Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.04 KB, 18 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
NGÀNH KINH TẾ
I. CƠ CẤU KINH TẾ VÀ PHÂN LOẠI CƠ CẤU KINH TẾ
1. Khái niệm cơ cấu kinh tế
Trong các tài liệu kinh tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm cơ cấu kinh tế.
Các cách tiếp cận này thường bắt đầu từ khái niệm “cơ cấu”. Là một phạm trù triết học, khái
niệm cơ cấu được sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối quan hệ giữa các bộ
phận hợp thành của một hệ thống. Cơ cấu được biểu hiện như là những mối quan hệ liên kết
hữu cơ, các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định. Cơ cấu là thuộc tính của một hệ
thống. Do đó, khi nghiên cứu cơ cấu phải đứng trên quan điểm hệ thống.
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống có thể hiểu: cơ cấu
kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc dân, giữa
chúng có những mối liên hệ hữu cơ, những tương tác qua lại cả về số lượng và chất lượng,
trong những không gian và điều kiện kinh tế-xã hội cụ thể, chúng vận động hướng vào
những mục tiêu nhất định. Theo quan điểm này, cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế, là
nền tảng của cơ cấu xã hội và chế độ xã hội.
Một cách tiếp cận khác thì cho rằng: cơ cấu kinh tế hiểu một cách đầy đủ là một tổng
thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau trong những
không gian và thời gian nhất định, trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, được
thể hiện cả về mặt định tính lẫn định lượng, cả về số lượng lẫn chất lượng, phù hợp với
mục tiêu được xác định của nền kinh tế.
Nhìn chung các cách tiếp cận trên đã phản ánh được mặt bản chất chủ yếu của cơ cấu
kinh tế. Đó là các vấn đề:
- Tổng thể các nhóm ngành, các yếu tố câú thành hệ thống kinh tế của một quốc gia.
- Số lượng và tỷ trọng các nhóm ngành và các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế trong
tổng thể nền kinh tế đất nước.
- Các mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các nhóm ngành, các yếu tố...hướng vào các
mục tiêu đã xác định. Cơ cấu kinh tế còn là một phạm trù trừu tượng; muốn nắm vững bản chất
của cơ cấu kinh tế và thực thi các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách có hiệu
quả cần xem xét từng loại cơ cấu cụ thể của nền kinh tế quốc dân.
2. Phân loại cơ cấu kinh tế


2.1. Cơ cấu ngành kinh tế
Trong bàI viết chú trọng nghiên cứu cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành của nền kinh tế là tập hợp tất cả các ngành hình thành lên nền kinh tế
và các mối quan hệ tương đối ổn định giữa chúng.
Các chỉ tiêu đánh giá:
- Loại chỉ tiêu dịnh lượng thứ nhất:tỷ trọng các ngành so với tổng thể các ngành của
nền kinh tế.
- Chỉ tiêu định lượng thứ hai:Có thể mô tả được phần nào mối quan hệ tác động qua
lại giữa các ngành kinh tế, đó là các hệ số trong bảng can đối liên ngành (của hệ MPS) hay
bảng Vào- Ra (I/O)(của hệ SNA).
Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội chung của nền
kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Thay đổi mạnh mẽ cơ cấu ngành là
nét đặc trưng của các nước đang phát triển. Khi phân tích cơ cấu ngành của một quốc gia
người ta thường phân tích theo 3 nhóm ngành (khu vực):
+ Nhóm ngành nông nghiệp: bao gồm các ngành nông, lâm, ngư nghiệp.
+ Nhóm ngành công nghiệp:bao gồm các ngành công nghiệp và xây dựng.
+ Nhóm ngành dịch vụ: bao gồm các ngành thương mại, bưu điện, du lịch...
Trong công nghiệp cần chú ý đến các hệ số liên hệ phía “thượng nguồn” và các hệ số
liên hệ phía “hạ nguồn”.
