Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.29 KB, 37 trang )

: ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM
2.1. ĐIỀU KIỆN ĐỂ HÌNH THÀNH SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA
Mặc dù một sở giao dịch có thể thực hiện tốt chức năng như một thị trường hàng
hoá, nhưng những lợi ích tiềm tàng của nó không thể đảm bảo chắc chắn sẽ thành công.
Để có thể thành lập một sở giao dịch hàng hóa thì cần phải hội tụ những điều kiện nhất
định. Đứng trên góc độ những chủ thể trên sở giao dịch là các thành viên sáng lập sở giao
dịch, cơ quan nhà nước, nhà quản lý, điều hành và các tổ chức kinh doanh trên sở giao dịch
hàng hóa, sau đây em xin phân các điều kiện này thành các điều kiện khách quan và điều
kiện chủ quan.
2.1.1. Điều kiện khách quan để hình thành sở giao dịch hàng hóa
Như đã nói ở trên, việc chia các điều kiện là đứng trên góc độ chủ thể của sở giao
dịch hàng hóa, do đó những điều kiện khách quan là những điều kiện tồn tại tất yếu mà các
chủ thể này không thể tác động vào được.
2.1.1.1. Cơ chế thị trường
Chính các yếu tố thị trường chứ không phải sự kiểm soát độc quyền hay là một sự
kiểm soát quá mức cần thiết của nhà nước tố tạo nên giá cả hàng hóa trên sở giao dịch. Quá
kiểm soát thường bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết về chức năng và mục đích của các sở giao
dịch hàng hoá. Những can thiệp trên cơ sở quy định của chính phủ không phải là điều xấu
nếu như nó không làm ảnh hưởng tới hoạt động bình thường của thị trường. Tuy nhiên sự
can thiệp này sẽ trở thành một yếu tố tác động tiêu cực đến thị trường khi nó làm cho hoạt
động thị trường gián đoạn khiến những người tham gia thị trường khó có thể hoạt động
một cách hiệu quả. Và chẳng có một nhà đầu tư nào, kể cả những đầu tư nhiệt tình nhất lại
mong muốn giao dịch trên một thị trường kém hiệu quả vì bị can thiệp như vậy.
Cũng có những người hiểu sai cho rằng chính những sở giao dịch hàng hóa đã tạo
nên các mức giá, tuy nhiên, những sở giao dịch này chính là một hình ảnh của một thị
trường hàng hoá tự nhiên. Trên thị trường, chính cung và cầu về loại hàng hóa phải là
những yếu tố xác định giá cả chứ không phải là các yếu tố khác. Nếu có nhiều người mua
hơn là người bán thì giá sẽ bị đẩy lên, ngược lại nếu có nhiều người bán hơn người mua thì
giá lại bị đẩy xuống. Lý do để một sở giao dịch tương lai hay một sở giao dịch quyền chọn
có thể tồn tại là bởi vì đó là cách tốt nhất để phát hiện giá trị giao dịch. Vì vậy nếu như thị
trường tin rằng có một cách khác để hình thành nên giá trị trao đổi đó thì sở giao dịch


không thể tồn tại được. Do vậy, cơ chế thị trường là điều kiện khách quan và là điều kiện
then chốt mà một thị trường hàng hóa cần phải đáp ứng được để có thể hình thành nên sở
giao dịch hàng hóa.
2.1.1.2. Sản xuất phát triển và hàng hóa được tiêu chuẩn hóa
Hàng hoá được giao dịch phải có khối lượng sản xuất lớn, được tiêu chuẩn hoá, và
sẽ dễ dàng hơn nếu như hàng hoá đó có thể cất trữ được. Lịch sử phát triển sở giao dịch
hàng hóa cho thấy rằng, sở dĩ sở giao dịch hàng hóa ra đời chính là do sức ép phát triển sản
xuất. Sản xuất hàng hóa phát triển dẫn tới một lượng lớn hàng hóa được sản xuất ra và do
đó yêu cầu cần phải phát triển lưu thông hàng hóa, và sở giao dịch hàng hóa ra đời. Đặc
biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các sở giao dịch đóng vai trò như
một trung tâm giao dịch hàng hóa không chỉ trong một quốc gia đó mà còn cả trong khu
vực và trên thế giới. Do vậy, hàng hóa phải được sản xuất ra với số lượng lớn để đáp ứng
nhu cầu giao dịch ngày càng tăng khi sở giao dịch phát triển.
Sản xuất hàng hóa phát triển không chỉ ở mặt số lượng mà còn cả về chất lượng.
Một sở giao dịch hàng hoá bất kể là giao dịch giao ngay hay là giao dịch những công cụ
phức tạp hơn như các hợp đồng tương lai hay quyền chọn thì đều cần có các hợp đồng tiêu
chuẩn với những hàng hoá đã được chuẩn hoá. Do đó đây cũng được xem như là một trong
những điều kiện quan trọng nhất để có thể xây dựng sở giao dịch hàng hóa. Ở giai đoạn sở
giao dịch hàng hóa giao ngay người ta có thể giao dịch những hàng hoá với những tiêu
chuẩn khác nhau ở những thời điểm khác nhau (ví dụ như hàng hoá loại A được giao dịch
trong suốt 10 phút đầu tiên của giờ giao dịch, loại B ở 10 phút tiếp theo...và sẽ lặp lại sau
mỗi giờ giao dịch). Với việc giao dịch như vậy sẽ tăng được tính thanh khoản trên thị
trường và tạo ra tính minh bạch trong quá trình hình thành giá cả (và do đó tăng được lòng
tin vào sở giao dịch hàng hoá cũng như là tính hữu hiệu của một trung tâm tham khảo giá
cả). Tuy nhiên vấn đề đặt ra là không chỉ phải phát triển chất lượng hàng hóa không thôi
mà còn phải có một hệ thống có thể đảm bảo được các tiêu chuẩn đó. Để có được một hệ
thống như vậy thì cần phải đáp ứng được những yêu cầu sau:
Sự sẵn có của thiết bị đánh giá tiêu chuẩn và các nhân viên có kĩ thuật: Một thiết bị
đo phẩm chất một cách chính xác với khả năng cân đo hoặc xác định phẩm chất một khối
lượng hàng hoá nhất định trong suốt mùa giao dịch cao điểm là một yêu cầu thiết yếu.

