho người môi giới.
Mỗi người tham gia thị trường đều phải trả khoản tiền bảo chứng ban đầu cho
người môi giới của mình và phải duy trì khoảng mức tiền bảo chứng được yêu cầu. Trong
trường hợp các khách hàng còn phải thông qua một hãng môi giới khác ngoài các thành
viên môi giới của sở giao dịch hàng hoá, như là các FCM (hãng buôn hoa hồng_Futures
commission Merchants) thì họ còn phải nộp một khoản tiền bảo chứng ban đầu cao hơn vì
các FCM này thường yêu cầu khách hàng phải nộp khoản tiền lớn hơn vì mục tiêu kinh
doanh của họ.
• Tiền bảo chứng duy trì (Maintenance Margin): Khi tiền bảo chứng đạt mức
duy trì tối thiểu, nhà đầu tư cần phải nộp tiền để đảm bảo đưa mức tiền bảo chứng
trở lại tiền bảo chứng ban đầu (Initial margin). Đây là khoản tiền tối thiểu mỗi hợp
đồng mà khách hàng phải ký quỹ mãi mãi. Khoản bảo chứng này thường thấp hơn
khoản tiền bảo chứng ban đầu, nó thường bằng 75% khoản tiền bảo chứng ban đầu.
• Tiền bảo chứng biến đổi (Variation Margin hay Margin Call): Những khoản
lỗ và lãi của những khách hàng của các thành viên được kết toán thông qua trung
tâm thanh toán bù trừ. Cuối mỗi ngày giao dịch, trung tâm thanh toán lại xác định

các mức giá kết toán cho mỗi hợp đồng trên cơ sở giá niêm yết trên thị trường vào
cuối phiên giao dịch. Những thành viên mà bị lỗ ở cuối ngày giao dịch sẽ bị yêu cầu
nộp tiền bảo chứng thêm. Các thành viên thanh toán lại chuyển thông báo về số tiền
phải nộp thêm cho khách hàng của mình.
1.1.2.2. Đa số các hợp đồng được thanh lý trước thời hạn
Trong các hợp đồng thông thường, khi các bên muốn thanh lý hợp đồng
trước ngày giao hàng đồng nghĩa với việc thỏa thuận để chấm dứt hợp đồng hoặc
thoả thuận chuyển nghĩa vụ của mình cho người khác, khi đó các bên sẽ thoát khỏi
sự ràng buộc về nghĩa vụ với nhau. Nhưng trong hợp đồng giao sau được mua bán
tại sở giao dịch hàng hóa thì các bên có thể thanh lý hợp đồng trước ngày đáo hạn
một cách dễ dàng mà không cần phải thông qua một sự thoả thuận nào. Chẳng hạn
như thanh toán hợp đồng tương lai, giao và nhận hàng hữu hình là cách thanh lý
hợp đồng mà không mấy người tham gia thị trường này lựa chọn:
• Giao hàng hữu hình: Kết thúc một vị thế tương lai bằng việc nhận giao hàng
thường là biện pháp ‘nặng nhọc’ để hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng. Việc giao hàng
hữu hình đặt ra những chi phí rõ rệt: chi phí kho hàng, bảo hiểm, xếp tàu, và lệ phí
môi giới. Trên trên thực tế việc giao hàng hữu hình chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ
(khoảng 2%) bởi nó đòi hỏi mua hay bán thực sự một thứ hàng, điều mà các nhà
kinh doanh thường không muốn làm trừ khi họ có nhu cầu cụ thể đối với hàng hoá
(với và do đó chỉ những công ty kinh doanh hàng hoá mới ưa chuộng hình thức
này.
• Bù trừ (Offsetting): đây là hình thức thanh toán vị thế phổ biến nhất, người
mua khởi đầu và kết thúc vị thế của mình bằng việc bán một hợp đồng tương lai y
hệt (cùng một loại hàng và cùng tháng giao hàng). Tương tự, người bán khởi đầu
kết thúc vị thế của mình bằng cách mua một hợp đồng y hệt. Sau khi việc mua bán
đó được thực hiện và báo cáo về trung tâm thanh toán thì nghĩa vụ của cả hai bên
được xoá đi trong sổ sách của trung tâm thanh toán và của những người môi giới
ngoài sở (nếu có).
