Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Quy hoạch công nghiệp chế biến gỗ việt nam (đến năm 2015 và định hướng đến năm 2025)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.46 KB, 75 trang )

1
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
CỤC CHẾ BIẾN, THƯƠNG MẠI NÔNG LÂM THỦY SẢN VÀ NGHỀ MUỐI
BÁO CÁO TỔNG HỢP
QUY HOẠCH
CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN GỖ VIỆT NAM
(ĐẾN NĂM 2015 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2025)
Chủ đầu tư
Cục Chế biến, Thương mại
nông lâm thủy sản và nghề muối
Đơn vị tư vấn
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam
Hà Nội – Năm 2010
Dự thảo
2
MỞ ĐẦU
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA QUY HOẠCH
Công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong 10 năm trở
lại đây. Các doanh nghiệp chế biến gỗ đang hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất
đồ gỗ nội thất, ngoại thất và đồ gỗ mỹ nghệ phục vụ thị trường trong nước và xuất
khẩu. Sản phẩm gỗ của Việt Nam đã có mặt trên thị trường của 120 quốc gia
thông qua hơn gần 1.000 doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp và gián tiếp. Những thị
trường lớn của Việt Nam là Hoa Kỳ (chiếm 38-41%), EU (chiếm 28-44%) và
Nhật Bản (chiếm 12-15%) thị phần giá trị sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam.
Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ đứng vị trí số một trong các mặt hàng lâm
sản xuất khẩu của nước ta. Năm 2007 đạt 2,4 tỷ USD, tăng gấp 11 lần so với năm
2000 (219 triệu USD). Theo thống kê cho thấy tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất
khẩu năm sau so với năm trước luôn đạt mức tăng xấp xỉ 500 triệu USD/năm. Kim
ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ các năm gần đây là:
- 2004: 1.154 triệu USD - 2006: 2.000 triệu USD
- 2005: 1.562 triệu USD - 2007: 2.400 triệu USD.


- 2008: 2.650 triệu USD - 2009: 2.620 triệu USD.
Tuy nhiên, cùng với sự tăng trưởng và thuận lợi của ngành, hiện nay, lĩnh
vực chế biến gỗ cũng đang gặp rất nhiều khó khăn và bộc lộ những điểm yếu kém
từ khi chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung mệnh lệnh sang cơ chế thị trường.
Những năm gần đây, ngành công nghiệp chế biến gỗ phát triển mang tính tự phát,
chưa vững chắc, thiếu quy hoạch và tầm nhìn chiến lược, tính cạnh tranh chưa
cao, sự liên kết và phân công sản xuất chưa tốt (chưa có sự chuyên môn hoá, chưa
2
có phân công sản xuất theo vùng, tiểu vùng…), chưa xây dựng được thương hiệu
trên thị trường thế giới, thiếu vốn đầu tư cho phát triển và hiện đại hoá công nghệ.
Việc cung ứng và sử dụng nguyên liệu gỗ còn bất hợp lý. Hàng năm Việt
Nam xuất khẩu một lượng lớn gỗ rừng trồng dưới dạng dăm gỗ ảnh hưởng đến Kế
hoạch phát triển nguồn nguyên liệu gỗ lớn và phát triển công nghiệp ván nhân tạo.
Trong khi đó, Việt Nam phải nhập khẩu 80% nguyên liệu gỗ để sản xuất sản phẩm
đồ mộc, kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu gỗ hàng năm tương đương khoảng
40-45% kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ. Cụ thể, năm 2005: 667 triệu USD;
năm 2006: 760 triệu USD; năm 2007: trên 1 tỷ USD; năm 2009: 1.134 triệu USD.
Nguồn nhân lực cho công nghiệp chế biến gỗ còn yếu, hiện chưa có chính
sách thu hút lao động đúng mức để ổn định sản xuất. Đội ngũ chuyên gia và công
nhân kỹ thuật chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của ngành.
Mặc dù chúng ta sản xuất đồ gỗ xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn song hiểu biết
và ý thức về thương hiệu, các tiêu chuẩn đối với sản phẩm gỗ chưa cao, đặc biệt là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp thiếu những kiến thức về luật
thương mại, đặc biệt là luật thương mại quốc tế. Năng lực cạnh tranh thị trường
kém, thiếu thông tin dẫn đến dễ bị thua thiệt khi xảy ra tranh chấp quốc tế, bị chèn
ép trong các khâu mua, bán…
Trong cuộc cạnh tranh mạnh mẽ của ngành chế biến gỗ Việt Nam trên thị
trường chế biến gỗ thế giới hiện nay, sau hội nhập WTO, ngành chế biến gỗ Việt
Nam đã bộc lộ nhiều yếu kém và hạn chế về mẫu mã, chất lượng, thương hiệu,
pháp luật thương mại quốc tế, tiêu chuẩn, chứng chỉ quốc tế, thương mại điện tử…

