Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

(Luận văn thạc sĩ) phát triển bền vững, phân phối công bằng nguồn lợi nghêu tự nhiên lý luận và thực tiễn pháp lý ở bến tre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (679.83 KB, 59 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRẦN VĂN PHONG

“PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG, PHÂN PHỐI
CÔNG BẰNG NGUỒN LỢI NGHÊU TỰ NHIÊN
- LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁP LÝ Ở BẾN TRE”

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRẦN VĂN PHONG

“PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG, PHÂN PHỐI
CÔNG BẰNG NGUỒN LỢI NGHÊU TỰ NHIÊN
- LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁP LÝ Ở BẾN TRE”
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT

Người hướng dẫn khoa học: PGS-TS VÕ TRÍ HẢO

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TÓM TẮT LUẬN VĂN
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NGUYÊN TẮC VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ KHAI THÁC PHÂN
PHỐI NGHÊU TỰ NHIÊN ................................................................................. 5
1.1. Phân phối lợi ích cơng bằng, phát triển bền vững trong khai thác nghêu tự
nhiên. ...................................................................................................................... 5
1.1.1. Phân phối lợi ích cơng bằng trong khai thác nghêu tự nhiên ................. 5
1.1.1.1. Nguyên tắc công bằng ....................................................................... 5
1.1.1.2. Nguyên tắc công bằng trong khai thác nghêu tự nhiên ............. 8
1.1.2. Phát triển bền vững............................................................................................ 9
1.1.2.1. Khái niệm về phát triển bền vững .................................................. 9
1.1.2.2. Nguyên tắc phát triển bền vững nguồn lợi nghêu tự nhiên .... 10
1.2. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển bền vững và phân
phối nguồn lợi nghêu tự nhiên ............................................................................. 13
1.2.1. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển bền vững 13
1.2.2. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về khai thác, phân phối
nguồn lợi nghêu tự nhiên để phát triển bền vững ............................................... 15
1.2.2.1. Chủ trương, chính sách của Trung ương .................................... 15
1.2.2.2. Chủ trương, chính sách của địa phương - tỉnh Bến Tre.......... 16
1.3. Quy định của pháp luật về việc khai thác, phân phối nguồn lợi nghêu tự nhiên.
.............................................................................................................................. 17
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHAI THÁC, PHÂN PHỐI NGUỒN LỢI
NGHÊU TỰ NHIÊN TẠI BẾN TRE VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG......................................................................................................... 20
2.1. Tổng quan đặc điểm của nghêu tự nhiên tại Bến Tre. .................................. 20
2.2. Q trình phát triển các mơ hình khai thác nghêu tự nhiên tại Bến Tre ....... 22

2.3. Thực tiễn việc phân phối nguồn lợi nghêu tự nhiên tại Bến Tre .................. 25
2.4. Những vấn đề bất cập phát sinh trong quá trình khai thác, phân phối nguồn lợi
nghêu tự nhiên tại Bến Tre liên quan đến phát triển bền vững. ........................... 28
2.4.1. Những vấn đề bất cập phát sinh trong quá trình khai thác, phân phối
nguồn lợi nghêu tại Bến Tre. .................................................................................... 28


2.4.1.1. Bất cập trong ban hành chủ trương, chính sách và áp dụng pháp
luật ........................................................................................................................ 29
2.4.1.2. Hạn chế của đặc tính “tập thể”của mơ hình Hợp tác xã ......... 31
2.4.1.3. Hạn chế về chính sách khoa học cơng nghệ và khuyến ngư . 32
2.4.1.4. Bất cập trong vai trò của nhà nước đối với việc xúc tiến thương
mại, đăng ký chỉ dẫn địa lý ............................................................................ 33
2.4.1.5. Bất cập về tình hình an ninh, trật tự ............................................. 34
2.4.2. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập ................................................. 34
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT ĐỂ PHÂN PHỐI CÔNG
BẰNG NGUỒN LỢI NGHÊU TỰ NHIÊN TẠI BẾN TRE, GÓP PHẦN
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ............................................................................... 38
3.1. Những vấn đề có liên quan đến quy định của pháp luật và những cơ chế, chính
sách của chính quyền địa phương ........................................................................ 38
3.2. Phát triển Hợp tác xã khai thác nghêu bền vững .......................................... 40
3.3. Ổn định tình hình an ninh, trật tự tại các Hợp tác xã nghêu để phát triển bền
vững ...................................................................................................................... 43
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 47
Phụ lục 1
Phụ lục 2
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT



LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Trần Văn Phong – mã số học viên: 7701270088A, là học viên lớp
Cao học Luật. Khóa chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh
tế TP. Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Phát triển
bền vững, phân phối công bằng nguồn lợi nghêu tự nhiên - Lý luận và thực
tiễn pháp lý ở Bến Tre” (Sau đây gọi tắt là “Luận văn”).
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là
kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng
dẫn khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm
khoa học của một số tác giả. Các thơng tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể,
chính xác và có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận
văn là hoàn toàn khách quan và trung thực.
Học viên thực hiện

Trần Văn Phong


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
HTX:

Hợp tác xã

LMHTX:

Liên minh Hợp tác xã

BQT:

Ban quản trị


ANTT:

An ninh, trật tự


Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn

TÓM TẮT LUẬN VĂN
Sự phát triển của một quốc gia nói chung, một địa phương nói riêng, khơng
chỉ thể hiện ở sự phát triển về kinh tế, mà còn thể hiện ở sự phát triển về xã hội.
Sự phát triển về kinh tế và sự phát triển về mặt xã hội có liên quan mật thiết với
nhau. Công bằng xã hội là một nội dung quan trọng trong sự phát triển về mặt xã
hội. Nếu quốc gia (địa phương) nào chỉ chú trọng phát triển về kinh tế mà không
chú trọng bảo đảm công bằng xã hội, thì sự phát triển về kinh tế sẽ không bền
vững.
Thời gian qua, bên cạnh những thành công trong thực hiện mục tiêu cơng
bằng xã hội, Việt Nam nói chung, Bến Tre nói riêng, cịn phải đối mặt với nhiều
vấn đề xã hội đặt ra, trong đó có vấn đề phân phối chưa hợp lý của cải, cụ thể ở
Bến Tre là phân phối nguồn lợi nghêu tự nhiên. Vì sự chưa hợp lý đó mà kinh tế
thủy sản của Bến Tre phát triển chưa tương xứng với tiềm năng; các cấp chính
quyền và ngành chức năng chưa triển khai hướng dẫn thực hiện đầy đủ những quy
định của pháp luật; người dân vùng ven biển chưa phát huy hết tinh thần, trách
nhiệm trong quản lý, khai thác, phân phối nguồn lợi nghêu tự nhiên; chưa xác định
đúng giá trị con nghêu để giảm nghèo, vươn lên làm giàu.
Mặc dù quá trình khai thác, phân phối nguồn lợi nghêu tự nhiên ở Bến Tre
còn những hạn chế, bất cập do nhiều nguyên nhân khác nhau. Song, với những
chính sách, pháp luật hiện hành và những nguồn lực hiện có tại địa phương, nhất
là khả năng, điều kiện về yếu tố con người và nguồn lực nghêu do thiên nhiên ưu
đãi, chắc chắn rằng nguồn lợi nghêu tự nhiên sẽ hướng đến sự phân phối cơng bằng
và góp phần phát triển kinh tế bền vững.



Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bến Tre là tỉnh thuộc Vùng Đồng bằng sơng Cửu Long, có tổng diện tích
tự nhiên khoảng 2.360 km2, được hợp thành bởi Cù lao An Hóa, Cù lao Bảo và Cù
lao Minh, do phù sa của 4 nhánh sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sơng
Cổ Chiên bồi tụ thành. Phía Bắc tỉnh Bến Tre giáp tỉnh Tiền Giang, phía Tây và
phía Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh, phía Đơng hướng ra Biển Đơng.
Tỉnh Bến Tre nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, với
hai mùa rõ rệt: Mùa mưa khoảng từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô khoảng từ
tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 2.000mm đến
2.300 mm, nhiệt độ trung bình trong năm từ 260C - 270C. Với vị trí nằm tiếp giáp
biển Đơng, nhưng Bến Tre ít chịu ảnh hưởng của bão lũ, có khí hậu ơn hịa, mát
mẻ quanh năm, có bờ biển dài trên 65km và vùng lãnh hải rộng hơn 26.000km2…
Đây là điều kiện thuận lợi, là thế mạnh để phát triển, sản xuất nông nghiệp, nhất
là ngành thủy sản. Đặc biệt, hệ đa dạng sinh học vùng cửa sông ven biển rất phong
phú (hơn 280 loài tảo đơn bào, 96 giống loài động vật nổi, 16 nhóm giống lồi
thủy sinh; với hơn 7.130 ha rừng ngập mặn ven biển có 3.250 ha được bảo tồn …)
là điều kiện thuận lợi để nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản phát triển. Cộng
đồng dân cư vùng ven biển từ hàng trăm năm qua đã gắn bó với nghề truyền thống
này dựa vào nếp sống cộng đồng để sinh kế và làm chỗ dựa cho các hoạt động
cách mạng qua các thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Với tiềm năng về biển, tỉnh Bến Tre có cơ sở và điều kiện để khai thác, nuôi
trồng và phát triển ngành thủy sản, đặc biệt là nghề nuôi nghêu. Hiện nay, Bến Tre
là một trong những tỉnh đứng đầu cả nước về phát triển ni nghêu. Tồn tỉnh hiện
có 9 Hợp tác xã thủy sản nuôi nghêu với trên 11.042 hộ gia đình tham gia ni
nghêu. Tổng diện tích đưa vào khai thác khoảng 4.878 ha (trong khoảng 7.200 ha

có thể phát triển nuôi nghêu). Việc quản lý, bảo vệ, khai thác, bán sản phẩm nghêu
tự nhiên có sự tham gia của cộng đồng địa phương là tương đối toàn diện. Hàng
năm, nguồn lợi nghêu tại địa phương cho sản lượng rất lớn (dao động khoảng 5.000
- 15.000 tấn nghêu giống và thương phẩm). Hàng chục năm qua nghề nuôi nghêu
ở tỉnh Bến Tre không chỉ đem lại hiệu quả kinh tế cao, tạo việc làm và thu nhập
ổn định cho hàng chục ngàn dân nghèo ven biển, góp phần xóa đói giảm nghèo và
bảo đảm an sinh xã hội, mà cịn giúp hồi sinh nhiều vùng đất ven biển… Có thể
1


Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn

khẳng định rằng, nguồn lợi nghêu tự nhiên đã đóng góp đáng kể cho nền kinh tế xã hội của tỉnh. Đặc biệt, nghêu của tỉnh Bến Tre đã được Hội đồng Quản lý biển
quốc tế MSC (Marine Stewardship Council) thuộc Quỹ Bảo tồn thiên nhiên thế
giới (WWF) cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn thương hiệu MSC.
Tuy nhiên, hiện nay, do cơ chế chính sách và hình thức quản lý, khai thác
nghêu cịn có những vấn đề chưa hợp lý, hiệu quả mang lại chưa cao, phân phối
thu nhập từ nguồn lợi nghêu tự nhiên cịn nhiều bất cập; chưa có các văn bản,
khung pháp lý hướng dẫn quy trình đồng quản lý trong ngành thủy sản, số lượng
phương tiện khai thác nghêu ngày càng nhiều, với đa loại hình ngư, lưới cụ có kích
thước mắt lưới không phù hợp, ảnh hưởng đến nguồn sống của nghêu giống, nghêu
thương phẩm; nạn “nghêu tặc” còn diễn ra, gây bất ổn định trong quá trình quản
lý, khai thác nguồn lợi nghêu tự nhiên; ý thức bảo tồn nguồn lợi nghêu tự nhiên
của người dân để phát triển bền vững cịn hạn chế; vấn đề biến đổi khí hậu toàn
cầu và nước biển dâng đang diễn ra là những đe dọa, thách thức phải đối mặt…
Những điều đó ít nhiều đã gây tổn thất nguồn lợi thủy sản nói chung và nghêu nói
riêng, ảnh hưởng đến chu kỳ phát triển của hệ đa dạng sinh học, mất cân bằng môi
trường sinh thái, ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội và đời sống kinh tế của người
dân…
Thời gian qua, mặc dù các cấp chính quyền đã có nhiều chủ trương, giải

pháp để nguồn lợi nghêu tự nhiên được phát huy và đóng góp đúng thực chất cho
q trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nhất là việc xóa đói giảm nghèo, nâng
cao đời sống người dân vùng ven biển. Nhưng thực tiễn còn đặt ra nhiều vấn đề
liên quan đến việc bảo đảm quản lý, khai thác nguồn lợi nghêu tự nhiên làm sao
thật sự hiệu quả, phân phối bảo đảm thật sự công bằng, để người dân tham gia
nghề ni nghêu có thể bảo đảm sinh kế bền vững, khai thác và phân phối nguồn
lợi nghêu bảo đảm công bằng theo hướng phát triển bền vững và thân thiện với
môi trường… Quả thật, đây là vấn đề rất đáng quan tâm và cần phải có những giải
pháp thật thiết thực, hiệu quả, kịp hời, để bảo đảm cho việc phát triển bền vững,
phân phối công bằng nguồn lợi nghêu tự nhiên ở Bến Tre.
Xuất phát từ tình hình nêu trên, người viết chọn đề tài “Phát triển bền
vững, phân phối công bằng nguồn lợi nghêu tự nhiên - Lý luận và thực tiễn
pháp lý ở Bến Tre” để nghiên cứu làm luận văn Thạc sĩ luật.
2. Câu hỏi nghiên cứu
2.1. Nguồn lợi nghêu tự nhiên thuộc sở hữu của ai?

2


Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn

2.2. Ai có quyền khai thác, hưởng thụ từ nguồn lợi nghêu tự nhiên?
2.3. Những quy định nào của pháp luật để bảo đảm phân phối công bằng
nguồn lợi nghêu tự nhiên và phát triển bền vững?
3. Tình hình nghiên cứu
Thời gian qua, đã có một số cơng trình và bài viết khoa học nghiên cứu có
liên quan đến vấn đề này, như sau:
- Luận văn thạc sĩ, “Tiềm năng và định hướng phát triển bền vững thủy sản
Bến Tre”, tác giả Lê Xinh Nhân, bảo vệ tại Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2010;