Cũng giống như ở các sở giao dịch, ở mỗi nhà kho chính của sở cũng cần phải có các thiết
bị riêng. Các nhân viên vận hành có kĩ năng cũng hết sức quan trọng bởi lẽ kết quả kiểm
tra sẽ khác nhau rất lớn nếu như cuộc kiểm tra đó được tiến hành bởi một người không có
những kĩ năng cần thiết.
Hệ thống tiêu chuẩn được chấp nhận: Chính phủ thường đặt ra những tiêu chuẩn
chất lượng không phù hợp với các nhu cầu thương mại. Thêm vào đó, các mùa vụ phục vụ
xuất khẩu lại phải phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Do vậy, nếu như không có một hệ
thống đánh giá tiêu chuẩn chung thống nhất nào mà được tất cả mọi người đều chấp nhận
thì nên tạo ra một hội đồng với những đại điện khác nhau để đánh giá, đưa ra các tiêu
chuẩn.
Việc miêu tả chất lượng và quá trình kiểm tra được chấp nhận không phải là phục
vụ cho sở giao dịch mà là để phục vụ cho những người tham gia vào sở. Những tiêu chuẩn
của nước ngoài có thể là một tham khảo hữu ích chứ không phải là yếu tố quyết định đối
với những hàng hoá xuất khẩu. Thông thường các sở giao dịch thường có một dach sách
các mức phẩm cấp khác nhau, và với các tiêu chuẩn định lượng khác nhau đối với mỗi loại
tiêu chuẩn. Danh sách này phải được những người tham gia chủ yếu trên thị trường chấp
nhận và nếu cần thì phải được xác nhận bởi một cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Lòng tin của người tham gia thị trường vào giấy chứng nhận phẩm chất: Đối với
những công ty chế biến hay với những thương nhân đã quen với việc tự mình kiểm tra
hàng hoá thì việc chấp nhận phải mua bán thông qua những mô tả về phẩm chất thật là khó
khăn. Chính vì thế để tạo ra lòng tin đối với họ thì hệ thống kiểm định chất lượng có thể là
sự kết hợp giữa các mẫu hàng và các giấy chứng nhận phẩm cấp. Đó là việc người mua có
thể kiểm định xem liệu các giấy chứng nhận có phù hợp với các thực trạng hàng hoá hay
không. Sau một thời gian (có thể chỉ là một vài tháng) thì mọi người có thể quen dần và bắt
đầu mua bán thông qua điện thoại. Khi đã tạo dựng được lòng tin trên thị trường thì sở giao
dịch có thể bỏ qua những mẫu hàng hoá này. Một biện pháp khác đó là việc công bố trên
các phương tiện thông tin đại chúng các mức giá khác nhau, và chỉ định một nhân viên trực
điện thoại để trả lời tất cả những thắc mắc về những mức giá hiện hành.
Sự có mặt cơ quan giải quyết tranh chấp: Việc các sở giao dịch phải lấy mẫu là
không hiệu quả vì vậy, sẽ tốt hơn nếu như những người đem hàng hoá đó tự lấy mẫu. Để