v.v. Đó là chưa kể đến những cạnh tranh (kể cả cạnh tranh không lành mạnh)
trong nội bộ các doanh nghiệp trong nước, cũng là một trong số các nguyên nhân
làm cho các doanh nghiệp Việt Nam chỉ gia công sản phẩm gỗ xuất khẩu mà
không mang thương hiệu của mình trên thị trường quốc tế.
3
Xuất phát từ thực tế trên đây, việc xây dựng Quy hochj Công nghiệp chế biến
gỗ là hết sức cần thiết Quy hoạch này là cơ sở để góp phần giải quyết những yếu
kém, khó khăn thách thức của công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam và định hướng
cho công nghiệp chế biến gỗ nước ta phát triển một cách ổn định và bền vững.
II. CĂN CỨ XÂY DỰNG QUY HOẠCH
- Quyết định số 20/2008/QĐ-BNN ngày 28/01/2008 của Bộ trưởng Bộ Nông
nghiệp và PTNT quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thuỷ sản và nghề muối;
- Chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn về việc
chuẩn bị các dự án trong kế hoạch năm 2009 trong Quyết định 2511/BNN-KH
ngày 20/8/2008;
- Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020 được phê
duyệt tại Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007;
- Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07/9/2006 của Chính phủ về lập, phê
duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội;
- Nghị định số 04/2008/NĐ-CP ngày 11/01/2008 về việc Sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 92/2006/NĐ-CP;
- Quyết định số 1564/QĐ-BNN-KH ngày 31/5/2006 của Bộ Nông nghiệp và
PTNT về Ban hành Quy định tạm thời về quản lý quy hoạch ngành công nghiệp
và PTNT.
- Công văn số 4045/BKH-TH ngày 11/6/2007 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về
khung hướng dẫn xây dựng kế hoạch phát triển Kinh tế - Xã hội năm 2008;
- Quyết định 281/2007/QĐ-BKH ngày 26/3/2007 về ban hành định mức chi
phí cho lập, thẩm định quy hoạch và điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội, quy hoạch ngành và quy hoạch sản phẩm chủ yếu;

- Căn cứ yêu cầu thực tế của ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam.
4
III. MỤC TIÊU CHUNG
Xây dựng quy hoạch tổng thể và định hướng phát triển công nghiệp chế biến
gỗ Việt Nam trên phạm vi cả nước đến năm 2015 và định hướng (tầm nhìn) đến
năm 2025, phù hợp với chiến lược phát triển ngành và phù hợp với chiến lược
phát triển quốc gia trong nền kinh tế thị trường.
5
Phần thứ nhất
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN GỖ
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ NGUỒN NGUYÊN LIỆU GỖ
1.1. Vị trí địa lý
Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, phía Bắc giáp Trung
Quốc, phía Tây giáp Lào, Campuchia, phía Đông và Nam trông ra biển Đông và
Thái Bình Dương với chiều dài bờ biển tới 3.260 km, từ Móng Cái ở phía Bắc đến
Hà Tiên ở phía Tây Nam. Chính vì vậy, Việt Nam có vị trí trí địa lý rất thuận tiện
trong lưu thông hàng hóa với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới cả
bằng đường bộ, đường hàng không và đặc biệt bằng đường biển. Với bờ biển chạy
dài suốt chiều dọc đất nước, có nhiều hải cảng lớn phân bố ở cả ba miền, như:
cảng Hải Phòng, cảng Đà Nẵng, cảng Quy Nhơn (Bình Định), cảng Sài Gòn (TP.
Hồ Chí Minh)… là điều kiện thuận cho xuất nhập khẩu hàng hóa nói chung,
nguyên liệu gỗ và sản phẩm gỗ nói riêng.
1.2. Khả năng đáp ứng nguồn nguyên liệu gỗ
Hiện nay, cùng với chủ trương hạn chế khai thác gỗ rừng tự nhiên, ngành
lâm nghiệp đã và đang thúc đẩy chương trình trồng rừng nguyên liệu phục vụ
công nghiệp chế biến. Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho chế biến,
hiện nay nhà nước đang tạo điều kiện thông thoáng cho phép nhập khẩu nguyên
liệu gỗ. Mặc dù có tiềm năng về nguyên liệu gỗ nhưng hiện tại và khoảng 10 năm
tiếp theo, Việt Nam vẫn phải tiếp tục nhập khẩu nguyên liệu gỗ phục vụ chế biến.

6
II. BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI
2.1. Xu thế của thế giới tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội trong nước
- Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, hội nhập kinh tế là tất yếu và mở
rộng ra hầu hết các lĩnh vực, tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều
yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn thách thức lớn cho các quốc gia. Cạnh tranh
kinh tế - thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường,
nguồn vốn, công nghệ... giữa các nước ngày càng gay gắt. Khoa học và công
nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, tiếp tục phát triển nhảy vọt, thúc đẩy sự hình
thành nền kinh tế tri thức đã tác động nhiều mặt và làm biến đổi sâu sắc các lĩnh
vực về đời sống xã hội của tất cả các quốc gia;
- Hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế chung trong khu vực và quốc tế.
Những vấn đề toàn cầu như dân số; môi trường; an ninh tài chính, lương thực;
bệnh tật… trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Nhu cầu hợp tác phát triển tăng lên,
chi phối ngay từ đầu sự lựa chọn chiến lược phát triển của tất cả các ngành kinh tế
kỹ thuật trong nước, trong đó bao gồm công nghiệp chế biến gỗ. Việc xây dựng
tuyến giao thông xuyên Á và hành lang kinh tế nối vùng Bắc Việt Nam với Tây
Nam Trung Quốc sẽ tạo nhiều cơ hội cho phát triển sản xuất, chế biến và thương
mại nông lâm thủy sản;
- Đối với các dòng vốn nước ngoài: xu thế chung, vốn ODA sẽ theo chiều
hướng giảm đi, vốn FDI sẽ tăng lên, hướng tới những vùng lãnh thổ có môi trường
đầu tư thuận lợi và các ngành sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao;
Những xu thế phát triển này của thế giới và khu vực sẽ có tác động mạnh mẽ
đến tình hình trong nước. Đây là những cơ hội để tạo ra bước tiến mới trong phát
triển kinh tế - xã hội nói chung và công nghiệp chế biến gỗ nói riêng.
2.2. Bối cảnh phát triển trong nước những năm qua
7
- Sau hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt nhiều thành tựu trong phát triển kinh
tế - xã hội. Mức tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5% năm. Tuy nhiên, tăng trưởng
kinh tế chưa thực sự vững chắc, chất lượng và hiệu quả tăng trưởng còn thấp;

