Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CỦACÔNG TY CỔ PHẦN THỰC PHẨM BÁNH KẸO THỦ ĐÔ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.6 KB, 10 trang )

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CỦACÔNG TY CỔ PHẦN THỰC
PHẨM BÁNH KẸO THỦ ĐÔ
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG BÁNH KẸO VIỆT NAM
1.1. Cầu trên thị trường bánh kẹo
Bánh kẹo là sản phẩm tiêu dùng được sử dụng để đáp ứng nhu cầu dinh
dưỡng thường xuyên của người dân. Nhu cầu Bánh kẹo đặc biệt tăng trong những
ngày lễ tết, hội hè, sinh nhật, cưới hỏi, trong bất cứ cuộc hội ngộ nào. Đây không
phải là là loại sản phẩm dùng cho bữa chính mà nó thuộc nhóm đồ ăn nhẹ, ăn
nhanh, dùng điểm tâm. Với những hương vị và độ mặn ngọt khác nhau phù hợp
với nhiều lứa tuổi, đối tượng, có giá trị đơn vị sản phẩm nhỏ.
Trong một vài năm gần đây mức sống của người dân tăng cao đồng nghĩa
với sức mua tăng. Đặc biệt sức mua của người dân tăng nhanh đối với các sản
phẩm, dịch vụ thiết yếu phục vụ đời sống hàng ngày. Nhịp độ của cuộc sống ảnh
hưởng mạnh mẽ và làm thay đổi thói quen chi tiêu hàng ngày của người dân. Khi
nhịp độ cuộc sống của xã hội trở nên nhanh hơn thì người dân có xu hướng sử
dụng nhiều hơn các loại sản phẩm vừa ngon, tiện dụng, an toàn và ít tốn thời gian.
Việc người dân ở các tỉnh, thành phố quen với việc mua hàng tại các khu chợ, các
cửa hàng nhỏ lẻ đã trở thành phổ biến. Một nền kinh tế thị trường mới hình thành
với mức tăng trưởng hàng năm tăng lên như Việt Nam sẽ hứa hẹn một sức mua
ngày càng tăng đối với sản phẩm tiêu dùng nói chung và đặc biệt các mặt hàng
thực phẩm, bánh kẹo nói riêng.
1.1.1. Quy mô nhu cầu bánh kẹo
Bảng số 1: Quy mô nhu cầu trên thị trường bánh kẹo
Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005
Sản lượng toàn ngành (tấn) 126.806 149.846 171.214 207.036
Mức tiêu thụ bình quân (kg/năm) 1,59 1,87 2,14 2,59
Qua bảng trên ta thấy rằng sản lượng bánh kẹo tiêu thụ hàng năm của cả
nước là luôn tăng. Vào năm 2005 sản lượng toàn ngành là 207.206 (tấn). Mức tiêu
thụ bình quân đầu người Việt Nam là 2,59 (kg/năm). Chứng tỏ rằng nhu cầu của
người dân về bánh kẹo đã tăng lên. Tuy nhiên đây vẫn là một mức thấp so với
Trung Quốc là 4,15 (kg/năm), Anh là 14,5 (kg/năm) vào năm 2005 (theo bản báo