- Luận văn thạc sĩ, “Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh ngành hàng
nghêu trắng Bến Tre”, tác giả Lê Tân Thới, bảo vệ tại Đại học Cần Thơ, năm 2010;
- Luận án tiến sĩ, “Phát triển bền vững ngành thủy sản Đồng bằng sông Cửu
Long đến năm 2015”, tác giả Lâm Thanh Mẫn;
- Tham luận khoa học, “Đẩy nhanh phát triển nuôi trồng thủy sản phát triển
hiện đại, hiệu quả bền vững”, của PGS – TS Hà Xuân Thông – Nguyên Viện trưởng
Viện kinh tế và quy hoạch thủy sản;
- Tham luận khoa học, “Môi trường và vấn đề phát triển bền vững ngành
thủy sản”, của Hoàng Hoa Hồng – Trường Đại học Nha Trang.
Ngoài ra, cịn có một số bài báo khoa học của các tác giả là nhà khoa học,
cán bộ thực tiễn trong ngành thủy sản có liên quan đến vấn đề nghiên cứu của đề
tài.
Các cơng trình và các bài nghiên cứu trên đã làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiễn pháp lý đối với hoạt động khai thác, phân phối nguồn lợi thủy
sản (trong đó có nghêu tự nhiên) để phát triển bền vững dưới các góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một cơng trình khoa học nào nghiên cứu riêng
biệt, chuyên sâu về những nội dung mà chính sách, pháp luật quy định về việc phát
triển bền vững, phân phối công bằng nguồn lợi nghêu tự nhiên và việc áp dụng vào
thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bến Tre. Do đó, tác giả chọn nghiên cứu đề tài này vừa
nhằm kế thừa một số kết luận khoa học của các cơng trình, báo cáo khoa học nói
trên, vừa nhằm bổ sung, làm sáng tỏ những vấn đề chưa được đề cập đến nhưng
không trùng lặp với các cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố, góp phần đưa việc
quản lý, khai thác, phân phối nguồn lợi nghêu tự nhiên trên địa bàn tỉnh trong thời
gian tới thực hiện đúng quy định của pháp luật và hướng đến mục tiêu công bằng,
phát triển bền vững.

3


Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn


4. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những quy định của pháp luật về quản lý, khai thác, phân phối nguồn
lợi nghêu tự nhiên và thực tiễn thực hiện pháp luật về vấn đề này tại Bến Tre. Qua
đó, làm rõ những ưu điểm, hạn chế trong quá trình thực hiện và đề xuất, kiến nghị
một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện đúng những quy định của pháp luật trong
việc quản lý, khai thác, phân phối nguồn lợi nghêu tự nhiên tại Bến Tre, hướng tới
mục tiêu bảo đảm công bằng và phát triển bền vững.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Những nội dung về phát triển bền vững, phân phối cơng bằng theo các chủ
trương, chính sách, pháp luật có liên quan (Nghị quyết của Đảng, Luật Đất đai,
Luật Thủy sản, Luật Hợp tác xã, Luật Tài ngun và Khống sản, Luật Bảo vệ mơi
trường…) và tình hình quản lý, khai thác, phân phối nghêu tự nhiên tại Bến Tre.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung:Tập trung nghiên cứu những nội dung về phát triển bền vững,
phân phối cơng bằng và thực trạng tình hình quản lý, khai thác, phân phối nguồn
lợi nghêu tự nhiên.
- Về thời gian: Từ năm 2009 đến 2017.
- Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
5. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn được viết dựa trên các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp
phân tích và tổng hợp; Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn; Phương pháp
thống kê và so sánh; Phương pháp chuyên gia…
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Sau khi nghiên cứu, luận văn này góp phần chỉ ra những ưu điểm, hạn chế
và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện pháp luật liên
quan đến công tác quản lý, khai thác, phân phối nguồn lợi nghêu tự nhiên tại Bến
Tre. Từ đó, người viết đề xuất, kiến nghị một số giải pháp cơ bản với mong muốn
hồn thiện hệ thống chính sách, pháp luật để áp dụng vào việc khai thác, phân phối

nguồn lợi nghêu tự nhiên hướng tới mục tiêu công bằng, phát triển bền vững.

4


Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn

CHƯƠNG 1: NGUYÊN TẮC VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ KHAI
THÁC PHÂN PHỐI NGHÊU TỰ NHIÊN
1.1. Phân phối lợi ích cơng bằng, phát triển bền vững trong khai thác
nghêu tự nhiên.
1.1.1. Phân phối lợi ích cơng bằng trong khai thác nghêu tự nhiên
1.1.1.1. Nguyên tắc công bằng
Công bằng xã hội là một nguyên tắc phân phối lợi ích, thước đo của nó là
sự bình đẳng trong quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, được thực hiện dựa trên
sự tự nguyện của các cá nhân. Công bằng xã hội khơng chỉ có tác động mạnh mẽ,
tích cực trong lĩnh vực kinh tế, mà cịn đóng vai trò điều chỉnh quan hệ giữa con
người với con người trong các lĩnh vực chính trị, xã hội, đạo đức… Do vậy, nó
vừa tạo nên trạng thái ổn định của xã hội, vừa tạo nên những điều kiện cần thiết
thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ. Đồng thời, cơng bằng xã hội cịn là
điều kiện để mỗi cá nhân có thể phát huy cao nhất năng lực vốn có cũng như được
phát triển ngày càng tồn diện hơn. Việc xác định nguyên tắc công bằng để phát
triển bền vững là cơ sở quan trọng cho những bước tiếp theo của mỗi quốc gia.
Sự phát triển của một quốc gia không chỉ thể hiện ở sự phát triển về kinh
tế, mà còn thể hiện ở sự phát triển về xã hội. Sự phát triển về kinh tế và sự phát
triển về mặt xã hội có liên quan mật thiết với nhau. Công bằng xã hội là một nội
dung quan trọng trong sự phát triển về mặt xã hội. Trong một xã hội có tình trạng
bất cơng bằng, người bị đối xử bất công sẽ không thể phát huy hết tính tích cực
của mình; mặt khác, họ ln đấu tranh địi cơng bằng, cuộc đấu tranh này khơng
tránh khỏi gây bất ổn định xã hội. Vì vậy, nếu quốc gia nào chỉ chú trọng phát triển

về kinh tế mà khơng chú trọng bảo đảm cơng bằng xã hội, thì sự phát triển về kinh
tế của quốc gia đó sẽ khơng bền vững.
Ngun tắc phân phối lợi ích được hình thành trong mối quan hệ lợi ích
giữa người với người, là thước đo để phân chia lợi ích chung của xã hội. Thước đo
này được quy định bởi điều kiện kinh tế - xã hội của một phương thức sản xuất
nhất định, trước hết là quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Nguyên tắc phân
phối lợi ích dựa trên cơ sở địa vị của các cá nhân trong quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất trở thành nguyên tắc phân phối chung của mọi phương thức sản xuất.
Trong khi đó, cơng bằng xã hội cũng là một nguyên tắc phân phối lợi ích. Khác
với nguyên tắc phân phối nói chung, thước đo của nguyên tắc phân phối lợi ích
5


Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn

cơng bằng chính là sự bình đẳng giữa người với người trong mối quan hệ tương
ứng giữa cống hiến và hưởng thụ với tiêu chí cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ
ngang nhau. Hơn nữa, nếu nguyên tắc phân phối nói chung được thực hiện bằng
cách không dựa trên sự thỏa thuận tự nguyện chung thì ngược lại, ngun tắc phân
phối lợi ích cơng bằng lại được thực hiện dựa trên sự thỏa thuận tự nguyện của
những cá nhân cùng tham gia vào một quan hệ lợi ích. Vì thế, tác động của ngun
tắc phân phối công bằng tới hoạt động của con người không mang tính cưỡng bức,
mà có tính tích cực. Điều đó càng kích thích sự cống hiến tự nguyện của mỗi cá
nhân vào hoạt động chung của xã hội vì lợi ích của mình và của cả cộng đồng. Nói
cách khác, nguyên tắc phân phối công bằng mà nội dung của nó là sự bình đẳng
giữa người với người trong mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ đã khiến cho
khơng một cá nhân nào cảm thấy mình bị thiệt thòi, mà còn thúc đẩy mỗi người tự
nguyện làm việc nhiều hơn nữa. Chính sự tự nguyện làm việc nhiều hơn nữa đó
của mọi thành viên đã thúc đẩy xã hội tiếp tục vận động và phát triển. Theo nghĩa
đó, cơng bằng xã hội là một động lực tích cực tạo nên sự vận động và phát triển

mạnh mẽ của xã hội.
Có thể nói, cơng bằng xã hội với tư cách động lực phát triển kinh tế - xã hội
hoàn tồn mang tính khách quan, phổ biến và tất yếu. Bởi vì, xã hội là kết quả hoạt
động của những con người có nhu cầu, lợi ích và mục đích riêng của mình, mà nhu
cầu, lợi ích và mục đích đó của con người đều bị quy định bởi hồn cảnh bên ngoài,
trước hết là hoàn cảnh kinh tế (đặc biệt là quan hệ kinh tế hay quan hệ lợi ích giữa
người với người). Ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể với một hoàn cảnh kinh tế - xã
hội nhất định, bao giờ cũng có một thước đo của công bằng xã hội tương ứng làm
căn cứ để xác định một tỷ lệ tương ứng cụ thể giữa cống hiến và hưởng thụ cho
mọi chủ thể cùng tham dự vào hoạt động của nền sản xuất xã hội. Ph.Ăngghen
khẳng định: “Phương thức phân phối về căn bản là phụ thuộc vào chỗ số
lượng nào của sản phẩm được phân phối, và số lượng này, dĩ nhiên thay đổi tùy
theo sự tiến bộ của sản xuất và của tổ chức xã hội, do đó cả phương thức phân phối
ắt phải thay đổi theo”.
Thước đo nêu trên của công bằng xã hội còn là căn cứ cho các chủ thể tự đối
chiếu với khả năng của bản thân mình để điều chỉnh nhu cầu và lựa chọn những
lợi ích phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Nếu mỗi cá nhân đều nhận thức được
nguyên tắc của công bằng xã hội theo nghĩa trên thì xã hội ln được ổn định và
phát triển. Hơn nữa, vì cơng bằng xã hội luôn được thực hiện bằng một thước đo

6


Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn

về mối quan hệ lợi ích giữa người với người trong xã hội, cho nên thước đo ấy
cũng chính là cái để điều chỉnh hành vi của những cá nhân vi phạm quan hệ lợi ích
chung của xã hội. Tóm lại, thước đo của cơng bằng xã hội vừa là yếu tố kích thích
sự cống hiến của con người, vừa là công cụ để bảo vệ lợi ích chung của xã hội và
lợi ích của mỗi cá nhân trong xã hội ấy. Mặt khác, xã hội có cơng bằng sẽ động

viên, kích thích sự cống hiến của các cá nhân, nghĩa là huy động được nhiều hơn
nguồn nhân lực, vật lực, tài lực, trí lực... cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Công bằng xã hội khơng chỉ có tác động mạnh mẽ, tích cực trong lĩnh vực
kinh tế mà cịn đóng vai trị điều chỉnh quan hệ giữa người và người trong các lĩnh
vực chính trị, xã hội, đạo đức,… để đảm bảo sự tương xứng giữa nghĩa vụ và quyền
lợi của các cá nhân hay các nhóm xã hội. Nếu sự tương xứng giữa cống hiến và
hưởng thụ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ của con người được thực hiện trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, đảm bảo cho mọi người đều được đối xử ngang bằng
nhau, phù hợp với những cống hiến, tài năng, phẩm giá, trách nhiệm… của họ,
khơng ai bị thiệt thịi, khơng ai bị rơi vào cảnh bị đối xử bất cơng... thì sự cơng
bằng xã hội sẽ không chỉ tạo ra trạng thái ổn định - điều kiện hết sức cần thiết cho
sự phát triển theo hướng tiến bộ của xã hội, mà còn tạo ra tâm lý xã hội lành mạnh,
phấn khởi, có tác dụng kích thích tính tích cực, năng động của con người trong
hoạt động thúc đẩy sự phát triển xã hội theo hướng tiến bộ. Việc con người được
tôn trọng, được đối xử cơng bằng sẽ hình thành ở họ một động lực mạnh mẽ thúc
đẩy sự phát triển của xã hội, làm cho các quan hệ xã hội của con người ngày càng
trở nên tốt đẹp hơn, tiến bộ hơn.
Đây là nét khác biệt cơ bản giữa vai trò động lực của công bằng xã hội trong
tiến bộ xã hội và vai trò động lực của nguyên tắc trao đổi ngang giá trong nền kinh
tế thị trường (với tính cách là công bằng trong lĩnh vực kinh tế). Đặc biệt, trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khiến cho quan hệ trao đổi
ngang giá ngày càng có tính cơng bằng hơn. Nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ngày càng tạo ra nhiều cơ hội bình đẳng hơn cho tất cả mọi người
có thể phát huy được tính năng động của mình, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế - xã hội; đồng thời, cho phép thực hiện các hình thức phân phối tương xứng với
sự cống hiến của mỗi cá nhân trong xã hội. Điều đó sẽ làm cho việc phân phối
ngày càng trở nên công bằng hơn. Nhưng, việc tạo ra một xuất phát điểm bình
đẳng cho mọi cá nhân lại là cơng việc của cả cộng đồng, trong đó Nhà nước đóng
vai trị đặc biệt quan trọng. Sự điều tiết của Nhà nước mới thực sự là “chìa khố


7


Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn

để đáp ứng những nhu cầu phức tạp và trái ngược nhau của xã hội”. Sự điều tiết
của Nhà nước phải được thực hiện bằng các chủ trương, chính sách phù hợp với
thước đo của công bằng xã hội, chứ không phải là được áp đặt một cách chủ quan.
Điều này thể hiện ở chỗ, Nhà nước phải dùng những chính sách kinh tế - xã hội
khác nhau để điều chỉnh và tạo đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế, đặc biệt là dùng
các chính sách thu hút những nguồn lực về vốn, tài sản, hay lao động có chất lượng
cao... Bên cạnh đó, cần phải kết hợp chính sách phát triển kinh tế với chính sách
phát triển xã hội. Có như vậy mới thực sự làm cho công bằng xã hội trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trở nên đầy đủ
hơn. Ngược lại, sẽ là bất hợp lý và phản tác dụng nếu Nhà nước can thiệp quá sâu
vào sự vận hành của nền kinh tế bằng mệnh lệnh chủ quan hay điều tiết bằng cách
phân phối mang tính cào bằng, bình qn chủ nghĩa. Những can thiệp hoặc điều
tiết như vậy chỉ dẫn đến chỗ làm triệt tiêu động lực của sự phát triển kinh tế.
Phân phối lợi ích một cách cơng bằng là yếu tố kích thích trực tiếp các chủ
thể tích cực tham gia vào những hoạt động cống hiến, đóng góp để thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế - xã hội. Nói cách khác, nếu thước đo cơng bằng xã hội
phù hợp với lợi ích chung của xã hội - lợi ích được cấu thành từ những nhân tố chủ
đạo của sự phát triển kinh tế - xã hội, sẽ góp phần rất quan trọng trong việc huy
động mọi nguồn lực cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Cơng bằng xã hội cịn
là điều kiện cho mỗi cá nhân phát huy cao nhất năng lực của mình, phát triển ngày
càng tồn diện và thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ.
1.1.1.2. Nguyên tắc công bằng trong khai thác nghêu tự nhiên
Hiện nay, qua nghiên cứu chưa thấy có quy định riêng hay một quy định cụ
thể nào về nguyên tắc công bằng trong khai thác nghêu tự nhiên. Tuy nhiên, đã có
những quy định liên quan đến công tác quản lý, khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy

sản nói chung (trong đó có nguồn lợi nghêu tự nhiên), cụ thể là các quy định về
đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản và quy chế quản lý khu bảo tồn biển.
Việc đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản được quy định tại Điều
10 của Luật Thủy sản sửa đổi năm 2017. Quy định này nhằm tạo cơ sở pháp lý để
Nhà nước giao quyền quản lý cho tổ chức cộng đồng trong bảo vệ nguồn lợi thủy
sản - một phương thức quản lý mới được nhiều quốc gia tiếp cận để quản lý hoạt
động thủy sản đặc biệt trong hoạt động quản lý nguồn lợi thủy sản. Theo đó, người
dân, Hội, Hiệp hội… tham gia cùng với chính quyền cơ sở quản lý hoạt động bảo
vệ nguồn lợi thủy sản, đồng thời nâng cao ý thức và trách nhiệm của người dân