làm như vậy thì mọi người phải biết rằng nếu như hàng hoá mà họ đem đến không đại diện
được cho hàng hoá của họ thì họ sẽ bị phạt. Do đó cần phải có một quy trình nhanh và hiệu
quả để trọng tài có thể xử lý trường hợp này một cách nhanh chóng và hiệu quả. Các sở
giao dịch phải phổ biến các quy tắc trọng tài, tiêu chí lựa chọn trọng tài và hệ thống phạt.
2.1.1.3. Hội nhập kinh tế quốc tế
Ngày nay khi quá trình toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ thì xu hướng hội
nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu khách quan đối với bất kỳ một quốc gia nào.
Không một quốc gia nào có thể tồn tại độc lập, không nằm trong mối quan hệ với các quốc
gia khác. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các doanh nghiệp của một quốc gia tham
gia một cách chủ động tích cực vào nền kinh tế thế giới. Do vậy, quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế luôn mang trong mình những cơ hội và thách thức to lớn. Đặc biệt quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế của các nền kinh tế chuyển đổi (trong đó có Việt Nam) là quá trình
thực hiện tự do hóa thương mại và thực hiện cải cách toàn diện theo hướng mở cửa thị
trường. Từ đó đem lại nhiều cơ hội kinh tế như hàng hóa xuất khẩu có thể tiếp cận thị
trường tốt hơn, thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài hơn và nhiều lợi ích gián tiếp
khác đi liền với cạnh tranh quốc tế gay gắt và tăng dần hiệu quả kinh tế theo quy mô. Để
có thể cạnh tranh và thâm nhập vào thị trường thế giới thì cần phải đáp ứng được những
yêu cầu giao dịch và những tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Đứng trước yêu cầu đó, các sở
giao dịch hàng hóa lúc này chính là bộ máy thị trường có thể tạo điều kiện cho người giao
dịch có thể cạnh tranh được một cách hiệu quả nhất. Do đó các sở giao dịch hàng hóa ở các
quốc gia đóng vai trò như những công cụ quan trọng góp phần thực hiện công cuộc hội
nhập kinh tế quốc tế cũng như xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra. Như vậy, chính xu thế
hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành một điều kiện khách quan thúc đẩy sự hình thành
các sở giao dịch hàng hóa trên thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển.
2.1.2. Điều kiện chủ quan để hình thành sở giao dịch hàng hóa
2.1.2.1. Nhu cầu hình thành sở giao dịch hàng hóa
Nhu cầu hình thành sở giao dịch hàng hóa ở đây xuất phát từ chính những
chủ thể tương lai của sở giao dịch, bao gồm từ người sản xuất đến những nhà nhà
kinh doanh, đầu tư lớn. Đây chính là một trong những yếu tố chủ quan hết sức cần
thiết để xây dựng sở giao dịch hàng hóa. Tuy nhiên, để xuất hiện nhu cầu thì cần

phải có những điều kiện nhất định như cung - cầu hàng hóa lớn từ nhiều đối tượng
khác nhau, và các rủi ro giá cả trên thị trường đủ lớn để hình thành nên nhu cầu
bảo hiểm và đủ hấp dẫn thu hút đầu tư.
Cung và cầu hàng hóa lớn: Cần phải có rất nhiều thành viên tiềm năng, và
hàng hoá được giao dịch trên sở giao dịch phải là một bộ phận quan trọng trong
hoạt động của những thành viên tham gia. Đây là một trong những điều kiện thiết
yếu để hình thành và phát triển sở giao dịch hàng hoá. Bởi lẽ sở giao dịch là một nơi
để tập trung những người mua và người bán về những mặt hàng nhất định, do đó
việc thành lập sở giao dịch hàng hóa sẽ trở nên vô ích nếu như không có cung và cầu
lớn. Điều đó có nghĩa là phải có một lượng lớn những người sẽ tham gia vào thị
trường. Những người tham gia này cũng tùy thuộc vào loại hình sở giao dịch hàng
hóa. Bất cứ sở giao dịch nào cũng đều khó mà hoạt động được nếu chỉ có người sản
xuất hoặc những nhà buôn đơn thuần. Vì vậy, muốn hình thành sở giao dịch hàng
hóa nhất thết phải có được một số lượng lớn những người tham gia và thuộc nhiều
nhóm đối tượng không chỉ những người có nhu cầu trong nước mà còn phải nỗ lực
thu hút sự tham gia những người mua nước ngoài. Một nhóm khách hàng quan
trọng nữa chính là chính phủ và các bộ phận của chính phủ chuyên chịu trách
nhiệm mua hay bán hàng hóa. Ví dụ như sở giao dịch có thể mời bộ phận chuyên
thực hiện hỗ trợ nông nghiệp (như phân bón, thuốc trừ sâu, ngũ cốc…) để thực hiện
đấu giá ở sở giao dịch thay vì phân phối trực tiếp như trước đây; và có thể thuyết
phục những người tiêu dùng hàng hóa lớn trong khu vực hàng hóa công cộng (như
quân đội, bộ giáo dục…) tham gia mua hàng hóa qua sở giao dịch, việc mua bán này
còn có thể giúp góp phần xóa bỏ nguy cơ tham nhũng vẫn thường xảy ra.
Những người tham gia vào sở giao dịch cũng cần phải có tiềm năng nhất định tuy
nhiên điều đó không có nghĩa rằng các sở giao dịch cũng chỉ thu hút các công ty lớn. Kinh
nghiệm từ những sở giao dịch hàng hóa ở các quốc gia đã cho thấy rằng những công ty này
có những tiềm lực kinh tế cũng như khả năng marketing lớn, họ có thể thực hiện những
chiến lược giao dịch rủi ro hơn và có xu hướng ít sử dụng các sở giao dịch (bất kể là sở
giao dịch giao ngay hay là các sở giao dịch tương lai hàng hóa). Trong khi đó nếu các công
ty nhỏ biết được vai trò cũng như những xu thế diễn ra trên sở giao dịch thì sẽ là một khối