cáo tự bạch của Công ty Cổ phần thực phẩm bánh kẹo Thủ Đô). Việc so sánh như
trên chưa thực sự là đủ do chưa tính đến mức thu nhập bình quân đầu người và dân
số. Tuy nhiên điều này cũng hứa hẹn một điều rằng với dân số hơn 80 triệu người
và một nền kinh tế năng động, ngành bánh kẹo Việt Nam hoàn toàn có thể đạt mức
tăng trưởng cao để trở thành một trong những thị trường lớn của khu vực Châu Á-
Thái Bình Dương.
1.1.2. Cơ cấu nhu cầu
1.1.2.1. Theo khu vực địa lý
Mỗi vùng miền có nhu cầu khác nhau về sản phẩm bánh keo do có những điểm
khác biệt về trình độ văn hoá, kinh tế, xã hội, khí hậu, thời tiết. Tuy nhiên ở đây ta
không chia quá nhỏ theo khu vực địa lý, chúng ta chỉ tìm hiểu đặc trưng của ba miền
Bắc - Trung - Nam. Và nhu cầu bánh kẹo của từng miền.
Đối với thị trường Miền Bắc: Đây được coi là thị trường truyền thống, là
"nôi" văn hoá của dân tộc. Có thể nói con người ở đây tương đối bảo thủ. Để xâm
nhập được vào thị trường này các công ty bánh kẹo phải tìm cách tạo được lòng tin
với khách hàng. Nhu cầu về bánh kẹo ở thị trường này ngày càng tăng cả về số
lượng và chất lượng. Người tiêu dùng ở đây thường quan tâm nhiều tới uy tín của
nhà sản xuất đồng thời họ cũng cân nhắc rất kỹ khi lựa chọn sản phẩm về giá cả,
mầu sắc, kích cỡ, chủng loại…
Đối với thị trường Miền Trung: Người tiêu dùng ở đây quan tâm nhiều đến
độ ngọt và hình dáng của viên kẹo nhưng lại ít quan tâm đến bao bì. Hiện nay mức
sống của người dân miền Trung vẫn chưa cao, họ có nhu cầu lựa chọn những loại
sản phẩm có giá cả phải chăng.
Đối với thị trường Miền Nam: Người dân thường có khẩu vị ưa ngọt và cay.
Thích các loại kẹo có hương vị hoa quả khác nhau. Mặt khác dân cư ở đây có thu
nhập cao nhất cả nước. Vì vậy nhu cầu về bánh kẹo là nhiều đặc biệt đối với những
loại bánh kẹo phục vụ cho nhu cầu tinh thần như: những loại bánh kẹo phục vụ cho
ngày lễ tết, lễ tình yêu…
1.1.2.2. Theo loại sản phẩm
Hiện nay trên thị trường bánh kẹo tràn ngập các sản phẩm bánh kẹo phong

phú đa dạng của rất nhiều nhà cung cấp. Tuy nhiên mỗi loại sản phẩm lại phục vụ
một đối tượng khách hàng khác nhau. Do đó ở đây ta có thể chia nhu cầu của
người tiêu dùng theo loại sản phẩm là: sản phẩm cao cấp, sản phẩm trung bình và
sản phẩm thấp cấp.
Sản phẩm cao cấp: Những khách hàng có thu nhập cao, hay những khách
hàng mua sản phẩm bánh kẹo dùng vào mục đích để kính tặng người thân, tỏ lòng
biết ơn. Tuy nhiên số lượng người có nhu cầu đối với khách hàng cao cấp này
không nhiều. Ngày nay khi mức sống của người dân tăng lên. Số lượng khách hàng
này cũng tăng.
Sản phẩm trung bình: đại đa số người Việt Nam ai cũng đã từng là khách
hàng của sản phẩm này.
Sản phẩm thấp cấp: Những khách hàng có nhu cầu về sản phẩm này thường
là những khách hàng có thu nhập thấp. Họ chỉ quan tâm đến mức giá bán của sản
phẩm là bao nhiêu, có phù hợp với túi tiền của họ hay không. Tuy nhiên khách
hàng đối với những sản phẩm nay ngày càng giảm.
1.1.2.3. Theo đặc tính nhân khẩu
*Dựa vào tuổi tác:
Thị trường trẻ em: Đây là đoạn thị trường có nhu cầu sử dụng bánh kẹo cao
nhưng chưa có khả năng chi trả và bị phụ thuộc vào người lớn. Đoạn thị trường
này tương đối hấp dẫn với quy mô khách hàng lớn và sở thích tiêu dùng rất phong
phú và đa dạng. Những khách hàng nhỏ tuổi này có tác động lớn đến người có khả
năng chi trả. Mức độ tập trung của khách hàng này tương đối cao chủ yếu ở trường
học, khu phố nơi gia đình sinh sống. Đặc điểm của khách hàng này rất hay "bắt
chước" chẳng hạn như khi bạn có gói kẹo hay bánh là thể nào cũng đòi mẹ mua
cho bằng được. Đây là yếu tố tác động rất tích cực đến các công ty kinh doanh
bánh kẹo.
Thị trường thanh niên: Với đoạn thị trường này thì nhu cầu về các loại bánh
kẹo ngọt không lớn như đoạn thị trường trên. Tuy nhiên họ lại rất thích các sản
phẩm có mẫu mã đẹp, giá cả hấp dẫn và kèm theo các hình thức khuyến mại, quà
tặng… Hiện nay trên thị trường xuất hiện nhiều loại bánh mặn, bánh tươi được giới