* Các ngành công nghiệp “thượng nguồn”:là những ngành công nghiệp tạo nguyên
liệu và sản phẩm trung gian, đòi hỏi vốn đầu tư cao và công nghệ cơ bản, công nghệ cao.
* Các ngành công nghiệp “hạ nguồn”:là những ngành công nghiệp sản xuất ra sản
phẩm cuối cùng cho tiêu dùng, thường đòi hỏi vốn đầu tư ít, sử dụng nhiều lao động, có
thể có quy mô sản xuất vừa và nhỏ.
Những ngành công nghiệp thượng nguồn và hạ nguồn nêu trên có mối quan hệ dọc
rất chặt chẽ. Trong một chuyên ngành nhất định có thể có một hình thức tổ chức khép kín
từ công nghiệp thượng nguồn đến hạ nguồn của một quốc gia hay theo sự phân công lao
động quốc tế (theo thương mại hay hợp đồng gia công) giữa các quốc gia.
2.2. Cơ cấu lãnh thổ
Nếu cơ cấu kinh tế hình thành từ sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá

sản suất thì cơ cấu kinh tế lãnh thổ lại được hình thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo
không gian địa lý.
Cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu địa lý thực chất là hai mặt của một thể thống nhất và đều là
sự biểu hiện của sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu lãnh thổ hình thành gắn liền với cơ
cấu ngành và thống nhát trong vùng kinh tế. Trong cơ cấu lãnh thổ, có sự biểu hiện của cơ
cấu ngành trong điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Xu hướng phát triển kinh tế lãnh
thổ thường là phát triển nhiều mặt, tổng hợp, có ưu tiên một vài ngành và gắn liền sự hình
thành phân bổ dân cư phù hựp với các đIều kiện, tiềm năng phát triển kinh tế của lãnh thổ.
Việc chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ phải đảm bảo sự hình thành và phát triể có hiệu quả của
các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế theo lãnh thổ và trên phạm vi cả nước, phù hợp
với đặc đIểm tự nhiên ngành kinh tế xã hội, phong tục tập quángành truyền thống của mỗi
vùng, nhằm khai thác triệt để thế mạnh của vùng đó.
2.3. Cơ cấu thành phần kinh tế
Nếu như phân công lao động xã hội đã là cơ sở hình thành cơ cấu ngành và cơ cấu
lãnh thổ, thì chế độ sở hữu là cơ sở hình thành cơ cấu thành phần kinh tế. Một cơ cấu thành
phần kinh tế hợp lý pháI dựa trên cơ sở hệ thống tổ chức kinh tế với chế độ sở hữu có khả
năng thúc đẩy sự phats triển của lực lượng sản xuất, thúc đấy phân công lao động xã
hội...Theo nghĩa đó, cơ cấu thành phần kinh tế cũng là một nhân tố tác động đến cơ cấu
ngành kinh tế và cơ cấu lãnh thổ. Sự tác động đó là một biểu hiện sinh động của mối quan
hệ giữa các loạI cơ cấu trong nền kinh tế.
Ba bộ phận cơ bản hợp thành cơ cấu kinh tế là cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành
phần kinh tế, cơ cấu lãnh thổ có quan hệ chặt chễ với nhau. Trong đó cơ cấu ngành kinh tế
có vai trò quan trọng hơn cả. Cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ có thể được chuyển
dịch đúng đắn trên phạm vi không gian lãnh thổ và trên phạm vi cả nước. Mặt khác, việc
phân bố không gian lãnh thổ một cách hợp lý có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy phát triển các
ngành và thành phần kinh tế trên lãnh thổ.
II. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Khái niệm: Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác cho
phù hợp với môi trường phát triển được coi là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

* Khái niệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình chuyển cơ cấu ngành kinh tế từ dạng
này sang dạng khác phù hợp với trình độ phát triển của phân công lao động xã hội, sự phát
triển của lực lượng sản xuất và các nhu cầu về kinh tế-xã hội của đất nước.