So với việc nhận hoặc giao hàng hữu hình thì việc thanh toán bằng bù trừ tương đối
đơn giản hơn. Nó chỉ đòi hỏi thị trường tương lai đủ cơ động để tạo thuận lợi mua bán

bằng bù trừ và chỉ khuyến khích chi phí môi giới thông thường.
1.1.2.3 Các điều khoản trong hợp đồng được tiêu chuẩn hóa
Các hoạt động mua bán tại sở giao dịch hàng hóa phải được thực hiện liên tục với
trình độ chuyên môn nghiệp vụ và bảo đảm an toàn cao. Từ yêu cầu đó mà các điều khoản
trong hợp đồng phải được tiêu chuẩn hóa một cách tối đa, giúp cho việc ký kết hợp đồng
nhanh chóng, đảm bảo an toàn về mặt pháp lý. Các điều khoản được tiêu chuẩn hóa thường
bao gồm: tên hàng, chất lượng, quy mô hợp đồng, thời gian giao hàng và địa điểm giao
hàng.
Tên hàng là hàng hóa được phép giao dịch trên sở giao dịch đó. Hàng hóa đó đa số
là hàng hóa thông thường nhưng cùng với sự mở rộng hoạt động thì một số sở giao dịch
lớn còn cung cấp các sản phẩm hợp đồng tài chính. Mỗi sở giao dịch chỉ giao dịch một số
loại hàng hóa nhất định, người tham gia thị trường chỉ được phép giao dịch các hàng hóa
cho phép đó.
Chất lượng hàng hóa cũng được tiêu chuẩn hóa và giám sát nghiêm ngặt. Hàng hóa
được phân thành các mức chất lượng khác nhau nhưng thông thường thì sở giao dịch chỉ
cho phép giao dịch một vài mức chất lượng nhất định. Khi chất lượng hàng hóa được
chuẩn hóa, phân loại rõ ràng thì đã tạo điều kiện cho hoạt động giao dịch trở nên thuận
tiện, nhanh chóng và đáng tin cậy, từ đó tạo nên uy tín của từng sở giao dịch hàng hóa. Đó
là lý do vì sao việc làm đánh giá chất lượng hàng hóa là một công việc cơ bản có vai trò rất
quan trọng trong hoạt động của các sở giao dịch.
Quy mô hợp đồng là độ lớn giá trị tài sản được giao dịch trong một hợp đồng. Độ
lớn mỗi hợp đồng tương lai về mỗi loại hàng hóa đều được thống nhất và hầu như được
thống nhất trên toàn thế giới giúp cho việc mua bán giữa các sở giao dịch hàng hóa trên thế
giới thông qua hệ thống kết nối mạng toàn cầu lại càng dễ dàng hơn. Việc quy định độ lớn
mỗi hợp đồng sao cho không quá lớn để những nhà bảo hộ nhỏ cũng có khả năng tham gia
và không quá nhỏ để đảm bảo giá trị được bảo hiểm hoặc đầu cơ sẽ bù đắp được chi phí
huê hồng hay các chi phí cố định khác.
Thời điểm giao hàng (thời điểm đáo hạn hợp đồng) thường được xác định là tháng
giao hàng trong năm. Trong tháng giao hàng đó, ngày giao hàng được quy định cụ thể tuỳ
vào loại hàng hóa và thị trường. Thời điểm giao hàng còn là điều kiện xác định để nhằm

phân biệt đối tượng được giao dịch trong hợp đồng tương lai, ví dụ như: hợp đồng giao sau
cà phê tháng 3 năm 2005 khác với hợp đồng giao sau cà phê tháng 5 năm 2005…
Địa điểm giao hàng do sở giao dịch quy định trong hợp đồng. Như đã trình bày thì
việc mua bán trong các hợp đồng tại sở giao dịch thường là mang tính danh nghĩa và không
gắn với việc chuyển giao hàng hóa thực tế. Nhưng nếu có những thương nhân muốn thực
hiện hợp đồng chuyển giao hàng hóa thực sự khi hợp đồng đáo hạn thì việc giao hàng này
sẽ tiến hành tại các địa điểm do sở giao dịch quy định để tiết kiệm chi phí, tạo thuận lợi
cho cả thương nhân và sở.
Sự tiêu chuẩn hóa các điều khoản chủ yếu trong hợp đồng giao dịch tại sở giao dịch
hàng hóa là một trong những đặc điểm cơ bản để phân biệt sở giao dịch với các phương
thức mua bán hàng hóa khác.
