Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

Tải Đề cương chi tiết Ngữ văn phần Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 - Tài liệu ôn tập môn Văn vào lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.62 KB, 68 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT NGỮ VĂN</b>


<b>PHẦN VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945</b>


<b>CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945</b>


<b>A. BỐI CẢNH LỊCH SỬ XÃ HỘI VIỆT NAM VÀ NHỮNG ÐẶC ÐIỂM NỔI BẬT CỦA VĂN HỌC VIỆT</b>
<b>NAM GIAI ÐOẠN 1930 - 1945</b>


<b>I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ</b>


<b>1. Một giai đoạn lịch sử tuy chỉ 15 năm, nhưng trải qua bao biến cố, gồm bao sự</b>
<b>kiện quan trọng, tác động mạnh mẽ đến đời sống vật chất và tinh thần của con</b>
<b>người.</b>


<b>1.1: Sự ra đời của Ðảng Cộng Sản Ðông Dương 03 - 02 - 1930:</b>


Sự ra đời của Ðảng cộng sản đã tạo ra một bước ngoặt quyết định cho lịch sử cách
mạng Việt Nam.


Từ đây, đã chấm dứt tấm bi kịch của những người yêu nước mà không tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn.


Do vai trị độc quyền cách mạng của Ðảng, do đường lối chiến lược sách lược vững
vàng sáng suốt của Ðảng đã đoàn kết và phát huy được mạnh mẽ tính tích cực, tính sáng
tạo của quần chúng nhất là công nông.


Thực tế lịch sử đã chứng minh điều đó:


 Ngay sau khi Ðảng ra đời 3 - 2 - 1930 cao trào Xô Viết 1930 - 1931.



 Chính quyền cách mạng được thành lập, bước đầu thực hiện những quyền tự do dân
chủ cho nhân dân.


 Mặt trận dân chủ Ðông Dương được thành lập năm 1936 - 1939.


 Tháng 6 - 1940 Pháp đầu hàng Ðức. Tháng 91940 chúng mở cửa Ðông Dương cho
Nhật vào. Hai tên đế quốc tàn bạo cùng một lúc đàn áp bóc lột nhân dân ta làm cho
đời sống nhân dân kiệt quệ, dẫn đến nạn đói khủng khiếp 1945.


 Nhưng chính thời kì này phong trào cách mạng lên cao hơn bao giờ hết. Dưới sự lãnh
đạo của Ðảng tháng 9 - 1940, nhân dân Bắc Sơn nổi dậy. Tháng 11 - 1940 khởi nghĩa
Nam Kì bùng nổ. Tháng 5 - 1941, Mặt trận Việt minh thành lập, một cao trào giải
phóng dân tộc bùng lên, cả nước sục sôi chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Tháng 8
-1945, cách mạng thành công, chấm dứt chế độ thuộc địa Pháp, Nhật, thành lập nước
Việt nam dân chủ cộng hòa.


<b>1.2: Khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933:</b>


Thực dân Pháp ra sức bịn vét bóc lột dân thuộc địa để bù đắp cho những thiệt hại của
chúng và dốc vào chiến tranh: tăng sưu, thuế, bắt phu, bắt lính, mở cơng thải, lạc qun,
lạm phát giấy bạc.v.v...


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

mì năm 1933, Ðơng Dương phải bỏ ra 1500 triệu Frăng để mua 50 vạn tấn lúa mì ế của
Pháp. (báo Ðàn bà mới - 1934).


<b>1.3: Cách mạng Tư sản thất bại, ngày 09 - 02 - 1930:</b>


Giai cấp tư sản Việt Nam phát triển khó khăn yếu đuối. Giai cấp này một mặt mâu
thuẫn với đế quốc Phong Kiến, mặt khác lại phụ thuộc vào chúng.



Ðịa vị kinh tế non yếu, mỏng manh khiến tư sản dân tộc mất hết khả năng chiến đấu,
nếu khơng có một lực lượng nào thực sự lãnh đạo thì họ chỉ cịn có một thái độ là thỏa
hiệp với đế quốc (Lê Duẫn - Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam - trang 31).


Giai cấp tư sản Việt Nam chủ trương chính trị trước sau là chủ nghĩa cải lương


Tư sản dân tộc Việt Nam phần lớn là do địa chủ chuyển thành hoặc dính liền với địa
chủ thành một thứ tư sản địa chủ khiến cho thái độ chống Phong kiến của nó cũng khơng
dứt khốt


Giai cấp tư sản Việt Nam làm cuộc bạo động Yên Bái ngày 9 - 2 - 1930 nhưng thất
bại, tầng lớp tiểu tư sản trí thức hoang mang tới cao độ, họ cùng với giai cấp tư sản tìm
đường thỏa hiệp với thực dân, hoặc chỉ còn thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc bằng
con đường văn chương.


<b>1.4: Cách mạng Vơ Sản khi cao trào lúc thối trào:</b>


Cao trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao nhất là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Do những điều kiện khách quan, chủ quan chưa đầy đủ, phong trào bị thất bại.


Bọn đế quốc một mặt điên cuồng khủng bố, dùng cả máy bay ném bom xuống các
đồn biểu tình, mặt khác ra sức xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản, nói xấu và vu khống Liên
Xơ hịng chia rẽ quần chúng với Ðảng.


Từ cuối năm 1931, cách mạng Việt Nam bước vào thời kì thối trào.
Từ cuối năm 1932, phong trào lại dần dần hồi phục.


Cuối năm 1933, bóng đen chiến tranh phát xít đe dọa nhân loại. Dưới sự lãnh đạo của
quốc tế cộng sản, một phong trào rộng rãi chống phát xít và chiến tranh lan rộng trên thế
giới. Ở Pháp, Mặt trận nhân dân thành lập và dành được thắng lợi trong kì tuyển cử tháng


5 - 1936. Lợi dụng thời cơ đó, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, mặt trận thống nhất Ðông
Dương ra đời, tạo nên một phong trào dân chủ sâu rộng chưa từng thấy trong lịch sử dân
tộc bao gồm công, nông, dân nghèo, tiểu thương, tiểu chủ, học sinh, viên chức v.v... và
một số tư sản.


Bọn đế quốc phải nhượng bộ. Hàng nghìn tù chính trị được trả lại tự do, luật lao động
được ban hành, báo chí tiến bộ được cơng khai xuất bản.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

nghĩa. Tháng 8- 1945 dưới sự lãnh đạo của Ðảng cách mạng Việt Nam dành được thắng
lợi, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.


<b>2. Một xã hội rối ren, đen tối về kinh tế cũng như về kiến trúc thượng tầng.</b>
<b>2.1: Nền kinh tê kiệt quệ dưới ách thực dân phong kiến:</b>


Chế độ sưu thuế, chế độ bắt phu bắt lính của thực dân Pháp và chế độ Phong kiến.
Xã hội Việt Nam là một địa ngục, khắp nơi nạn đói hồnh hành, bọn đầu trâu mặt
ngựa tác oai tác quái, người chết hàng loạt và khủng khiếp nhất là nạn đói vào mùa xuân
năm 1945, hai triệu người bị chết đói.


<b>2.2: Những thế lực thống trị mâu thuẫn nhau:</b>
Mâu thuẫn giữa thực dân phong kiến.


Mâu thuẫn giữa phong kiến với tư sản.
Mâu thuẫn giữa tư sản với thực dân.


<b>2.3: Những lực lượng đối kháng giao tranh, có những chiến tuyến rõ rệt như cách</b>
<b>mạng, phản cách mạng; có người yêu nước nhưng hoang mang, có người lơ láo,</b>
<b>bàng quang, lẩn trốn...</b>


<b>3. Chính sách kinh tế, chính trị, văn hóa vơ cùng xảo quyệt của thực dân ngày càng</b>


<b>nhào nặn xã hội Việt Nam vào cái khn khổ có lợi cho chúng.</b>


Thực dân Pháp tiếp tục khai thác nền kinh tế nước ta.


Thực dân Pháp tiếp tục chính sách ngu dân, số người mù chữ chiếm đến 90% dân số.
Chế độ kiểm duyệt gắt gao, cấm đoán tất cả sách báo tiến bộ trong và ngoài nước.
Thực dân Pháp đưa vào nước ta đủ thứ rác rưởi của văn hóa Tư Sản phản động
phương Tây, cùng với cặn bã phong kiến, chúng gọi là kết hợp Văn minh Âu Mỹ với
Quốc hồn quốc túy An Nam.


<b>4. Một ý thức mới, một tâm lí mới lan tràn.</b>
<b>4.1: Ý thức tâm lí tư sản và tiểu tư sản:</b>


Trí thức, thành thị âu hóa, chịu ảnh hưởng của những sinh hoạt mới, của giai cấp mới
và của văn hóa tư sản phương Tây.


Lối sống hưởng lạc phát triển ở thành thị: ăn mặc theo mốt thời trang, lối sống tài hoa
son trẻ, vui vẻ trẻ trung, dạy họ cách hưởng thụ cuộc đời một cách hiện đại và thú vị nhất.
Báo chí tư sản, tiểu tư sản nhất là tờ báo Phong hóa, Ngày nay thường huấn luyện phụ
nữ cách cải tiến y phục, huấn luyện thanh niên cách chinh phục gái đẹp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>nhân:</b>


Chống giáo lí phong kiến như cảnh mẹ chồng nàng dâu, mẹ ghẻ con chồng, chế độ đa
thê v.v...


Ðề cao hạnh phúc cá nhân, đề cao tình u lứa đơi.


<b>II. Q TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG ÐẶC ÐIỂM NỔI BẬT</b>



Quá trình phát triển văn học trong 15 năm: có 2 bộ phận (bộ phận văn học vô sản và
bộ phận văn học tư sản, tiểu tư sản nằm trong phạm trù ý thức hệ tư sản). Có 3 thời kỳ:
<b>1. Thời kỳ 1930- 1935: Mở đầu là sáng tác thơ văn gắn liền với cao trào cách mạng</b>
<b>1930- 1931 mà đỉnh cao nhất là Xô Viết Ngệ Tỉnh.</b>


Bộ phận văn học tư sản, tiểu tư sản thời kỳ này là văn học lãng mạn: Tiểu thuyết Tự
lực văn đoàn và thơ mới.


Xu hướng văn học phê phán có từ trước 1930 đến thời kỳ này phát triển hơn và xác
định rõ ràng hơn về phương pháp thể tài.


<b>2. Thời kỳ 1936 - 1939</b>


<b>2.1. Văn học vơ sản khắc họa thành cơng hình tượng người chiến sĩ cộng sản say mê</b>
<b>lí tưởng, mang một tinh thần nhân đạo mới mẻ:</b>


Thể loại phóng sự, ký sự phát triển.


Thơ ca cách mạng phát triển. Một loạt nhà thơ cách mạng đã xuất hiện: sóng Hồng,
Lê Ðức Thọ, Xuân Thủy, Tố Hữu.


Văn học cách mạng thời kỳ này đánh dấu một bước tiến triển mới mẻ của văn học vơ
sản theo hướng hiện đại hóa.


<b>2.2: - Văn học hiện thực phê phán phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu</b>
<b>xuất sắc:</b>


Vấn đề nông dân, nông thôn được đặt ra trong tác phẩm hiện thực phê phán Bước
đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng, Tắt đèn của Ngô Tất
Tố



Vấn đề phong kiến thực dân được nêu lên một cách gay gắt trong các tác phẩm hiện
thực phê phán: Số đỏ, Giông tố của Vũ Trọng Phụng, Tắt đèn của Ngô Tất Tố...


Tác phẩm hiện thực phê phán không dừng lại ở truyện ngắn, phóng sự mà phát triển
mạnh mẽ thể tài tiểu thuyết. Ðây chính là một thành cơng lớn của văn học hiện thực phê
phán thời kì này


<b>2.3: - Văn học lãng mạn tư sản, tiểu tư sản vẫn tiếp tục phát triển song nó phân hóa</b>
<b>theo các hướng khác nhau.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

văn đồn cịn nêu chủ đề mới: chủ trương cải cách bộ mặt nông thôn và cải thiện đời
sống cho nơng dân Gia đình của Khái Hưng, Con đường sáng của Hoàng Ðạo.


Tiểu thuyết Tự lực văn đồn đề cập tới hình tượng người chiến sĩ Ðoạn tuyệt, Ðôi bạn
của nhà văn Nhất Linh


Thơ mới vẫn tiếp tục trên đà phát triển. Cái Tôi vẫn được khai thác đến phút chót.
Thời kì này, Xn Diệu nổi lên như một hiện tượng văn học. Cái Tôi của các nhà thơ mới
càng đi sâu vào thế giới u đương thì càng cơ đơn lạc lõng và càng sợ sệt Chiếc đảo hồn
tôi rợn bốn bề (Nguyệt Cầm - Xuân Diệu).


<b>3. Thời kỳ 1939- 1945:</b>


<b>3.1 Văn học vô sản rút vào bí mật nhưng vẫn phát triển mạnh mẽ. Thơ ca cách</b>
<b>mạng trong tù và thơ ca cách mạng ngồi nhà tù phát triển.</b>


Văn học vơ sản nói nhiều tới tương lai, một tương lai rực rỡ đang tiến gần. Thơ Tố
Hữu trưởng thành nhanh chóng như tập Từ ấy. Tập Nhật kí trong tù Hồ Chí Minh cũng ra
đời trong thời kì này.



Thời kì này thơ tuyên truyền kết hợp với thơ trữ tình cách mạng càng thấm thía, sâu
sắc hơn.


Hàng loạt bài chính luận của đồng chí Trường Chinh xuất hiện trên các báo chí của
Ðảng vào thời kì này cũng có nhiều giá trị văn học.


Văn học vô sản trong những năm tiền khởi nghĩa đã góp phần quan trọng vào cuộc
vận động cách mạng của Ðảng, đập tan chế độ thuộc địa, giành thắng lợi trong những
ngày tháng 8 lịch sử 1945.


<b>3.2 Văn học hiện thực phê phán có sự phân hóa:</b>
Có nhà văn thì chết (Vũ Trọng Phụng);


Có nhà văn khơng viết tiểu thuyết nữa chuyển sang khảo cứu dịch thuật như Ngô Tất
Tố.


Có nhà văn mắc phải sai lầm như Nguyễn Cơng Hoan viết tiểu thuyết Thanh Ðạm.
Một thế hệ nhà văn hiện thực mới ra đời:Nam Cao, Nguyễn Tuân, Mạnh Phú Tư,
Nguyễn Ðình Lạp, Bùi Hiển,...


Nhà văn hiện thực vẫn tiếp tục miêu tả cuộc sống tăm tối của người nông dân Chí
Phèo, lão Hạc của Nam Cao; Sống nhờ của Mạnh Phú Tư. Cuộc sống bế tắc mòn mỏi của
người trí thức tiểu tư sản cũng được các nhà hiện thực đề cập một cách sâu sắc Sống
mòn, Ðời thừa, Trăng sáng của Nam Cao.


Các nhà văn nêu lên mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp thống trị với tầng lớp nhân dân
lao động.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Mang một tâm trạng. Nhất Linh, Khái Hưng đưa ra một chủ nghĩa vô luân, đó là tác


phẩm Bướm trắng của Nhất Linh và tác phẩm Thanh đức của Khái Hưng.


Thạch Lam miêu tả những sinh hoạt nâng lên thành nghệ thuật như nghệ thuật ăn tết,
Hà Nội 36 phố phường.


Thời kì này Thế Lữ - thành viên của Tự lực văn đoàn đi vào truyện trinh thám đường
rừng, truyện ma quỷ như truyện Cái đầu lâu.


Thời kì này Nguyễn Tuân là cây bút tiêu biểu cho trào lưu lãng mạn tư sản, tiểu tư
sản trong văn xuôi. Cái ngông của Nguyễn Tuân xuất hiện, đó là một thứ ngơng lịch lãm
tài hoa. Ở Nguyễn Tn cịn xuất hiện chủ nghĩa xê dịch, đó cũng là thứ xê dịch chân
thành và những rung cảm rất tinh tế.


<b>_ Thơ mới:</b>


Khủng hoảng nghiêm trọng. Ðủ các thứ biểu hiện hỗn loạn. Thơ điên, thơ loạn, thơ
say càng phát triển mạnh. Ðủ các thứ đạo: đạo của Giatơ, của Thích Ca, của Trang Tử.
Tất cả đều là những hình thức bế tắc cùng đường của chủ nghĩa cá nhân


Thời kì này nhóm Xn thu nhã tập xuất hiện. Người ta làm thơ bằng một thứ ngôn
ngữ đối lập với tiếng nói của đồng loại, với ý thức kiên quyết khơng cho ai hiểu được
mình:


Mi thơm chanh trĩu nặng buồn da
Rượu tóc loang tháng đậm mùa ngà
<b>B. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT</b>


<b>1. Ðổi mới rõ rệt theo khuynh hướng hiện đại hóa.</b>


Phá bỏ hệ thống ước lệ của văn học cổ điển. Khuynh hướng hiện đại hóa đã chi phối


việc chọn lựa đề tài, chủ đề, việc xây dựng hình tượng, cốt truyện, thi pháp, việc sử dụng
các hình thức tu từ, mỹ từ và ngơn ngữ văn học nói chung.


Văn học được lái dần đúng hướng trên tinh thần dân tộc, khoa học, đại chúng...


Văn xuôi và tiểu thuyết được nâng lên địa vị quan trọng nhất trong đời sống văn học
và thật sự phát triển mạnh làm thay đổi diện mạo văn học.


Xuất hiện công chúng rộng rãi đơng đảo. Cơng chúng có nhu cầu thẩm mỹ mới là
một điều kiện thúc đẩy văn học phát triển.


Sự phát triển phong phú về thể loại:


 Tiểu thuyết


 Truyện ngắn


 Bút kí


 Phóng sự


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Nhiều xu hướng, trào lưu văn học phát triển mạnh. Tình hình đó đưa đến sự phát triển
của ngành phê bình, lí luận và nghiên cứu.


<b>2. Hình thành và phát triển với hai bộ phận phân biệt rõ rệt về ý thức hệ: văn học tư</b>
<b>sản, tiểu tư sản và văn học vô sản.</b>


Văn học cách mạng vô sản: tinh thần vững chắc và đồn kết của tinh thần vơ sản, của
tính đảng cộng sản.



Ðặc điểm bao quát của văn học lãng mạn là tính chất phức tạp của nó.


Văn học hiện thực phê phán và tiếng nói của tầng lớp tiểu tư sản nghèo, các nhà văn
hiện thực có điều kiện gần gũi với đời sống nhân dân.


<b>C. SỰ PHÁT TRIỂN NHANH CHÓNG CỦA CÁC XU HƯỚNG, PHƯƠNG PHÁP, PHONG CÁCH SÁNG</b>
<b>TÁC CỦA THỂ LOẠI VÀ NGÔN NGỮ VĂN HỌC</b>


1. Chuyển biến mau lẹ của các xu hướng: tiểu thuyết Tự lực văn đoàn- văn học hiện thực
phê phán- văn học cách mạng.


2. Sự trưởng thành và phát triển của nhiều phương pháp sáng tác.
Phương pháp sáng tác lãng mạn chủ nghĩa.


Phương pháp sáng tác hiện thực phê phán.


Phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa.
3. Phát triển về mặt thể loại:


Tiểu thuyết.
Truyện ngắn.
Phóng sự.
Kịch.


<b>D. NGƠN NGỮ VĂN HỌC THỜI KỲ NÀY CŨNG ĐƯỢC ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN MẠNH MẼ</b>


Lối văn biền ngẫu và chữ Hán trở nên lạc hậu.
Ngôn ngữ văn xuôi trở nên sáng sủa, giản dị hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>CHƯƠNG 2: VĂN HỌC LÃNG MẠN VIỆT NAM 1930- 1945</b>



<b>I. NHỮNG QUAN NIỆM VỀ CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN</b>


<b>1. Khái niệm lãng mạn:</b>


Theo chiết tự lãng: sóng; mạn: phóng túng, lãng mạn tức là phóng túng không chịu một
sự ràng buộc nào, không theo đường lối nào.