8


Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn

trong hoạt động bảo vệ nguồn lợi thủy sản, từng bước thực hiện chủ trương xã hội
hóa, tăng cường vai trị, trách nhiệm của cộng đồng trong quản lý hoạt động bảo
vệ, khai thác, phân phối nguồn lợi thủy sản, là giải pháp hữu hiệu giảm xung đột
lợi ích trong cộng đồng và góp phần phát triển bền vững. Có thể thấy, đây là lần
đầu tiên khái niệm đồng quản lý được quy định trong Luật Thủy sản sửa đổi, ghi
nhận và khuyến khích các tổ chức cộng đồng tham gia, đó là kết quả của hàng chục
năm thí điểm, rút kinh nghiệm nhằm ngày một hoàn thiện các phương thức quản
lý và bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
1.1.2. Phát triển bền vững
1.1.2.1. Khái niệm về phát triển bền vững
Thuật ngữ “phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong
ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên
và Tài nguyên thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: “Sự phát
triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà cịn phải tơn
trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái

học”. Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987, nhờ Báo cáo
Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common Futur) của Ủy ban Môi trường và
Phát triển thế giới - WCED (nay là Ủy Ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: Phát
triển bền vững là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà
không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
tương lai... Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh
tế hiệu quả, xã hội cơng bằng, văn hóa và con người phát triển, mơi trường được
bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà
cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung
hịa 5 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - văn hóa - con người - mơi trường. Sau đó,
năm 1992, tại Rio de Janeiro, các đại biểu tham gia Hội nghị về Môi trường và
Phát triển của Liên hiệp quốc đã xác nhận lại khái niệm này và đã gửi đi một thông
điệp rõ ràng tới tất cả các cấp của các chính phủ về sự cấp bách trong việc đẩy
mạnh sự hòa hợp kinh tế, phát triển xã hội cùng với bảo vệ môi trường.
Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (còn gọi
là Hội nghị Rio+10 hay Hội nghị thượng đỉnh Johannesburg) nhóm họp tại
Johannesburg, Cộng hòa Nam Phi với sự tham gia của các nhà lãnh đạo cũng như
các chuyên gia về kinh tế, xã hội và môi trường của hơn 170 quốc gia đã tổng kết
lại kế hoạch hành động về phát triển bền vững 10 năm qua và đưa ra các quyết

9


Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn

sách liên quan tới các vấn đề về nước, năng lượng, sức khỏe, nông nghiệp và sự
đa dạng sinh thái. Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tại
Johannesburg, Nam Phi là dịp cho các bên tham gia nhìn lại những việc đã làm 10
năm qua theo phương hướng mà Tuyên ngôn Rio và Chương trình Nghị sự 21 đã
vạch ra, tiếp tục tiến hành với một số mục tiêu được ưu tiên. Những mục tiêu này

bao gồm xóa đói nghèo, phát triển những sản phẩm tái sinh hoặc thân thiện với
môi trường nhằm thay thế các sản phẩm gây ô nhiễm, bảo vệ và quản lý các nguồn
tài nguyên thiên nhiên. Hội nghị cũng đề cập tới chủ đề toàn cầu hóa gắn với các
vấn đề liên quan tới sức khỏe và phát triển. Các đại diện của các quốc gia tham gia
hội nghị cũng cam kết phát triển chiến lược về phát triển bền vững tại mỗi quốc
gia trước năm 2005. Việt Nam cũng đã cam kết và bắt tay vào hành động với Dự
án VIE/01/021 “Hỗ trợ xây dựng và thực hiện Chương trình Nghị sự 21 của Việt
Nam”.
Như vậy, khái niệm “Phát triển bền vững” được đề cập trong báo cáo
Brundtland với một nội hàm rộng, nó khơng chỉ là nỗ lực nhằm hịa giải kinh tế và
mơi trường, hay thậm chí phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ mơi trường. Nội
dung khái niệm cịn bao hàm những khía cạnh chính trị, xã hội, đặc biệt là bình
đẳng, cơng bằng xã hội. Với ý nghĩa này, nó được xem là “tiếng chng” hay nói
cách khác là “tấm biển hiệu” cảnh báo hành vi của loài người trong thế giới đương
đại. Kể từ khi khái niệm này xuất hiện, nó đã gây được sự chú ý và thu hút sự quan
tâm của toàn nhân loại (các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ, đảng phái chính
trị, các nhà tư tưởng, các phong trào xã hội và đặc biệt là giới khoa học).
1.1.2.2. Nguyên tắc phát triển bền vững nguồn lợi nghêu tự nhiên
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X
về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 xác định: “… phấn đấu để nước ta trở
thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền
quốc gia trên biển, góp phần giữ vững ổn định và phát triển đất nước; kết hợp chặt
chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ mơi
trường; có chính sách hấp dẫn nhằm thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế
biển…; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống của
nhân dân vùng biển và ven biển”.
Tại Quyết định số 1445/2012/QĐ-TTg về “Quy hoạch tổng thể phát triển
ngành thủy sản đến năm 2020” của Thủ tướng Chính phủ cũng nêu: “thủy sản phải
phấn đấu trở thành một ngành sản xuất hàng hoá lớn, tiếp tục phát triển vừa nhanh


10


Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn

vừa bền vững”. Điều này là hết sức khó khăn, vì cùng lúc phải phấn đấu trở thành
một ngành kinh tế có sức cạnh tranh cao, vừa phải bảo đảm phát triển bền vững.
Trên cơ sở các nghị quyết và quyết định nói trên, quan điểm chung về phát
triển của ngành thủy sản là: nguồn lợi thuỷ sản phải được sử dụng lâu dài để vừa
thoả mãn được nhu cầu tăng thị phần xuất khẩu và mức tiêu thụ thuỷ sản nội địa
trước mắt, vừa duy trì được nguồn lợi cho các kế hoạch phát triển kinh tế thuỷ sản
trong tương lai và cho các thế hệ mai sau. Điều đó cũng là nguyên tắc phát triển
bền vững đối với nguồn lợi nghêu tự nhiên và vấn đề này có thể hiểu theo các khía
cạnh cụ thể, đó là: Duy trì chất lượng mơi trường và bảo toàn chức năng của các
hệ thống sinh thái có tầm quan trọng quyết định đối với sự phát triển ngành thuỷ
sản nói chung và nguồn lợi nghêu tự nhiên nói riêng, ở thời điểm hiện nay và trong
tương lai; Phát triển nghề nuôi nghêu thật hiệu quả, bảo đảm lợi ích lâu dài và có
trách nhiệm mà nước ta đã cam kết với cộng đồng quốc tế về các tiêu chí của ngành
thủy sản nói chung, nghêu tự nhiên nói riêng; Bảo đảm lợi ích của các cộng đồng
dân cư - những người có quyền hưởng thụ nguồn lợi nghêu tự nhiên, góp phần
xố đói giảm nghèo cho ngư dân; Tối ưu hoá việc sử dụng đa mục tiêu các hệ
thống tài nguyên biển và đất ngập nước liên quan tới hoạt động nuôi, quản lý, khai
thác nghêu tự nhiên, giảm thiểu mâu thuẫn lợi ích và các tác động của các ngành
khác đến tính bền vững của nguồn lợi nghêu tự nhiên; Tăng cường tính cạnh tranh
của nghêu tự nhiên với các sản phẩm thủy sản, góp phần bảo đảm an ninh thực
phẩm cho đất nước nói chung và tỉnh Bến Tre nói riêng, đáp ứng nhu cầu của thị
trường tiêu thụ sản phẩm nghêu.
Để bảo vệ nguồn lợi thủy sản nói chung, nghêu tự nhiên nói riêng, góp phần
phát triển kinh tế -xã hội. Điều tất yếu phải đặc biệt chú trọng đến công tác bảo vệ
mơi trường, trong đó có mơi trường ven bờ biển; cơng tác kiểm sốt mơi trường