lượng khách hàng tiềm năng cho sở giao dịch, nên các công ty nhỏ cũng có thể là một lực
lượng chủ thể đáng kể.
Rủi ro biến động giá cả trên thị trường giao ngay: mục đích để các sở giao dịch
tương lai hàng hóa xuất hiện chính là để phòng ngừa những rủi ro về giá cả mà
những sở giao dịch hàng hóa hữu hình không thể đáp ứng được nhu cầu đó. Lợi ích
chính mà sở giao dịch tương lai về hàng hóa đó chính là nó không chỉ là một cơ chế
thị trường góp phần làm giảm các chi phí giao dịch, phát hiện giá cả một cách chính
xác và minh bạch như những sở giao dịch hàng hóa thông thường mà nó còn là một
nơi chuyển giao rủi ro. Thông qua sở giao dịch khách hàng có thể chốt được mức giá
và do đó có thể tự bảo hiểm khỏi những rủi ro do những biến động giá cả mà họ
không thể lường trước được trước ngày giao hàng. Do đó nếu như giá cả không có
những biến động mạnh và không có sự bất ổn trong những biến động đó thì những
người tham gia thị trường sẽ không cần thiết phải sử dụng tới những biện pháp hay
công cụ trên sở giao dịch tương lai hàng hóa như đã nêu ra ở trên.
Rủi ro này cũng chính là những lợi ích tiềm năng hấp dẫn sự tham gia của
các nhà đầu cơ, họ là những người tham gia chính trên thị trường tương lai, là
những người tạo nên đến 90% giao dịch trên thị trường. Những người đầu cơ này
có thể là những cá nhân có tiềm lực tài chính lớn muốn tham gia vào sở giao dịch
hàng hóa hơn là đầu tư vào chứng khoán hay cổ phiếu, là những thành viên tự
doanh của sở giao dịch, hoặc là những quỹ đầu tư trong và ngoài nước. Mối quan
tâm chính của họ chính là việc thu lợi nhuận chính vì vậy muốn thành lập các sở
giao dịch tương lai thì phải có những cơ hội thu lợi lớn từ đó mới thu hút được
những nhà đầu tư này. Những rủi ro biến động giá cả gây thiệt hại cho người sản
xuất, hay người tiêu dùng nhưng lại chính là một nhân tố tạo cơ hội thu lợi nhuận
cho những nhà đầu cơ.
2.1.2.2. Điều kiện cơ sở hạ tầng trang thiết bị
Việc dễ dàng tiếp cận và trang bị đầy đủ cũng là một điều kiện cần thiết, ví dụ như
việc dễ dàng tiếp cận với các trục đường, sự sẵn có các công ty vận tải, những thiết bị cân
cầu đường, dịch vụ quản lý chất lượng, sự quản lý có hiệu quả, kho hàng và thông tin liên
lạc (nếu các nhà kho và các công ty vận tải thuộc quyển kiểm soát của chỉ một vài công ty

và không được sử dụng chung, thì sẽ chỉ nhận được rất ít lợi ích từ một sở giao dịch hàng
hoá). Việc xác định địa điểm để xây dựng sở giao dịch cũng là một điều kiện quan trọng.
Ví dụ đối với các sở giao dịch với những hình thức đấu giá công khai thì cần phải có đủ
không gian cho việc tháo dỡ hàng hoá, kho hàng và vận chuyển hàng hoá đã được giao
dịch, và cần phải có hệ thống đường sá có thể cho phép những xe tải có trọng tải lớn vận
hành. Nếu như sở giao dịch giao dịch hàng hoá trên cơ sở các loại mẫu hàng hoá thì hàng
hoá cần phải được đưa đến địa điểm thu nhận hàng một cách nhanh chóng. Thêm vào đó
trong một thời gian ngắn các phòng thí nghiệm cần phải kiểm tra đánh giá chất lượng hàng
hoá và đưa tới các sàn giao dịch hàng hoá mà có thể ở rất xa. Do đó tất cả các công việc
này có thể diễn ra trong một khung cảnh ồn ào và bừa bộn do đó sở giao dịch không thể ở
gần một khu vực dân cư, nhưng phải có điều kiện giao thông thích hợp, gần với nguồn
cung hàng hoá để giảm thiểu chi phí. Hơn nữa đối với những hàng hoá được giao dịch để
xuất khẩu hay nhập khẩu thì nên xem xét đến việc đặt các sở giao dịch gần các bến cảng.
Tuy nhiên đối với các sở giao dịch hàng hoá đã áp dụng phương tiện giao dịch điện tử thì
việc xác định địa điểm cho sàn giao dịch là không cần thiết, thay vào đó cần phải có một
hệ thống thông tin liên lạc sẵn có. Và đối với các sở giao dịch bất kể là giao dịch điện tử
hay đấu giá đề cần thiết phải có những yêu cầu máy móc nhất định như: hệ thống điện
thoại tốt, các bảng điện tử và một mạng lưới máy tính kết nối thông suốt, với hệ thống hỗ
trợ hiệu quả, mạng lưới cung cấp điện ổn định.
2.1.2.3. Các chính sách của chính phủ
Nhà nước được xem như một chủ thể hết sức quan trọng trên thị trường sở giao dịch
hàng hóa. Ngay cả nếu như không đóng vai trò là một trong những thành viên sáng lập nên
sở giao dịch hàng hóa đi nữa thì sự hỗ trợ đúng đắn từ phía chính phủ cũng là điều kiện
quan trọng, bao gồm sự sẵn sàng thông qua những quy định mới và sự giám sát một cách
hợp lý vào sở giao dịch. Không chỉ những chính sách trực tiếp điều chỉnh hoạt động sở
giao dịch hàng hóa mà cả những chính sách khác của chính phủ liên quan đến thị trường
hàng hoá và giao dịch hàng hoá đều phải đáp ứng những điều kiện chung nhất định và tốt
nhất là không nên có những sự can thiệp độc quyền của chính phủ làm gián đoạn việc trao
đổi.
Đối với các sở giao dịch thì nhà nước có những vai trò nhất định, trong đó có hai