Khái niệm lãng mạn từ khi xuất hiện đã gây tranh cãi cho các nhà nghiên cứu, lí luận như
ở Nga, ở Pháp, ở Việt Nam... Vì vậy, để xác định được nội dung chính xác của khái niệm
lãng mạn là một điều khó khăn và phức tạp.


+ Ở Nga, nhà thơ Puskin ghi nhận: Những tranh cãi nóng hổi về chủ nghĩa lãng mạn,
tranh cãi thì nhiều mà làm sáng tỏ vấn đề chẳng được bao nhiêu. Hay trong một bức thư
gửi bạn 25/3/1825 Puskin viết: Tôi nhận thấy rằng tất cả chúng ta(và cả bạn nữa đều quan
niệm rất mơ hồ về chủ nghĩa lãng mạn)


Hai mươi năm sau cũng ở Nga, nhà phê bình Biêlinxki cũng đi đến kết luận: Về tất cả
vấn đề này chưa có gì là sáng tỏ và chủ nghĩa lãng mạn vẫn cịn là một đối tượng bí ẩn và
đầy ước đóan


+ Ở Pháp: cuộc tranh cãi cịn náo động hơn khi vở kịch Hernani của Victor Huygi,
các phái ủng hộ và chống đối cũng đấu khẩu và đấu đá, đóng góp vào lịch sử văn học
Pháp thuật ngữ trận chiến Hernani.


+ Ở Việt Nam: tranh cãi về thơ cũ, thơ mới vào những năm 1932- 1935 rất sôi nổi.
Tranh cãi về văn xuôi lãng mãn và hiện thực cũng rất hăng hái.


Trong một tác phẩm văn học có yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn. Cuộc sống hàng
ngày nảy sinh ra vấn đề hiện thực và vấn đề lãng mạn.



Bộ văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930- 1945, gồm 8 tập, gần 100 tác phẩm, khoảng
3.000 trang, có truyện ngắn, truyện vừa và tiểu thuyết. Gọi là văn xuôi lãng mạn nhưng tỷ
lệ tác phẩm lãng mạn thấp hơn so với tác phẩm khác cịn lại. Có thể những người xuất
bản lấy tên lãng mạn cho dễ xuất bản, tiêu thụ. Nhưng nó cũng có nguyên nhân: Vấn đề
lãng mạn và hiện thực ở văn chương là rất phức tạp, dễ dẫn đến sự sắp xếp tùy tiện. Ngay
giáo sư Nguyễn Hoành Khung chủ biên bộ sách cũng phải thừa nhận rằng: Trước hết là
cái tên lãng mạn không phù hợp với nhiều tác giả, tác phẩm mà nó định thu gom... Sự
phân biệt đối lập giữa văn học lãng mạn và văn học hiện thực phê phán trong khu vực
hợp pháp không phải luôn luôn rõ rệt nên việc vạch ra đường ranh giới rõ rệt giữa hai
dịng hiện thực và lãng mạn là khơng thể làm được và thực tế khơng có một ranh giới như
vậy. (Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930- 1945, tập VIII, NXB khoa học xã hội trang
548, 549.)


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Nhà thơ Chế Lan Viên không phản đối việc chia ô nào là hiện thực, ô nào là lãng mạn mà
cốt phê phán cách xử lý máy móc, đem đối lập chúng với nhau, hạ thấp cái này đề cao cái
kia: Về văn học trước cách mạng chia ra nào lãng mạn nào hiện thực thì cũng đúng và
cũng nên nhưng chia ra để làm gì? Nếu chỉ nói là chúng không chống nhau, nam nữ thọ
thọ bất thân, nội bất đắc xuất, ngoại bất đắc nhập thì nguy khiếp lắm. Cho dù đồng sàng
dị mộng thì cũng có lúc gác chân lên nhau qua lại chứ _ Sao không nghĩ chúng cùng thời
với nhau, chúng chịu ảnh hưởng lẫn nhau, có khi chống đối, có khi bổ sung, có lúc thỏa
hiệp chứ đâu chỉ có quan hệ lườm nguýt mới là quan hệ (Bài ca thôn Vĩ Dạ, trang 10
-11)


Ở Việt Nam văn xi 1930- 1945 rất khó phân biệt giữa hiện thực và lãng mạn.
Những truyện ngắn của Thạch Lam, Trần Tiêu, yếu tố hiện thực lại nổi lên rất rõ. Có
người cho rằng truyện ngắn Nhà mẹ Lê còn hiện thực hơn Kép tư Bền của Nguyễn Công
Hoan và Tắt đèn của Ngô Tất Tố.


Chủ nghĩa hiện thực thì nghiêng về phản ánh, chủ nghĩa lãng mạn nghiêng về bộc lộ.


Chủ nghĩa hiện thực thì thấy thế nào miêu tả thế ấy bằng phương pháp điển hình hóa.
Chủ nghĩa lãng mạn cảm và suy nghĩ thế nào viết thế ấy. Chủ nghĩa hiện thực nghiêng về
xu hướng hướng ngoại. Chủ nghĩa lãng mạn lại nghiêng về xu hướng hướng nội. Một bên
xem cuộc sống là đối tượng khách thể để miêu tả,một bên lấy cái Tôi làm trung tâm để
thể hiện.


Tóm lại tác phẩm văn chương ít nhiều có chứa đựng yếu tố hiện thực và lãng mạn
<b>2. Phân biệt giữa lãng mạn tích cực và lãng mạn tiêu cực</b>


Trong bài Tôi đã học viết như thế nào? Goocki đã gặp tư tưởng Lênin, thấy cần thiết
phải phân biệt trong văn học lãng mạn có hai loại: lãng mạn tích cực và lãng mạn tiêu
cực


Lãng mạn tiêu cực hoặc đưa con người thỏa hiệp với thực tại hoặc tô vẻ thực tại, hoặc
tách con người ra khỏi thực tại đi vào thế giới nội tâm với những ý tưởng về những bí ẩn
thiên định về cuộc đời, về ái tình, về cái Tơi


Ðặc điểm của xu hướng lãng mạn là chủ nghĩa bi quan, chủ nghĩa thần bí, thái độ đối
địch với lý trí, sự thốt li thực tại và quay về quá khứ (trung cổ), dựa vào tơn giáo dựa
vào trí tưởng tượng mơt cách bệnh hoạn, thích thú với cái hoang đường kỳ ảo. Xu hướng
này gọi là lãng mạn tiêu cực(hay lãng mạn bảo thủ phản động). Vì nó chống lại mọi sự
tiến bộ của xã hội, quay lưng lại phong trào đấu tranh của nhân dân


Lãng mạn tích cực: tìm thấy vào những năm 1810_1830 ở Châu Âu lúc mâu thuận
sâu sắc giữa giai cấp Tư sản với chế độ phong kiến. Khi cách mạng Tư sản nổ ra ở các
nước Châu Âu là muốn giải phóng nhân dân khỏi ách phong kiến nhưng cuộc sống của
nhân dân vẫn phải sống ách nơ lệ và sự kiểm sốt của một chế độ mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Cả hai xu hướng này có điểm gặp nhau. Ðặc điểm chính của thế giới quan lãng mạn
sự lí giải thường là chủ quan về các hiện tượng đời sống, gán cho đời sống cái mà chủ thể


nghệ sĩ mơ ước được thấy. Do đó các nhà lãng mạn khơng có nhận thức chính xác, mà có
khi tùy tiện bóp méo các qui luật khách quan về sự phát triển của thực tại, đem đối lập cá
nhân với xã hội, đề cao vai trò cá nhân trong lịch sử. Bất bình với thực tại, các nhà lãng
mạn muốn tìm ra giải pháp chống lại những tệ nạn xấu xa của xã hội. Nhưng không nhận
thức đúng đắn qui luật lịch sử cụ thể nên chương trình của họ thường xuất phát từ ý
tưởng trừu tượng thường có tính chất khơng tưởng. Như Victohuygo tuy có cảm tình sâu
đậm với những Người khốn khổ nhưng lại đi tìm giải pháp cứu khổ bằng giải pháp tình
thương.


Việc phân chia chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực và chủ nghĩa lãng mạn tích cực lại nảy
sinh ra vấn đề: sự đối lập về hệ tư tưởng sao lại có thể nằm chung trong cùng một phương
pháp sáng tác lãng mạn. Theo quan điểm của Lênin về hai dong văn hóa trong một nền
văn học dân tộc. Có thể hai dịng văn hóa đối lập nhau về hệ tư tưởng. Nhưng khơng phải
vì thế mà tính thống nhất của nền văn hóa dân tộc bị phá vỡ. Phải chăng các nền văn văn
hóa dù lãng mạn tiêu cực hay tích cực vẫn có những nét chung về tư duy nghệ thuật làm
nền khuynh hướng lãng mạn.


<b>II. CÁI TÔI TRONG VĂN CHƯƠNG</b>


1. Văn chương cổ:


Văn chương trung đại có đề cập tới cái Tôi nhưng cái Tôi ấy chỉ một số nhà thơ nhắc tới.
Trong Quốc âm thi tập, cái Tôi của Nguyễn Trãi đã hóa thân vào thơ:


Ngồi cửa mận đào là khách đỗ
Trong nhà cam qt ấy tơi mình
Ai hay, ai chẳng hay thì chớ
Bui một ta khen ta hữu tình


Cái Tôi trong thơ Nguyễn Trãi Một ta khen ta, một Tôi phải đối diện với Tôi, đối thoại


với Tôi.


Cái Tôi trong thơ bà Huyện Thanh Quan mang một tâm sự u hồi:
...Nhớ nước đau lịng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân nghoảnh lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Cái Tơi trong thơ Nguyễn Công Trứ vừa thách thức vừa thề bồi:
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo


Những câu thơ trên của các nhà thơ đầy tính bản ngã. Tính bản ngã là một trong những
nguyên nhân sinh ra tính nhân bản của nền văn học dân tộc.


Văn chương cổ chứa đựng tâm sự cái Tơi trữ tình, cái Tơi tiềm ẩn mà thời đại hầu như
không chứa nổi, khiến Nguyễn Du phải quay hỏi hậu thế:


Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như


Có lúc cái Tơi trong thơ Nguyễn Du cũng muốn cựa quậy, phá phách
Chọc trời khuấy nước mặc dầu


Dọc ngang nào biết trên đầu có ai...
(Truyện Kiều)


Văn chương bày tỏ khát vọng, ước mơ, phẫn nộ và dự cảm về số phận con người
muốn vượt thóat khỏi giới hạn của thời đại. Thế nhưng tư tưởng chính thống của phong
kiến là trung quân ái quốc, vua là tuyệt đối, vua khơng nhìn thấy số phận cá nhân. Nhưng


cái nhìn của văn chương khơng phải là cái nhìn của vua mà là tiếng nói tình cảm khát
vọng của nhân dân, từ cá nhân với cá nhân. Chế độ phong kiến không chấp nhận cá nhân,
do đó nhà thơ cổ có đề cập đến cá nhân nhưng lại bị tư tưởng phong kiến coi thường
khước từ. Các nhà thơ cổ người thì bị coi là nghịch sĩ, người bị coi là nghịch tử và nghịch
thần.


Văn học cổ khơng hiếm sự tích về ý thức cá nhân, về tri âm, tri kỷ, tri ngộ.
Tri: hiểu


Kỷ: là cá tính, cái riêng, chân trời riêng có nhu cầu được hiểu biết và thơng cảm
Tri kỷ là hiểu được cá tính của nhau


Tri âm: hiểu được tấm lòng
Tri ngộ: là hiểu được cái ơn


Trong thực tế đời sống và trong văn chương có nhiều cặp quan hệ là bạn tri âm, tri kỷ
như Chung Tử Kỳ - Bá Nha, Lưu Bình - Dương Lễ; Nguyễn Khuyến - Dương Kh;
Nam Cao - Tơ Hồi.


Con người ta thấy đời sống có ý nghĩa chừng nào cái kỷ của mình được người biết
đến và được thừa nhận. Chung Tử Kỳ ngồi nghe đàn mà biết được tâm hồn của bạn:


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

(Tiếng đàn lên cao hồn người đang hướng về non
Tiếng đàn khoan nhặt hồn người gửi nơi dòng nước chảy)


Con người ta sẵn sàng chết khi người khác hiểu mình Sĩ vi tri kỷ giả tử (kẻ sĩ sẵn
sàng chết cho người biết mình). Vì vậy có nhiều người chết vì tình u, vì kẻ khác khơng
hiểu mình.


Quản Trọng coi Bảo Thúc Nha cịn hơn cả cha mẹ mình: Thuở thiếu thời ta thường đi


bn với Bảo Thúc Nha, khi chia tiền của ta thường lấy phần nhiều, vậy mà Bảo Thúc
Nha không cho ta là tham, vì biết ta nghèo lắm. Ta đã ba lần cầm quân đánh giặc và cả ba
lần đều thua chạy, thế mà Bảo Thúc Nha khơng cho ta là hèn vì biết ta cịn có mẹ già. Ta
đã ba lần làm quan và cả ba lần đều bị cách chức, Bảo Thúc Nha khơng coi ta là kẻ bất
tài, vì biết thời thế có lúc lợi có lúc khơng lợi. Than ôi sinh ra ta là cha mẹ ta, mà biết ta
chỉ có Bảo Thúc Nha. Ðó chính là nhu cầu muốn khẳng định cái Tôi


<b>2. Văn chương Tư sản:</b>


Chủ nghĩa lãng mạn ra đời như là phản ứng lại chủ nghĩa cổ điển trước nó. Nếu văn
học cổ điển đề cao lí trí thì văn học lãng mạn thiên về cảm xúc trữ tình. Văn học cổ coi
cái Tơi là cái đáng ghét thì văn học lãng mạn suy tơn cái tôi, đề cao bản ngã. Văn học cổ
điển đề cao cổ đại thì văn học lãng mạn hướng về lịch sử dân tộc, lấy cảm hướng nhiều ở
văn học dân gian cũng như thời đại mà nhà văn sống. Văn học cổ điển đề ra đủ thứ quy
tắc phải tn theo, cịn chủ nghĩa lãng mạn khơng bị gị bó bất cứ ngun tắc nào ngồi
quy tắc bên trong của bản thân nghệ thuật.


Nhìn chung đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn nó thể hiện ở chủ nghĩa cá nhân, ở
nguyên tắc chủ quan, ở sự thể hiện, ở xu hướng thiên về mơ mộng.


Văn học phong kiến coi thường ý thức cá nhân, cái Tôi cần phải dấu đi, mới là người
có văn hóa, cịn đem khoe cái Tơi thì là kẻ vơ học: Kẻ ngu này trộm nghĩ ; Ngu huynh
hiền đệnói theo kiểu này là người gia giáo có giáo dục.


Văn học cổ khơng phát triển cái Tôi - cá nhân nên không trực tiếp tả nội tâm con
người - mà nội tâm con người vô cùng phong phú và phức tạp. Văn học cổ phải dùng
hành vi bên ngoài mới miêu tả được bên trong, không đi vào trực tiếp nội tâm bên trong.


Văn học phong kiến khơng có văn học thiếu nhi, xem trọng người già: Cụ cố Hồng
mới có 50 tuổi thích gọi bằng cụ. Nguyễn Du phải để cho Vương quan nói giọng người


lớn mặc dù lúc đó Vương Quan mới chỉ 13 tuổi. Thiếu nhi trong văn học phong kiến là
người lớn bé. Ðó chính là mỹ học của văn học phong kiến. Ðứng trước ý thức hệ phong
kến quá ư là là trói buộc, lạc hậu, do đó vào những năm 1930 phải có một giai cấp mới ra
đời đó là giai cấp Tư sản. Giai cấp tư sản ra đời là Tư sản hóa của ý thức và sự Âu hóa
của thẩm mỹ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Cái Tơi thứ nhất là cái Tôi bản thể của con người. Cái Tôi thứ nhất vốn có từ khi con
người xuất hiện như một thực thể, một sinh thể thóat ra khỏi thế giới động vật. Nhưng
dưới chế độ xã hội nô lệ và phong kiến, cái Tôi ấy bị chà đạp và tỏa chiết. Con người đã
đánh rơi cái Tơi của mình ngay từ đầu, cái Tơi bị trói buộc hay chìm đắm trong một mớ
giáo lí kinh viện.


Cái Tơi thứ hai gắn liền với nhu cầu giải phóng cá tính khi giai cấp Tư sản hình thành
và phát triển, nó đánh thức cái Tôi bản thể.


Cái Tôi thứ ba là cái tơi của cá tính sáng tạo của nhà văn với tư cách là một nghệ sĩ
Nói đến cái Tơi là nói đến lịch sử và cuộc hành trình của nó từ Vương quốc tất yếu
đến Vương quốc tự do.


Cái Tôi nghệ sĩ cũng chính là cá tính sáng tạo, là bản lĩnh của nhà văn, nhà thơ. Vai
trị của nó là quyết định sự hình thành của phong cách nghệ thuật. Nó được thể hiện ở sự
tìm tịi, khám phá, phát hiện riêng của từng nhà văn, nhà thơ trong việc chọn đề tài, nêu
vấn đề, sử dụng ngôn ngữ, xây dựng hình tượng, tổ chức cốt truyện, kết cấu tác phẩm vv


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<b>CHƯƠNG 3: TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN 1930- 1945</b>


<b>I. HOÀN CẢNH RA ÐỜI CỦA TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ÐOÀN</b>


Từ năm 1932- 1945, Tự Lực Văn Ðoàn chiếm ưu thế tuyệt đối trên văn đàn công
khai, sách báo của họ in đẹp nhất, bán chạy nhất, có một ảnh hưởng nhất định trong giới


trí thức tư sản và tiểu tư sản thành thị.


"Tự Lực Văn Ðồn chính thức thành lập năm 1933, gồm có Nhất Linh (Nguyễn
Tường Tam), Khải Hưng (Trần Khánh Giư). Hoàng Ðạo (Nguyễn Tường Long), Thạch
Lam (Nguyễn Tường Lân), Tú Mở (Hồ Trọng Hiếu), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ). Về sau
thêm Xuân Diệu, Trần Tiêu (em Khải Hưng)" (theo tài liệu của Trương Chính). Cịn có
một số nhà văn cộng tác chặt chẽ với Văn Ðồn này đó là Trọng Lang, Huy Cận, Thanh
Tịnh, Ðồn Phú Tứ. Cơ quan ngơn luận của Văn Ðồn là tờ báo Phong hóa, khi Phong
hóa bị đóng cửa năm 1936 thì có tờ Ngày nay thay thế.


Sách Tự Lực Văn Ðoàn in đẹp. Phần lớn in ở nhà in Trung Bắc Tân văn, bấy giờ có
Ðỗ Văn học nghề in ở Pháp về phụ trách. Sau, họ mở nhà in riêng, nhà in Ðời nay. Bìa,
tranh minh hoạ đều nhờ những họa sỹ nổi tiếng trơng coi: Nguyễn Gia Trí, Tơ Ngọc Vân.
Có thể nói trong các nhà xuất bản thời bấy giờ, Nam Ký, Tân Dân, Mai Lĩnh, Cộng Lực,
Minh Phượng, Lê Cường, Tân Việt...chẳng nhà in nào tranh dành được với họ.


Khi ra đời, Tự Lực Văn Ðồn có đề ra tơn chỉ mục đích rõ ràng: "Lúc nào cũng mới,
trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ. Theo chủ nghĩa bình dân, khơng có tính
cách trưởng giả quý phái. Tôn trọng tự do cá nhân. Làm cho người ta biết đạo Khổng
không hợp thời nữa. Ðem phương pháp Thái Tây áp dụng vào văn chương An Nam".