- Sản xuất công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao, tăng bình quân 15,7%/
năm, riêng khu vực chế biến lâm sản gần đây đã có sự khởi sắc, kim ngạch xuất
khẩu sản phẩm gỗ tăng nhanh trong vòng 10 năm qua. Những cải cách trong nông
nghiệp và nông thôn đã giúp tăng nhanh giá trị sản xuất, đưa Việt Nam trở thành
một trong các nước xuất khẩu hàng đầu trên thế giới về gạo, cà phê, hạt tiêu... Tuy
nhiên, tốc độ đổi mới công nghệ chậm và năng lực cạnh tranh thấp; sử dụng đất
đai trong nông lâm nghiệp còn chưa hợp lý, năng suất chất lượng thấp, chuyển
dịch cơ cấu sản xuất và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn
chậm; khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành cơ sở và động lực cho phát
triển sản xuất nông, lâm, thủy sản;
- Về mặt xã hội, đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, mức sống của người
dân được cải thiện rõ rệt, tình trạng nghèo đói tiếp tục giảm. Phát triển nguồn nhân
lực đã có những chuyển biến tích cực kể cả đối với vùng nông thôn miền núi. Tuy
nhiên, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao và nguy cơ tái nghèo vẫn tồn tại, đặc biệt trong
nhóm các dân tộc ít người ở các vùng sâu, vùng xa; chất lượng nguồn nhân lực
chưa đáp ứng công cuộc đổi mới;
- Nhiều chính sách và Đạo luật được ban hành hoặc sửa đổi để phù hợp hơn
với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, từng bước tạo ra môi trường pháp lý
đầy đủ, an toàn và thuận lợi hơn cho các hoạt động sản xuất và kinh doanh. Tuy
nhiên, hệ thống pháp luật kinh tế còn chưa đầy đủ và đồng bộ. Công tác cải cách
hành chính thiếu kiên quyết, bộ máy hành chính chậm đổi mới, kém hiệu lực và
hiệu quả, đội ngũ công chức còn yếu kém về năng lực và phẩm chất;
8
- Hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều tiến triển quan trọng. Tổng kim ngạch
xuất khẩu tăng nhanh, trên 16%/năm. Chính sách tự do hoá thương mại đã tạo
động lực khuyến khích các doanh nghiệp trong, ngoài nước tham gia trực tiếp vào
các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, bao gồm cả gỗ và lâm sản ngoài gỗ.
Việc tham gia và thực hiện các cam kết, công ước quốc tế liên quan đến lâm
nghiệp nói chung, thương mại lâm sản nói riêng cũng như tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế đầy đủ hơn... đã và đang tạo nhiều điều kiện thuận lợi nhưng cũng nảy

sinh không ít thách thức cho các doanh nghiệp nông, lâm nghiệp trong cạnh tranh
trên thị trường thế giới và ngay cả thị trường nội địa.
Chiến lược phát triển lâm nghiệp đang được triển khai mạnh mẽ, đầy đủ và sâu
rộng hơn trong giai đoạn mới là nền tảng thuận lợi để thực hiện Quy hoạch công
nghiệp chế biến gỗ Việt Nam.
2.3. Nguồn nhân lực và Chất lượng lao động.
Theo các chuyên gia về nhân lực, nguồn nhân lực ở Việt Nam được đánh giá
là rất dồi dào nhưng lại yếu về chất lượng. Lao động ở Việt Nam được đánh giá là
khéo léo, thông minh, sáng tạo, tiếp thu nhanh những kỹ thuật và công nghệ hiện
đại được chuyển giao từ bên ngoài vào, nhưng thiếu tính chuyên nghiệp. Tính từ
năm 2001 đến 2008 có khoảng trên 10 triệu người được đào tạo trong tổng số gần
45 triệu người trong độ tuổi lao động- tức khoảng 25% “lao động qua đào tạo”.
Riêng đối với khu vực nông thôn, trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật
của lao động hiện nay thấp hơn so với mặt bằng chung của cả nước. Trên 85% số
lao động ở nông thôn chưa từng qua trường lớp đào tạo chuyên môn kỹ thuật nào,
khoảng 18,9% số lao động nông thôn có trình độ văn hóa tiểu học. Về thể lực của
lao động nông thôn ở độ tuổi 20 -24, thống kê năm 2008 cho thấy, chỉ có 75% số
lao động có thể lực bình thường, 23,6% gầy, 1,4% thừa cân.
9
Theo đánh giá của các nhà kinh tế năm 2008 yếu tố lao động của Việt
Nam tham gia vào tăng trưởng nền kinh tế chiếm khoảng 20%, yếu tố vốn
chiếm khoảng 57,7%, và các yếu tố khác chiếm 22,3%.
10
Phần thứ hai
HIỆN TRẠNG CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN GỖ VIỆT NAM
II. TÌNH HÌNH CUNG ỨNG NGUYÊN LIỆU GỖ
Thực hiện chủ trương đóng cửa rừng tự nhiên, mỗi năm Việt Nam chỉ khai
thác khoảng 200 nghìn m
3
gỗ rừng tự nhiên. Để cung cấp nguồn nguyên liệu gỗ