1.1.2.4. Trung tâm thanh toán giám sát việc thực hiện hợp đồng
Trung tâm thanh toán bù trừ đóng một vai trò quan trọng trong các sở giao
dịch tương lai và quyền chọn hàng hoá bởi vì nó kiểm soát rủi ro vỡ nợ của tất cả
các thành viên của các sở giao dịch đó. Người mua và người bán không ràng buộc
trực tiếp với nhau trên cơ sở hợp đồng nhưng đều bị ràng buộc bởi trung tâm thanh
toán này. Để đảm bảo chức năng của mình thì trung tâm thanh toán bù trừ của các
sở giao dịch hàng hóa đều phải thực thi những nhiệm vụ nhất định, bao gồm:
- Thiết lập và thực hiện chức năng của thị trường: nghĩa là thực hiện thiết lập
và quản lý các mức giá cả trên sở giao dịch; ghi nhận các giao dịch; giám sát các
hoạt động tại sàn; nhập và công cố các mức giá trong suốt phiên giao dịch và các
mức giá thực hiện ở cuối ngày giao dịch.
- Giám sát và quản lý các thành viên tham gia thị trường.
- Các hoạt động thanh toán bù trừ: bao gồm những công tác đảm bảo rủi ro tín
dụng; duy trì các tài khoản bảo chứng; thực hiện giao hàng đối với những hợp đồng
không được bù trừ trước hạn.
- Phát triển các loại sản phẩm mới: đưa vào áp dụng những công cụ tài chính
mới nhằm thu hút nhà đầu tư, đưa thêm các công cụ bảo hiểm.
1.1.3. Phân loại sở giao dịch hàng hoá
Hiện nay trên thế giới các sở giao dịch hàng hóa tồn tại dưới nhiều hình thức khác

nhau. Và sự phân loại này cũng được dựa trên những tiêu chí khác nhau, đó là:
1.1.3.1. Căn cứ theo hình thức sở hữu
Luật pháp các nước đều quy định sở giao dịch hàng hoá là một tổ chức có tư cách
pháp nhân được thành lập theo quy định của pháp luật. Hiện nay trên thế giới, sở giao dịch
hàng hoá có những hình thức sở hữu sau:
• Hình thức sở hữu phi lợi nhuận (non-for-profit): Các thành viên có
quyền hội viên ở sở giao dịch cho phép họ có quyền giao dịch trên sở giao
dịch và có quyền quyết định, hoặc biểu quyết những vấn đề liên quan đến
hoạt động tại sở giao dịch hàng hoá.
Mô hình sở hữu chung có thể có một số lợi ích cho những sở giao dịch hàng hoá
non trẻ. Bởi vì các thành viên có thể nhất trí trong việc trả những chi phí lớn ban đầu xuất
hiện trong những giai đoạn đầu của sự phát triển sở giao dịch hàng hoá. Một cách tiếp cận
khác là nhà nước sẽ là người sở hữu của sở giao dịch hàng hoá. Cách tiếp cận này có
những ưu thế nhất định nếu nó thu hút đầu tư và thúc đẩy trao đổi mua bán trên thị trường,
quản lý vì lợi ích thị trường nói chung chứ không phải để sử dụng những sở giao dịch hàng
hoá cho mục đích hay đòn bẩy chính trị.
Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa là chỉ những sở giao dịch mới thành lập mới sử
dụng hình thức sở hữu này, ngay cả những sở giao dịch hàng hóa lớn thì mô hình sở hữu
này cũng vẫn được ưa chuộng và được áp dụng. Sở giao dịch ngũ cốc Tokyo (Tokyo Grain
exchange – TGE) là một ví dụ cho mô hình này được thành lập dưới sự quản lý của bộ
Nông, Lâm, Nghư nghiệp. Là một tổ chức thành viên, hội đồng thành viên là cơ quan cao
nhất của sở giao dịch. Các hoạt động hàng ngày của sở giao dịch đều dưới sự quản lý của
ban giám đốc, đứng đầu là chủ tịch, tất cả đều được các thành viên của hội đồng thành viên
bầu.
• Hình thức công ty cổ phần (for-profit organization): Các sở giao dịch
tiến hành cổ phần hoá (demutualize) đây là sự chuyển đổi sở giao dịch hàng
hoá từ hình thức sở hữu thành viên phi lợi nhuận sang hình thức công ty cổ
phần. Các thành viên nắm giữ cổ phần.