Sau khi những phong trào Cách mạng Yên Bái vào đêm mồng 9 tháng 2 năm 1930 do
Nguyễn Thái Học và Nguyễn Ðức Chính bị thất bại, một khơng khí chán nản, u hoài,
yếm thế bao trùm đời sống. Thanh niên lớn lên khơng cịn có lý tưởng để phụng sự. Con
đường yêu nước bế tắc, họ thoát ly trong những tình cảm cá nhân nhất là yêu đương. Thơ
văn ái tình lãng mạng bắt đầu từ đấy. Chính thời 1930 văn học đã đẻ ra những nhân vật
điển hình như Tố Tâm, Ðạm Thủy. Rồi thơ của bà Tương Phố, ông Ðông Hồ, người chết
chồng, kẻ chết vợ, họ khóc lóc nỉ non, khơi mào cho các nhà văn lãng mạn lớp sau đi sâu
vào tình yêu để rồi phô diễn thành vần thành điệu.



</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<b>II. QUAN NIỆM VỀ CÁI TƠI TRONG TỰ LỰC VĂN ÐỒN</b>


Như trên đã trình bày, văn học lãng mạn 1930- 1945 khác văn học lãng mạn trước đó,
là do sự tư sản hóa của ý thức và sự âu hóa của thẩm mỹ đã đến độ cao.


Trước 1930, người ta cũng đã muốn được hưởng tự do tư sản, nhưng còn vướng mắc
đạo đức Phong kiến nên chủ nghĩa cá nhân đành khuất phục giáo lý Khổng - Mạnh. Thời
phong kiến cái tơi" hầu như bị giam cầm, bị kìm hãm, bị toả chiết và có lúc như bị giết
chết. Con người khơng tự chủ được mình, ln lệ thuộc vào những triết lý hà khắc. Tư
tưởng chính thống của chế độ Phong kiến đã giết chết "cái tôi" của từng con người, cũng
là giết chết cái chủ nghĩa cá nhân. Sau năm 1930, chủ nghĩa cá nhân tư sản xuất hiện ở
Việt Nam. Ðây là một loại chủ nghĩa cá nhân mang tính nhân bản trong buổi đầu phát
triển của tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn. Nên nhớ rằng vào thời kì sau năm 1930 chủ
nghĩa cá nhân tư sản là một bước tiến bộ trong quá trình con người dành quyền sống. Xã
hội Phong kiến Việt Nam chưa hề có quan niệm về cá nhân - cái tơi". Khơng có cá nhân,
chỉ có gia đình, quốc gia. Cá nhân và hạnh phúc cá nhân, bản sắc cá nhân chìm hẳn trong
gia đình trong quốc gia, "như giọt nước trong biển cả". Một sinh viên trong trường Cao
đẳng đọc hết sách Tây như Ðạm Thủy, mà không dám chống lại những tập tục cũ, yêu Tố
Tâm nhưng bị ràng buộc bởi lời hứa hơn của gia đình, khơng tìm được cách nào giải
thốt cho mình và cho Tố Tâm. Bà mẹ Tố Tâm buộc nàng phải lấy một cậu B nào đó
mơn đăng hộ đối. Khơng những thế, Ðạm Thủy khơng có một phản ứng nào đáng kể.
Anh ta vẫn cho tình gia quyến là "tối thiêng liêng". Anh ta phục tùng gia đình một cách
vơ điều kiện. Cho là "bổn phận" là "danh dự".


Chúng ta không bênh vực những cá nhân ích kỷ, hèn nhát, trốn tránh trách nhiệm đối
với gia đình, đối với xã hội, nhưng chúng ta cũng khơng tán thành những ai cứ nghe nói
đến"chủ nghĩa cá nhân" tưởng là cái gì tồi tệ nhất. Xuân Diệu khi bàn về văn học lãng
mạn, cũng nói: "trong nền văn học của các dân tộc, nằm chung trong lịch sử văn hóa
nhân loại. Khi cái tơi" bắt đầu có ý thức là có mình thì theo tơi khái niệm có phần cũng
tương tự như khi một em thiếu niên, đồng thời với sự dậy thì, thời trong tâm tình em ấy


cũng từ trạng thái hồn nhiên vô tâm, chuyển sang tự giác, tự ý thức, tự biết là "mình đây"
có một sự phấn chấn nhạy cảm, ham sống, yêu đời..." (tìm hiểu Tản Ðà).


Bởi vậy khi cá nhân địi hỏi quyền sống, đòi quyền được phát triển nhân cách, khả
năng của mình, đấu tranh cho quyền được yêu, chọn người xứng đáng để chung sống suốt
đời thì khơng thể gọi là chủ nghĩa cá nhân tư sản hưởng lạc, cho là "xa rời với truyền
thống dân tộc" được.


<b>III. NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH CỦA TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ÐỒN</b>


<b>1. Tinh thần chống lề giáo phong kiến, đòi quyền tự do yêu đương, đề cao hạnh</b>
<b>phúc cá nhân</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Chống lễ giáo Phong kiến, địi hạnh phúc lứa đơi và quyền sống con người là một vấn
đề đã được đặt ra từ lâu trong văn học việt Nam: "Sơ kính tân trang" (của Phạm Thái);
thơ Hồ Xuân Hương; "Truyện Phan Trần" (truyện Nôm khuyết danh); "Truyện Kiều"
(Nguyễn Du)... ở mức độ khác nhau đều đã lên tiếng tố cáo thứ lễ giáo khắc nhiệt đó. Cái
chết của Tố Tâm (tác phẩm Tố Tâm của Hồng Ngọc Phách) nói về khách quan cũng là
một thái độ phản ứng chống lễ giáo Phong kiến. Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn tiếp tục
truyền thống ấy của văn học dân tộc trong hoàn cảnh xã hội thuộc địa nửa Phong
kiếnViệt Nam ở thành thị đang trên đà Âu hóa.


a/ Chống lễ giáo Phong kiến


Ở Việt Nam lễ giáo Phong kiến đã ngự trị lên đời sống xã hội hàng ngàn năm với biết
bao những kỷ cương hà khắc để làm một cuộc "Cách mạng" xóa bỏ cái cũ, hàng loạt tác
phẩm Tự Lực Văn Ðoàn đã chĩa mũi nhọn đả kích vào lễ giáo của đại gia đình phong
kiến. Những nhà văn có cơng lớn nhất trong việc này phải kể tới Nhất Linh và Khái
Hưng.



Qua tác phẩm "Nửa chừng xuân" (Khái Hưng) nhà văn đã xây dựng được nhân vật
Mai đương diện đấu tranh với lễ giáo Phong kiến. Lễ giáo Phong kiến đã chà đạp lên
hạnh phúc của mình.


Nhân vật Mai trong truyện là một nạn nhân, một nạn nhân đau khổ và tự trọng, chỉ
biết đem cái chính nghĩa, cái thanh cao của mình ra mà chống đỡ.


Sở dĩ tác phẩm là một trận đánh vào giáo lý và tập tục Phong kiến, là vì nó làm cho
người ta ghét bà n, nhân vật đại diện cho thế lực Phong kiến, mà người ta yêu Mai
-hiện thân của tình yêu thanh sạch, chung thủy. "Nửa chừng xuân" đã làm cho người ta
khóc than Mai nhiều kể cả khi nó được diễn thành kịch trên sân khấu.


Xây dựng nhân vật Mai, Khái Hưng muốn xây dựng một nhân vật lý tưởng, một tình
yêu lý tưởng; Mai dẫu đã có con với Lộc, dẫu vẫn thiết tha yêu Lộc, dẫu đã được bà Aïn
yêu cầu về chung sống với Lộc, nhưng Mai không trở về. Với lịng tự trọng Mai khơng
thể về làm vợ lẽ Lộc được. Thái độ của Mai là một khía cạnh chống chế độ đa thê và là
một cách bảo vệ tình u lý tưởng.


Khái Hưng chưa thực sự mài ngịi bút cho sắc để chống lại bà Aïn. Tác giả chỉ muốn
xây dựng một "mệnh phụ" có đầu óc đầy quan niệm cũ chỉ vì con mà phải già tay giằng
buộc. Nhưng cái hiện thực mà tác phẩm phản ánh còn mạnh hơn ý muốn của tác giả: chỉ
cái thủ đoạn gởi thư tình giả mạo, chỉ cái í định tìm cho Lộc một người vợ ở nơi quyền
q có lợi cho việc tiến thân của Lộc về sau cũng đủ nói lên cái bản chất của bà Aïn- bản
chất của một con người quỷ quyệt. Ðối với hạnh phúc của Lộc - Mai, bà Aïn là một kẻ
phá hoại. Những bà mẹ có lịng nhân hậu khơng làm như bà Aïn được; tác dụng khách
quan của nhân vật là ở đó. Ðược như thế khơng phải tác giả đã nhìn thấu suốt nhân vật
phong kiến đã lột trần được cái bản chất phong kiến của bà Aïn đâu. Chính là nhờ ý
nghĩa của một số chi tiết hiện thực, mà cũng là nhờ sức lôi cuốn của nhân vật Mai nữa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

bà bẽ mặt dồn bà Aïn đến chổ đuối lý. Trong xã hội thực dân Phong kiến lúc bấy giờ,


chúng ta tìm được một cơ gái như Mai không phải nhiều lắm. Song cũng không phải là
khơng có. Mai khơng hẳn giống các cơ gái thị thành. Mai có cái mạnh dạn táo bạo của
một "cơ gái tân thời" nhưng cũng có cái dịu dàng, nết na, chân chất của một cô gái thôn
quê. Những đức tính của mai gần với đạo đức nhân dân. Cái tôi" của chủ nghĩa cá nhân
thời kỳ đầu mới ra đời đã mang lại được tính nhân bản của nó.


Nhân danh chống lễ giáo phong kiến, tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn ở thời kỳ đầu
được phát triển cả về hình thức và nội dung.


"Ðoạn tuyệt" của Nhất Linh là cuốn tiểu thuyết tặng những thanh niên nam nữ đang
đau khổ vì cuộc xung đột mới - cũ như lời tác giả viết trên đầu sách.


Nhất Linh muốn chứng tỏ rằng tình u cùng chí hướng đều bị đại gia đình Phong
kiến kìm hãm, chỉ có một lối thốt là đoạn tuyệt với đại gia đình Phong kiến. Truyện lấy
tên là "Ðoạn tuyệt" vì thế.


Trong cách xây dựng truyện, ta nhận thấy cái khó khăn này: bị ràng buộc trong cái xã
hội cũ, Loan khơng bao giờ thốt khỏi cảnh làm dâu nhà bà Phán Lợi. Loan mà thoát
được là do một sự tình cờ, một vụ ngộ sát đưa đến một vụ xét xử. Tác giả phải mượn đến
trường hợp ngẫu nhiên ấy để mở đường cho Loan.


Câu chuyện Nhất Linh viết khá cảm động. Loan thông minh biết điều, yêu sâu sắc,
tha thiết tự do, tự lập. Nàng bị ép lấy Thân. Người chồng quá lạc hậu, không hiểu vợ; mẹ
chồng ác nhiệt, hành hạ con dâu, em chồng xúi dục mẹ thêm. Cả một đại gia đình chống
lại những ý nguyện tốt đẹp nhất của Loan. Ngày lại ngày, một chuỗi đau khổ đến với
Loan. Loan có lúc đã nghĩ rằng thà đi hoạt động phiêu lưu như Dũng, người yêu của
nàng, "nếu có gặp cái chết chăng nữa, cái chết cũng không đáng thương bằng cái chết dần
chết mòn". Cả tác phẩm là một bản cáo trạng. Loan tiêu biểu cho "cái mới". Người đọc
theo dõi Loan, thương mến Loan, vui mừng khi thấy Loan ra tòa được tha trắng án. (cái
mới đã thắng). Giá trị đương thời của tiều thuyết là ở đó.



Ðối với phong tục tập quán cổ hủ, những cảm tưởng chua chát, những mẩu đời thực,
những tấn kịch xảy ra giữa Loan và Thân, giữa Loan và bà Phán Lợi, có tác dụng phê
phán mạnh. Chẳng hạn bị cha mẹ ép gả cho Thân, khi lợn quay nhà trai dẩn lễ, Loan đã
đem chia cho bà con họ hàng, Loan ngẫm nghĩ "thịt quay mình đây. Bây giờ cứ ở mỗi
nhà quen trong mâm tất có món thịt quay. Mỗi nhà một miếng thế là đối với cái xã hội
nhỏ này mình đã nghiễm nhiên là vợ thân, là con dâu bà Phán Lợi. Ðố chạy đâu thoát".


Quả vậy, "việc nhân duyên của nàng chỉ là việc mua bán. Trước kia cha mẹ Loan
giao ước cho nàng làm vợ Thân là đã làm một việc bán linh hồn của con mình, nay cha
mẹ bắt nàng làm vợ Thân là đã bán xác thịt của nàng, bán nàng vì một số tiền ba ngàn
bạc".


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

phải thừa nhận thì "Ðoạn tuyệt" chế độ gia đình hà khắc bị lên án kịch liệt. Vì sau mười
năm làn gió mát " Âu hóa" đã tràn vào Việt Nam, cái "tôi" của chủ nghĩa cá nhân đã tự
khẳng định được mình.


Cái thế giới tâm tư của cá nhân từ xưa ít được khám phá. Cá nhân không được đếm
xỉa đến, nên người cầm bút e ngại bộc lộ những nổi niềm riêng. Với văn học lãng mạn, cá
nhân là đề tài chủ yếu. Dưới hình thức này hay hình thức khác, các nhà văn chăm chú
biểu hiện cái tơi". Cái tơi của họ cịn được giành cho họ và cho độc giả nhiều điều mới
mẻ.


Cũng là một hình thức chống lại lễ giáo Phong kiến nhưng tác phẩm "Gia đình" của
Khái Hưng lại biểu hiện ở một khía cạnh khác. Những cái thối nát của đại gia đình,
những cái thối nát trong quan trường, đó là cái phần hiện thực trong tác phẩm của Khái
Hưng. Tá giả muốn chứng tỏ rằng khuất phục đại gia đình, dấn thân vào quan trường (mà
đi làm quan trường cũng là vì đại gia đình phong kiến). An là nhân vật chính của "Gia
đình". Anh cảm thấy đời mình trống rỗng vơ vị "chàng khơng cịn tin ở cái quan niệm sự
sống và cách bày trí tương lai của chàng. Và chàng cảm thấy sự trống rổng vô vị dần dần


lấn sâu mãi linh hồn. Hôm nay cũng như hôm trước đây, chàng vác súng đi săn là để cố
lấp kín sự trống rỗng đó.


An lấy vợ, "lấy vợ khơng phải vì chàng mà chỉ vì gia đình, vì tổ tiên, vì những người
chết..."


An đi học thêm ở trường luật rồi ra làm quan vì mẹ vợ, vì anh rể (Huyện Viết), vì em
vợ, vì vơ, vì những ghen tị khích bác trong đại gia đình.


Một lần nữa đại gia đình tấn cơng An. Những tấn bi hài kịch mà tác giả miêu tả có
một ý nghĩa đã phá rõ rệt.


Còn vấn đề quan trường? Hãy nghe mấy lời An tự nhủ: "ta phải bình tĩnh sau được!
thời nay hai chữ "quan trường" đã trở nên cái ý nghĩa ghê sợ, huyền bí. Ðến nay, ta cũng
rùng mình mỗi khi ta nghe kể những câu chuyện về quan trường, những cơng trình tàn ác
của một vài viên tri huyện, tri phủ bất lương mà mục đích làm quan là để bóc lột dân quê
ngu dại. Ta biết thế mà ta còn đâm đầu vào!... chẳng qua chỉ tại vợ ta, chú ta và cậu ta,
chỉ tại gia đình ta cả!".


An vô cùng khổ sở trong cảnh làm quan của mình, đến nổi có lúc phải thốt lên: "Làm
quan! trời ơi, sao tơi lại làm quan!".


Viết "Gia đình" thái độ của tác giả thù ghét đại gia đình, thái độ đã kích của tác giả đối
với quan trường và thái độ mến chuộng của tác giả đối với cuộc sống của địa chủ "văn
minh" và "nhân đạo" đã rõ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

lương tâm và bổn phận làm mẹ.


Viết được các tác phẩm trên, các nhà văn Tự Lực Văn Ðồn có ý thức dương cao lá
cờ nhân đạo chủ nghĩa, mang đến cho chủ nghĩa cá nhân một màu sắc hấp dẫn của chính


nghĩa.


b/ Ðề cao hạnh phúc cá nhân


Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðồn địi quyền tự do yêu đương cho thanh niên. Các nhà
văn đã tự đưa ra một quan niệm mới mẻ về hạnh phúc cá nhân, về tình u, xem đó là lẽ
sống duy nhất của con người.


_Tình yêu trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðồn là mn hình vạn trạng. Có tình u
"bất vong bất diệt" của Lan và Ngọc dưới bóng từ bi phật tổ (hồn bướm mơ tiên)- Khái
Hưng. Ðây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Tự Lực Văn Ðồn. Nó được thanh niên thành
thị đón chào như một người bạn chờ đợi từ lâu. Nó nâng ái tình lên một triết lý, miêu tả tỉ
mỉ những băn khoăn của lòng yêu.


Ðề tài của cuốn tiểu thuyết lấy trong cuộc sống của tiểu tư sản thành thị: Ngọc là sinh
viên Trường Cao Ðẳng Canh Nông, đọc tiểu thuyết Pháp và biết hội họa. Lan là một cơ
gái có học, khơng "q mùa" chút nào, bỏ nhà đi tu vì chẳng muốn lấy một người chồng
bị ép buộc.


Ngọc gặp chú Tiểu Lan dưới chùa Long Giáng, kiều diễm dưới bộ áo tu hành. Ngọc
ngờ lan là gái, để tâm theo dõi. Càng thấy mình đồn trúng, Ngọc càng đem lịng u.
Lan khơng khỏi bồi hồi: ái tình nảy nở trong tâm hồn cô gái đi tu! lan đấu tranh để khỏi
sa ngã. Thái độ muốn dứt khốt, nhưng lịng vẫn cứ u. Ngọc cũng chẳng gạt bỏ được
mối tình. Kết cục hai người xa nhau mà "yêu nhau trong linh hồn trong lý tưởng"... và
vẫn có thể gặp nhau. Câu chuyện chỉ có thế: một chuyện tình "dưới bóng từ bi Phật tổ"


Khái Hưng muốn miêu tả cuộc xung đột giữa ái tình và tơn giáo. Trong cuộc xung đột
hồi hộp và đau đớn ấy, ái tình hẳn phải thắng. Dù khơng thắng hẳn, nhưng cũng là thắng.
Ái tình thắng vì ái tình là "bản tính con người ", chỉ có ái tình mới đem lại hạnh phúc.



Viết "hồn bướm mơ tiên", Khái Hưng đã đề cao ái tình trong trắng, cao thượng, tránh
những dục vọng thường tình. Ngọc yêu Lan, một tình u chung thủỷ::"tơi xin viện Phật
tổ, tơi thề với Lan rằng suốt một đời tôi, tôi sẽ chân thành thờ ở trong tâm trí, cái tâm hồn
dịu dàng của Lan". Chúng ta hãy biết rằng, bất cứ bao giờ, đối với một tình u chân
chính, lịng chung thủy vẫn là tốt đẹp và cảm động. Nhưng phải chăng ở đời ái tình là
trên hết! Phải chăng suốt đời, người ta chỉ nên sống trong cái thế giới mộng ảo của ái tình
dù là cái ái tình lý tưởng, ái tình "bất vong bất diệt" như lời văn vẻ của Ngọc.


Thanh niên hồi bấygiờ, tuy đã lấy ái tình làm lẽ sống, nhưng chưa đến nổi trụy lạc,
trác táng, cái lãng mạng của họ có chất mộng ảo, khơng tưởng nhiều. Cố nhiên cái mộng
ảo của thanh niên mất nước chỉ có lợi cho bọn cướp nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Phật giáo, có chỗø hầu như đề cao, thì bọn thống trị chẳng cần ngăn cấm.


_ Tình yêu trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðồn có tình "trong giây phút mà thành
thiên thu" như Loan và Dũng trong "Ðoạn tuyệt".