khách hàng này rất ưa chuộng, họ sử dụng chủ yếu vào dịp đặc biệt như cưới hỏi
hay lễ tết.
Thị trường trung niên: Đối với thị trường này khả năng chi trả là rất cao. Họ
ít mua sử dụng cho mục đích tiêu dùng của bản thân mà chủ yếu cho công việc hay
gia đình.
Thị trường người cao tuổi: Đối với thị trường này khả năng chi trả giảm dần,
mọi nhu cầu về sản phẩm bánh kẹo cho mục đích tiêu dùng của cá nhân hầu như là
không có. Họ thường mua cho cháu hay phục vụ cho việc đi lễ.
* Dựa vào nghề nghiệp
Nông dân: họ có mức thu nhập thấp nói chung là dưới mức trung bình vì thế
giá cả là yếu tố họ rất quan tâm khi lựa chọn sản phẩm bánh kẹo.
Công nhân: Có mức thu nhập cao hơn và tương đối ổn định hơn so với nông
dân. Tuy nhiên giá cả vẫn là yếu tố mà họ quan tâm khi mua sắm sản phẩm bánh
kẹo là vì mục tiêu kinh tế.
Thương nhân: Với mức thu nhập tương đối cao, mẫu mã sản phẩm là yếu tố
làm cho đoạn thị trường này bị co dãn nhiều. Đôi khi mức giá cao lại đem lại cho
họ cảm giác sản phẩm chất lượng cao và có thể thể hiện được bản thân thông qua
việc mua và sử dụng sản phẩm có danh tiếng.
Trí thức: Tầng lớp này có nhu cầu tìm kiếm thị trường lớn. Họ thường có
nhu cầu lựa chọn sản phẩm bánh kẹo của họ là những sản phẩm có nhãn hiệu nổi
tiếng và có uy tín trên thị trường. Đặc biệt họ quan tâm đến chất lượng sản phẩm.
1.1.3. Xu hướng vận động của thị trường bánh kẹo thời gian qua
Năm 2005 vừa qua sức mua của người dân tăng mạnh khoảng 30% so với
năm 2004 do tác động của nhiều yếu tố: tiền lương, tiền thưởng tăng, nhu cầu của
người tiêu dùng thay đổi. Bên cạnh đó là khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường của
các doanh nghiệp sản xuất Bánh kẹo cũng tăng rất nhanh.
Hiện nay người tiêu dùng ngày càng tin tưởng hơn vào chất lượng bánh kẹo
do các doanh nghiệp trong nước sản xuất. Nguyên nhân do chất lượng mẫu mã
hàng nội không kém hàng ngoại và người tiêu dùng ngày càng cảnh giác hơn với
hàng nhập lậu, hàng kém chất lượng. Tết năm 2005 hàng nội chiếm 90% trên thị

trường bánh kẹo Hà Nội.
Mức sống của người dân Việt Nam đang còn ở mức thấp so với mức trung
bình của Thế giới. Cho nên trong tương lai không xa khi nền kinh tế phát triển ở
mức cao hơn, thu nhập của người dân được cải thiện thì nhu cầu sử dụng và thưởng
thức các sản phẩm bánh kẹo sẽ gia tăng mạnh mẽ. Đây là tín hiệu rất đáng mừng
đối với các doanh nghiệp đang và sẽ tham gia vào lĩnh vực sản xuất và kinh doanh
bánh kẹo trên thị trường Việt Nam.
1.2. Cung trên thị trường bánh kẹo
Cũng giống như các ngành chế biến thực phẩm, nước giải khát. Ngành công
nghiệp chế biến bánh kẹo Việt Nam đã có quá trình phát triển lâu dài. Từ việc sản
xuất bánh kẹo truyền thống bằng thủ công, đến nay đã có khoảng hơn 30 đơn vị

×