Rất nhiều sở giao dịch hàng hoá được hình thành như là tổ chức nhằm phục vụ cho
lợi ích cho thành viên của mình nên thường có cấu trúc như là các công ty sở hữu bởi các

thành viên, đặc biệt là các thành viên cùng một mối quan tâm mua bán. Tuy nhiên, sự tách
riêng sự quản lý sở giao dịch thành quyền sở hữu và quyền mua bán là một trong những xu
hướng phổ biến trên các sở giao dịch hàng hoá trên thế giới trong 5 năm trở lại đây. Quá
trình này được thúc đẩy do những mối quan tâm đến sự quản lý một cách hiệu quả, cơ chế
tự điều chỉnh, niềm tin của những người tham gia thị trường, và thúc đẩy sự tiếp cận tới
nguồn vốn đầu tư.
1.1.3.2. Căn cứ vào hình thức thị trường
Hầu hết các sở giao dịch hàng hóa trên thế giới đều trải qua hai giai đoạn phát triển
chính. Và các hình thức giao dịch sở giao dịch hàng hóa này được phân chia dựa trên các
hình thức hợp đồng được giao dịch trên các Sở giao dịch tại mỗi giai đoạn phát triển này.
Hình thức thị trường sơ cấp: sở giao dịch hình thành như là một địa điểm tập
trung những người mua và người bán có nhu cầu thực sự tiến hành mua bán và giao
nhận hàng hoá. Do đó những người mua và bán này cũng là những người tham gia
chính trên thị trường, họ là những người sản xuất, chế biến, người tiêu dùng hay là
những người buôn bán hàng hoá hữu hình và họ có nhu cầu thực sự về hàng hóa,
nên thị trường này được gọi là thị trường sơ cấp. Trên thị trường sở giao dịch lúc
này thực hiện các giao dịch các loại hợp đồng sau:
• Hợp đồng giao ngay hàng hoá: Là hợp đồng của những giao dịch trong đó
hàng hoá được giao ngay và trả tiền ngay vào lúc ký kết hợp đồng. Hợp đồng giao
ngay được ký trên cơ sở hợp đồng mẫu của Sở giao dịch giữa người có sẵn hàng
muốn giao ngay với người có nhu cầu gấp, cần được giao ngay.
Vì vậy đây chính là một hợp đồng hiện vật. Giá cả mua bán ở đây là giá giao ngay
(spot price hoặc spot quotation). Giao dịch này hiện chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong các
giao dịch trên sở giao dịch hàng hoá trên thế giới (chỉ khoảng dưới 10%).
• Hợp đồng kỳ hạn (Forward): Hợp đồng kỳ hạn là một thoả thuận trong đó
người mua và người bán chấp nhận thực hiện một giao dịch hàng hoá với khối
lượng xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá ấn định
vào ngày hôm nay.
Điểm khác biệt giữa một hợp đồng kỳ hạn và giao dịch giao ngay là thời điểm thanh
toán giao dịch. Trong phần lớn các giao dịch giao ngay, hàng hoá được trao đổi và việc

thanh toán được thanh toán ngay lập tức (nếu trả bằng tiền mặt) hoặc trong vòng hai ngay
giao dịch kể từ khi ký kết hợp đồng. Đối với hợp đồng kỳ hạn, thời hạn kết thúc giao dịch
được để lùi lại một khoảng thời gian trong tương lai. Các hợp đồng kỳ hạn xác định một
ngày thanh toán cụ thể hoặc một thời điểm tiến hành giao dịch trên thực tế, tới ngày thanh
toán người mua trả tiền để mua hàng hoá tại mức giá thoả thuận ban đầu và người bán
chuyển giao hàng với số lượng ấn định ban đầu. Giá hàng hoá trên thị trường giao ngay
vào thời điểm giao nhận hàng có thể thay đổi, tăng lên hoặc giảm xuống so với mức giá đã
ký kết trong hợp đồng. Khi đó, một trong hai bên mua hoặc bán sẽ bị thiệt hại do đã cam
kết một mức giá thấp hơn (đối với bên bán) hoặc cao hơn (đối với bên mua) giá thị trường.