Dũng bất mãn về hồn cảnh gia đình, u mà khơng lấy được Loan, dọn đi ở một căn
nhà tồi tàn ở xóm lao động hẻo lánh. Người ta có gặp Dũng dăm ba lần: lần Dũng bị tai
nạn ô tô trong rừng, tình cờ gặp xe Loan một lần trong dịp tết,một lần Dũng ngồi trên
khoan thuyền bùi ngùi nhớ tới Loan, một lần Dũng đứng lẫn trong đám công chúng dự
phiên tòa và lần cuối cùng Dũng lại gặp Loan tại nhà chị giáo Thảo, hai người hiểu rõ
lòng nhau rồi gắn bó với nhau như sở nguyện.


Viết "Ðoạn tuyệt" Nhất Linh đề cao tình u lứa đơi, đó là tình cảm tự giác, tự
nguyện đến với nhau dù chỉ là giây phút ngắn ngủi nhưng trong trắng và thủy chung.


_Tình u trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðồn, có tình yêu mộc mạc thuỷ chung của
Liên trong "Gánh hàng hoa" của Nhất Linh và Khái Hưng.



Liên là một cô gái thùy mị, nết na, chăm chỉ làm lụng, giàu lòng vị tha và đức hy
sinh. Liên đã kéo chồng tội lỗi ra khỏi vòng trụy lạc, sa đọa trở về với tình u chân
chính. Liên biết trân trọng và gìn giữ hạnh phúc lứa đơi của mình.


Viết về tình yêu trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn, các nhà văn đã đề cao tình cảm
trong sáng thủy chung của những chàng trai cơ gái. Tình u của họ phải vượt qua bao
nhiêu những ràng buộc, khắc khe nhưng họ ln đấu tranh bảo vệ hạnh phúc của mình.
Ðó chính là điểm tiến bộ của tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðồn.


Song bên cạnh những mối tình cao đẹp, thủy chung thì cũng có những tình u
"khơng cịn có cái gì gọi là thiên liêng nữa".


Ðó là tình u lén lút, vụng trộm của Nhung trong "Lạnh lùng" của Nhất Linh. Tình
u bơng lơng tài tử của Nam "Ðẹp" của Khái Hưng. Khái Hưng muốn miêu tả một tâm
hồn nghệ sĩ: nghệ sĩ tơn thờ cái "Ðẹp" chỉ vì nó là đẹp và thực hiện cả cái triết lý ấy trong
đời sống của mình "Vẽ để mà vẽ.Ðó là ngun tắc của chành về hội họa. Ðược vẽ là đủ
rồi, là sung sướng rồi, chàng không cần phải hỏi và phải biết: vẽ để làm gì?.Một bức
tranh chỉ có giá trị khi mình cịn đương vẽ, vẽ xong nó là cái khung vải bơi sơn".


Trong tình u, Nam cũng có những quan niệm khác người: hoặc lấy vợ và thôi vẽ,
hoặc vẽ tranh và đừng lấy vợ. Trong "Ðẹp" tâm trí của Nam là một tâm trí chẳng lành
mạnh. Ðiều đó cũng thể hiện đúng cái thế giới quan của các nhà văn lãng mạn ở thời kỳ
cuối. Tầm mắt của văn học lãng mạn chẳng phóng xa nữa, nhà văn càng lui vào thế giới
bên trong, xa hẳn thực tại xã hội. Với họ, phong trào quần chúng và cuộc đấu tranh về
nghệ thuật đã là chuyện cũ rồi. Ðời sống của dân nghèo thành thị và thôn quê chẳng lưu ý
họ nữa. Chẳng còn những băn khoăn, thấp thỏm, ít nhiều dính liúu đến thời đại đến dân
tộc! Tất cả nhân sinh, tất cả xã hội chỉ thu hình trong Cái Tơi" bé nhỏ ốm yếu. Ðề tài eo
hẹp lại, chủ đề quanh co đi, nội dung bắt đầu đã thấy khó khăn bế tắc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Hồng Ðạo đã tìm "Con đường sáng", nếu Nhất Linh đã tạo "Ðơi bạn" thốt li gia đình để


làm Cách mạng (dù là cách mạng để mua cái qn) thì chính Nhất Linh lại viết "Bướm
trắng" chuyên tả một thanh niên xa đoạ.


Nam ít ra cịn hâm mộ cái đẹp, cái đẹp hình thức, phần nào cái đẹp tinh thần. Trương
của Nhất Linh trong "Bướm trắng" thì độc đáo đến thành quái gở. Nhân vật khác thường
này đã tụt xuống hố sâu nhơ bẩn.


Trương yêu Thu "Trương nghĩ lại mới thấy tình chàng u Thu khơng có một lí nhẽ
gì sâu xa, một căn bản gì chắc chắn cả. Chỉ là một ảo tưởng gây nên một vài sự rủi ro; lần
đầu trông thấy Thu là Thu đẹp não nùng trong bộ áo tang... Thu lại có vẽ đẹp giống Liên,
người mà trước kia chàng đã yêu...".


Ở tù ra chàng hy vọng Thu vẫn u chàng và chàng tính tốn như sau "... giờ chỉ còn
một cách là rủ Thu đi trốn. Phải đấy, khơng xong thì ta sẽ về làng lấy Nhan". Trương đã
thay người yêu như thay áo và Trương ln ln có ý muốn lạ lùng "làm cho nhân phẩm
mình mất dần đi". Trương đặt tình yêu lên trên cả dư luận xã hội, trên cả nhân phẩm: "
u nhau đến khơng cần gì cả, khơng kể đến cha mẹ, đến xã hội. Chẳng biết Thu có là
người u đến bậc ấy khơng. Mình thụt két mà Thu yêu mới là yêu.


Nhân vật Cảnh trong "Thanh đức" cũng giống Trương, hai nhânvật này bổ sung cho
nhau để hoàn thiện bản chất thô bạo, đểu cáng một cách trắng trợn. Cảnh thay đổi tình
nhân như thay đổi áo sơ mi. Hắn dùng vũ lực, dùng tiền bạc để chiếm đoạt tình nhân của
bạn. Ðối với hắn ở trên đời này "khơng cịn cái gì đáng gọi là thiên liêng nữa, nếu ta
muốn dành chữ thiên liêng cho một cái gì".


Tình u trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðồn đi từ lãng mạn đến suy đồi là một hiện
tượng có tính quy luật và dễ hiểu.


Từ những nhân vật tích cực như Mai, Loan, từ những tình cảm tốt đẹp Ngọc, Loan,
Liên, tác giả mau chóng chuyển sang những nhân vật do dự, giỏi chịu đựng hơn là ít đấu


tranh như Hồng, Nhung... vấn đề chống lễ giáo phong kiến chỉ một vài năm sau lùi dần
vào dĩ vãng. Và cuộc đấu tranh bằng văn hóa chống phong kiến chỉ xảy ra trong phạm vi
lễ giáo. Ðối với chế độ chiếm hữu ruộng đất cái gốc của lễ giáo phong kiến tiểu thuyết
Tự Lực Văn Ðồn khơng đề cập đến. Tiểu thyết Tự Lực văn Ðoàn chỉ chống đối với bộ
phận hủ bại nhất của giai cấp phong kiến ngăn trở hạnh phúc cá nhân.


Về văn học lãng mạn, Ðặng Thai Mai nhận định: "Phần đông các nhà văn vẫn sung
sướng ẩn nấp sau cái biểu ngữ "khơng làm chính trị" để lao đầu vào con đường "tự do
chủ nghĩa" và ca ngợi tự do ái tình, tự do cá nhân và chủ nghĩa anh hùng viển vông. Tất
cả cống hiến của văn chương thời này là những tìm tịi về kỹ thuật biểu hiện và những cố
gắng để phân tích tâm lý của con người tiểu tư sản" (nghiên cứu văn học số 1 - 1960)
<b>2. Xu hướng bình dân:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

nhau ra đời.


Mặt khác, cho khỏi lạc lõng, văn học lãng mạn chạy theo phong trào bình dân: nó
gượng thích nghi với hồn cảnh mới để dễ tồn tại.


Tự Lực Văn Ðoàn dù muốn "tự lực" đến thế nào cũng chịu sức tác động của Mặt trận
dân chủ. Họ phải khuôn theo sự chuyển hướng trong công chúng. Họ thêm mục "Bùn lầy
nước đọng" chuyên viết về dân quê. Năm 1939, Hoàng Ðạo, tác giả cuốn "Con đường
sáng", công bố "10 điều tâm niệm" bàn về đạo làm người: con người phải hoàn toàn theo
mới, tin ở sự tiến bộ, sống theo một lý tưởng và làm việc xã hội. Tiểu thuyết Tự Lực Văn
Ðoàn trong thời kỳ này, muốn tỏ ra nặng khuynh hướng xã hội, băn khoăn đền bình dân.
Nói chung gọi là "xu hướng bình dân" của họ chỉ vươn lên được đến cái mức cải
lương xã hội mà thôi.


"Hai vẻ đẹp" của Nhất Linh, nó đặt lên câu hỏi: giữa hai vẻ đẹp, vẻ đẹp vị nghệ thuật
và vẻ đẹp vị nhân sinh, thì vẻ đẹp nào đẹp hơn? và nó giải đáp rằng đẹp vị nhân sinh mới
thật là đẹp.



Vốn con nhà nghèo, Dỗn vào làm em ni bà Thượng, được sang Pháp du học, thi
đỗ cử nhân luật. Nhưng chàng không chịu ra làm quan, suốt ngày chỉ mải mê vẽ tranh.
Dần dầìn Doản đi về nơng thơn để vẽ, hóa ra gần gũi với những nỗi khổ của dân quê, như
cảnh khổ cực, tiều tụy của nông dân hiện ra trước mắt: "mấy mảng bè rau rút màu xanh
già, mùa thu rắc hoa vàng lấm tấm, lại càng tăng vẻ bẩn thỉu của cảnh ao tù...".Và cảnh:
"một đứa bé con trần truồng đi ra cầu ao bụng to và hai chân lẳng khẳng trơng tựa một
con nhái dựng đứng".


Lịng thương người ở Doản ngày một tăng, Doản không thể dửng dưng trước cuộc
đời. Cuộc đời mải mê hình sắc trước kia đối với Doản thanh cao biết bao! nay Doản
khơng dám tự hào về nó. Cuộc đời như thế đã trở thành vơ nghĩa. Khơng những thế Dỗn
cịn thấy nghệ thuật thuần túy của mình là bước tường ngăn cách của mình với cuộc sống
thực, cũng như cuộc sống giàu sang của bà mẹ ni Dỗn là một bức tường ngăn Dỗn
với người bình dân "Dỗn so sánh túp nhà lụp xụp ở hai bên vệ đường với mái nhà gạch
cụ Thượng đỏ tươi lẩn sau chùm lá hoàng lan".


Cho nên Doãn phải sống một cách khác! Phải sống vì dân quê, để phục vụ dân quê.
Thế là tâm hồn Doản trở về với dân quê, tự nguyện xây dựng hạnh phúc cho dân q.
Dỗn tìm thấy bạn chí tình của mình ở dân quê lầm than, khác nào Dỗn tìm thấy nguồn
sống ở cái hình ảnh dịu dàng của người mẹ đau khổ.


Giữa hai vẻ đẹp, vẻ "đẹp vì đẹp" của người họa sĩ khơng biết gì khác ngồi hội họa,
với vẻ đẹp của người đem tân trí hoạt động vì bình dân. Dỗn khơng do dự đã trả lời vẻ
đẹp nào là đẹp hơn, ít ra, Dỗn cũng thấy vẻ đẹp sau quả là đáng quý và có thể đem lại
hạnh phúc cho mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

diển biến trong tâm hồn nhân vật. Sự thay đổi chí hướng quá mau, phần nào gượng ép:
một số điều mắt thấy tai nghe, gợi lên những cảm nghĩ cần thiết, dẫn đến sự đột biến
trong tư tưởng! Tâm lí của một thanh niên đi chệch hướng, nay chợt tỉnh, ù té chạy theo


phong trào! Dỗn gần gũi người nghèo, vì Doãn vốn là con nhà lao động. Nhưng Doản đã
sống xa nông thôn từ thuở bé, cần phải được tiếp nhận cái sức nóng hổi của cuộc sống
thực, cần được rèn luyện trong thực tế đấu tranh mới có thể đi tới một chí hướng sâu sắc
được. Người ta thấy thiếu cái sức nóng hổi ấy, thiếu cái cơ sở hiện thực q giá ấy. Hình
tượng ở đây khn theo luận đề, mới minh hoạ được mệnh đề, chứ chưa biến cái luận đề
thành một chất sống.


Hơn nữa, Doãn trở lại với nơng dân, mà cịn đứng trên sẳn sàng ban ơn xuống, khơng
để nơng dân như "xác cịn vờ" chẳng ai chăm sóc tới. Hẳn Doản nghĩ đó là nhiệm vụ của
người tài trí và sẳn tiềún!. Ðiều dự định của Doản gắn chặt với tình thương mẹ, một
người cố nơng đau khổ, nó khiến ta cảm động song nó khơng khỏi làm ta cịn dè dặt.


Sau những suy nghĩ lao lung, Doản mới có một lời tự hứa, chưa rõ Doản sẽ làm gì.
Tác phẩm chấm hết, để lại cho người đọc một mổi băn khoăn là bởi cái hướng cịn mơ hồ
q, chính tác giả cũng chẳng rõ Dỗn sẽ làm gì!.


Doản cũng đến như Duy trong "Con đường sáng" như Hạc và Bảo trong "Gia đình"
"Con đường sáng" của Hoàng Ðạo viết năm 1938. Hoàng Ðạo quan niệm: thanh niên
trụy lạc thì đau khổ. Họ phải sống có lí tưởng. Họ phải thóat con đường tối, con đường
trụy lạc, đi tìm "Con đường sáng". Con đường sáng ấy là ở cuộc sống phục vụ dân q.
Nó gập ghềnh khúc khuỷu. Phải kiên trì đi tới mới thành cơng và có hạnh phúc. Ðó là tư
tưởng chủ đạo của Hoàng Ðạo, tác giả truyện "Con đường sáng", người đã viết "mười
điểu tâm niệm"


Duy một thanh niên có học, con nhà giàu và đã lao vào con đường trụy lạc. Nhưng
Duy sớm nhận ra được sự trống rổng trong cuộc đời. Có lúc Duy muốn quyên sinh. Duy
lo sợ những ngày sắp tới Duy mơ ước một cuộc đời giản dị, trong sạch. Duy tha thiết
sống và tình yêu của thơ khiến cho Duy càng tha thiết với sự sống hơn.


Gần thơ, gần cuộc sống nơi thôn dã, dần dần Duy đã nhận thấy: " cái vui ở trong cơng


việc ngày mùa, cái vui trong sạch nó đợi chàng từ lâu..." Duy thoáng nghĩ tới "Con
đường sáng": "những người thợ mạnh khỏe kia đã vơ tình đem lại cho chàng một lối sống
mới, một con đường đi đến hạnh phúc".


Muốn rứt bỏ đời trụy lạc, Duy tưởng đến tìm hạnh phúc ở thơn q, ở "sự trong sạch
ở linh hồn và thể phách", "Chốn thôn quê yên tĩnh này sẽ làm cái tổ ấm áp của con chim
bấy lâu bay mỏi ở những rừng xa, xứ lạ, vẩn vơ tìm cái hạnh phúc nó vẫn đợi sẵn ở đây"


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Duy đi tìm lí tưởng, lí tưởng đó là:"làm dịu nổi đau khổ của nơng dân, đưa những
người sống tấm thảm kịch kia đến một đời êm đẹp"


Thế là Thơ và Duy bắt tay vào công việc. Nhưng công việc to lớn, khó khăn
quá:"xung quanh thành kiến mạnh mẽ và kiên cố quá, sự ngu độn dày đặc quá. Duy có
cái cảm tưởng rằng mình chỉ là một con ruồi mắc trong một cái mạng nhện, vùng vẫy mãi
khơng sao thốt ra được.


Duy thấy cái nguyên nhân của mọi sự đau khổ của nông dân là ở sự ngu dốt, mà ngu
dốt là tại không được học:"Duy nghĩ đến dân quê, nhớ lại gian phòng sách và vui mừng
đã hiểu nguyên nhân giản dị của sự ngu muội đè lên tâm trí người nghèo khổ.... và Duy
đã nhận thấy: "nổi thống khổ của dân quê chàng trông như một trái núi lớn, sừng sững,
bất di bất dịch và sự ngu muội của dân quê như mây đen bao phủ lấy ngọn không biết tự
bao giờ nhưng dày đặc như đêm tối... chàng cảm thấy cái yếu đuối, cái hèn mọn của con
người trước trái núi sừng sững ấy...". chính bởi cái xu hướng "bình dân" của tác phẩm
không phải là xu hướng cách mạng, cho nên:"sau một giây mộng tưởng ngắn ngủi. Duy
càng thấy vô vị chua cay của thực tế; ở đây chỉ có chàng với cái yếu đuối cái hèn mịn..."


"Con đường sáng" của Hoàng Ðạo viết vào thời kỳ mặt trận dân chủ, giữa lúc quần
chúng đấu tranh đòi quyền lợi của mình, "Con đường sáng" con đường cải lương tư
sản-chỉ đem lại một ảo tưởng nguy hiểm. Chúng ta mong thanh niên thoát con đường tối
nhưng cũng mong họ đi vào "con đường sáng thực sự "



Cũng như Doãn trong "Hai vẻ đẹp", Duy trong "Con đường sáng", Bảo, Hạc trong
"Gia đình" của Khải Hưng viết 1936. Khải Hưng đã đối lập cuộc sống được miêu tả như
là sự thanh thản, đầy hạnh phúc của cặp vợ chồng Hạc, Bảo "làm ruộng", với cuộc sống
nhỏ nhen, kình địch về địa vị xã hội của những anh chị em trong một đại gia đình phong
kiến. Hạc đang học "Ðốc tờ", bỏ về ấp cùng với Bảo thực hiện những công cuộc cải cách
ở ấp mình để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần dân q. Họ tuy vẫn thu tơì nhưng
sau khi đã nạp đủ thuế còn lại bao nhiêu đem dốc cả vào công việc cải thiện đời sống cho
tá điền như phát thuốc, đắp đường, xây trường học, sân vận động và dựng cả một khu nhà
nghỉ mát. Như tất cả những nhân vật thơ mộng khác của Khái Hưng, Bảo và Hạc đã
thành công một cách dễ dàng. Khái Hưng dựng lên một hình ảnh hạnh phúc của Bảo như
sau:


"Bảo ngước nhìn con chim chích chịe đương phưỡn ngực cất đi hót từng nhịp dài.
Bảo so sánh cái sung sướng hồn nhiên của mình với tiếng hót vui vẻ của con chim một
buổi sáng xuân êm mát..."


Bảo và Hạc sống thỏa mãn, thanh thản trong công cuộc từ thiện ấy:"Hạnh phúc của
họ tức là hạnh phúc của ta... cịn gì sung sướng bằng trơng thấy ở trước mắt những người
dân q mặt mũi sạch sẽ, nơ đùa trị truyện thảnh thơi..."


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

của nơng dân súc tích lại" (Hai vẻ đẹp). Dũng ngậm ngùi nhận xét: "trong gia đình khơng
có một người làm một việc gì cả mà người nào cũng sống phong lưu sang trọng" (Ðơi
bạn).