Chuyển dịch cơ cấu đem tính khách quan thông qua thông qua những nhận thức chủ
quan của con người, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu đã hình thành các khái niệm:
- Điều chỉnh cơ cấu:Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu trên cơ sở thay đổi một số
mặt, một số yéu tố cơ cấu, làm cho nó thích ứng với điều kiện khách quan từng thời kỳ
không tạo ra sự thay đổi đột biến, tức thời.
- CảI tổ cơ cấu:Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu cơ cấu trên cơ sở thay đổi một số
mặt bản chất so với thực trạng cơ cấu ban đầu, nhanh chóng tạo ra sự đột biến.
Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành kinh tế nói riêng luôn thay đổi theo từng
thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành. Đó là sự thay đổi về số lượng các ngành hoặc
sự thay đổi tỷ lệ giữa các ngành do sự xuất hiện hoặc sự biến mất của một số ngành và và
sự tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành là không đồng đều. Đây không chỉ đơn thuần là
sự thay đổi vị trí, mà còn là sự biến đổi cả về lượng và chất trong nội bộ cơ cấu. Việc
chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có, do đó nội dung của
chuyển dịch cơ cấu là cảI tạo cơ cấu cũ lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới
tiên tiến, hoàn thhiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại
và phù hợp hơn.
2. Sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế luôn luôn biến đổi cùng với qúa trình phát triển của nền kinh tế.
Mỗi thời kỳ, với những điều kiện cụ thể các ngành kinh tế tăng trưởng với tốc độ khác
nhau dẫn đến cơ cấu ngành thay đổi. Các điều kiện này vừa có những tác động tích cực
vừa có tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, cần chủ động chuyển dịch cơ cấu ngành
phát huy những thuận lợi và hạn chế những khó khăn do điều kiện hiện tại đặt ra để thúc
đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững là vấn đề dặt ra đối với tất cả các quốc gia ở tất
cả các giai đoạn phát triển.
3. Những lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
3.1. Những yếu tố cơ bản có liên quan đến xu thế phát triển kinh tế của đất nước

a. Quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel
Ngay từ đầu thế kỷ 19, nhà kinh tế học người Đức E.Engel đã nhận thấy rằng khi thu
nhập của gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu của họ cho lương thực, thực phẩm giảm đi. Do
chức năng chính của khu vực nông nghiệp là sản xuất lương thực, thực phẩm nên có thể
suy ra là tỷ tọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên.
Quy luật của E.Engel được phát hiện cho tiêu dùng lương thực, thực phẩm nhưng nó
có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng cho việc nghiên cứu tiêu dùng các loại sản
phẩm khác. Các nhà kinh tế học gọi lương thực, thực phẩm là các sản phẩm thiết yếu, hàng
công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền, và việc cung cấp dịch vụ là sự tiêu dùng cao
cấp. Qua qúa trình nghiên cứu, họ phát hiện ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì
tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với tăng thu nhập, còn chi tiêu cho
tiêu dùng cao cấp tăngnhanh hơn tốc độ tăng thu nhập.
Như vậy, quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel đã làm rõ tính xu hướng của việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong qúa trình phát triển.
b. Quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher
Năm 1935, trong cuốn “Các quan hệ kinh tế của tiến bộ kỹ thuật”, A. Fisher đã giới
thiệu kháI niệm việc làm ở khu vực thứ nhất, thứ hai, thứ ba. A. Fisher quan sát thấy rằng,
các nước có thể phân theo tỷ lệ phân phối tổng lao động của từng nước vào ba khu vực.
Khu vực thứ nhất bao gồm sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và theo một số quan điểm
còn bao gồm cả khai thác mỏ. Khu vực thứ hai bao gồm công nghiệp chế biến và xây dựng.