Như vậy, bằng việc tham gia vào một hợp đồng kỳ hạn, cả hai bên đều giới hạn
được rủi ro tiềm năng cũng như hạn chế lợi nhuận tiềm năng của mình. Vì chỉ có hai bên
tham gia vào hợp đồng, cho nên mỗi bên chỉ phụ thuộc vào bên kia trong việc thực hiện
hợp đồng mà thôi. Ngoài ra, vì giá cả đặt ra mang tính chất cá nhân và chủ quan nên có thể
không chính xác.
Hình thức thị trường thứ cấp: giá cả xác định bởi các giao dịch trên sở giao dịch
hàng hoá trở thành mức giá tham khảo trên thị trường cho những nhà kinh doanh
rủi ro về giá trên thị trường. Với hình thức thị trường này thì khối lượng giao dịch
không đơn thuần phản ánh khối lượng giao nhận hàng hoá, mua bán thực nữa mà
chủ yếu phản ánh những giao dịch liên quan đến rủi ro giá cả trên thị trường hàng
hoá. Nhờ có những giao dịch này mà khối lượng giao dịch trên các sở giao dịch hàng
hoá được nhân lên rất lớn từ khối lượng hàng hoá mua bán thực. Những giao dịch
đó bao gồm giao dịch những loại hợp đồng sau:
• Hợp đồng tương lai hàng hoá (futures): Hợp đồng tương lai là một thoả
thuận đòi hỏi một bên của hợp đồng sẽ mua hoặc bán một hàng hoá nào đó tại một
thời hạn xác định trong tương lai theo một mức giá đã định trước. Chức năng kinh
tế cơ bản của các thị trường hợp đồng tương lai là tạo điều kiện cho những người
tham gia thị trường có thể phòng ngừa rủi ro và những biến động giá bất lợi.
Hợp đồng tương lai là những sản phẩm do các sở giao dịch tạo ra. Trước năm 1972,
chỉ có các hợp đồng tương lai liên quan tới những nông sản truyền thống như ngũ cốc hay
gia súc, thực phẩm nhập khẩu (cà phê, ca cao và đường) hay kim loại được giao dịch.

Chúng được gọi chung là các hợp đồng tương lai hàng hoá. Các hợp đồng tương lai dựa
trên cơ sở một công cụ tài chính hay một chỉ số tài chính được gọi là hợp đồng tương lai
tài chính và đang chiếm phần lớn lượng giao dịch trên sở giao dịch hàng hóa
5
.
Bên cạnh những đặc điểm tương tự như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai có
những điểm khác biệt cơ bản như sau:
-Niêm yết trên sở giao dịch: Điểm khác biệt lớn nhất chính là tồn tại một sở giao
dịch có tổ chức với hợp đồng tương lai. Sở giao dịch hợp đồng tương lai cho phép người
giao dịch được mua và bán các hợp đồng tương lai mà không phải xác định phía đối tác
trong một hợp đồng cụ thể.
-Tiêu chuẩn hoá: Không giống như các hợp đồng kỳ hạn, các hợp đồng tương lai
được tiêu chuẩn hoá. Các hợp đồng kỳ hạn có thể được lập ra cho bất kỳ loại hàng hoá nào,
với bất kỳ số lượng và chất lượng như thế nào và với thời hạn thanh toán bất kỳ được hai
bên hợp đồng chấp thuận. Trong khi đó, các hợp đồng tương lai niêm yết tại các sở giao
dịch quy định một số dạng hàng hoá cụ thể, với một số lượng nhất định đáp ứng các yêu
cầu tối thiểu về chất lượng và tại một thời điểm giao hàng xác định.
-Kiểm soát rủi ro thanh toán: sử dụng các hợp đồng tương lai được niêm yết trên sở
giao dịch thay vì dùng các hợp đồng kỳ hạn, hai bên tham gia vào hợp đồng tương lai sẽ
5 Xem phô lôc 10
Phí quyền chọn
Khoản lỗ tối đa người mua quyền chọn phải chịu
Lợi nhuận tối đa dành cho người bán quyền chọn
kiểm soát được rủi ro thanh toán. Các trung tâm thanh toán bù trừ tại sở sẽ thực hiện chức
năng trung gian trong tất cả các giao dịch đảm bảo khả năng tài chính của các thành viên từ
đó đảm bảo sự an toàn cho toàn bộ thị trường.
-Tính thanh khoản: Sự tồn tại của công ty thanh toán bù trừ và sự thuận lợi của việc
giao dịch qua sở giao dịch khiến cho tính thanh khoản của các hợp đồng tương lai cao hơn
nhiều so với các hợp đồng kỳ hạn.