phải phát huy được hiệu quả, để góp phần làm cho ngành ni thủy sản nói chung,
nghêu tự nhiên nói riêng phát triển bền vững cũng như cung cấp sản phẩm sạch
phục vụ đời sống con người. Muốn làm được những điều đó, cần phải quam tâm
làm tốt các vấn đề như:
Dựa vào cộng đồng: Tổ chức và cá nhân những người nuôi nghêu phải xây
dựng nội quy đánh bắt trong vùng nhằm đảm bảo khai thác không cạn kiệt; hàng
năm, không khai thác hết lượng nghêu hiện có (chỉ nên khai thác khoảng 80%),
mà phải giữ lại một phần để duy trì sản lượng và khả năng tái tạo nguồn lợi hiệu
quả. Thực hiện tốt công tác bảo tồn và phát triển bền vững nguồn lợi thủy sản cùng

11


Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn

với sự hỗ trợ tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng ngư dân; tổ chức tuyên truyền,
đào tạo nâng cao ý thức của cộng đồng trước những tác động của môi trường đến
nguồn lợi nghêu tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Ngư dân tự giác loại bỏ các
phương tiện cơ giới trong khai thác, hạn chế hủy diệt nguồn lợi nghêu tự nhiên.
Có thể nói rằng, vấn đề bảo vệ mơi trường và nguồn lợi giống không chỉ là nguyên
tắc trong sản xuất mà còn là yếu tố quyết định thị trường và thu nhập của cộng
đồng ngư dân. Môi trường hiện nay được hiểu ở một phạm trù rất rộng, liên quan
đến đa dạng sinh học. Đó là việc bảo tồn được tính đa dạng sinh học, bao gồm hệ
động vật thủy sinh và tất cả các hệ động thực vật cộng sinh với con giống được
nuôi hoặc đánh bắt.
Bảo tồn các hệ sinh thái quan trọng phục vụ phát triển thủy sản lâu dài. Tiến
hành xây dựng các khu bảo tồn biển cũng như bảo tồn vùng nước nội địa nhằm
không làm thoái hoá và tổn hại đến đa dạng sinh học thuỷ sinh vật. Bảo tồn nguồn
gen và các hệ sinh thái nhạy cảm. Bảo tồn các hệ sinh thái quan trọng phục vụ phát
triển thủy sản lâu dài. Đưa các vấn đề môi trường vào giai đoạn quy hoạch của quá

trình phát triển thuỷ sản, xúc tiến quản lý tổng hợp và tăng cường phối hợp liên
ngành để giảm thiểu các tác động từ ngành khác vào nguồn lợi nghêu tự nhiên.
Đẩy mạnh sản xuất sạch hơn trong các hoạt động sản xuất thủy sản; tiến hành
chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp trong khai thác thủy sản theo hướng giảm dần các
nghề tiêu tốn nhiều nhiên liệu, các nghề khai thác hủy diệt, không thân thiện với
môi trường sang các nghề tiến bộ hơn; cấp giấy phép khai thác thủy sản cho các
vùng nước và các loại nghề của các địa phương nhằm duy trì năng lực khai thác
thủy sản hợp lý... Áp dụng các công cụ giám sát kiểm sốt mơi trường trong các
hoạt động khai thác nguồn lợi nghêu tự nhiên (quan trắc cảnh báo môi trường,
đánh giá tác động mơi trường, đánh giá tính bền vững của các nghề kinh tế thủy
sản...).
Đảm bảo nguồn lợi: Từ việc xác định đúng ý nghĩa của môi trường trong
khai thác thủy sản, bằng mọi nỗ lực của mình, chính quyền các cấp và ngành chức
năng phải có giải pháp giúp cộng đồng thực hiện chiến lược nuôi trồng khai thác
nguồn lợi nghêu tự nhiên bền vững, có giải pháp bảo vệ môi trường sinh thái đa
dạng sinh học ven bờ biển và tổ chức thực hiện có hiệu quả các biện pháp vừa bảo
tồn và ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm tránh thất thốt thấp nhất nguồn lợi
nghêu tự nhiên; đồng thời, thực hiện tốt việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản và môi
trường ven bờ biển, điều quan trọng là có những giải pháp hữu hiệu hơn để vừa

12


Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn

giảm tình trạng khai thác quá mức nguồn lợi thủy sản, vừa không tác động đến
cuộc sống của ngư dân. Điều đó góp phần bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo tồn
tài nguyên thiên nhiên của địa phương trong tương lai.
Năm 2009, con nghêu Bến Tre được Quỹ bảo tồn thiên nhiên thế giới
(WWF), Hội đồng Bảo tồn biển quốc tế (MSC) cấp chứng nhận MSC, chứng chỉ

MSC có giá trị như một giấy thơng hành, đảm bảo phát triển thủy sản an tồn và
là thương hiệu bảo hộ cho các sản phẩm thủy sản Việt Nam. Khi sản phẩm được
khai thác, có bảo vệ mơi trường thì giá cả bán ra sẽ được tăng lên. Nghêu Bến Tre
đã trở thành biểu tượng con nghêu của Việt Nam trên thương trường quốc tế, bởi
vì nghêu có kích cỡ thương phẩm lớn, chất lượng thơm ngon, đảm bảo an toàn
thực phẩm, đặc biệt đã được Hội đồng bảo tồn biển quốc tế (Marine Stewardship
Council) cấp chứng nhận tiêu chuẩn MSC. Vì thế, nghêu thịt chẳng những được
tiêu thụ trong nước mà còn được xuất khẩu đi nhiều thị trường lớn trên thế giới
như: EU, Bắc Mỹ, Hàn Quốc,…mang về giá trị lớn ngoại tệ. Để bảo vệ và phát
triển con nghêu bền vững hơn nữa, trong thời gian tới cần tập trung tiếp tục duy trì
chứng nhận MSC cho con nghêu Bến Tre đảm bảo phát triển ổn định và bền vững;
hằng năm, đều có các khuyến cáo về kích cỡ, thời điểm khai thác đối với Hợp tác
xã nghêu, tăng cường quản lý khai thác nghêu giống tại các Hợp tác xã; phối hợp
với các viện, trường xây dựng các mơ hình ni nghêu bền vững, hạn chế tình
trạng nghêu chết xảy ra hàng loạt như những năm trước đây.
1.2. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển bền vững
và phân phối nguồn lợi nghêu tự nhiên
Phát triển bền vững là khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát triển về
mọi mặt mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Khái niệm
này hiện đang là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia
sẽ dựa vào đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa... riêng để hoạch định
chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó.
1.2.1. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển bền
vững
Tuy quan điểm phát triển nhanh và bền vững mới được chính thức cơng bố
gần đây, nhưng tư tưởng của nó được thể hiện xuyên suốt trong đường lối phát
triển của Việt Nam. Cụ thể là, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (năm 1951) và
lần thứ VI (năm 1986) của Đảng đã đặt ra mục tiêu: “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến
vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”.