Khu vực thứ ba gồm có vận tải, thông tin, thương nghiệp, dịch vụ nhà nước, dịch vụ tư
nhân. Theo A.Fisher, tiến bộ kỹ thuật đã có tác động đến sự phân bố lao động vào ba khu
vực này. Trong qúa trình phát triển, việc tăng cường sử dụng máy móc và các phương thức
canh tác mới đã tạo điều kiện cho nông dân nâng cao năng suất lao động. Kết quả là, để
bảo đảm lượng lương thực, thực phẩm cần thiết cho xã hội thì không cần đến lượng lao
động như cũ và do vậy, tỷ lệ của lực lượng lao động trong nông nghiệp giảm. Dựa vào số
liệu thống kê thu thập được, A. Fisher cho rằng tỷ lệ giảm này có thể giảm từ 80% đối với
các ngành chậm phát triển nhất xuóng 11-12 % ở các nước công nghiệp phát triển và trong
điều kiện đặc biệt có thể xuống tới 5%. Ngược lại, tỷ lệ lao động được thu hút vào khu vực
thứ hai và khu vực thứ ba ngày càng tăng do tính co giãn về nhu cầu sản phẩm của hai khu

vực này và khả năng hạn chế hơn của viẹc áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là đối với khu
vực thứ ba.
c. Vai trò của khoa học vai trò nghệ trong thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
Khoa học và công nghệ có vai trò đặc biệt quan trọng trong qúa trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi mà nền kinh tế thế giới đang chuyển từ nền
kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Sự phát triển của khoa học và công nghệ
không chỉ đẩy nhanh tốc độ phát triển của các ngành mà còn làm phân công lao động xã
hội trở nên sâu sắc và đưa đến sự phân chia các ngành thành nhiều ngành nhỏ hơn, xuất
hiện nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế mới, từ đó làm thay đổi cơ cấu, vị trí giữa các
ngành, hay thúc đẩy các ngành chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng:
+ Các ngành sản xuất vật chất (nông nghiệp, công nghiệp)đều tăng lên về sản lượng
tuyệt đối, nhưng về tỷ trọng trong GDP so với các ngành sản xuất phi vật chất (dịch vụ) lại
giảm tương đối.
+ Cơ cấu kinh tế trong, nội bộ mỗi ngành cũng biến đổi theo hướng ngày càng tăng
mạnh quy mô sản xuất ở các ngành có hàm lượng kỹ thuật, công nghệ cao.
d. Xu thế kinh tế thế giới
* Xu thế hoà bình hợp tác
Nhìn tổng quát, có thể dự báo xu thế hoà bình hợp tác phát triển trên thế giới và khu
vực tiếp tục gia tăng đi đôi với những cọ sát đấu tranh, cạnh tranh ngày càng gay gắt, có
thể có những bùng nổ khó lường. Các nước lớn, các trung tâm phát triển lớn đang và sẽ
giằng co, tranh giành ảnh hưởng, lấn át kinh tế đối với các nước khác. Bên cạnh đó, trình
độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất cũng như kinh tế nói chung của thế giới
đã tạo ra những cơ hội hợp tác, hội nhập để khai thác các nguồn lực quốc tế phục vụ cho
nhu cầu phát triển quốc gia. Mỗi nước với trình độ phát triển khác nhau đều tìm thấy lợi
thế của mình qua các quan hệ kinh tế quốc tế và có thể tham gia opj tác phát triển dưói
nhiều hình thức.
* Tác động của cách mạng khoa học và công nghệ
Trong thế kỷ XXI, với dự báo cách mạng khoa học và công nghệ sẽ có những nhảy
vọt khó lường, yêu cầu mới và cũng là khả năng mới trong điều kiện nhân loại đang bứoc
vào nền kinh tế tri thức. Trong điều kiện đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải

triển khai theo tư duy mới, phù hợp với giai đoạn mới. Việt Nam có những lới thế so sánh
về tài nguyên thiên nhiên và dồi dào về nguồn nhân lực, nếu được phát huy sẽ là nhân tố
tích cực để tiếp nhận khoa học và công nghệ gây dựng năng lực nội sinh.