cho chế biến, ngành lâm nghiệp đã thực hiện chương trình trồng mới 5 triệu ha
rừng.
Theo Quyết định số 2140/QĐ-BNN-TCLN ngày 9/8/2010 của Bộ trưởng
Bộ NN&PTNT về việc công bố hiện trạng rừng năm 2009, tính đến ngày
31/12/2009, tổng diện tích rừng và rừng mới trồng toàn quốc là 13,258 triệu ha
(độ che phủ rừng 39,1%), trong đó có 10,339 triệu ha rừng tự nhiên và 2,919 triệu
ha rừng trồng và diện tích rừng mới trồng. Diện tích rừng trồng là rừng sản xuất là
2,141 triệu ha.
Đến nay, trữ lượng gỗ rừng trồng đạt khoảng 60 triệu m
3
, sản lượng gỗ rừng
trồng được khai thác đạt trên 3,2 triệu m
3
/năm và khoảng 1 triệu ste củi. Đây là
nguồn nguyên liệu chủ yếu cung cấp cho công nghiệp giấy, gỗ trụ mỏ, ván nhân
tạo, dăm mảnh gỗ xuất khẩu.
Năm 2009, tổng sản lượng khai thác gỗ là 3.766.000 m
3
/4.300.000 m
3
, đạt
86% kế hoạch và tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó khai thác chính
gỗ rừng tự nhiên là 150.800 m
3
/200.000 m
3
, đạt 75,4 % kế hoạch. Khai thác gỗ
rừng trồng: 3.626.000 m
3
/4.000.000 m

3
, đạt 90,60% so với kế hoạch (Nguồn:
Tổng Cục Lâm nghiệp).
11
Năm 2009, giá trị kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu gỗ khoảng 1,134 tỷ
USD, tăng 3,56% so với cùng kỳ năm 2008.
Hiện nay, phần lớn gỗ rừng trồng (chủ yếu là Keo và Bạch đàn) được khai
thác ở độ tuổi từ 6-10 năm, đường kính nhỏ, chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu sản
xuất sản phẩm gỗ. Vì vậy, phần lớn nguyên liệu gỗ rừng trồng được dùng để sản
xuất dăm mảnh xuất khẩu, phần còn lại được sử dụng làm các sản phẩm ván nhân
tạo, gỗ xẻ xây dựng cơ bản, mộc dân dụng và sản xuất sản phẩm gỗ xuất khẩu.
Việc áp dụng công nghệ, thiết bị chế biến phù hợp gỗ rừng trồng đường
kính nhỏ như công nghệ bóc ván mỏng không trấu kẹp, công nghệ sản xuất ván
ghép thanh đã mở rộng khả năng sử dụng gỗ rừng trồng đường kính nhỏ để phục
vụ sản xuất đồ mộc. Do đó, tỷ lệ sử dụng gỗ rừng trồng trong nước cho sản xuất
đồ mộc đã ngày càng tăng lên.
Để đáp ứng nhu cầu sản xuất, xuất khẩu sản phẩm gỗ, Việt Nam đang phải
nhập khẩu khối lượng lớn nguyên liệu gỗ, khoảng 70-80% nhu cầu nguyên liệu
mỗi năm.
Theo thống kê của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, mỗi năm Việt Nam
phải nhập khẩu khoảng 1 triệu m
3
ván nhân tạo các loại, trong đó MDF chiếm
khoảng 60%. Tổng kim ngạch nhập khẩu ván nhân tạo chiếm khoảng 25% tổng
kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu gỗ.
Nguyên liệu gỗ được nhập khẩu chủ yếu từ các nước Đông Nam Á, Châu
Mỹ, Châu Phi, Châu Đại Dương và Châu Âu. Các nước xuất gỗ cho Việt Nam với
lượng lớn trong thời gian gần đây gồm Malaysia, Trung Quốc, Mỹ, Lào,
Newzilan, Braxin…
Dưới đây là tổng hợp nguồn cung cấp nguyên liệu gỗ qua các năm.

12
Danh mục Đơn
vị
tính
Năm
2000
2005 2006 2007 2008 2009 KH 2010
Sản lượng
khai thác
gỗ (*)
Nghìn
m
3
2.375,6 2.996,4 3.128,5 3.461,8 3.552,9 3.766,7 4.700
Giá trị kim
ngạch
nguyên
liệu gỗ
nhập khẩu
Triệu
USD
78 667 760 1.022 1.095 1.134 1.200
(*) Nguồn: Tổng Cục Thống kê năm 2009 (bao gồm gỗ rừng tự nhiên và gỗ rừng
trồng)
Tuy nhiên, theo số liệu của Tổng Cục Hải quan, giá trị kim ngạch xuất khẩu
dăm gỗ năm 2009 đạt 237,8 triệu USD. Như vậy, với giá xuất khẩu khoảng 100
USD/tấn dăm khô thì năm 2009 Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 2,3 triệu tấn dăm
khô, tương đương khoảng 4,5 triệu m
3
gỗ tròn (rừng trồng và cây phân tán).

II. TÌNH HÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHẾ BIẾN GỖ VÀ
CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN (Giai đoạn 2000 – 2009)
2.1. Về số lượng cơ sở và chế biến năng lực chế biến gỗ
Theo thống kê của Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thủy sản và nghề
muối và Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, hiện nay cả nước có khoảng 2500
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế biến gỗ, với công suất hoạt động tối
thiểu 200 m
3
gỗ tròn/năm.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, trong bối cảnh bùng nổ số lượng
doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp chế biến gỗ đã có những thay đổi đáng kể
13
trong vòng 10 năm qua. Năm 2000, cả nước có khoảng 1.200 doanh nghiệp chế
biến gỗ, đến 2005 có khoảng 1.500 cơ sở chế biến gỗ, đến 2007 có khoảng 2.000
cơ sở chế biến gỗ, đến 2009 có khoảng 2.500 cơ sở chế biến gỗ như đã nêu trên.
Sự phát triển công nghiệp chế biến gỗ được nhìn nhận qua việc tăng số
lượng cơ sở chế biến; tăng công suất (bao gồm việc mở rộng công suất thiết kế
của nhiều doanh nghiệp) và tăng trưởng nhanh của giá trị kim ngạch xuất khẩu.
Năng lực sản xuất công nghiệp ước đạt hơn gần 15 triệu m
3
gỗ tròn. Trong
đó năng lực của các nhà máy băm dăm mảnh khoảng 6,3 triệu m
3
gỗ tròn rừng
trồng/năm (tương đương 3,150 tấn dăm khô/năm); năng lực sản xuất ván nhân tạo
ước đạt hơn 1 triệu m
3
gỗ tròn/năm; năng lực sản xuất gỗ xẻ khoảng 3 triệu m
3