vai trò tích cực: một là vai trò giám sát, chính phủ xử phạt những người cố tìm cách thao
túng thị trường vì lợi ích riêng của mình, đảm bảo sự ràng buộc của hợp đồng, và vai trò
thứ hai là vai trò hỗ trợ, nhà nước đưa ra khung pháp lý hoàn thiện và thậm chí là một cơ
cấu cơ sở hạ tầng (mà nếu không có nó thì một sở giao dịch không thể hoạt động một cách
chính xác được). Các thị trường cần chính phủ nhưng không phải là sự kiểm soát quá mức.
Những vai trò này được thể hiện qua các chính sách của nhà nước để điều chỉnh nền kinh
tế nói chung như các chính sách về thuế, hay chính sách đối với các ngân hàng, và các
thành phần kinh tế.
Các chính sách thuế: Các chính sách này là một trong những chính sách vĩ mô
sức quan trọng được nhà nước sử dụng để thể hiện chủ trương của mình đối với
việc hình thành sở giao dịch hàng hóa. Bởi lẽ, các sở giao dịch hàng hóa muốn hoạt
động được thì cần phải có một hệ thống thuế hợp lý và tạo điều kiện cho các giao
dịch trên sở giao dịch. Do đó, nếu như nhà nước ủng hộ việc thành lập sở giao dịch
hàng hóa thì các chính sách thuế sẽ tạo điều kiện hết sức cho các hoạt động của nó;
ví dụ như cho phép những sản phẩm nhập khẩu được bán đấu giá trên sở giao dịch,
và việc thu thuế có thể được lùi lại cho đến khi người mua nhận hàng. Bản thân
thuế cũng có thể là một vấn đề, đặc biệt là nếu các giao dịch giấy tờ bị đánh thuế
như là các giao dịch hàng hoá thông thường. Nếu sở giao dịch tiến hành giao dịch
các hóa đơn nhà kho, thì thuế cũng được đánh chỉ tại thời điểm giao hàng gốc
và/hoặc giao hàng cuối cùng, những thời điểm giữa hai mốc thời gian này thì việc
trao đổi có thể hoàn toàn không mất phí đăng kí, thuế gia trị gia tăng hay sự đánh
thuế nào (ngoài một khoản phí giao dịch rất thấp cho sở giao dịch). Với các giao
dịch tương lai cũng vậy, chỉ những giao dịch giao hàng thật mới bị đánh thuế. Do
đó, việc hoàn thiện hệ thống thuế và các chính sách thuế liên quan tới sở giao dịch
hàng hóa là một trong những điều kiện cần để có thể hình thành và phát triển sở
giao dịch hàng hóa.
Các chính sách tiền tệ - ngân hàng: Cần phải nhấn mạnh rằng các chính sách
tiền tệ có thể tác động mạnh đến các chức năng của sở giao dịch hàng hoá. Nếu lạm
phát cao, thì các hợp đồng kỳ hạn về tiền tệ và lãi suất khó có thể được giao dịch, và
hàng hoá được giao dịch bằng đồng nội tệ, bất cứ giao dịch kỳ hạn nào với kỳ hạn