* Toàn cầu hoá và khu vực hoá
Là xu thế khác quan ngày càng tác động mạnh, thậm chí chi phối phát triển kinh tế
của các nước. Trong bối cảnh đó, chúng ta cần thấy hết mặt tích cực, thuận lợi, cả mặt tiêu
cực, khó khăngành thách thức và có chiến lược thích ứng và lợi dụng qúa trình này có hiệu
quả nhất.
Dòng vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) đến các nước đang phát triển: Từ những
năm đầu của thạp kỷ 90, toàn cầu hoá và khu vực hoá đã tạo điều kiện cho các dòng vốn
FDI đến với các nền kinh tế đang phát triển. Nguồn vốn này tăng liên tục qua các năm, tuy
có suy giảm do tác động của khủng hoảng kinh tế năm 97.
Dòng vốn hỗ trợ chính thức với các điều kiện ưu đãi (ODA) đến các nước đang phát
triển có xu hướng giảm dần.
Quốc tế hoá thương mại, vốn và sản xuất. Bốn mươi năm qua kim ngạch thương mại
hàng hoá của toàn thế giới đã tăng 6%/năm trong khi đó sản xuất hàng hoá chỉ tăng 3,7%.
Mức độ mở cửa của các nước tăng. Sau thương mại vốn đầu tư cũng đã nhanh chóng được
quốc tế hoá. Cạnh tranh thương mại và thu hút đầu tư trên thế giới diễn ra ngày càng mạnh
mẽ.
3.2. Các lý thuyết phát triển
Với tư các là loạI lý thuyết chủ yếu nghiên cứu các con đường hay các mô hình phát
triển kinh tế của các nước chạm phát triển hiện đang nỗ lực tiến hành công nghiệp hoá, các
lý thuyết phát triển trực tiếp hoặc gián tiếp đều bàn tới một trong những nội dung cơ bản
nhất của công nghiệp hoá là chuyển dịch cơ cấu ngành. Song, do bản thân thế giới chậm
phát triển bao gồm nhiều quốc gia với các đặc đIểm đặc thù khác nhau, do xuất phát từ các
quan điểm và các góc độ nghiên cứu khác nhau nên cách giảI quyết vấn đề chuyển dịch cơ
cấu ngành trong qúa trình công nghiệp hoá của các loạI lý thuyết phát triển cũng rất khác
nhau. Có thể thấy đIều này qua một số lý thuyết phát triển chủ yếu sau.
a. Lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế
Tư tưởng cơ bản của người chủ xưởng lý thuyết này Walt Rostow cho rằng, qúa trình

phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào cũng đều trảI qua 5 giai đoạn tuần tự như sau:
1/ Xã hội truyền thống: Với đặc trưng là nông nghiệp giữ vai trò thống trị trong đời
sống kinh tế, năng suất lao động thấp và xã hội kém linh hoạt.
2/ Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: Với những thay đổi quan trọng là trong xã hội đã xuất
hiện tầng lớp chủ xí nghiệp có khả năng đổi mới, kết cấu hạ tầng sản xuất, nhất là giao
thông đã phát triển. Bắt đầu hình thành những khu vực đầu tầu có tác động lôI kéo nền
kinh tế phát triển.
3/ Giai đoạn cất cánh: với những dấu hiệu quan trọng như tỷ lệ đầu tư so với thu nhập
quốc dân đạt mức 10%, xuất hiện những ngành công nghiệp chế biến có tốc độ tăng trưởng
cao, có những chuyển biến mạnh mẽ trong thể chế xã hoọi, thuận lợi cho sự phát triển của
khu vực sản xuất hiện đai và kinh tế đối ngoại.