tổng công suất thiết kế sản phẩm gỗ khoảng 2 – 2,5 triệu m
3
sản phẩm.
Hiện tại, năng lực sản xuất ván nhân tạo các loại ước đạt khoảng 500.000
m
3
sản phẩm/năm, trong đó chủ yếu là ván sợi MDF, ván dăm (quy mô nhỏ), còn
lại là các sơ sở sản xuất ván dán và ván ghép thanh quy mô nhỏ. Các nhà máy sản
xuất ván dăm và ván sợi MDF hiện đang hoạt động gồm: Nhà máy ván sợi Việt
Trì: 2.000 m
3
sản phẩm/năm; Nhà máy MDF Quảng Ninh: 5.000 m
3
sản
phẩm/năm; Nhà máy MDF liên doanh Việt Trung (Nghĩa Đàn – Nghệ An): 15.000
m3 sản phẩm/năm; Nhà máy gỗ MDF COSEVCO – Quảng Trị (Công ty xây dựng
và sản xuất gỗ MDF): 60.000 m
3
sản phẩm/năm; Nhà máy MDF Gia Lai: 54.000
m
3
sản phẩm/năm).
Hiện nay một số Nhà máy MDF có quy mô lớn hơn đang được xây dựng:
tại ĐăkNông có Nhà máy MDF Long Việt và Khải Vy (tổng công suất hơn
100.000 m
3
sản phẩm/năm); tại Bình Phước có Nhà máy MDF Việt Nam và MDF
Thiên Sơn (tổng công suất khoảng 160.000 m
3
sản phẩm/năm); tại Hoà Bình có

Nhà máy MDF liên doanh của Tổng Công ty Lâm nghiệp Việt Nam với công suất
54.000 m
3
sản phẩm/năm; tại tỉnh Hà Giang một Công ty tư nhân đang lập dự án
14
đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất MDF với công suất 100.000 m
3
sản phẩm/năm;
Liên doanh giữa Tập đoàn Dongwha và Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam
đang chuẩn bị xây dựng nhà máy MDF (gọi là Công ty cổ phần MDF VRG
Dongwha) tại huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước với công suất 300.000 m
3
sản
phẩm/năm.
2.2. Cơ cấu cơ sở chế biến gỗ theo loại hình doanh nghiệp
- Số Doanh nghiệp nhà nước: 108
- Số Công ty TNHH: 401
- Số Công ty cổ phần: 189
- Số Doanh nghiệp tư nhân: 418
- Số Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: 421 (Nguồn: Bộ Kế
hoạch và đầu tư – 2008).
- Công ty liên doanh: Rất ít (số liệu không rõ)
- Hình thức khác (bao gồm cơ sở hộ gia đình): 687 cơ sở
2.3. Hiện trạng phân bố các cơ sở chế biến gỗ theo các Vùng, Tiểu Vùng
Các nhà máy chế biến gỗ, sản xuất giấy quy mô lớn được mô tả tại hình 1.
Các cơ sở chế biến gỗ có quy mô lớn tập trung chủ yếu tại các tỉnh Đông Nam Bộ,
như: Bình Dương (khoảng 370 cơ sở quy mô lớn (trong tổng số khoảng 650 cơ
sở), trong đó hơn 50% là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài); Thành phố
Hồ Chí Minh, Đồng Nai (khoảng 219 cơ sở quy mô lớn (trong tổng số 706 cơ sở),
trong đó có khoảng 50 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) và Bình Định.

Các nhà máy băm dăm mảnh gỗ nằm tập trung tại Bắc Trung Bộ; vùng
Duyên hải Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ, giáp các cảng biển nước sâu và vùng
15
Cảng
Vùng công nghiệp
rừng trồng, hoặc ở vị trí có hệ thống đường thuỷ thuận lợi, cự ly vận chuyển
khoảng 200 km.
Ngành giấy và bột giấy chủ yếu nằm ở miền Bắc và miền Nam
(Ghi chú: Giấy và bột giấy không thuộc đối tượng của Quy hoạch này).

Hình 1. Vị trí phân bố các nhà máy chế biến gỗ quy mô lớn theo các vùng
2.3.1. Tiểu Vùng Đông bắc
Tổng số cơ sở chế biến gỗ: 216, trong đó:
- 3 nhà máy sản xuất ván dăm với tổng công xuất thiết kế: 24.500 m
3
sản
phẩm/năm.
- 2 nhà máy sản xuất MDF với tổng công xuất thiết kế: 7.000 m
3
sản phẩm/
năm.
- 7 cơ sở sản xuất ván ghép thanh với tổng công xuất thiết kế: 123.000 m
3
sản phẩm/năm.
16
- 4 cơ sở sản xuất ván dán với tổng công xuất thiết kế: 8.500 m
3
sản
phẩm/năm.
- 4 nhà máy băm dăm mảnh gỗ với tổng công xuất thiết kế: 300.000 tấn