hơn một khoảng từ một đến ba tháng (tuỳ thuộc vào mức tăng và khả năng dự đoán
được của lạm phát) sẽ là hiệu quả cho mục đích tự bảo hiểm lạm phát, chứ không
phải là tự bảo hiểm giá cả hàng hoá: cuối cùng thì giá cả của hàng hoá lúc kết thúc
kỳ hạn được được xác định phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát hơn là giá trị thực của
hàng hoá. Các sở giao dịch hàng hoá ở các quốc gia có tỷ lệ lạm phát cao do đó sẽ
hướng tới những khách hàng liên quan đến thương nhân hơn là việc sử dụng các
hợp đồng giao ngay hoặc có thời hạn ngắn, và nhóm các ngân hàng và các thể thế tài
chính với việc sử dụng các hợp đồng giao ngay hơn là các hợp đồng kỳ hạn. Việc
kiểm soát vốn có thể cũng có tác dụng nếu họ hạn chế việc các khách hàng tham gia
vào các sở giao dịch nội địa; trong trường hợp này, trong các quy định về các dòng
vốn, các chính phủ có thể sẽ đưa ra một ngoại lệ cho việc lợi nhuận tạo ra trên các
sở giao dịch về nước của các khách hàng nước ngoài
Tại nhiều nước, các quy định không cho phép các ngân hàng tham gia vào các hoạt
động như là buôn bán hàng hoá, cấp tiền bảo chứng cho các nhà tự bảo hiểm, tích trữ hàng
hoá, hay là các gói công cụ trên các sở giao dịch hàng hoá cho các nhà đầu tư. Những quy
định này đều là những rào cản khá lớn cho việc thực hiện các chức năng của các sở giao
dịch hàng hoá; các ngân hàng và các sở giao dịch do đó nên hợp tác để sửa đối những quy
định này.
Chính vì vậy, thông qua các công cụ chính sách này, nhà nước thể hiện sự ủng hộ
hay không ủng hộ đối với việc thành lập sở giao dịch hàng hóa. Sự ủng hộ của nhà nước
được xem như là một điều kiện chủ quan hết sức quan trọng tạo tiền đề để xây dựng sở
giao dịch hàng hóa.
2.1.2.4. Năng lực các nhà đầu tư
Thu hút sự mối quan tâm của những người tham gia thị trường, cũng như những nhà
đầu cơ ở được xem như điều kiện sống còn đối với sự tồn tại của một sở giao dịch hàng
hoá. Tuy nhiên một các thành viên này cần phải được trang bị những kiến thức và tiềm
năng nhất định chứ không phải những người không có một sự hiểu biết một cách đúng đắn
về vai trò của các sở giao dịch hàng hóa. Trên thực tế thị trường cà phê Việt Nam đã chứng
minh rất rõ điều này. Một số doanh nghiệp Việt Nam giao dịch cà phê trên sở giao dịch
hàng hóa của Luân Đôn (LIFFE) đang phải đối mặt với những khoản thua lỗ đáng kể. Thua

lỗ chủ yếu do các doanh nghiệp, cá nhân không nhận thức đầy đủ về phương thức này, họ
không xem nó như một công cụ phòng, chống rủi ro khi thị trường biến động, mà tham gia
giao dịch mang tính đầu cơ, “đỏ đen”, đặt lệnh mua bán khống, không có cà phê robusta
vẫn tham gia giao dịch với thị trường Liffe (London), không có cà phê arabica vẫn giao
dịch với thị trường Nybot (New York). Điều đáng nói nữa là một số doanh nghiệp đã tự
đứng ra làm trung gian giao dịch để thu phí bất hợp pháp từ các đối tượng không đủ điều
kiện giao dịch với Techcombank, trong khi các đối tượng chưa được khuyến cáo đầy đủ,
chưa hiểu biết sâu về phương thức này và thực sự không có cà phê, năng lực tài chính lại
quá nhỏ bé so với các đại gia nước ngoài, vì thế việc thua lỗ là tất yếu...Theo như thống kê
của VICOFA hiệp hội cà phê Việt Nam, trong đợt khảo sát đối với 9 trong tổng số doanh
nghiệp có tham gia hoạt động trên sở giao dịch nước ngoài thì đã thua lỗ tới gần 30 tỷ
đồng-đây là một khoản “học phí” quá lớn để tìm hiểu về hoạt động trên sở giao dịch hàng
hóa. Hơn nữa những người chưa có sự hiểu biết này là những người có tâm lý dễ dao động
nhất và do đó dễ gây đến những rối loạn trên thị trường. Nếu như sở giao dịch hàng hóa
Việt Nam được thành lập trong điều kiện như vậy, thì liệu sẽ tồn tại được bao lâu với
những chủ thể như thế này?
Chính vì những lý do như vậy, việc thu hút những người tham gia thị trường là một
vấn đề then chốt cho sự tồn tại của thị trường nhưng sự thu hút đó cũng phải dựa trên cơ sở
chọn lọc và dần dần. Để hình thành được các sở giao dịch thì cần phải có sự chuẩn bị sẵn
về việc phổ biến vai trò lợi ích cũng như những nguy cơ tiềm ẩn trên sở giao dịch từ đó thu
hút được những người tham gia có nhu cầu thực sự, với động cơ chân chính.
2.2. NHỮNG ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN SỞ GIAO DỊCH
HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM
2.2.1. Cơ chế kinh tế của việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam kể từ năm 1954 cho đến nay đã trải qua nhiều thời kỳ phát
triển khác nhau. Song tổng quan lại có thể chia ra làm hai giai đoạn lớn với hai phương
pháp tổ chức và quản lỹ nền kinh tế hoàn toàn khác nhau:
Giai đoạn 1954-1986: thực chất giai đoạn này Việt Nam chưa có thị trường hàng
hóa theo đúng nghĩa của nó. Hầu hết những sản phẩm của xã hội đều do nhà nước quản lý,
tổ chức sản xuất hay nhập khẩu cũng đều phụ thuộc vào những quyết định của nhà nước và