4/ Giai đoạn chuyển tới sự chín muồi kinh tế là giai đoạn mà tỷ lệ đầu tư trên thu
nhập quốc dân đạt mức cao(từ 10-20%) và xuất hiện nhiều cực tăng trưởng mới.
5/ Kỷ nguyên tiêu dùng hàng loạt:là giai đoạn kinh tế phát triển cao, sản xuất đa dạng
hoá, thị trường linh hoạt và có hiện tượng suy giảm nhịp độ tăng trưởng.
Theo lý thuyết phân kỳ phát triển này hầu hết các nước đang phát triển đang tiến
hànhcông nghiệp hoá hiện nay nằm ở giai đoạn 2và 3, tuỳ theo mức độ phát triển của từng
nước. NgoàI những dấu hiệu kinh tế - xã hội khác, về mặt cơ cấu,phải bắt đầu hình thành
một số ngành công nghiệp chế biến có khả năng lôi kéo toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng.
Đồng thời, cùng với sự chuyển tiếp từ giai đoạn 2 sang 3 là sự thay đổi của những lĩnh vực
đóng vai trò đầu tàu. Nghĩa là trong chính sách cơ cấu cần xét đến trật tự ưu tiên phát triển
những lĩnh vực có thể đảm trách vai trò đó qua mỗi giai đoạn phát triển cụ thể.
Do tiếp cận vấn đề góc độ khái quát lịch sử của nhiều nước, lý thuyết phân kỳ phát
triển kinh tế không mô tả sâu những khía cạnh đặc thù của từng nước hay từng nhóm nước,
song những nhận xét khái quát chung ấy có thể xem như những gợi ý rất có ý nghĩa đối
vấn đề chuyển dịch cơ cấu trong qúa trình công nghiệp hoá của từng nước đang phát triển
hiện nay.
b. Lý thuyết nhị nguyên
Lý thuyết nhị nguyên do A. Lewis (giải thưởng Nobel năm 1979) khởi xướng, tiếp
cận vấn đề từ đời sống kinh tế của các nước đang phát triển. Ông đã có những kiến giải

khá cụ thể về sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp háo hiện nay.
Lý thuyết nhị nguyên cho rằng ở các nền kinh tế này có hai khu vực kinh tế song song tồn
tại: khu vực kinh tế truyền thống, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và khu vực kinh tế công
nghiệp hiện đại, du nhập từ bên ngoài. Khu vực truyền thống có đặc đIểm là trì trệ, năng
suất lao động thấp và dư thừa lao động. Vì thế, có thể chuyển một phần lao động từ khu
vực này sang khu vực công nghiệp hiện đạI mà không ảnh hưởng đến sản lượng nông
nghiệp. Do có năng suất cao nên khu vực công nghiệp hiện đạI có thể tự tích luỹ để mở
rộng sản xuất một cách độc lập mà không phụ thuộc vào những điều kiện chung của toàn
bộ nền kinh tế.
Kết luận đương nhiên rút ra từ những nhận định này là để thúc đẩy phát triển kinh tế
của những nước chậm phát triển, cần phải bằng mọi cách mở rộng khu vực sản xuất công
nghiệp hiện đại càng nhanh càng tốt mà không cần quan tâm tới khu vực nông nghiệp
truyền thống. Sự gia tăng của khu vực công nghiệp hiện đại tự nó sẽ rút dần lao động từ
khu vực nông nghiệp sang và biến nền sản xuất nông nghiệp xã hội từ trạng thaí nhị
nguyên thành một nền kinh tế công nghiệp phát triển.
PhảI nói răng những kết luận của lý thuyết nhị nguyên đã gây được ấn tượng mạnh
mẽ đối với các quốc gia chậm phát triển đang mong muốn đẩy mạnh quá trình công nghiệp
hoá. Trên thực tế, chính sách công nghiệp hoá và cơ cấu kinh tế ở nhiều quốc gia chậm

×