khô/năm. Các nhà máy này đều được đặt tại Quảng Ninh, nơi có Cảng Cái Lân.
2.3.2. Tiểu vùng Tây Bắc
Tổng số cơ sở chế biến gỗ: 19, trong đó:
- 2 cơ sở sản xuất ván dăm với tổng công xuất thiết kế: 3.000 m
3
sản
phẩm/năm.
- 2 cơ sở sản xuất ván ghép thanh với tổng công xuất thiết kế: 6.000 m
3
sản
phẩm/năm.
- 1 cơ sở băm dăm mảnh gỗ quy mô nhỏ, với tổng công xuất thiết kế: 5.000
tấn khô/năm.
2.3.3. Đồng bằng sông Hồng
- Tổng số cơ sở chế biến gỗ: 135, trong đó, có 4 cơ sở sản xuất ván ghép
thanh với tổng công xuất thiết kế: 4.300 sản phẩm/năm.
- Tại Hải Phòng có 01 nhà máy băm dăm mảnh gỗ với tổng công xuất thiết
kế: 100.000 tấn khô/năm.
- 201 làng nghề gỗ (và song mây, tre, trúc).
2.3.4. Vùng Bắc Trung Bộ
Tổng số cơ sở chế biến gỗ: 127, trong đó:
- 4 cơ sở sản xuất ván dăm với tổng công xuất thiết kế: 6.000 m
3
sản
phẩm/năm.
- 2 nhà máy sản xuất MDF với tổng công xuất thiết kế: 75.000 m
3
sản
phẩm/năm.
17

- 4 cơ sở sản xuất ván dán với tổng công xuất thiết kế: 2.000 m
3
sản
phẩm/năm.
- 11 nhà máy băm dăm mảnh gỗ với tổng công xuất thiết kế: 670.000 tấn
khô/năm.
2.3.5. Vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ
- Tổng số cơ sở chế biến gỗ: 221, trong đó, có 17 nhà máy băm dăm mảnh
gỗ với tổng công xuất thiết kế: 1.010.000 tấn khô/năm.
- 5 làng nghề gỗ.
2.3.6. Vùng Tây Nguyên
Tổng số cơ sở chế biến gỗ: 185, trong đó:
- 2 nhà máy sản xuất ván dăm với tổng công xuất thiết kế: 3.000 m
3
sản
phẩm/năm.
- 1 nhà máy sản xuất MDF với tổng công xuất thiết kế: 54.000 m
3
sản
phẩm/năm.
- 3 cơ sở sản xuất ván ghép thanh với tổng công xuất thiết kế: 10.000 sản m
3
phẩm/năm.
- 1 cơ sở sản xuất ván dán với tổng công xuất thiết kế: 3.000 m
3
sản
phẩm/năm.
2.3.7. Vùng Đông Nam Bộ
Tổng số cơ sở chế biến gỗ: 1.467 (trong đó 2 tỉnh Bình Dương và Đồng Nai
có khoảng 767 cơ sở quy mô nhỏ và các hộ cá thể có công suất hoạt động tối thiểu

200 m
3
gỗ tròn/năm.), trong đó:
- Tổng sản lượng ván dăm ước khoảng: 20.000 m
3
.
18
- Tổng sản lượng ván ghép thanh ước khoảng: 45.000 m
3
.
- Tổng sản lượng ván dán ước khoảng: 30.000 m
3
.
- 12 nhà máy băm dăm mảnh gỗ với tổng công xuất thiết kế: 470.000 tấn
khô/năm.
2.3.8. Vùng đồng bằng sông Cửu Long
- Tổng số cơ sở chế biến gỗ: 166
- 05 Nhà máy băm dăm mảnh gỗ với tổng công xuất thiết kế: 330.000 tấn
khô/năm.
2.4. Phân loại doanh nghiệp theo tài sản
Căn cứ quy mô vốn, cơ cấu doanh nghiệp chế biến gỗ thể hiện tại Bảng
dưới đây.
Bảng 1: Diễn biến về số lượng doanh nghiệp chế biến gỗ theo quy mô vốn
Năm
Tổng
số
doanh
nghiệp
Từ 1 tỷ
đến dưới

5 tỷ đồng
Từ 5 tỷ
đến dưới
10 tỷ
đồng
Từ 10 tỷ
đến
dưới 50
tỷ đồng
Từ 50
tỷ đến
dưới
200 tỷ
đồng
Từ 200
tỷ đến
dưới
500 tỷ
đồng
Từ 500
tỷ đồng
trở lên
2004 1093 696 211 148 33 5 0
2005 1373 863 273 190 38 10 0
2006 1613 1083 289 198 38 5 0
2007 2006 1286 397 254 50 10 2
2008 2643 1789 460 312 70 10 2
(Theo số liệu của Tổng cục Thống kê)
Ngoài các doanh nghiệp chế biến gỗ có quy mô vốn tỷ 1 tỷ đồng trở lên,
còn có các cơ sở quy mô hộ gia đình, hợp tác xã. Cũng theo số liệu của Tổng cục

19
Thông kê, tính đến năm 2008, cả nước có khoảng trên 1.700 cơ sở chế biến gỗ quy
mô siêu nhỏ có vốn nhỏ hơn 1 tỷ đồng. Các cơ sở này chủ yếu đóng tại các vùng
nông thôn, miền núi sản xuất các sản phẩm mộc phục vụ nhu cầu tiêu dùng của địa
phương.
2.5. Hiện trạng về sản phẩm và thị trường tiêu thụ
2.5.1. Thị trường
Trong những năm qua, ngành chế biến và xuất khẩu sản phẩm gỗ đã có
những bước phát triển vượt bậc, với kim ngạch xuất khẩu luôn tăng trưởng cao,
năm 2009 đạt 2,6687 tỷ USD, vượt xa mục tiêu đạt 750 triệu USD kim ngạch xuất
khẩu sản phẩm gỗ năm 2004 và đạt 2 tỷ USD năm 2010 đã được đặt ra tại Chỉ thị
số 19/2004/CT-TTg ngày 01/6/2004 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, sản
phẩm gỗ đã trở thành một trong những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Kim ngạch xuất khẩu (KNXK) sản phẩm gỗ trong những năm gần đây:
Đơn vị tính: triệu USD
Năm 1996 1998 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2008 2007 2009
Dự
kiến
2010
KNXK 61 108 219 334 435 567 1.154 1.562 1.930 2.820 2.500 2.620 >3.000
Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ sang các thị trường chính giai đoạn 2003
– 2009:
Đơn vị tính: triệu USD

m
Thị trường
2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Mỹ 115,46 318,8 566,96 744,1 930
20
EU 160,74 379,1 457,63 500,2