Tóm lại trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam bấy giờ, trước cảnh nơng dân bị bóc lột tàn
tệ, những suy nghĩ nói trên là tiến bộ. Nhưng dù sao nó cũng chỉ mới là những nhận thức
của những trí thức bất tự trọng. Những nhận thức ấy chưa thóat khỏi quĩ đạo tư sản và
những nhận thức ấy khơng ít những phức tạp, chính đó là sự phức tạp của tiểu thuyết Tự
Lực Văn Ðồn. Có lúc thì tỏ ra trân trọng q mến người nơng dân, có lúc lại tỏ ra khinh


bỉ miệt thị người nơng dân. Dỗn cho rằng: "xã hội dân quê bao giờ cũng nghèo xơ,
nghèo xác như bây giờ. Hai mươi năm trước đây cũng vậy. Hai mươi năm sau nữa cũng
thế này thôi. Không có chút hy vọng gì về một sự đổi thay và kịch liệt như một trận gió
mạnh nổi lên thổi sạch hết bụi cát, rơm rác". (Hai vẻ đẹp) đối với Dũng thì cho nơng dân
quen sống với cảnh khổ:"khơng hề khao khát một cuộc đời sáng sủa hơn, mong ước một
ngày mai tươi đẹp hơn ngày hôm nay". (Ðoạn tuyệt). Những nơng dân ấy cịn là Hai Lẫm
bị địa chủ đánh đau chết cha chết mẹ, sưng bươu cả đầu lên mà vẫn đinh ninh rằng "cụ
lớn đánh con là cụ lớn thương...thế mới biết cụ lớn còn khỏe" (Ðơi bạn). Ðó là những
người nơng dân Nhiêu Tích (trong truyện ngắn May quá) Sửu (trong truyện ngắn hai
cảnh Ngoài phố) khờ khạo đến ngớ ngẩn, thật thà đến dại dột. Ðó cịn là Bìm (trong
truyện ngắn Hai chị em). "An phận như một con lợn không tư tưởng... mà đời nàng với
những con lợn kia không biết đằng nào gía trị hơn đằng nào đáng sống hơn"


<b>3. Người "Chiến sĩ cách mạng":</b>


Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðồn bao giờ cũng muốn thể hiện vai trị lịch sử của mình.
Vai trị của ý thức hệ tư sản Việt nam bao gồm hai mặt: phản đế và phản phong. Ðến thời
kỳ này đối với đế quốc ý thức đó hoặc tìm cách thỏa hiệp hoặc lẩn dài, chạy trốn. Tính
chất thốt li của văn học lãng mạn thì đã rõ, đủ các nẻo đường như thoát ly vào tình yêu,
vào mộng ảo, tiên giới. Cuộc đấu tranh bằng văn hóa chống lề giáo phong kiến hoặc ước
mơ cải lương tư sản đều mang tính chất thốt li ấy. Xu hướng ấy Dũng và những người
"đồng chí" của anh hiện lên như Trúc, Thái, Tạo, Xuân, Cận... (Ðôi bạn)


Dũng "Ðoạn tuyệt" được miêu tả như là một thanh niên "có tâm trạng" sau khi bải
khóa bỏ học về nhà, Dũng đau khổ vì "phải sống trong một cảnh giàu sang khơng đích
đáng" tự cho mình "khơng có quyền hưởng và không muốn được hưởng", "Dũng thấy sự
giàu sang của bản thân và của cả nhà như là một cái nhục". Dũng bất mãn vì mối quan hệ
khơng hợp lý giữa cha mình và những người tá điền. Với tâm trạng day dứt ấy, Dũng đã
ra đi, bỏ lại cuộc sống sung sướng đầy đủ mà những kẻ tầm thường cho là hạnh phúc, bỏ
lại mối tình của Loan. Dũng cùng với Trúc vượt biên giới sang trung Quốc và định sang


cả Liên Xô.


Người cách mạng trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðồn là tính chất lãng mạn. Ðộng cơ
yếu ớt, cái nhìn bi quan, tấm lịng phiền não như ta đã nhận xét.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Tạo bỏ nhà đi hoạt động vì ghét " các bà gì quanh năm hạch sách, vì chê vợ mình vừa
béo, vừa rỗ, vừa đen" họ chạy theo một thứ hạnh phúc đặc biệt khó kiếm. Ðể thoả mãn
thất vọng, họ tìm, tìm mãi. Tìm mãi chẳng được họ đành mưu cái quên bằng con đường
khác thường, cuộc sống mới lạ. Ðời cách mạng là nơi trú ẩn cá nhân. Ðời cách mạng là
một ước mơ huyền ảo: đến khi thực hiện họ thấy đau khổ và chán nản: "họ đối với nhau
chỉ có một giây liên lạc chung là tình bạn hữu, cịn ngoài ra mỗi người đi theo một ngã
đường, sống theo một cảnh đời riêng, yếu ớt, rời rạt. Thỉnh thoảng lại nghe tin một người
trong bọn chết đi hay bị tù tội, rồi ai nấy trước số mệnh chỉ việc cúi đầu yên lặng nơm
nớp đến lượt mình". Vốn là sản phẩm của một ý thức hệ tư sản và tiểu tư sản đương thời
bạc nhược đầu hàng, những hoạt động của Dũng và những đồng chí của anh ta không hơn
"một tiếng thở dài chống chế độ thuộc địa" (Trường Chinh).


Một nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam "muốn hành động để cho đời mình
và đời những kẻ khác có thể đẹp đẻ hơn, tươi sáng hơn" (Ðơi bạn) thì chỉ có một con
đường duy nhất là đánh đổ đế quốc và phong kiến theo đường lối của Ðảng thì mới hạnh
phúc được.


Con đường cách mạng mà giai cấp tư sản đã tự gạt bỏ mình từ sau khời nghĩa Yên
Bái thất bại. Nhìn vào thế giới quan và nhân sinh quan của các nhà văn Tự Lực Văn
Ðồn thì làm sao làm được cách mạng. Chính vì thế mà hành động của Dũng và các
"đồng chí" của Dũng khá mơ hồ. Họ cũng bí mật, cũng xuất dương, cũng vuợt ngục.
Nhưng mục đích cách mạng thế nào, đối tượng cách mạng ra sao thì hồn tồn không
biết: "...lần này nhảy ra cũng là nhảy ra chổ mờ mờ khơng biết rỏ. Nhưng cần gì, đời là
thế, mình có khi cũng phải liều chơi..." (Ðơi bạn)



Ðây là hành động của một kẻ liều lĩnh, không tin vào mình khơng tin vào ngày mai.
Họ hồn tồn bi quan ln mang một tâm lí thất bại chán chường. Họ khác xa những
người cách mạng chân chính về tâm tư, ý nghĩ và hành động. Người chiến sĩ cộng sản
trong "Từ ấy", trong "Nhật ký trong tù" theo đuổi một đường lối cách mạng đúng đắn,
gắn mình với quần chúng, họ có một tư thế hiên ngang, một niềm tin sắt đá, một thái độ
tự hào, một tinh thần lạc quan của những người chiến thắng. Tóm lại, những nhân vật
"cách mạng" là những đứa con tinh thần của Tự Lực Văn Ðồn. Họ cũng là những con
người khí khái, có lịng tự trọng đã để lại trong lịng người đọc nỗi ngậm ngùi tủi cực của
những kẻ chiến bại. Những nhà văn Tự Lực Văn Ðoàn mang ý thức hệ tư sản, vốn ốm
yếu bạc nhược làm sao tạo dựng được những nhân vật có sinh khí để chống đế quốc.
Ðiều đó là tất yếu.


<b>IV. NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ÐỒN</b>


Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðồn là sản phẩm ý thức hệ tư sản Việt Nam những năm
1930- 1945 văn học của ý thức hệ tư sản do yêu cầu phải biểu hiện những con người của
giai cấp nó địi hỏi phải có một sự đổi mới cả về nội dung và hình thức nghệ thuật.


Trong Tự Lực Văn Ðoàn nghệ thuật của Nhất Linh vững vàng nhất. Các nhà văn của
nhóm này, học hỏi nhiều ở văn học Tây phương, một trình độ tương tự nhau, họ đã chịu
ảnh hưởng sâu sắc chủ nghĩa lãng mạn Tây phương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

phải cuộc sống thế nào thì họ nhận thức thế ấy, trái lại tác giả nhìn đời qua lăng kính của
mình, qua những khát vọng, những một tưởng của mình. Khơng lý giải được hiện thực,
khơng thấy rỏ con đường phát triển của hiện thực, người cầm bút đưa ra những quan
điểm trừu tượng, những giải pháp khơng tưởng.


Khái Hưng thêu dệt "ái tình bất vong bất diệt", nói đến "nhân loại" man mác, "vũ trụ"
bao la, hình dung những điền chủ "chỉ sung sướng khi làm cho những người khác sung
sướng". Với Hoàng Ðạo cũng như với Nhất Linh muốn giải phóng cho dân quê thì chủ


yếu phải làm cho dân q có học. Hai truyện ngắn "Cái tẩy" và "Bóng người trên sương
mù" của Nhất Sinh gợi lịng tin vào thuyết định mệnh. Ðó chính là những hạn chế về tư
tưởng triết học của tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn.


Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðồn đã có những đóng góp nhất định về nghệ thuật: cách
xây dựng tác phẩm, sáng tạo nhân vật, phân tích tâm lí, hành văn.


Một đặc sắc của Nhất Linh là đã bằng một nghệ thuật chắc chắn, hình tượng hóa
những luận đề xã hội những quan niệm trừu tượng. Truyện là truyện sống, ở đó tốt lên
cái ý nghĩa xã hội, khơng phải là một cái gì gó ép lên khuôn, để chứng minh cho một
định đề. Nhà văn đã quan sát một cách tỉ mỉ công phu nhân vật trong tác phẩm "Hai vẻ
đẹp" rất sống với tâm hồn của họ, ngôn ngữ cử chỉ hành vi của họ. Tâm sự của Dũng là
tâm sự của Nhất Linh, vơ chồng chị giáo Thảo, Trúc, Thái, Tạo... những bạn thân của
Nhất Linh. Khi đọc tác phẩm người ta ít cảm thấy cái phần hư cấu, cái phần giả tạo. Cố
nhiên là cái hiện thực có mức độ, có giới hạn, qua con mắt và tâm tưởng của người trí
thức tư sản xuất thân từ gia đình phong kiến. Về điểm này Nhất Linh cũng giống như
Khái Hưng nhưng Nhất Linh vận dụng lý thú hơn, có những ý định táo bạo hơn. Cho nên
cùng với những ưu điểm của Khái Hưng, Nhất Linh còn nâng cao ý nghĩa xã hội và tác
dụng đả phá của tác phẩm lên một mức. Luận đề ở đây thúc đẩy nghệ thuật thêm sắc bén.
Luận đề khơng gị ép hình tượng; trái lại hình tượng làm nổi bật luận đề, làm cho luận đề
có máu thịt và sức sống.


Văn của Nhất Ling có nhiều tính chất lí trí nhưng khơng khơ khan. Ngọn bút vẫn
được điều khiển chắc tay; mỗi lời viết ra đều qua sự kiểm tra thận trọng. Trên trang giấy,
dịng tư tưởng chảy từ từ dưới một hình thức bình dị mà điêu luyện. Khơng rườm rà chi
tiết, khơng ôm đồm tham lam, bao giờ cũng hợp lý và sáng sủa. Nhà văn Vũ Ngọc Phan
nhận xét: "văn Nhất Linh nửa giản dị nửa đài điếm" (nhà văn hiện đại) theo Trương
Chính: "Lối hành văn của Nhất Linh là lối hành văn thi vị, thi vị ở ý mà ít ở lời" (lược
thảo văn học lịch sử Việt Nam). Chúng ta hãy đọc một vài đoạn văn dưới đây của Nhất
Linh: "gió bỗng thổi mạnh hơn. Một chiếc buồm hiện ra in lên nền trời như cánh một con


bướm nâu khổng lồ. Một ít nắng vàng nhạt rung động trong nếp cánh buồm" (Ðôi bạn)


Ðã từng sống ở thôn quê, Nhất Linh tả tiếng động như thế này: " ở ngoài vườn tiếng
ếch, nhái ran lên từng loạt, thỉnh thoảng có tiếng chẫu chuộc nghe lõm bõm như tiếng
chân rút mạnh của một người lội trong bùn" (Bướm trắng)


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

của một quả mơ" (Bướm trắng)


Và đây là nét tinh vi của một tâm hồn lãng mạn, diển tả bằng một hình ảnh thanh tao.
Dũng có người yêu nhưng dấu cả bạn thân: "Dũng thấy rằng tấm tình u của chàng như
một ngơi sao nhỏ ở một góc trời chỉ riêng đẹp, riêng q đối với chàng và chính chàng đã
chọn nó và khơng cho ai biết.


Nhất Linh ngó sâu vào mâu thuẫn trong tâm hồn, trong tấn bi kịch âm ỉ, đôi lúc bùng
ra, luôn luôn có sức hấp dẫn mâu thuẫn giữa cá nhân và gia đình như "Ðoạn tuyệt", "Ðơi
bạn"; chí hướng và hồn cảnh như "Ðơi bạn" lịng ham sống và bệnh hoạn "Bướm trắng";
trụy lạc và nhân phẩm như "Bướm trắng"; tinh thần nghệ sĩ và đầu óc hoạt động "Hai vẻ
đẹp". Ðặc biệt cuộc xung đột giữa mới và cũ, sự đối lập giữa cảnh giàu và cảnh nghèo
được tác giả chú trọng miêu tả với một giọng văn chua chát và ý nhị.


Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn đã loại bỏ lối kết cấu chương hồi tìm đến với lối kết
cấu hiện đại. Ðó là lối kết cấu khơng theo trật tự thời gian, không lần lượt nối tiếp nhau.
Câu chuyện có thể men theo tâm lý nhân vật và cũng có thể đột ngột chuyển từ nhân vật
này qua nhân vật khác. Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn thường kết thúc một cách tự nhiên,
có khi ở chỗ đáng hết nhưng cũng có khi đột ngột dở dang. Tác phẩm đã chấm hết mà
hình như câu chuyện vẫn cịn. Kết thúc có thể vui cũng có thể buồn, có khi cả vui lẫn
buồn, có khi khơng vui khơng buồn. Khuynh hướng chung của tiểu thuyết Tự Lực Văn
Ðoàn là lãng mạn tiêu cực về tư tưởng, cải lương thỏa hiệp về chính trị. Do đó các kết
cấu gần giống nhau đơn điệu, gượng gạo.



Các nhà văn Tự Lực Văn Ðồn đã thành cơng trong kỹ thuật xây dựng nhân vật và có
ý thức xem nhân vật là trung tâm của tác phẩm. Họ đi sâu vào tâm lý nhân vật, chú trọng
đến cuộc sống nội tâm nên nhân vật có hồn như nhân vật Dỗn "Hai vẻ đẹp"; Duy "Con
đường sáng"; Dũng "Ðôi bạn". Các tác giả chú ý đến lớp người mới như ông Tham tá;
ông đốctờ; sinh viên cao đẳng; họa sỹ; thiếu nữ đẹp thông minh duyên dáng...Các nhà
văn đã miêu tả lời nói, cử chỉ một cách tỷ mỷ và mô tả một cách sinh động nên khắc họa
được rõ nét từng mẫu người nhất định. Viết về các cô gái, các nhà văn miêu tả một cách
đa dạng: Loan thông minh sắc sảo, Liên dịu dàng nết na, Mai kính đáo thâm trầm, Tuyết
thì lả lơi, Nhung thì nhẩn nhục, chịu đựng.


Sự đóng góp của tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðồn là ở chổ biết khám phá nội tâm nhân
vật, đưa ngòi bút đi sâu vào phanh phui mổ xẻ những khía cạnh tinh vi sâu kín của tâm
hồn và đã biểu hiện được một cách sinh động ro ỵràng, gợi cảm trên mặt giấy những tâm
hồn lắc léo, phức tạp ấy.


Các nhân vật của Nhất Linh thường haybăn khoăn, suy nghĩ, bị day dứt bởi nỗi buồn
thầm kín, nội tâm phong phú hơn và diễn biến cũng phức tạp hơn, đây chính là thành
cơng của nhà văn. Khái Hưng thì lại thành công khi xây dựng những nhân vật phản
diện-đại diện cho lễ giáo phong kiến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

thế ấy, nên những nhân vật chính trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðồn có ít nhiều máu thịt
nhưng căn bản đều là những nhân vật tưởng tượng được nhào nặn theo ý muốn chủ quan
nhà văn hơn là hành động theo lô gích nội tại.


Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðồn đã mở đầu việc đưa thiên nhiên tươi mát của đất nước
vào văn học. Lịch sử văn học Việt Nam, nhiều nhà văn đưa thiên nhiên vào văn học như
trong truyện nôm, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh... nhưng đó thường là một thứ thiên
nhiên ước lệ. Các nhà văn Tự Lực Văn Ðoàn miêu tả thiên nhiên với tất cả chi tiết màu
sắc, đường nét. Thiên nhiên trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðồn có hương vị. Chúng ta
thường gặp đây đó những cảnh vật quen thuộc của quê hương đất nước với hương vị ngọt


ngào, đậm đà, những đồi cọ thoai thoải miền Trung du những cánh đồng lúa chín chạy
dài đến tận chân trời, những ngôi chùa, quán nước, bến đò, cây đa, hoa cau, hoa khế...
đây là sắc và hương nơi thôn dã: "cao vút trên từng không, những cây cau thân thẳng và
mảnh toả từng buồng hoa vàng xuống một mùi thơm đậm đà, mộc mạc xen lẫn trong mùi
thơm phản phất thanh thanh của hoa chè: hai hương vị đặc biệt nơi thơn dã" (Gia đình)


Cái đẹp trong tác phẩm của họ thường gắn với tâm hồn mơ mộng. Các nhà văn Tự
Lực Văn Ðoàn thường mượn ngoại cảnh để tả nội tâm nhân vật "tác giả không tả cảnh
rườm rà, chỉ vài nét chấm phá thanh đạm như những bức tranh thủy họa... cảnh trong
truyện nhuộm vẻ nào là tùy theo tâm hồn của những người trong truyện. Cảnh đối với
người có liên tưởng nhịp nhàng linh động..." (tựa "Hồn bướm mơ tiên")


Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn đã chịu ảnh hưởng của văn chương Pháp, đó là loại
văn ngắn gọn, trong sáng, chính xác, nhẹ nhàng, mềm mại. Các nhà văn vẫn giữ được lối
suy nghĩ và diễn tả Việt Nam, đương nhiên cũng còn những câu văn lai căng.


Câu văn trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðồn có âm điệu, nhưng âm điệu ở đây không
phải là thứ âm điệu đẽo gọt của các câu văn biền ngẫu, mà là thứ âm điệu tự nhiên vốn có
của tiếng Việt. Tiếng Việt trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn là tiếng Việt hiện đại, ngày
nay đọc chúng ta ít thấy vướng.


Ngơn ngữ trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn thiên về diễn tả những cái gì bóng bay,
sang trọng, tế nhị, đơi khi văn hoa, kiểu cách của những tầng lớp trên, thiếu cái khỏe
khoắn, chắc nịch của những người lao động. Tuy ngôn ngữ thông dụng nhưng là thứ
ngôn ngữ của tầng lớp tư sản, tiểu tư sản thành thị có học chứ khơng tìm trong tiếng nói,
cách nói vơ cùng trong sáng của nhân dân lao động nên nó mau chóng trở thành mịn,
sáo, đơn điệu.


Mặc dầu có những hạn chế trên, tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðồn đã góp phần đáng kể
vào việc hiện đại hóa nền văn xi của chúng ta. Trương Chính nhận định: "Tự Lực Văn


Ðồn đã đẩy mạnh phong trào văn nghệ nước ta tiến tới"


<b>V. KẾT LUẬN</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

Quả vậy, văn học lãng mạn của ta khá phức tạp. Nhưng ta có nhiệm vụ cần phải phê
bình, đó là những thiện chí tốt đẹp.


Khuynh hướng tiêu cực trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn, trước hết là cái nội dung
cá nhân chủ nghĩa, ở thời kỳ đầu nó tự khẳng định được mình, rồi sau đó tự hủy diệt đi
đến cực đoan. Nhà văn lấy cái tôi" làm trung tâm, chỉ đào sâu vào thế giới bên trong,
"càng đi sâu càng lạnh". Cái tôi ấy biết phủ nhận thực tại đen tối nhưng lại xa rời quần
chúng, nó thốt li nên càng bế tắc. Một số tác phẩm miêu tả cảm giác, dục vọng xấu xa,
tình cảm ươn hèn và một chủ nghĩa cải lương hời hợt.