sau đó được phân phối theo hiện vật theo nhu cầu của nền kinh tế quốc dân và đời sống
dân cư. Vào giai đoạn này bức tranh nền kinh tế Việt Nam hết sức ảm đạm.
Giai đoạn 1987 đến nay: Sau khi tiến hành một công cuộc Đổi mới toàn diện nền
kinh tế, Việt nam đang chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Bước
ngoặt có ý nghĩa cơ bản là xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung và luôn đi liền với hành chính
quan liêu bao cấp trước đây và thực hiện cơ chế thị trường. Vấn đề độc quyền nhà nước
được xem xét lại và có những thay đổi đáng kể. Nhà nước bắt đầu giảm sự can thiệp trực
tiếp vào sản xuất kinh doanh và vào thị trường nói chung. Đồng thời nhà nước cũng vạch
ra những nguyên tắc nhất định trong việc can thiệp vào thị trường như sau:
Nguyên tắc thứ nhất: Nhà nước chỉ can thiệp ở tầm vĩ mô và bằng các biện pháp vĩ
mô đối với hoạt động kinh tế nói chung; còn những hoạt động mang tính vi mô, vốn dĩ là
công việc của các chủ thể kinh tế thì để cho họ tự quyết định theo sự dẫn dắt của các quy
luật thị trường và tự chịu trách nhiệm.
Nguyên tắc thứ hai: Nhà nước thực hiện các hành vi can thiệp vào hoạt động kinh
tế phải xuất phát từ hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam, có tính đến yêu cầu hội nhập quốc tế
trong giai đoạn đương đại. Mọi hành vi sao chép một cách máy móc các mô hình quản lý
của nước ngoài mà không tính đến hoàn cảnh và điều kiện đặc thù của Việt Nam sẽ là
không thích hợp và thậm chí còn có thể gây ra những hậu quả vô cùng bất lợi cho nền kinh
tế và xã hội.
Nguyên tắc thứ ba: Nhà nước thực hiện các hành vi can thiệp vào nền kinh tế phải
nhằm thoả mãn các mục tiêu cơ bản về kinh tế, chính trị và xã hội theo định hướng XHCN
như văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra.
Nguyên tắc thứ tư: Nhà nước có thể can thiệp vào hoạt động kinh doanh bằng
nhiều công cụ và biện pháp khác nhau (chẳng hạn như công cụ pháp luật, các chính sách và
hệ thống chương trình, kế hoạch định hướng…) nhưng các biện pháp và công cụ này
không được gây cản trở cho quá trình tự do hoá thương mại quốc tế Việt Nam đã tham gia
hoặc cam kết sẽ tham gia, cũng như không cản trở quyền tự do kinh doanh của các chủ thể
tham gia giao dịch kinh tế.
Nguyên tắc thứ năm: Tiêu chí xác định giới hạn hợp lý cho hành vi can thiệp của
Nhà nước vào kinh tế là hậu quả của sự can thiệp đó phải là cho kinh tế tăng trưởng bền