• Hợp đồng quyền chọn: là một hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được

mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc được bán (nếu là quyền chọn bán) một khối
lượng nhất định hàng hoá tại một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất đinh.
Như vậy, quyền chọn khác với các nghiệp vụ khác trên sở giao dịch bởi khi bán
quyền, người bán trao quyền chứ không phải là nghĩa vụ cho người mua để đổi lấy một
khoản tiền được gọi là giá quyền hoặc phí quyền. Phí quyền chọn được xem như là mức
giá của quyền chọn đó; giống như những mức giá khác nó được xác định thông qua các
sức mạnh cung cầu của thị trường. Do đó phí thường biến động. Cho dù người mua quyền
chọn có quyết định thực hiện quyền của anh ta hay không thì mức phí này vẫn thuộc về
người bán quyền chọn và không phải hoàn lại.
Hình 1.1: Phí quyền chọn
Mục đích của tất cả các sở giao dịch hàng hoá là phát triển lên hình thức thị trường
thứ cấp, khi đó giá của nó trở thành mức giá tham khảo đáng tin cậy cho loại hình hàng hoá
mà nó đang giao dịch. Điều này có nghĩa rằng mức giá được phản ánh từ các giao dịch
được xem như một chỉ số tốt nhất phản ánh mức giá của các hàng hoá cơ sở và được
những người tham gia thị trường tin tưởng. Để làm được điều đó các sở giao dịch hàng hóa
cần xây dựng cho mình một hệ thống quy định đúng đắn để điều chỉnh hoạt động của
mình.
1.1.4. Tổ chức hoạt động sở giao dịch hàng hoá
1.1.4.1. Tổ chức sở giao dịch hàng hóa
Sở giao dịch tồn tại dưới hai hình thức chính dưới hình thức các công ty lợi nhuận
hoặc phi lợi nhuận. Và giống như tất cả các công ty khác một sở giao dịch đều có cổ đông
(nếu là hình thức công ty cổ phần), ban giám đốc, các phòng ban chức năng riêng.
Ban giám đốc: Ban giám đốc tùy theo hình thức sở hữu mà có thể là các thành viên
hoặc là những người được hội đồng thành viên chỉ định. Ban giám đốc sở giao dịch hàng
hóa có quyền ban hành các quy tắc, quy định, thông báo hoặc ra lệnh về các vấn đề liên
quan đến các hoạt động của sở giao dịch hàng hóa. Vì thế các thành viên ban giám đốc
phải là những người có kiến thức và năng lực về các lĩnh vực kinh tế tài chính cũng như
quản lý. Tuy nhiên, quyền quyết định cuối cùng vẫn nằm trong tay các hội đồng thành
viên.
Các phòng ban chức năng: Để thực hiện tốt chức năng của một sở giao dịch, thì các

sở giao dịch này cần phải có những phòng ban với những nhiệm vụ riêng:
• Phòng đăng ký và lưu giữ các phiếu lệnh, hợp đồng: Các đơn đặt hàng của
người mua hoặc người bán thường là những người sản xuất thông qua các tổ chức
môi giới trung gian được đưa vào phòng này. Phòng này có nhiệm vụ là xác nhận
tính khả thi, hợp pháp của các đơn hàng, sau đó chuyển thành các hợp đồng và
thành các lệnh giao dịch theo mẫu. Khi lệnh được thực hiện tại sàn giao dịch thì tiến
hành quản lý theo dõi các hợp đồng.
• Phòng giao dịch: Các phiếu lệnh sau khi được phòng đăng ký và được xác
nhận là thích hợp sẽ được chuyển thành các lệnh đưa vào giao dịch tại sàn. Phòng
giao dịch có nhiệm vụ tổ chức điều hành các phiên giao dịch đồng thời có nhiệm vụ
quản lý và điều hành hệ thống thiết bị giao dịch, đảm bảo duy trì và xử lý các hiện
tượng bất trắc trong giao dịch.
• Phòng giám sát: thực hiện việc theo dõi và giám sát thường xuyên các hoạt
động giao dịch tại sàn giao dịch. Theo dõi các hành vi của các thành viên giao dịch
(các thương gia hoa hồng). Nếu phát hiện thấy nghi vấn có thể tiếp tục theo dõi điều
tra hoặc tiến hành xử lý.

×