Nhưng theo ý kiến của đồng chí Trường Chinh trong bản báo cáo của đại hội văn
nghệ giúp cho ta một phương hướng: " ta cần tránh, xu hướng lãng mạn ngày trước, coi
tất cả đều là sa đọa thốt li " (trang 60)


Chúng ta đã tìm thấy nhân tố tích cực nằm trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðồn. Sự
giải phịng cá tính và tình cảm khỏi những trói buộc phong kiến ngàn đời; lịng khao khát
tự do, độc lập (tuy có ngậm ngùi, ai ốn); sự tìm tòi một lý tưởng cao cả để phụng sự (tuy
chẳng thấy); sự theo đuổi một hạnh phúc chân chính (dù có rên rỉ, đau thương); xu hướng
trở về bản sắc dân tộc, truyền thống dân tộc.


Các nhà văn đã miêu tả có phê phán những cảch sống thực của phong kiến, tư sản,
quan lại; sự phản ánh nổi đau khổ của trí thức thất nghiệp, của thanh niên mất phương
hướng, sự phản ánh cuộc sống lầm than của người nghèo thành thị và thôn quê.


Các nhà văn xây dựng thành công các nhân vật phản diện: địa chủ, gian tham, cường
hào, ác bá, tư sản giảo quyệt, sư cụ hổ mang, nhà báo không tôn chỉ, mẹ chồng ác độc,


mẹ ghẻ tai quái...


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

<b>CHƯƠNG 4: PHONG TRÀO THƠ MỚI 1930- 1945</b>


<b>I. SỰ RA ÐỜI CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI</b>


Sau chiến tranh thế giới lần thứ I (1914- 1918), ở Việt Nam xuất hiện một giai cấp
mới, đó là giai cấp Tư sản. Chủ nghĩa tư bản đồng thời xâm nhập và thống trị đất nước ta,
gây nên một cuộc xáo trộn lớn chưa hề thấy trong mấy nghìn năm lịch sử Việt Nam.
Những giá trị tư tưởng vững bền từ cuối thế kỷ XIX đã trở thành đối tượng mỉa mai cay
đắng trong thơ Tú Xương. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đi đơi với chính sách đẩy
mạnh khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, làn gió mới Tây Âu cũng tràn vào Việt
Nam. Tầng lớp tiểu tư sản thành thị có điều kiện hình thành sớm hơn sau đợt khai thác
kinh tế lần thứ I của thực dân Pháp.


Giai cấp tư sản và một bộ phận tiểu tư sản lớp trên (trí thức, viên chức cao cấp đã có
một lối sinh hoạt văn minh ở thành thị. Người ta ở nhà lầu đi ô tơ, dùng quạt điện, đi hịa
nhạc. Sinh hoạt của tư sản và tiểu tư sản thành thị cũng thể hiện ngay cả trong cách ăn
mặc của thanh niên nam nữ, các cô gái chàng trai, mỗi năm một mốt. Những đổi thay về
sinh hoạt dần tới sự thay đổi về ý nghĩ và cảm xúc. Những thay đổi đó cũng do sự tiếp
xúc với văn học Pháp đặc biệt là văn hóa lãng mạn Pháp.


Chính những đổi mới trong sinh hoạt tư tưởng và sự tiếp xúc với văn học lãng mạn
Pháp đã dần dần đem đến cho thanh niên tiểu tư sản thành thị những năm 30 của thế kỷ
này những tình cảm mới, những rung động mới. Họ yêu đương mơ mộng, vui buồn khác
các nhà thơ xưa. Trong buổi diễn thuyết ở nhà hội Quy Nhơn tháng 6- 1934, Lưu Trọng
Lư đã nói: Các cụ ta ưa những màu đỏ chót, ta lại ưa màu xanh nhạt,đứng trước một cô
gái xinh đẹp các cụ xem như là một việc làm tội lỗi, còn đối với ta như đứng trước một
cánh đồng xanh mát mẻ...



Chính vì sự khác nhau sâu xa đó giữa hai thế hệ mà những câu thơ ngâm hoa vịnh
nguyệt sáo mịn và cũ rích trên Nam Phong, Văn học tạp chí, Tiếng dân khơng cịn hợp
với tình cảm mới của họ. Phong trào Thơ mới lãng mạn ra đời năm 1932 chính là để đáp
ứng nhu cầu tình cảm của một tầng lớp thanh niên mới.


Một phong trào văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất định của xã
hội. Nó là tiếng nói của một tầng lớp người, của một giai cấp vừa mới ra đời, đang lớn
lên hoặc già cỗi trong xã hội. Thơ cũ trong Nam Phong, Văn học tạp chí là tiếng nói của
một tầng lớp phong kiến đã thất bại và đầu hàng đế quốc. Văn học lãng mạn 1932 trở đi
là tiếng nói của tư sản và tiểu tư sản thành thị. Thơ mớichủ yếu là tiếng nói của giai cấp
tư sản và tiểu tư sản thành thị là nguyên nhân chính cho phong trào Thơ mới ra đời.


<b>II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI</b>


Theo ơng Phan Cư Ðệ có thể chia phong trào thơ mới ra 2 thời kỳ: 1932- 1939;
1940-1945


Cịn giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam thì chia làm 3 thời kỳ, chia như thế có lẽ hợp lý
hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

Thơ mới ra đời trong một hồn cảnh như trên đã trình bày. Những biểu hiện ban đầu
nổi lên trên bề mặt công luận là cuộc đấu tranh chống lại thơ cũ.


Bắt đầu quá trình sinh thành của Thơ mới, bài thơ được gọi là Thơ mới và dư luận
khen chê sôi nổi là bài Tinh già của Phan Khôiđược ra mắt bạn đọc trên Phụ nữ Tân văn
số 122, ngày 10 - 3 - 1932, cùng với bài giới thiệu lấy tên Một lối thơ mới trình chánh
giữa làng thơ:


Hai mươi năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa. dưới ngọn đèn mờ, trong ngôi nhà
nhỏ, hai cái đầu xanh kề nhau than thở:



Ơi đơi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn khơng đặng
Ðể đến nỗi tình trước phụ sau, chi bằng sớm liệu mà bng nhau
Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho nỡ.


Thương được chừng nào hay chừng ấy, chẳng qua ông trời bắt đơi ta phải vậy.
Ta là nhân ngãi, đâu có phải vợ chồng mà tính việc thủy chung...


Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau:


Ðơi cái đầu bạc. Nếu chẳng quen lung đố có nhìn ra được!


Ơn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi, con mắt cịn có đi


(Tình già- Phan Khơi)
Bài giới thiệu của Phan Khơi cùng với thơ Tình già được coi như phát súng lệnh của
phong trào Thơ mới. Từ đây cuộc đấu tranh rầm rộ của thơ mới vào thơ cũ. Trên hàng
chục tờ báo cả 3 miền Bắc, Trung, Nam và trên nhiều diễn đàn, từ Sài gòn, Quy nhơn ra
Nam định, Hà nội, người ta ra sức phê phán thơ cũ.


a. Cuộc đấu tranh giữa thơ cũ và thơ mới:


Tháng 11 năm 1917 trên Nam phong tạp chí Bàn về thơ Nôm, Phạm Quỳnh viết: thơ
cũ là phiền phức, luật lệ ràng buộc, khắc nghiệt khơng khác luật hình.


Năm 1928 trên báo Trung Bắc Tân Văn, Nguyễn Văn Vĩnh dịch bài thơ của
LaFontaine:


Con ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè



Ðến kì gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối...


Ðây là bài thơ dịch theo thể thơ tự do và được người đọc rất hâm mộ. Ðây chính là cơ
sở cho một thể thơ mới ra đời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

<b>_ Ý kiến của phe thơ mới:</b>


Phụ nữ Tân Văn số 29, ra ngày 21 tháng 11 năm 1929:... lối thơ Ðường luật bó buộc
người làm thơ phải theo khuôn phép tỉ mỉ, mất cả hứng thú tự do, ý tưởng dồi dào, nếu
ngày nay ta cứ sùng theo lối thơ ấy mãi thì làng văn Nơm ta khơng có ngày đổi mới được
(Trịnh Ðình Rư)


Ngày 10 tháng 3 năm 1932 phụ nữ Tân Văn số 132 một lối thơ trình chánh giữa làng
thơ. Ðó là bài Tình già của Phan Khơi. Tác giả đem trình làng đứa con tình thần có trước
bạ.


Phan Khơi viết: lâu nay mỗi khi có hứng, tơi toan mở ngâm vịnh thì cái hồn thơ của
tơi lúng túng. Thơ chữ Hán ư? Thì ơng Lý, ơng Ðỗ, ơng Bạch, ơng Tơ chốn trong đầu
tơi rồi. Thơ Nơm ư thì cụ Tiên Ðiền, bà Huyện Thanh Quan đè ngang ngực làm cho tơi
thở khơng ra. Cái ý nào mình muốn nói lại nói khơng được, thì đọc đi đọc lại nghe như
họ đã nói rồi. Cái ý nào chưa nói, mình muốn nói ra lại bị những niêm luật bó buộc mà
nói khơng được. Té ra mình cứ loanh quanh, luẩn quẩn trong lòng bàn tay của họ thật là
dễ ức.


Việc làm của Phan Khơi khơng vì danh, khơng vì hiếu sự mà chính vì tình cảnh thúc
bách, ý tưởng duy tân, tìm một mảnh đất mới cho thế hệ trẻ. Phan Khôi kêu lên:Duy tân
đi? Cải lương đi?



Lưu Trọng Lư là người theo chân Phan Khôi. Lưu Trọng lư được kể vào lớp chiến sĩ
xung kích trên mặt trận khẩu chiến và bút chiến.


Thơ thách họa các cụ đồ


Ðôi lời nhắn nhủ bạn làng nho
Thơ thẩn, thẩn thơ, khéo thẫn thờ
Con cóc Nghè Huỳnh đi cọc lóc
Nàng thơ Ấm Hiếu mũi thò lò
Chai to, chai nhỏ con cầy béo
Câu thánh, câu thần đĩa mực khơ
Nắn nót miễn sao lên bốn ghế
Chẳng thơ thì cũng cóc cần thơ


Nữ sĩ Nguyễn Thị Kiêm đăng đàn diễn thuyết lên án thơ cũ: thơ Ðường luật một lối
thơ rất bó buộc về từng câu, từng chữ, chặt chịa về luật bằng trắc, về phép đối câu đối
chữ. Vì khn khổ luật pháp phiền phức nên người làm thơ phải đứng ở trong một vị trí
eo hẹp lúng túng...


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

Trước sự tấn công của phe thơ mới, phe thơ cũ cũng phản kích lại một cách quyết liệt.
Các nhà thơ cũ cho rằng thơ mới không tao nhã. Bài thơ đăng trên An Nam tạp chí số 6:


Ơng Tản Ðà nhắn bạn Phong hóa
Mấy lời nhắn bảo anh Phong hóa
Báo đến như anh thật láo quá


Từ tháng đến năm không ngớt mồm
Sang năm Q Dậu phải kiếm khóa...


Năm 1933 ơng Tân Việt trên báo Công luận bênh vực thơ cũ (diễn đàn hội khuyến


học Sài Gịn)


Ơng Nguyễn Văn Hạnh diễn thuyết tại hội khuyến học Sài Gòn tranh luận với
Nguyễn Thị Kiêm.


Năm 1933- văn học tạp chí Hà Nội chê thơ mới khơng biết cân nhắc chữ dùng.


Năm 1934 trên Tạp chí Văn Học, ông Ðào Duy Tư phản đối bài diễn thuyết của Lưu
Trọng Lư.


Năm 1935 hai ông Tường Vân, Phi Vân cho xuất bản tập thơ cũ Những bông hoa trái
mùa chống lại thơ mới.


Năm 1936 ơng Thái Phĩ cơng kích thơ mới trên báo tin văn Hà Nội.


Năm 1941 ông Huỳnh Thúc Kháng sau nhiều lần bị chỉ trích, nhất quyết khẳng định
thơ mới đến ngày mạt vận.


Suốt những năm 1933- 1935, những cuộc khẩu chiến và bút chiến giữa hai phe mới
cũ nhưng khi Thế Lữ xuất hiện như một địn dứt điểm.


Tản Ðà hình như đặt mình vào vịng, mặc dù bị báo Phong Hóa thỉnh thoảng lơi ra để
châm biếm. Tuy nhiên ngày 30- 11 năm 1934 Tản Ðà có viết một bài in trên tiểu thuyết
thứ Bảy, nhan đề Phong trào thơ mới. Ơng trình bày với mọi người những bài thơ ông
làm cách đây 20 năm. Ông cũng làm thơ tự do như bài Tống Biệt. Tản Ðà dùng lời lẽ ơn
hịa, cảnh tỉnh lớp người mới, cái mà lớp người sau gọi là mới chính Tản Ðà đã trải qua.
Chỉ có khác ở nội dung.


b. Những nhà thơ tiêu biểu trong thời kì 1932- 1935
<b>_ Lưu Trọng Lư:</b>



Lưu Trọng Lư là người diễn thuyết hăng hái nhất bênh vực thơ mới và là người có
cơng khai sinh ra thơ mới. Bài thơ Ðường đời và Vắng khách thơ là những bài thơ mới
của Lưu Trọng Lư xuất hiện sau bài Tình già của Phan Khôi.


Bài thơ của Lưu Trọng Lư sau này đưa vào tập Tiếng thu đổi tên là Xuân về:
Năm vừa rồi


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Nơi vùng giác mộ
Trong gian nhà cỏ
Tôi quay tơ


Chàng ngâm thơ


Vườn sau oanh giục giã
Nhìn ra hoa đua nở
Dừng tay tơi kêu chàng...
Này, này! Bạn! Xuân sang
Chàng nhìn xuân mặt hớn hở
Tơi nhìn chàng, long vồn vã...
Rồi ngày lại ngày


Sắc màu: phai
Lá cành: rụng
Ba gian: trống
Xuân đi


Chàng cũng đi


Năm nay xuân cịn trở lại


Người xưa khơng thấy tới
Xn về.


Thơ Lưu Trọng Lư là một lối thơ quen thuộc của dân tộc, một chút xưa của thơ Ðường.
Lưu Trọng Lư đến với thơ bằng cả tâm hồn sầu mộng của mình. Trong thơ ơng, mọi hình
ảnh mọi âm thanh của cuộc sống đều được vào thế giới thơ mộng. Chỉ một làn nắng mới,
một tiếng chim hót cũng đưa thi sĩ trở về dĩ vãng, thế giới của ký niệm buồn thương. Lưu
Trọng Lư rất nhạy cảm với những rung động mơ hồ của thiên nhiên, của nội tâm. Từ
tiếng thổn thức của trăng mờ: Còn đâu ánh trăng mờ- Mơ trên làn tóc rối., đến con nai
vàng ngơ ngác trong rừng thu cũng đem lại một cảm giác buồn man mác trong thơ ông.
Hay đôi mắt buồn của người đẹp bên cửa sổ: Ðơi mắt em lặng buồn. Nhìn thơi mà chẳng
nói.. Tất cả đều chập chờn như trong mơ và bàng bạc một mối sầu hoài cảm. Lưu trọng
Lư hầu hết diễn tả những cái buồn bên trong. Tiếng thổn thức của mùa thu, cái rạo rực
trong lịng người cơ phụ khơng nghe được từ bên ngồi. Bài Tiếng thu là bài thơ nổi tiếng
của Lưu Trọng Lư. Bài thơ khơng chỉ tạo hình, tạo dáng cho mắt thấy tai nghe mà cho
tâm hồn, cho cảm xúc, cho tưởng tượng. Lưu Trọng Lư viết về tình yêu như con tàu tách
bến:


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

Anh đứng tựa tường hoa
Nhìn nhau mà lệ ướt
Một ngày một cách xa.


Thơ Lưu Trọng Lư diễn tả cái tơi đang say sưa thốt li vào mộng tưởng.
<b>_ Thế Lữ:</b>


Thế Lữ xuất hiện như một vận động viên quyền anh nặng kí, điểm đúng huyệt, dứt
điểm cuộc giao tranh giữa thơ mới và thơ cũ. Trên văn đàn, Thế Lữ không bàn về thơ
mới, không bênh vực thơ mới, không bút chiến khẩu chiến. Thế Lữ chỉ lặng lẽ điềm
nhiên bước những bước vững vàng mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan
rã (Thi phẩm Mấy vần thơ).



Ơng là người có cơng trong việc xây dựng nền thơ mới. Phan Khôi, Lưu Trọng Lư
chỉ là người làm cho người ta chú ý đến thơ mới mà thơi, cịn Thế Lữ mới chính là người
làm cho người ta tin cậy vào tương lai của thơ mới. Thế Lữ xuất hiện được Hoài Thanh
đánh giá rất cao: Ðộ ấy thơ mới vừa ra đời. Thế Lữ như vầng sao đột hiện ánh sáng chói
khắp cả trời thơ Việt Nam.


Thơ Thế Lữ tiêu biểu cho tiếng nói của cái tơi trong thơ mới thời kì đầu. Nó hăng hái
tự khẳng định, vẫn ít nhiều cịn dè dặt, tình u cịn mức độ, chứ chưa bng tuồng, ích
kỉ trắng trợn như về sau. Thế Lữ nói đúng cái tôi trong thơ mới khi kêu gọi yêu đi, u
mãi bạn lịng ơi.


Thơ Thế Lữ thời kì đầu say sưa thoát li hiện thực. Nhưng những sự kiện lớn lao của
lịch sử cịn dư vang trong tâm trí. Thơ Thế Lữ có ấp ủ một tinh thần dân tộc, một khát
khao tự do. Thời kì đầu tinh thần dân tộc đó chính là tiếng vọng lại xã xơi của phong trào
(1930- 1931).


Thơ Thế Lữ diễn tả nỗi buồn. Thế Lữ đưa vào thơ Việt Nam cái buồn vô cớ, cái buồn
thi vị, lúc đó cái buồn đang là cái mốt. Cái buồn trở thành một thứ trang sức của trí thức
tiểu tư sản. Cái buồn bàn bạc khắp nơi, cả trong giấc mộng, trong cảnh tiên:


Tiếng đưa hiu hắt bên sông
Buồn ơi xa vắng mênh mông là buồn...


(Tiếng sáo thiên thai)
Thơ mới nói chung là buồn. Cái buồn nhiều khi lẫn lộn với cái bi quan yếu đuối. Xưa,
nay những áng thơ hay trong quá khứ hầu hết là buồn: Thơ Cung oán ngâm khúc, Chinh
phụ ngâm, Truyện Kiều... đều buồn. Những câu ca dao hay nhất là những câu buồn. Nhà
phê bình văn học Bielinxki: cái buồn chính là làm nên sự hấp dẫn của thơ ca...



</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

bất cứ cái gì.


Cái buồn cũng có năm bảy đường, cái buồn của Thế Lữ là cái buồn mệt mỏi bất lực.
Cái buồn Xa vắng mênh mông, nước lặng mây ngừng chưa phải là cái buồn thê thảm hãi
hùng như sau này.


<b>2. Thời kì 1936- 1939:</b>


Thời kì này xuất hiện nhà thơ Xuân Diệu trường hợp mới nhất trong các nhà thơ mới
(thi nhân Việt Nam). Xuân Diệu xuất hiện chiếm hẳn dịa vị độc tôn trên thi đàn. Tiếng
thơ của Xuân Diệu như luồng gió mát thổi tâm hồn trẻ: Xuân Diệu là nhà thơ đầu tiên của
Việt Nam đã áp dụng thuyết hiện sinh vào thi ca (Nguyễn Tấn Long - Việt Nam thi nhân
tiền chiến).


Xuân Diệu vừa xuất hiện gây dư luận sôi nổi. Phái thơ cũ coi là khả ố cần phải tiêu
diệt vì nó q sỗ sàng trắng trợn. Người ta chê nào là ngây ngô nào là tây quá thơ đâu lại
có thứ thơ quái gỡ như vậy. Người ta đả kích cái tư tưởng kém lành mạnh.