3
Nhật Bản 137,91 180 240,8 286,8
Thị trường xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam không ngừng được mở
rộng, nếu năm 2003 sản phẩm gỗ Việt Nam xuất khẩu đến hơn 60 quốc gia thì đến
hết năm 2006, đã có mặt tại trên 120 quốc gia. Trong đó, 3 thị trường chính chiếm
tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu lớn nhất là Hoa Kỳ (chiếm 38 – 44%), EU (chiếm 28
– 30%) và Nhật Bản (chiếm 12 – 15%). Việc tập trung vào 3 thị trường lớn này một
mặt tạo ra sức tiêu thụ lớn, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu nhưng cũng đầy những
rủi ro khi chính các thị trường này có những biến động bất lợi. Gần đây, thị trường
EU và Hoa Kỳ đã được ra những yêu cầu chứng minh nguồn gốc nguyên liệu gỗ. Vì
vậy, ngoài việc duy trì khả năng tiêu thụ trên các thị trường lớn đã có, các doanh
nghiệp Việt Nam cần đẩy mạnh phát triển các thị trường mới như: Các Quốc gia
vùng Tây Á, Khu vực Đông Âu… và quan tâm hơn đến thị trường nội địa.
Năm 2009, tuy nền kinh tế thế giới gặp khó khăn nhưng thị trường tiêu thụ
sản phẩm gỗ của Việt Nam vẫn được giữ vững, tuy giá trị kim ngạch xuất khẩu có
giảm so với năm 2008 là 7% trong khi đó: Tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước
năm 2009 so với năm 2008 giảm khoảng 9,5%.
- Năm 2003, sản phẩm gỗ của Việt Nam có mặt ở 63 quốc gia, vùng lãnh
thổ.
- Năm 2008, sản phẩm gỗ của Việt Nam đã được tiêu thụ trên 120 Quốc
gia, vùng lãnh thổ.
- Năm 2009, tuy nền kinh tế thế giới gặp khó khăn nhưng thị trường tiêu
thụ sản phẩm gỗ của Việt Nam vẫn được giữ vững, tuy giá trị kim ngạch xuất
21
khẩu có giảm so với năm 2008 là 7% trong khi đó: Tổng kim ngạch xuất khẩu của
cả nước năm 2009 so với năm 2008 giảm khoảng 9,5%.
- Ba thị trường tiêu thụ lớn sản phẩm gỗ của Việt Nam luôn được giữ vững
trong nhưng năm gần đay, đó là:
+ Hoa kỳ: Chiếm tỷ trọng 38 – 44%;
+ EU: Chiếm 28 – 30%;

+ Nhật Bản: Chiếm 12 – 15% trong tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm
gỗ của Việt Nam.
Việc tập trung vào 3 thị trường lớn này bên cạnh tạo ra sức tiêu thụ lớn,
tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu nhưng cũng đầy những rủi ro khi chính các thị
trường này có những biến động bất lợi. Vì vậy, ngoài việc duy trì khả năng tiêu
thụ trên các thị trường lớn đã có, các doanh nghiệp Việt Nam cần đẩy mạnh phát
triển các thị trường mới như: Các Quốc gia vùng Tây Á, Khu vực Đông Âu… và
quan tâm hơn đến thị trường nội địa.
2.5.2. Sản phẩm
Chủng loại sản phẩm đa dạng hơn, trước năm 2003, sản phẩm gỗ của Việt
Nam xuất khẩu sang các nước chủ yếu là ván sàn, bàn ghế ngoài trời. Đến những
năm gần đây, sản phẩm gỗ nội thất tăng trưởng mạnh và đang được các doanh
nghiệp ngày càng quan tâm hơn. Theo cách phân loại quốc tế, sản phẩm gỗ xuất
khẩu của Việt Nam chủ yếu thuộc nhóm HS 94 gồm: Ghế ngồi đệm; Ghế ngồi loại
khác; Nội thất văn phòng; Nội thất nhà bếp; Nội thất phòng ngủ và các loại khác.
Hiện có nhiều cách phân loại các sản phẩm gỗ dựa trên các quan điểm về
ngành sản xuất, theo công dụng, theo cấu tạo sản phẩm... Thực tế, sản phẩm gỗ
thường được phân thành các nhóm sau:
22
(1) Nhóm đồ gỗ mỹ nghệ
Bao gồm các sản phẩm chế biến có hàm lượng mỹ thuật cao được chế biến
từ gỗ rừng tự nhiên, gỗ nhập khẩu và gỗ rừng trồng. Đồ gỗ mỹ nghệ thường được
chế biến bằng máy móc kết hợp công nghệ thủ công như chạm, khắc, khảm sơn
mài. Đồ gỗ mỹ nghệ bao gồm các loại sản phẩm sau đây:
- Các sản phẩm sơn mài.
- Các loại tượng bằng gỗ, các sản phẩm bằng gốc và rễ cây.
- Các lọai tranh gỗ: tranh chạm khắc, tranh khảm trai, tranh ghép gỗ.
- Các sản phẩm trang trí lưu niệm, quảng cáo như: cốc, chén, đĩa, khay, thìa
(muỗng), quạt, lọ, bình cung kiếm, đế lọ, guốc bài vị, thảm hạt, chuỗi hạt, hộp các
loại, huy hiệu, biểu tượng, biểu trưng khung tranh, khung ảnh, phào mỹ nghệ,