vững; các chủ thể kinh tế thoả mãn được lợi ích của mình khi giao dịch kinh tế; nền kinh tế
và đời sống xã hội không gặp phải các rắc rối và những biến động bất lợi; không bị cản trở
xu hướng hội nhập quốc tế.
Thị trường đã dần được hình thành theo quy luật khách quan là thị trường tự do,
nhiều thành phần kinh tế cạnh tranh và theo dẫn dắt của cung cầu. Nhà nước khuyến khích
sự phát triển của tất cả các thành phần kinh tế, các thành phần kinh tế được tự do phát triển
và bình đẳng trước pháp luật. Danh mục các hàng hóa do nhà nước độc quyền đã giảm
đáng kể và hiện chỉ còn một số mặt hàng thiết yếu như điện, than, nước. Thị trường cạnh
tranh hiện là hình thái thị trường phổ biến đối với hầu hết các mặt hàng như lương thực,
thực phẩm thông dụng, dệt may. Tuy nhiên, ở Việt Nam nhiều năm qua tình trạng cạnh
tranh không lành mạnh và thiếu bình đẳng vẫn thường xảy ra. Chẳng hạn đầu vào của
ngành kinh doanh sản xuất gạo, cà phê có rất nhiều người bán nên sự cạnh tranh là phổ
biến, song đầu ra của nó lại bị khống chế bởi quy định giao cho một số doanh nghiệp làm
đầu mối xuất khẩu. ở đây, các yếu tố phi cạnh tranh là những “rào chắn” được tạo bởi việc
quy định đầu mối và quota hạn ngạch. Do vậy khi thị trường thế giới biến động đã phát
sinh cạnh tranh không lành mạnh do việc tranh mua tranh bán chèn ép lẫn nhau và yếu tố
độc quyền lúc này trở thành đặc quyền đem lại lợi ích cho các đầu mối.
Đặc biệt trong những nỗ lực để gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt
Nam đã có rất nhiều cam kết nhằm cải cách cơ cấu kinh tế, dần dần hội nhập nền kinh tế
trong nước với các nền kinh tế khác trên thế giới. Việt Nam chấp nhận bị coi là nền kinh tế
phi thị trường trong 12 năm tức là không muộn hơn 31/12/2018. Tuy nhiên, trước thời
điểm trên, nếu ta chứng minh được với đối tác nào là kinh tế Việt Nam hoàn toàn hoạt
động theo cơ chế thị trường thì đối tác đó ngừng áp dụng chế độ “phi thị trường” đối với
ta. Chế độ “phi thị trường” chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá giá. Và các
thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù đối với hàng xuất khẩu
nước ta dù ta bị coi là nền kinh tế phi thị trường. Trong những cam kết này có rất nhiều
cam kết liên quan đến những lĩnh vực hàng hóa xuất khẩu góp phần thúc đẩy việc hình
thành sở giao dịch hàng hóa việt Nam. Ví dụ Về trợ cấp phi nông nghiệp, Việt Nam đồng ý
bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định WTO như trợ cấp xuất khẩu và trợ
cấp nội địa hóa. Tuy nhiên với các ưu đãi đầu tư dành cho hàng xuất khẩu đã cấp trước

ngày gia nhập WTO, ta được bảo lưu thời gian quá độ là 5 năm (trừ ngành dệt may). Về trợ
cấp nông nghiệp, Việt Nam cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ
thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của
WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy
định phải cắt giảm nhìn chung ta duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng.
Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng
mỗi năm. Các loại trợ cấp mang tính chất khuyến nông hay trợ cấp phục vụ phát triển nông
nghiệp được WTO cho phép nên ta được áp dụng không hạn chế. Những biện pháp bảo hộ
đối với nông dân trước đây nay đã bị dỡ bỏ, do đo người nông dân lại càng cần cơ một cơ
chế thị trường mới để thay thế những biện pháp này để tránh những rủi ro hay ít nhất là
không bị lâm vào tình trạng bị ép giá hoặc cạnh tranh quá khốc liệt trên thị trường thế giới.
Với những cải cách như vậy, cơ chế thị trường của Việt nam đã cỏ thể cho phép
việc hình thành và phát triển một cơ cấu thị trường hiện đại với nhiều hình thức kinh doanh
không chỉ ở những sở giao dịch hàng hóa hữu hình thông thường mà ngay cả với những sở
giao dịch tương lai về hàng hóa.
2.2.2. Sự phát triển kinh tế của Việt Nam
Nếu chỉ có nhiều người mà không có tiềm năng về kinh tế thì cũng không thể hình
thành nên sở giao dịch hàng hóa được. Thực tế sự phát triển nền kinh tế Việt Nam với
những thành tựu vượt bậc đã có những tác động hết sức tích cực tác động tới những tiềm
năng về chủ thể của sở giao dịch hàng hóa của Việt Nam. Trải qua 20 năm đổi mới nền
kinh tế Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng vượt bậc với sự thay đổi cơ cấu kinh tế theo
hướng ngày càng phù hợp với các xu hướng chung trên thế giới.
Bảng 2.1: Tăng trưởng GDP và các ngành kinh tế, 2003-07 (%)
2003 2004 2005 2006 2007
GDP 7,34 7,79 8,44 8,17 8,48
Nông-lâm-thủy sản 3,62 4,36 4,02 3,40 3,40
Công nghiệp-xây dựng 10,48 10,22 10,69 10,37 10,60
Dịch vụ 6,45 7,26 8,48 8,29 8,68
Nguồn: CIEM
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh đã kéo theo những tác động tích cực tới

những sự phát triển con người, chỉ số HDI tăng lên qua các năm (1985 mới đạt 0,590, năm
1990 đạt 0,620, năm 1995 đạt 0,672, năm 2000 đạt 0,711, năm 2005 đạt 0,733, khả năng
năm 2007 đạt trên 0,75). Thứ bậc về HDI tăng lên trong khu vực Đông Nam Á, ở châu Á
và trên thế giới. Thứ bậc trên thế giới về HDI cao hơn thứ bậc về GDP bình quân đầu
người tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương (105 so với 123), cao hơn hàng
chục nước có GDP bình quân đầu người cao hơn Việt Nam, phù hợp với nền kinh tế thị
trường mà nước ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường theo định hướng dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tỷ lệ nghèo đã giảm (từ 17,8% xuống còn
14,8%).
Thêm vào đó, với sự thành công của thị trường chứng khoán trong những năm vừa
qua cũng góp phần tăng số lượng chủ thể tiềm năng cho sở giao dịch hàng hóa. Vì xét về

×