Xuân Diệu làm thơ quá mới mẻ đối với nền học thuật Việt Nam từ trưóc đến nay. Tư
tưởng của ơng thường q táo bạo khơng ngại ngùng e dè, chỉ thích nói lên những gì
mình cần nói mà thơi.


Trong bầu khơng khí sơi nổi giữa tân và cựu, Hoài Thanh thoạt tiên cũng có vẻ hồi
nghi đối với sự xuất hiện của Xn Diệu song Hồi Thanh cũng khẳng định được vị trí
của Xuân Diệu trong văn đàn thi ca: ngay lời văn Xuân Diệu cũng có vẻ chơi vơi, Xuân
Diệu viết tựa trẻ con học nói, hay nười ngoại quốc mới võ vẽ tiếng Nam. Câu văn tuồng
bỡ ngỡ ấy chính là Xn Diệu hơn người. Dịng tư tưởng q sơi nổi, khơng thể đi theo
đường có sẵn. Ý văn xơ đẩy, khiến câu văn phải lung lay.


Nhà phê bình Hồi Thanh một lần nữa khẳng định vững chắc chỗ đứng của Xuân


Diệu trong phong trào thơ mới: Thơ Xuân Diệu chẳng những diễn đạt cái tình cố hữu của
nịi giống. Và chăng tinh thần một nịi giống có cần gì phải bất di bất dịch. Sao lại bắt
ngày mai phải giống hệt ngày hơm qua? Thơ Xn Diệu cịn là một nguồn sống rào rạt
chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này.


Nhà văn Vũ Ngọc Phan nhận xét về thơ Xuân Diệu: Bây giờ người ta đã hiểu thơ
Xuân Diệu. Người ta thấy thơ Xuân Diệu đằm thắm, nồng nàn nhất trong tất cả thơ mới.
Cả ý lẫn lời đều tha thiết, làm cho người thanh niên ngây ngất.


_ Thời kì này xuất hiện nhà thơ Nguyễn Bính: nhà thơ chân quê
_ Huy Cận: dồn cả cái buồn thời đại vào thơ... (Hồi Thanh)
<b>3. Thời kì 1940- 1942:</b>


_ Do đại chiến thế giới lần hai, xã hội Việt Nam bước vào những năm khủng hoảng tột
độ. Văn học công khai diễn ra hỗn loạn. Cái Tôi trong thơ mới rút đến sợi tơ cuối cùng.
Mỗi nhà thơ thoát li một cách, và càng thoát li lại càng lạc lối. Từ 1940 về sau thơ mới
càng đi xa con đường đấu tranh cách mạng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

hoảng.


+ Nhóm Dạ Ðài: Vũ Hồng Chương, Trần Dần, Ðinh Hùng


+ Nhóm Xuân Thu Nhã Tập: một lối thơ khó hiểu (Hũ nút, tắc tị), gồm các thành
viên: nhà thơ Nguyễn Xuân Sách, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Ðỗ Cung, Phạm
Văn Hạnh, Nguyễn Lương Ngọc, Ðồn Phú Tứ


+ Xu hướng thốt li siêu thốt triết lí thần bí tiêu biểu là Huy Cận với Vũ trụ ca, Kinh
cầu tự, Chế Lan Viên với Vầng sao


<b>III. NGHỆ THUẬT CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI LÃNG MẠN</b>



<b>1. Kế thừa truyền thống thơ cổ điển:</b>


_ Kế thừa truyền thống thơ Ðường: bằng, trắc, đối ý, đối chữ. Ðặc biệt kế thừa lối thơ Cổ
phong.


_ Thể thơ lục bát được nâng niu. Nhà thơ Huy Cận, Nguyễn Bính mang đến cho lục bát
một khn khổ mới


<b>2. Sự cách tân: </b>
_ Cách tân về gieo vần


+ Loại vần liên tiếp:


Sông Hồng ơm ấp nóc nhà tranh


Trên con đường viền trắng mép đồi xanh...
+ Vần ôm nhau:


Lặng lẽ trên đường lá rụng mưa bay.
Như khêu gợi nỗi nhớ nhung thương tiếc
Những cảnh với những người đã chết
Tự bao giờ còn phảng phất đâu đây


+ Vần gián cách:


Gió man mác bờ tre rung tiếng sẻ


Trời hồng hồng đáy nước lắng son mây
Làn khói xám từ nóc nhà lặng lẽ



Vươn mình lên như tỉnh giấc mê say
+ Vần hỗn hợp


+ Vần lưng:


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

Ðèo cao quán chật bến đò lau thưa
_ Sự cách tân về nhạc điệu:


+ Cách phối âm đặc biệt là phụ âm vang: âm a, an, ang, ưng,...
+ Thơ mới thường nghiêng về thanh bằng


+ Thơ mới vận dụng lối ngắt nhưng linh hoạt, độc đáo 4/1/2:
Ðàn ghê như nước/lạnh/trời ơi! (Nguyệt cầm - Xuân Diệu)
<b>3. Các nhà thơ mới vận dụng thủ pháp tu từ:</b>


_ Giàu hình tượng, gợi cảm.
_ Lối nhân cách hóa.


_ Lối ví von.


<b>4. Những phong cách trong phương pháp sáng tác lãng mạn chủ nghĩa:</b>


Tuy cùng chung một phương pháp sáng tác song các nhà thơ mới mỗi người có một
phong cách sáng tác khác nhau.


<b>CHƯƠNG 5: VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN 1930- 1945</b>


Giới thiệu 3 tác giả:Ngô Tất Tố - Vũ Trọng Phụng - Nam Cao.
<b>NGÔ TẤT TỐ (1894- 1954)</b>



<b>1. Giới thiệu về tác giả: </b>
_ Gia đình Ngơ Tất Tố.
_ Q hương Ngơ Tất Tố
_ Bản thân nhà văn


<b>2. Ngô Tất Tố là nhà báo.</b>


_ Xuất thân là cựu nho có vốn Hán học phong phú nhưng ơng khơng phải là người bảo
thủ. Ơng phản đối lối chạy theo phong trào phục cổ do thực dân Pháp đề xướng.


_ Ông là người hiếu học ln đọc sách tìm tịi, sáng tạo


_ Ngơ Tất Tố chịu ảnh hưởng sâu sắc phong trào ái quốc thời Ðề Thám, Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh.


_ Lòng yêu nước của Ngơ Tất Tố gắn liền với lịng u dân - những người nông dân lao
động cần cù tốt bụng


_ Ngơ Tất Tố nhanh chóng đứng trên lập trường dân chủ tố cáo những áp bức của bọn
thực dân phong kiến. Với tư cách là một nhà báo, Ngô Tất Tố hết sức tung hồnh trên
trường ngơn luận, lên án tội ác của thực dân phong kiến và những thủ đoạn sâu mọt của
bọn cường hào quan lại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

_ Phóng sự Việc làng gồm 17 chương: đây là một phóng sự về những hủ tục nặng nề ở
nơng thơn Việt Nam trước cách mạng tháng tám 1945. Phóng sự Việc làng mang nét đặc
trưng của làng quê Ngô Tất Tố đó là nạn xơi thịt chức tước làm bao gia đình phải khánh
gia bại sản, điêu đứng,chết chóc, tha thương cầu thực v.v...


_ Nghệ thuật Việc làng có khuynh hướng gần với lối viết truyện ngắn. Lối kể chuyện của


tác giả linh hoạt. Có khi tác giả đi từ khái quát đến cụ thể. Có khi tác giả đi từ một hiện
tượng, một nguyên nhân và khái quát lên vấn đề. Do vậy mà người đọc không thấy đơn
điệu.


<b>4. Ngô Tất Tố viết tiểu thuyết:</b>


_ Tiểu thuyết Lều chõng: tác phẩm trình bày về chế độ khoa cử một cách tỉ mỉ.


_ Tiểu thuyết Tắt đèn: Tác giả tập trung vào vấn đề thuế má, một tai họa khủng khiếp của
nông thôn.


+ Trong Tắt đèn xuất hiện loại thuế thân cực kì dã man. Thuế đánh vào đầu người đàn
ông từ 18 tuổi trở lên.


+ Nhân vật chị Dậu xuất hiện lo chạy thuế thân cho chồng và em chồng. Tính cách của
chị xuất hiện.


<b>5. Nghệ thuật tiểu thuyết Tắt đèn.</b>
_ Kết cấu tác phẩm: hợp lí chặt chẽ


_ Khắc họa thành cơng nhân vật điển hình hóa: mỗi hành động của chị Dậu như chạy
vạy, khóc lóc, kêu gào, chịu đựng và vùng lên mạnh mẽ, đều diễn ra tự nhiên phù hợp với
sự phát triển tâm lí của nhân vật


_ Nghệ thuật châm biếm thành công: cách húp canh, súc miệng của Nghị Quế, cách đi
đứng của lão Chánh Tổng. Bộ râu hắc ín trên mép tên quan phủ Tư Ân v.v...


_ Khả năng phân tích tâm lí nhân vật


_ Văn viết của Ngơ Tất Tố nói chung linh hoạt song vẫn cịn ảnh hưởng ít nhiều lối văn


biền ngẫu: thằng bếp bưng cơm ra. Thằng nhỏ bê chậu nước vào (Tắt đèn - Ngơ Tất Tố).
Tóm lại, Ngơ Tất Tố là cây bút tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán
1930-1945. Ngô Tất Tố không chỉ là nhà viết tiểu thuyết, phóng sự ơng cịn là một nhà báo cự
phách, một nhà khảo cứu dịch thuật có tài. Thành công của Ngô Tất Tố là thành công của
quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh, của một nhà văn tự thấy phải hoạt động, phải xông
pha, phải lăn lộn với dân chúng.


<b>VŨ TRỌNG PHỤNG (1912 - 1939)</b>


<b>1. Gia đình và cuộc đời tác giả:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

_ Vũ Trọng Phụng viết báo lúc 18 tuổi. Từ 1930 - 1939 ơng viết cho nhiều tờ báo. Ơng
viết nhiều thể loại khác nhau. Ðặc biệt là thể loại phóng sự và tiểu thuyết. Ơng được tơn
vinh là ơng vua phóng sự đất Bắc.


_ Do làm việc quá sức, đời sống nghèo khổ, ông mắc bệnh lao, mất ngày 13/10/1939.


<b>2. Những sáng tác của Vũ Trọng Phụng </b>
_ Truyện ngắn


_ Tiểu thuyết.
_ Phóng sự.


_ Kí sự.
_ Kịch.
_ Dịch thuật.


<b>3. Bộ mặt xã hội thực dân nửa phong kiến trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng</b>
_ Xã hội nông thôn trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng: Giông tố, Vỡ đê.



_ Xã hội thành thị trong tác phẩm: Giông tố, Số đỏ, Làm đĩ
<b>4. Tính chất trào phúng trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng </b>


_ Trào phúng là cái cười, tiếng cười mang ý nghĩa sâu xa, hàm ý châm biếm, mỉa mai,
đơi lúc đả kích sâu cay.


_ Trào phúng bao hàm hai yếu tố: yếu tố phê phán và yếu tố hài hước. Hai yếu tố kết hợp
với nhau trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng.


_ Tiếng cười được vang lên từ những thủ pháp nghệ thuật được sắp đặt theo chủ đích của
tác giả. Sử dụng ngôn ngữ, cách xây dựng nhân vật, hoạt động của nhân vật. Tính chất
trào phúng đạt đến sự thành cơng cả về cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật


_ Tính chất trào phúng trong Số đỏ; Giơng tố, Vũ Trọng Phụng đã vạch trần mặt trái tự
nhiên.


Tóm lại, Vũ Trọng Phụng là nhà văn hiện thực xuất sắc. Vũ Trọng Phụng đã để lại những
tác phẩm văn học như một di sản văn hóa. Tác phẩm của ông là một kho phong phú các
thủ thuật trào phúng hài hước.


<b>NAM CAO (1915- 1951)</b>


<b>I. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ:</b>


1. Sinh năm 1915 trong một gia đình trung nơng ở làng Ðại hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà
Nam (nay thuộc Nam Hà).


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

làng mở trường tư ở Hà Nội, cần một chân dạy có bằng trung học, Nam Cao được mời
dạy. Ðược ít lâu trường bị đóng cửa vì Nhật chiếm làm chổ ni ngựa. Nam Cao sống vất
vả, khi viết văn, khi làm gia sư nhưng cũng không đủ sống. Thời kỳ này Nam Cao được


giác ngộ Cách mạng và tham gia sinh hoạt tổ văn hóa cứu quốc 1943. Khi cơ sở văn hóa
ở Hà Nội bị khủng bố, Nam Cao về làng tham gia phong trào Cách mạng ở địa phương.
Tổng khởi nghĩa, Nam Cao tham gia cuộc đánh chiếm Phủ Lý Nhân và làm chủ tịch xã
một thời gian, trước khi được điều lên cơng tác văn hóa, văn nghệ ở báo trung ương.
- Những ngày sôi nổi của tuổi trẻ, cũng như buổi đầu đến với văn học, Nam Cao làm một
số thơ lãng mạn và viết những truyện tình thơ mộng. Ơí thời kỳ này ngịi bút của Nam
Cao dị dẫm tìm một lối đi, tâm hồn Nam Cao dần dần đổi thay, có được một cái nhìn
đúng đắn cuộc sống.


Những áng mây xốp bồng bềnh trôi nổi, ánh trăng xanh huyền ảo, ngọn gió mát lành
thơm tho thoảng qua từ những mái tóc, tà áo thiếu nữ, những cuộc hẹn hị, trang sức... Tất
cả chất liệu ấy có lần đến với ngòi bút Nam Cao, mạng theo nhiều mơ ước xa xôi và
những nỗi buồn vẩn vơ của lứa tuổi học sinh chịu ảnh hưởng của sách báo lãng mạn.
Nam Cao trong tuổi trẻ khơng khỏi có lúc:


Tâm hồn tan tác làm trăm mảnh
Vương vấn theo ai bốn góc trời


Nhưng Nam Cao chóng trở về với cuộc đời thực. Cái buồn thường sớm nhường chỗ
cho những cái lo. Nỗi cơm áo, bệnh tật, công ăn việc làm, Nam Cao khơng thích sự mơn
trớn, vuốt ve "Nghệ thuật khơng thể là...". Nam Cao tìm đến sự thật với tấm lịng yêu
thương cuộc sống, những lớp người và những cảnh đời đau khổ. Với những rung động
xót xa đến cháy lịng trước bao ngang trái, bất công của chế độ cũ, Nam Cao muốn phơi
bày sự thật của cuộc đời và của lòng người.


Nam Cao gần gũi và quen thuộc chốn đồng quê và những cảnh đời lầm than, đau khổ
và chính cái làng quê ấy đã đi vào những trang viết rất chân thật sinh động của ông. Tiếp
xúc và cọ xát với nhiều loại người, nhiều số phận khác nhau, Nam Cao đã từ cái bao quát
chung để thấm thía và chiêm nhiệm cho thân phận tầng lớp và của riêng mình



Năm 1943, Nam Cao tham gia nhóm văn hóa cứu quốc do Ðảng lãnh đạo. Khi bị
khủng bố gay gắt, Nam Cao về hẳn làng tham gia phong trào Việt minh ở địa phương.
Sau ngày tổng khởi nghĩa nhà văn được bầu là chủ tịch xã ít lâu sau, Nam Cao được điều
lên công tác ở hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký tồ soạn báo Tiền phong, cơ quan của
hội. Năm 1946 theo đoàn quân Nam tiến vào vùng nam trung bộ. Trở về, Nam Cao tiếp
tục làm công tác thông tin tuyên truyền như viết tin, viết tài liệu, làm ca dao, xem sách.
Thời gian này Nam Cao được kết nạp vào Ðảng Cộng Sản Ðông Dương. Tháng 11
-1951 trên đường vào công tác vùng địch hậu liên khu Ba, Nam Cao bị một tốn phục
kích bắn chết gần bốt Hồng đan, Ninh bình Nam Cao ngả xuống giữa lúc đang ấp ủ
cuốn tiểu thuyết lớn về quê hương chuyến đi đó nhà văn lấy tài liệu để hoàn chỉnh tác
phẩm Làng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

khó gần. Nhà văn rất khổ tâm về cái tật "hãi người" và "cái mặt không chơi được" (tên
một truyện ngắn) của mình. Con người "Mảnh khảnh thư sinh, ăn nói ơn tồn nhiều khi
đến rụt rè, mỗi lúc lại đỏ mặt mà kỳ thực mang trong lòng một sự phản khán mãnh liệt".


Trước Cách mạng, Nam Cao luôn sống trong tâm trạng đau khổ u uất, bất đắc chí.
Ơúm yếu thất nghiệp Nam Cao sống lay lắt bằng nghề văn và dạy tư là hai cái nghề bạc
bẽo khi đó.


Nam Cao viết văn rất sớm và khá nhiều, tài năng trưởng thành rất nhanh. Nhưng gần
10 năm viết văn trước Cách mạng. Nam Cao hầu như khơng có vị trí gì trên văn đàn
đương thời. Hầu hết truyện dài của Nam Cao đều phải bán bản quyền để rồi bị vứt xó cho
đến khi bản thảo bị thất lạc. Hiếm có một nhà văn có tài mà bước vào làng văn lại chật
vật và bị đối xử bất công như Nam Cao.


Nam Cao ln chất chứa trong lịng tâm sự của người nghệ sĩ "Tài cao phận thấp chí
khí uất" (Tản Ðà) mà đó cũng là tâm trạng "Phản kháng mãnh liệt" của người trí thức tiến
bộ với cái xã hội bóp nghẹt cuộc sống con người. Nam Cao không như kẻ khác do bất
mãn cá nhân mà hằn học, thù nghét "cả giống người". Con người bề ngoài có thể lạnh


lùng đó bên trong là một tâm hồn chan chứa yêu thương.


3. Sự gắn bó cảm động với bà con dân quê là một tình cảm nổi bật trong con người Nam
Cao. Nhà văn lớn lên trong sự đùm bọc của những người nông dân nghèo khổ ruột thịt.
Ðó là bà ngoại nhà văn góa chồng năm 22 tuổi, suốt đời vất vả cực nhọc ni con cháu.
Ðó là người mẹ hiền lành lam lũ. Ðó là người vợ chịu thương chịu khó. Ðó là người dì
ni đã bế ẵm nhà văn khi cịn tấm bé. Hình ảnh những con người đó trở đi trở lại trong
nhiều trang viết của Nam Cao. Tác phẩm của Nam Cao luôn ln hiện lên cái làng Ðại
Hồng thân thiết. Hình ảnh quê hương đã nâng đỡ nhà văn lúc bi quan bế tắc.


Là một thanh niên tiểu tư sản, lại sống giữa xã hội đầy xấu xa. Nam Cao không phải
không tiêm nhiễm nhiều cái tiêu cực. Nhưng cái đáng quí ở Nam Cao là tự mình đấu
tranh nghiêm khắc để vượt mình, vượt khỏi cc sống tầm thường, nhỏ nhen, đê tiện,
vươn tới cái đúng, cái đẹp, cái cao thượng.


4. Bước đầu sáng tác: con đường hiện thực đến với Nam Cao hiện thực và quan điểm
sáng tác của Nam Cao


Nam Cao ước mơ sáng tác từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường. Ơng đã có thơ, truyện
cười, truyện ngắn, kịch vui... đăng báo từ năm 1938. Nam Cao ít nhiều chịu ảnh hưởng
tiểu tư sản đương thời, ông chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn thoát li. Thơ của Nam
Cao nặng về nỗi buồn vu vơ. Nhưng truyện ngắn Nam Cao chú ý đến cảnh ngộ đau khổ
trong xã hội, kiếm ăn bằng việc mua vui cho người khác. Một cô đào hát, chết gục giữa
tiếng hát của mình trên sân khấu (Cảnh cuối cùng). Một diễn viên xiếc nghèo bị tình phụ
đã giết chết người tình rồi tự sát khi biểu diễn (Hai xác chết). Hai chú bé thổi kèn Si ca
-gô và nhào lộn trên đường phố (Hai đứa trẻ).