thuyền buồm mỹ nghệ các loại, mành trang trí, giá đỡ hàng mỹ nghệ.
- Nhạc cụ, đồ chơi trẻ em, vợt cầu lông, vợt tennít, vượt bóng bàn, gậy chơi
bi-da, gậy chăn cừu, ót giầy (cái đón gót), chân tay giả, dù cán gỗ, cán dù, chổi
cán gỗ, cán chổi sơn.
- Bàn ghế giường tủ các loại, đôn kỷ, án thư, bàn trà, tủ chè, tủ chùa, tủ
đồng hồ, tủ gương, bàn thờ, tủ cao cấp, cao cấp.
- Sản phẩm gỗ mỹ nghệ kết hợp song, mây, tre, trúc, vật liệu khác.
(2) Nhóm đồ gỗ nội thất: Bao gồm các loại sản phẩm đồ mộc dùng trong
nhà như: bàn ghế các loại, giường tủ, giá kê sách, ván sàn… làm từ gỗ tự nhiên,
gỗ rừng trồng và ván nhân tạo.
(3) Nhóm đồ gỗ ngoài trời: Bao gồm các loại sản phẩm đồ mộc kiểu Âu
Châu, thường dùng để ngoài vườn như: bàn ghế, vườn, ghế băng, dù che nắng, ghế
xích đu, cầu trượt...được sản xuất từ các loại gỗ rừng trồng.
23
(4) Nhóm sản phẩm gỗ kết hợp với các loại vật liệu khác
Bao gồm các sản phẩm gỗ được chế biến kết hợp với các loại vật liệu khác
như: song mây, kim lọai, nhựa, vải, giả da... không những làm cho sản phẩm có
tính thẩm mỹ, tăng độ bền chắc... mà còn có ý nghĩa tiết kiệm gỗ.
(5) Nhóm sản phẩm gỗ ván nhân tạo
Bao gồm các sản phẩm dạng tấm được sản xuất từ nguyên liệu gỗ và vật
liệu xơ sợi, được trộn keo và dán ép trong những điều kiện áp suất, nhiệt độ và
thời gian nhất định. Các loại ván nhân tạo chủ yếu gồm: ván ghép thanh, ván dán,
ván dăm, ván sợi.
2.6. Hiện trạng lao động trong công nghiệp chế biến gỗ
Theo số liệu tổng hợp của Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thủy sản và
nghề muối và theo tính toán của các chuyên gia, hiện tại công nghiệp chế biến gỗ
đang thu hút khoảng 250.000 lao động trực tiếp và gián tiếp.
Lực lượng lao động có trình độ cao từ đại học trở lên được đào tạo chủ yếu
từ các trường Đại học Lâm nghiệp, Đại học Nông lâm Thủ Đức. Các bộ kỹ thuật
và công nhân lao động trực tiếp được đào tạo từ các trường công nhân kỹ thuật

lâm nghiệp tại Lạng Sơn, Hà Nam, Phú Yên, Đồng Nai. Hiện nay, các trường này
đã được nâng cấp thành trường Cao đằng nghề.
Với quy mô, năng lực và chất lượng đào tạo hiện có của hệ thống cơ sở đào
tạo chế biến gỗ, số lượng công nhân kỹ thuật chế biến gỗ không đủ đáp ứng nhu
cầu của công nghiệp chế biến gỗ. Vì vậy, hiện nay nhiều doanh nghiệp đang lựa
chọn hình thức đào tạo tại chỗ hoặc gửi công nhân đi đào tạo theo nhu cầu. Chỉ có
một số doanh nghiệp lớn tự thiết lập được các tổ chức đào tạo trực thuộc doanh
nghiệp. Nội dung đào tạo chủ yếu là hướng dẫn học viên (công nhân) sử dụng
24
công cụ cầm tay và một số loại máy chế biến gỗ thông dụng. Nội dung đào tạo
chuyên sâu theo từng công nghệ, từng vị trí thao tác máy còn hạn chế.
Đối với bậc đào tạo đại học, hiện tại tập trung chủ yếu vào nội dung đào tạo
kỹ sư công nghệ. Số lượng kỹ sư được đào tạo chuyên ngành thiết kế mẫu mã sản
phẩm mộc còn rất hạn chế, đồng thời nội dung chưa thật sự phù hợp nhu cầu thực
tế sản xuất.
Trên thực tế, phần lớn sản phẩm gỗ của Việt Nam được sản xuất theo đơn
đặt hàng của khách hàng nước ngoài. Vì vậy, công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam
hiện nay cơ bản được coi là một ngành gia công phục vụ thị trường thế giới.
Nguyên nhân chủ quan là do bản thân các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam
chưa thật sự đủ năng lực tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Theo đó, chính các doanh
nghiệp chưa tạo ra nhu cầu đủ mạnh để thúc đẩy phát triển đội ngũ chuyên gia
thiết kế vốn được đạo tạo chưa phù hợp thực tế như đã nêu trên đây.
Theo kết quả khảo sát doanh nghiệp chế biến gỗ phục vụ việc lập Báo cáo
Quy hoạch này, tổng số lao động của 120 doanh nghiệp là 36.890 người, trong đó,
cơ cấu và chất lượng lao động được mô tả theo Bảng x:
Bảng x: Cơ cấu và chất lượng lao động tại các doanh nghiệp khảo sát
Tình hình lao động
120
doanh
nghiệp

khảo sát
Đồng
bằng sông
Hồng và
miền núi
phía Bắc
Bắc
Trung bộ
và Duyên
hải miền
Trung
Tây
nguyên
Đông
Nam bộ,
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
Tổng số lao động 36.890 2.866 10.725 3.760 19.545
Lao động theo hợp
đồng không xác định
thời hạn (%)
37,5
33 30 48 39
25

×