13


Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) của Đảng đã thông qua
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1991 - 2000, nhấn mạnh: “Tăng
trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa
và bảo vệ mơi trường”; theo đó, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng
Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 187-CT về việc triển khai thực hiện kế
hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững giai đoạn 1991 - 2000.
Ngày 25 tháng 6 năm 1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 36-CT/TW về
“Tăng cường công tác bảo vệ mơi trường trong thời kỳ cơng nghiệp hóa và hiện
đại hóa đất nước”.
Tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII, Đảng tiếp tục khẳng định:
“Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) và chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội chỉ rõ: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững,
tăng trưởng đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”.
Đồng thời, qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII quan
điểm trên tiếp tục được khẳng định và trở thành những định hướng chủ trương,
chính sách quan trọng về phát triển bền vững cho các ngành, các cấp (trong đó có
ngành nơng nghiệp - ni trồng thủy sản). Đặc biệt, ngày 17 tháng 8 năm 2004,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 153/2004/QĐ-TTg về định hướng
chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (VA21Vietnam Angeda 21) - Đây là
văn kiện khung, thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước nhằm thực
hiện phát triển bền vững ở Việt Nam trong thế kỷ XXI. Theo đó, quan điểm tổng
quát về phát triển bền vững của Đảng và Nhà nước ta đó là: “Phát triển bền vững
là sự phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ cao liên tục trong thời gian dài dựa trên

việc khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, nhưng phải bảo đảm sự cân
bằng và bảo vệ môi trường sinh thái, nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội hiện tại nhưng
không làm tổn hại đến thế hệ tương lai”.
Có thể khẳng định rằng, phát triển bền vững là một trong những mục tiêu
thiên niên kỷ của thế giới và cũng là mục tiêu hàng đầu cho phát triển của Việt
Nam. Việc xác định nguyên tắc phát triển bền vững nói chung và việc xác định
bền vững trong ni trồng thủy sản nói riêng là cơ sở quan trọng cho những bước
tiếp theo của ngành nông nghiệp nước ta. Tuy nhiên, phát triển bền vững không
phải dễ dàng đạt được trong thực tế, vì yếu tố phát triển ln thay đổi, thậm chí

14


Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn

thay đổi rất nhanh so với khả năng điều chỉnh của con người và các chủ thể quản
lý. Do vậy, phát triển bền vững không chỉ là mục tiêu mong đợi mà còn là nhu cầu
và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, của các ngành
kinh tế, vùng lãnh thổ và các địa phương. Trong đó, phát triển bền vững sẽ tập
trung vào các vấn đề chính, đó là: Phát triển kinh tế để cải thiện chất lượng cuộc
sống con người (cuộc sống lành mạnh và hiệu quả trong sự hài hoà với thiên
nhiên); Phát triển phù hợp về mặt môi trường (sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên, bảo vệ các quá trình sinh thái quan trọng, các hệ thống hỗ trợ cuộc sống con
người và đa dạng sinh học); Phát triển công bằng trong phân phối lợi ích từ sự phát
triển (trong xã hội, giữa các thế hệ, giữa các quốc gia…).
Như vậy, tính bền vững trong các hoạt động thủy sản (trong đó có nghêu tự
nhiên) chính là thước đo về mức cân bằng giữa phúc lợi kinh tế, xã hội và môi
trường; độ đo về trách nhiệm của các thế hệ hôm nay đối với các thế hệ mai sau.
Có thể nói, nhìn từ góc độ mơi trường, thủy sản “vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm”;
từ góc độ kinh tế, thủy sản “vừa đem lại hiệu quả kinh tế lớn, vừa chịu rủi ro cao”

và từ góc độ xã hội, thủy sản “vừa là cơng cụ xóa đói giảm nghèo hữu hiệu, vừa
tác động phân hoá giàu nghèo nhanh”. Cho nên, phát triển thủy sản bền vững cũng
chính là triển khai giải quyết đồng bộ ba mảng vấn đề: người dân tham gia hoạt
động thủy sản (xã hội), ngư nghiệp (kinh tế thủy sản) và ngư trường (môi trường
và nguồn lợi thủy sản). Tiềm năng phát triển thủy sản có thể cịn rất lớn nếu cơ sở
nguồn lợi và các hoạt động sản xuất thủy sản được quản lý và điều hành theo hướng
hiệu quả và bền vững.
1.2.2. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về khai thác, phân
phối nguồn lợi nghêu tự nhiên để phát triển bền vững
1.2.2.1. Chủ trương, chính sách của Trung ương
Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09 tháng 02 năm 2007 của Hội nghị lần thứ
tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về chiến lược biển Việt Nam đến
năm 2020 xác định: “… phấn đấu để nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển,
giàu lên từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển, góp phần giữ
vững ổn định và phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã
hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ mơi trường; có chính sách hấp
dẫn nhằm thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế biển…; giải quyết tốt các
vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven
biển”.

15


Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn

Ngày 17 tháng 8 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 153/2004/QĐ-TTg về Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam
(Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam). Tại Phần 2 của Chương trình đã xác
định rõ: Thủy sản là một trong những ngành kinh tế được xác định cần phải ưu tiên
nhằm phát triển bền vững. Tại Quyết định số 1445/2012/QĐ-TTg về “Quy hoạch

tổng thể phát triển ngành thủy sản đến năm 2020” của Thủ tướng Chính phủ cũng
nêu: “thủy sản phải phấn đấu trở thành một ngành sản xuất hàng hóa lớn, tiếp tục
phát triển vừa nhanh vừa bền vững”.
Trên cơ sở các nghị quyết và quyết định nói trên, quan điểm chung về quản
lý, khai thác thủy sản (có nghêu tự nhiên) để phát triển bền vững là: nguồn lợi thủy
sản phải được sử dụng lâu dài để vừa thỏa mãn được nhu cầu trước mắt, vừa duy
trì được nguồn lợi cho các kế hoạch phát triển kinh tế thủy sản trong tương lai và
cho các thế hệ mai sau. Theo đó phải: Duy trì chất lượng mơi trường và bảo tồn
chức năng của các hệ thống sinh thái có tầm quan trọng quyết định đối với sự phát
triển ngành thủy sản hiện nay và trong tương lai; Phát triển một ngành kinh tế thủy
sản hiệu quả, bảo đảm lợi ích lâu dài và có trách nhiệm mà nước ta đã cam kết với
cộng đồng quốc tế; Bảo đảm lợi ích của các cộng đồng dân cư - những người có
quyền hưởng dụng nguồn lợi thủy sản, góp phần xố đói giảm nghèo cho những
người tham gia kinh tế thủy sản, cân bằng hưởng dụng nguồn lợi giữa các thế hệ;
Tối ưu hóa việc sử dụng đa mục tiêu các hệ thống tài nguyên biển và đất ngập
nước liên quan tới thủy sản, giảm thiểu mâu thuẫn lợi ích và các tác động của các
ngành khác đến tính bền vững của nguồn lợi thủy sản; Tăng cường tính cạnh tranh
của các sản phẩm thủy sản, góp phần bảo đảm an ninh thực phẩm, đáp ứng nhu
cầu của thị trường tiêu thụ sản phẩm thủy sản.
1.2.2.2. Chủ trương, chính sách của địa phương - tỉnh Bến Tre
Quán triệt những chủ trương của Đảng và Chính phủ, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân
dân tỉnh Bến Tre đã ban hành chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 09NQ/TW ngày 09 tháng 02 năm 2007 của Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khóa X) về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, xác định rõ mục
tiêu và định hướng những nhiệm vụ trọng tâm cho ngành thủy sản tỉnh nhà phát
triển trong thời gian tới phù hợp với điều kiện của địa phương. Về chính sách: Ủy
ban nhân dân tỉnh đã quyết định các chính sách về giao đất, giao rừng cho các Hợp
tác xã thủy sản quản lý, khai thác và ban hành cơ chế phân phối lợi nhuận, nâng
cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng, ban hành các quyết định về quản lý và

16



Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn

khai thác có chú ý yếu tố bảo tồn nguồn lợi, bảo vệ môi trường và môi sinh…; Các
ngành chức năng phối hợp cùng Ủy ban nhân dân các huyện tham mưu cho Ủy
ban nhân dân tỉnh xây dựng các chính sách, chủ trương phù hợp với yêu cầu bảo
vệ và tái tạo nguồn lợi nghêu tự nhiên, môi trường, môi sinh và phát triển của cộng
đồng (hướng dẫn áp dụng các cơ chế quản lý, nhất là cơ chế đồng quản lý; hướng
dẫn, tập huấn về nghiệp vụ chun mơn quản lý kiểm sốt thu hoạch, quản lý bệnh,
quản lý môi trường, quản lý tài chính và thực hiện các chính sách khuyến ngư, hỗ
trợ thiên tai…); Ủy ban nhân dân các xã tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực
hiện chủ trương, chính sách Nhà nước đối với các Hợp tác xã, ổn định tình hình
trật tự xã hội, thực hiện cơ chế đồng quản lý nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm,
bảo vệ quyền lợi hợp pháp và nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng dân
cư tham gia quản lý khai thác nguồn lợi nghêu tự nhiên; Ban chủ nhiệm các Hợp
tác xã thủy sản tổ chức quản lý, khai thác nguồn lợi theo qui định pháp luật và các
văn bản hướng dẫn của các cơ quan chuyên ngành; tổ chức phân phối lợi nhuận và
quản lý lao động theo cơ chế đồng quản lý, thực hiện nhiệm vụ được phân cấp của
cơ quan chuyên ngành và đảm bảo nguyên tắc hợp pháp, công bằng, công khai,
dân chủ.

1.3. Quy định của pháp luật về việc khai thác, phân phối nguồn
lợi nghêu tự nhiên.
Liên quan đến việc khai thác, phân phối nguồn lợi nghêu tự nhiên (một
trong những nguồn lợi thủy sản), Quốc hội đã ban hành Luật Thủy sản, Luật tài
ngun và khống sản, Luật Hợp tác xã...; Chính phủ và các bộ, ngành cũng đã có
những văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề này, đây là điều kiện
thuận lợi để chính quyền địa phương và những người dân tham gia có cơ sở pháp
lý để vận dụng thực hiện trong thực tiễn.

Luật Thủy sản năm 2017 (trước đây là Luật Thủy sản năm 2004 và các Nghị
định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Thủy sản 2004), đây là văn bản pháp
luật có giá trị pháp lý cao nhất của ngành thủy sản, điều chỉnh toàn diện các lĩnh
vực hoạt động thủy sản bao gồm: Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản; Khai
thác thủy sản; Nuôi trồng thủy sản; Quản lý tàu cá và cơ sở dịch vụ hoạt động thủy
sản; Chế biến, mua bán, xuất khẩu, nhập khẩu thủy sản; Hợp tác quốc tế về hoạt
động thủy sản; Quản lý nhà nước về thủy sản… Luật Thủy sản là cơ sở pháp lý để
phân định trách nhiệm, tránh chồng chéo và có cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành
có liên quan như: giữa ngành Thủy sản với ngành Du lịch, Bộ Giao thông vận tải,
17


Luận văn UEH LLM – www.law.ueh.edu.vn

Bộ Quốc phòng…. trong thực hiện công tác quản lý, khai thác, phân phối nguồn
lợi thủy sản.
Ngoài việc áp dụng Luật Thủy sản, Luật tài ngun và khống sản, Luật
Hợp tác xã…. thì các cấp chính quyền tỉnh Bến Tre cũng đã ban hành các văn bản
quy định những vấn đề liên quan đến công tác quản lý, khai thác, phân phối nguồn
lợi nghêu tự nhiên, đó là: Nghị quyết số 01/2009/NQ-HĐND ngày 13/02/2009 của
Hội đồng nhân dân tỉnh và Quyết định số 1207/QĐ-UBND ngày 04/6/2009 của
Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành phê duyệt Đề án phát triển toàn diện 3 huyện ven
biển tỉnh Bến Tre đến năm 2020 và các Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh số
20/2010/QĐ-UBND ngày 07/7/2010 quy định về sản xuất giống, ương giống, khai
thác nghêu giống, nghêu tự nhiên và nuôi nghêu thương phẩm trên địa bàn tỉnh
Bến Tre; Quyết định số 29/2010/QĐ-UBND ngày 21/10/2010 quy định về khai
thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh Bến Tre và Quyết định số
31/2012/QĐ-UBND, ngày 22/10/2012 quy định phân công, phân cấp quản lý hoạt
động thủy sản trên địa bàn tỉnh Bến Tre… Đây là những cơ sở lý luận, căn cứ pháp
lý quan trọng để xác định chủ trương, biện pháp quản lý, khai thác, phân phối

nguồn lợi nghêu tự nhiên, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Có thể khẳng định rằng, việc áp dụng các Luật Thủy sản, Luật Hợp tác xã,
Luật tài nguyên và khoáng sản, Luật mơi trường và các nghị định của Chính phủ,
các thơng tư hướng dẫn của các Bộ quản lý chuyên ngành… đã có tác dụng nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, nhưng
đồng thời cũng chỉ ra một số quyền căn bản của tổ chức kinh tế hợp tác được vận
dụng trong quá trình sản xuất nhằm khuyến khích và bảo vệ quyền lợi của cộng
đồng.
Như vậy, từ những cơ sở lý luận nêu trên khẳng định rằng, nguồn lợi thuỷ
sản nói chung, nguồn lợi nghêu tự nhiên nói riêng là tài nguyên thuộc sở hữu toàn
dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Tổ chức, cá nhân có quyền khai thác nguồn
lợi nghêu tự nhiên theo quy định của pháp luật. Nguyên tắc hoạt động quản lý,
khai thác, phân phối nguồn lợi nghêu tự nhiên là phải bảo đảm phát triển bền vững
và có trách nhiệm. Khai thác phải gắn với bảo vệ, tái tạo và phát triển nguồn lợi
nghêu tự nhiên, gắn với bảo vệ mơi trường; đồng thời, phải thích ứng với biến đổi
khí hậu; chủ động phịng, tránh và giảm nhẹ tác hại của thiên tai, phòng chống dịch
bệnh, bảo đảm an toàn thực phẩm. Bảo đảm chia sẻ lợi ích, trách nhiệm của tổ
chức, cá nhân trong việc hưởng lợi từ việc khai thác, sử dụng nguồn lợi nghêu tự

18


×