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

Trong số những nhà văn hiện thực trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Nam Cao là
người có trách nhiệm nhất về ngịi bút của mình. Suốt cuộc đời lao động văn chương nhà
văn ln suy nghĩ "Sống và viết" Nam Cao sớm nhận biết tính chất giả dối phù phiếm


của thứ văn thơ "thơm tho" đó. Nam Cao đã kiên quyết đoạn tuyệt với nó và tiến đến chủ
nghĩa hiện thực. Với Nam Cao từ bỏ chủ nghĩa lãng mạn tức là từ bỏ con đường thốt li
hưởng lạc ích kỷ, phản bội nhân dân lao động; lựa chọn chủ nghĩa hiện thực có nghĩa là
trở về chỗ đứng của mình trong những người nghèo khổ ruột thịt. Trong "Trăng sáng"
Nam Cao đòi nghệ thuật phải là tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp sống lầm than "Chứ
khơng phải là món giải trí của những người đàn bà nhàn nhã ngã mình trên những chiếc
ghế xích đu nhún nhảy" (Trăng sáng) là một tuyên ngôn cảm động, đanh thép của quan
điểm Nghệ thuật vị nhân sinh" cũng là lời tâm niệm chân thành của nhà văn tiểu tư sản
nguyện trở về, chung thủy với quần chúng nghèo khổ.


Nam Cao chế giễu cay độc những nhà tiểu thuyết "óc đầm đìa thuốc phiện", "suốt đời
nhìn trăng" nhân vật lý tưởng của họ là những cơ gái nhí nhảnh, lẳng lơ và rất giả dối,
độc ác.


Là một nhà văn chân chính, Nam Cao bao giờ cũng đặt cuộc sống lên trên nghệ thuật.
Nam Cao tự nhủ phải sống cho đúng thì viết mới đúng. Khi thực dân Pháp trở lại xâm
lăng đất nước ta, Nam Cao muốn "vứt cả bút đi để cầm súng", nhà văn cảm thấy "Nếu
như chưa cầm súng một phen thì cầm bút cũng vụng về " (Bút ký Ðường Vô
Nam-1946). Với Nam Cao nghệ thuật phải hiện thực cả trong nội dung và hình thức. Tiểu
thuyết của Nam Cao hình như khơng có sự hư cấu. Vì vậy, đọc văn Nam Cao ta kinh
ngạc về tính chân thực, điều đó khiến cho tác phẩm của nhà văn có sức thuyết phục mạnh
mẽ.


Về phương diện lao động nghệ thuật, Nam Cao nhấn mạnh lương tâm người cầm bút,
Nam Cao phê phán nghiêm khắc sự cẩu thả trong nghề văn coi đó là sự "bất lương" đến
"đê tiện" Nam Cao thấy hết trách nhiệm của người cầm bút với ý thức trách nhiệm đầy đủ
trước xã hội, phải nổ lực để "hiểu biết, khám phá, sáng tạo"


<b>II. ÐỀ TÀI TIỂU TƯ SẢN</b>
<b>1. Truyện ngắn </b>



Sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám tập trung viết về tầng lớp tiểu tư sản
nghèo.


Hầu hết các nhân vật giống nhau về cảính ngộ, tính cách... ít nhiều họ đều là hình ảnh bản
thân Nam Cao. Ðó là những học sinh thất nghiệp, những viên chức hạngbét, những giáo
khổ trường tư, những nhà văn nghèo bất đắc chí... họ "phải bán dần sự sống để giữ cho
mình khỏi chết" (Quên điều độ).


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

- Cả cuộc đời họ không một chút lạc thú, một tiếng cười vui, có chăng là tiếng cười thiểu
não trong truyện "Cười". Tiếng cười đó cịn khổ hơn cả giọt nước mắt của Ðiền trong
"Nước mắt" khi anh cảm thấy mình khổ q "Khổ như một con chó vậy"


Nam Cao viết về những nổi đau quằn quại trong tâm hồn, nhiều khi có tính bi kịch của
họ.


- Họ là những nhà văn mang tên Hộ, Ðiền, Du, có khi được gọi làhắn và xưng là tôi.
Họ thường ôm ấp một hoài bảo về sự nghiệp tinh thần. Họ đã từng sẳn sàng hiến cả đời
mình cho nghề văn. Với sự say mê, Hộü khơng cịn giới hạn nào trong mơ ước: trong một
phút cao hứng anh tuyên bố, tác phẩm của anh sẽ đoạt giải Nobel và dịch ra đủ mọi thứ
tiếng trên hoàn cầu.


- Tác phẩm của họ có tính nhân đạo. Theo Hộ, tác phẩm có giá trị phải là "tác phẩm
chung cho cả lồi người. Nó ca tụng lịng thương, tình bác ái, sự cơng bình... nó làm cho
con người gần người hơn "


- Ở họ giữa ước mơ và hiện thực mâu thuẫn nhau: hàng ngày chuyện áo cơm ghì sát
đất. Lẽ ra ngịi bút của họ phải viết về một cái gì đó to lớn, góp phần xây dựng nhân loại
thì giờ đây, để kiếm tiền ni vợ con đã phải viết tồn những cái vơ vị nhạt phèo, gợi tình
cảm rất nhẹ, rất nơng. Họ đau đớn nhận ra rằng mình là một con người thừa.



- Họ rơi vào mâu thuẩn giữa tình thương và sự nghiệp: họ định thốt li vợ con để
rảnh rang theo đuổi văn chương. Nhưng Hộ không thể ích kỷ tàn nhẫn như vậy. Hộ đã hy
sinh sự nghiệp để giữ lấy tình thương. Rồi lại rơi vào sự nuối tiếc, sự cục cằn thô bạo.
Khi tỉnh lại, Hộ càng đau đớn hơn nữa lẽ sống cuối cùng cũng khơng giữ được. Hộ nói
với vợ trong tiếng nức nở: "Anh... chỉ là... một thằng... khốn nạn"


Người trí thức trong truyện ngắn Nam Cao còn ghi lại những quằn quại trong cuộc đấu
tranh tư tưởng của người tiểu tư sản.


Ðấu tranh với xu hướng thoát li hưởng lạc "Quên điều độ " "Nhìn người ta sung sướng",
"Trăng sáng", "Truyện tình"


Câu chuyện tội nghiệp của anh chàng Lưu trong "Truyện tình" với cơ Kha nhí nhảnh. Ðó
là bài học với anh tiểu tư sản nghèo cay đắng. Cái cơ gái xinh đẹp, nhí nhảnh, thơm tho
đầy quyến rủ kia chẳng phải là của anh, chúng nó chỉ là đứa giả dối, hợm hĩnh, ích kỷ,
đểu cáng, chúng chẳng quý trọng gì người nghèo mà chỉ lợi dụng cái ngây ngô khờ dại
của anh rồi quẳng anh đi bất cứ lúc nào.


Nam Cao thù ghét sự ích kỷ độc ác và quan niệm về kẻ mạnh "không phải là kẻ giẫm lên
vai người khác để thỏa mãn lịng ích kỷ, kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đơi vai
của mình " (Ðời thừa).


Nam Cao luôn muốn bênh vực mọi người bằng lỗi lầm của họ. Muốn hồ giải con người
bằng sự cảm thơng. Truyện của Nam Cao ghi lại những giằng xé quằn quại của người
tiểu tư sản trong cảnh bế tắc, đồng thời cũng ghi lại sự chiến thắng của tư tưởng nhân
đạo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

trước vực thẳm sa ngã, tuyệt vọng, chứ hồn tồn khơng có khả năng cải tạo xã hội. Nam
Cao và cá nhân vật của mình vẫn bế tắc.



2. Tiểu thuyết "Sống mòn"


"Sống mòn" nguyên "Chết mòn" viết xong cuối năm 1944, nhưng bản thảo sau khi bán
bản quyền cho nhà xuất bản bị vứt lay lắt không được in mãi năm 1956, "Sống mòn" mới
được ra mắt độc giả lần đầu tiên.


a. Bi kịch "Chết mòn" về tinh thần tri thức của người tri thức tiểu tư sản
- Lớp tri thức tiểu tư sản: sống nghèo khổ tủi nhục, bế tắc


Cậu giáo Thứ, giáo San: những thanh niên con nhà có máu mặt một chút ở thơn q,
bằng con đường học hành, họ cố leo lên một chổ đứng tử tế trong xã hội, những mong
thoát khỏi cảnh chân lấm tay bùn. Nhưng lớp "đồ tây" ấy chẳng may mắn hơn lớp đồ nho
trước họ: hoặc học hành giỏi giang hoặc có mảnh bằng đấy mà vẫn thất nghiệp. Họ rơi
vào tình cảnh dở sống dở chết. Bị hắt ra ngoài lề xã hội một cách thảm hại.


Nhân vật Thứ: Thứ đã từng nuôi giấc mộng lớn: "y sẽ vào đại học đường, y sẽ sang Tây...
y sẽ thành vĩ nhân đem những đổi thay lớn lao đến cho xứ sở mình". Với niềm tin ngây
thơ và lịng hăng hái của tuổi trẻ lãng mạn, Thứ đi Sài gòn, tưởng đâu là một cuộc viễn
du đẹp đẽ. Nhưng sau 3 năm lặn lội kiếm sống bệnh tật đã trả, quẳng Thứ về quê nhà để
nằm dài thất nghiệp và để chứng kiến cái làng quê tiêu điều của mình càng thêm điều
hơn.


Thứ phải tìm cái trường tư vơ danh ở một xó ngoại ơ để dạy học kiếm sống. Nhưng "công
việc mỏi mệt quá đi cày " mà đồng lương quá bạc bẻo. Thứ làm việc đến kiệt sức, hà tiện
vắt ruột mà cứ túng thiếu không cất đầu lên được.


Cuộc sống khốn khổ ấy cũng không xong: chiến tranh đến, trường đóng cửa. Thứ bị hắt
về quê ăn bám vợ, "đời y sẽ mốc lên sẽ rỉ đi, sẽ mịn ra ở một xó nhà q...rồi y sẽ chết
mà chưa làm gì cả chết mà chưa sống!...". Ðó là bước đường cùng khơng lối thóat của


tầng lớp tri thức tiểu tư sản nghèo, đó là thực trạng đau sót buồn thảm, bế tắc của cả mơt
xã hội đang rên xiết.


Nhưng giá trị "Sống mịn" khơng dừng ở đó "Sống mịn" tập trung đi sâu vào bi kịch
"Chết mòn" về tâm hồn con người trong cái xã hội khơng cho con người sống, có ý thức
về sự sống mà khơng được sống. Bị nhấn chìm trong cảnh "chết mịn" mà khơng cưỡng
lại được.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

cợt giấc mộng giang hồ của Thứ và bắt Thứ kéo lê cuộc sống đơn điệu, mịn mỏi, tù đọng
ở một xó ngoại ô dở tỉnh dở quê, ngày tháng trôi đi "bình lặng và vơ sự... khơng có hy
vọng gì đổi thay".


Thứ mong muốn giữa người với người có sự cảm thơng, yêu thương. Anh muốn trân
trọng mọi người và có ý thức gần gũi nhân phẩm của mình. Nhưng "chất độc ở ngay
trong sự sống" thấm vào máu từng người. Chất độc ấy vùi dập những gì tốt đẹp, kích
thích những gì nhỏ nhen xấu xa trong con người. Thứ cũng không tránh được sự nhỏ
nhen xấu xa trong cuộc sống đang xảy ra chung quanh mình với vợ con, với bạn bè đồng
nghiệp. Thứ có lúc nghĩ tới sẽ phản bội vợ, vũ phu với vợ, phản bội bạn bè và mong cho
bạn chết. Nghe tin Ðích ốm nặng, Thứ thầm mong Ðích chết ngay lúc ấy. Thứ đã khóc
"khóc cho cái chết của tâm hồn y". Cả cuốn "Sống mịn" là tiếng khóc lặng lẽ mà đau đớn
về "cái chết của tâm hồn".


Với những mẩu chuyện tầm thường trong sinh hoạt hàng ngày. Nam Cao đã đặt ra những
vấn đề có ý nghĩa lớn lao, sâu sắc. "Sống mịn" dõng dạc kết án cái xã hội thối nát đã bóp
nát mọi ước mơ, mọi khả năng tiềm tàng và mọi cái tốt đẹp trong con người, đã tàn phá
tâm hồn, giết chết sự sống. Từ chiều sâu tác phẩm vút lên tiếng kêu khẩn thiết: hãy cứu
lấy con người, cứu lấy sự sống.


b. Phê phán lối "Sống mòn" và tư tưởng tiểu tư sản



- Lối "Sống mòn": ngòi bút sắc sảo của Nam Cao đã phơi ra ánh sáng những lối "Sống
mòn" đáng thương và đáng sợ.


- Bộ mặt tinh thần của mấy thầy giáo, cơ giáo trong "Sống mịn" thật buồn tẻ, thảm hại.
Họ sống chen chúc trong một khơng khí tù đọng, bụi bặm, ẩm mốc. Chỉ mong có miếng
ăn và được n thân.


Nhân vật San: sống bng xi, ln thèm khát thú vui vật chất, chẳng có một ước mơ gì
cao xa.


Nhân vật Oanh: lại "Sống mòn" theo kiểu khác. Ở người đàn bà "gầy đét, cứng nhắc và
khơ" này, tình cảm tâm hồn con người bị vắt kiệt để chỉ cịn những tính tốn, ích kỷ, nhỏ
nhen, keo kiệt đến độc ác.


Xã hội ấy, tình trạng "Sống mòn" là rất phổ biến, ngay trong những người lao động cũng
đầy rẫy những lối sống vô lý, những lối sống mịn. Cuộc sống của ơng Học, ngày nào
cũng như ngày nào, ông dậy sớm, chẻ củi, xay đậu.. "như một cái máy". Cả đời ơng chỉ
có hai niềm vui gần như say mê: ăn mía lau và thổi kèn tàu. Tâm hồn ơng có cái hồn
nhiên, đơn giản nhưng quá đơn giản đến nghèo nàn, thô kệch, mù tối. Theo Thứ sống như
vậy chưa phải là sống. "Yên thân, nhưng yên thân như vậy để làm gì? Làm để có ăn, ăn
để sống, sống để đợi chết... cả cuộc đời chỉ thu gọn vào bằng ấy việc thơi ư?"


Hình ảnh u em nhà ơng Học "lặng lẽ như một con ma ngồi vá bên một ngọn đèn con",
"Thứ có cảm tưởng thị vá chỉ vì đêm dài quá, không sao ngủ hết".


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

Với một tâm hồn dịu dàng, nhạy cảm với đôi mắt sắc sảo tinh tế, Nam Cao đã phơi bày
không che đậy lối "Sống mòn" đang phổ biến. Một mặt Nam Cao lên án nghiêm khắc cái
xã hội đẩy con người vào tình trạng giam hãm lâu đời trong cái khổ, trong sự tù túng và
dốt nát. Mặt khác, nhà văn đã thức tỉnh trong con người nỗi "ghê sợ " lối sống mòn dung
tục và niềm khao khát một cuộc sống đẹp, ý nghĩa.



- Phê phán lối sống tiểu tư sản
Nhân vật Thứ hình ảnh bản thân Nam Cao đã bộc lộ khá đầy đủ lối sống tiểu tư sản. Nổi
bật là tâm lý bất lực, ươn hèn, cái tính nhút nhát, tật "hãi người " từ bé, tính do dự, hay
nghĩ ngợi quấn quanh, sợ đổi thay, đổ vở, ngại hành động.


Chính bất lực và bất động đó dẫn đến tâm trạng tự ti, buồn tủi rất phổ biến ở người tiểu tư
sản nghèo lép vế. Thứ luôn luôn bị ám ảnh bởi những ý nghĩa cay đắng "y xấu, y hèn, y
chỉ là anh giáo khổ trường tư nên chỉ dám nghĩ, dám nhìn một người con gái xa xa lặng
lẽ... nhìn để buồn... để chua chát.


Thầy thanh niên nghèo khổ này đôi lúc cũng vẫn lên nổi thèm khát ăn chơi hưởng lạc. Dự
định đến trọ nhà Hải Nam đã gợi cho Thứ cả một giấc mộng về cảnh sống đàn điếm, lãng
mạn. Có điều, Thứ vốn là người có ý thức về nhân phẩm, sống vị tha và có trách nhiệm
nên đã tự đấu tranh để vuợt qua được.


Những hồi nghi, bi quan về "người đời" tính đa nghi, cái nhìn xoi mói đơi khi tàn nhẫn
đối với người đời. Cái tật hay ghen không tin "ở lòng dạ đàn bà " của Thứ là những biểu
hiện của tâm lý hồi nghi, vốn có nguồn gốc xã hội sâu xa.


Thói sĩ diện hão cũng là một nét nơi bật trong tính cách tiểu tư sản, nhất là ở phần tử tri
thức. Kẻ sĩ diện thường dấu giếm cái nghèo hèn và phô trương cái giàu sang "cao q "
của mình. Thứ rất nghèo túng nhưng muốn tỏ ra hào phóng để rồi sau đó hối hận xót xa.
Khơng dám dọn nhà ban ngày vì sợ thiên hạ biết mình ít đồ đạc, ban đêm mới lẻn đi
giống như một cô gái chửa hoang đi đẻ. Người tiểu tư sản trong "Sống mịn" mang tính bi
hài kịch.


c. Sức mạnh tố cáo của "Sống mòn" và niềm khao khát đổi thay


Nhân vật phản diện trong "Sống mịn" là cuộc đời là tồn bộ cái xã hội tàn bạo đã gây


nên cảnh chết mòn thê thảm của mọi nhân vật. Trên giường bệnh Ðích rít lên trong cơn
hấp hối "Ðời!... ôi chao đời!" Thứ cũng hằn học: "Cuộc sống... cuộc sống thật là một cái
gì nặng nề, trói buộc q " những tiếng kêu rên xiết tốt lên từ chiều sâu bi thảm của mỗi
số phận, lặp đi lặp lại như một nét nhạc toàn buồn tạo nên cái âm hưởng chủ đạo của bài
ca "Sống mòn".


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

lấy số phận con người.


- Niềm khao khát đổi thay


Cuối truyện một sự thật "to lớn quá, mạnh mẽ quá, bi thảm quá ". Nhân loại đang lên
"cơn sốt rét", đang "quằn quại để đổi thay". Phải thay đổi trong bế tắc cùng đường. Thứ
muốn bám vào một niềm tin. Thứ dự cảm thấy một sự đổi thay to lớn: "Lòng Thứ đột
nhiên hé ra một tia sáng mong manh. Thứ tự thấy hy vọng một cách vu vơ. Sau cuộc
chiến tranh này cuộc sống sẽ dể chịu hơn, công bình, đẹp đẽ hơn".


Tác phẩm kết thúc bế tắc, nhưng tia sáng mong manh đó vẫn le lói như hứa hẹn một bình
minh xa xơi sẽ tới.


Nhưng đổi thay bằng cách nào? Thứ cho rằng phải "nhìn nhận rõ ràng cái khổ để tìm
cách diệt khổ ". Anh phản đối thái độ sống nhẫn nhục đầu hàng. Xã hội tương lai mà Thứ
mơ ước: "Ai cũng phải làm, ai cũng phải được no đủ, tự do mà chỉ ai làm mới được no đủ
tự do"


Tuy vậy, "Sống mòn" chưa vương tới tư tưởng Cách mạng. Nam Cao, về căn bản cũng
chưa vượt khỏi nhãn quan và lập trường tiểu tư sản. Thứ vẫn cứ là nạn nhân bất lực, chỉ
suy nghĩ sng mà chưa hành động. Ðó là hạn chế căn bản của nhân vật Thứ cũng là hạn
chế của tác giả.


"Sống mịn"vẫn chưa vượt khỏi khn khổ của văn học hiện thực phê phán. Nhưng trong


khuôn khổ ấy nó xứng đáng được coi là thành cơng xuất sắc cuối cùng của trào lưu hiện
thực phê phán trước Cách mạng tháng Tám.


<b>III. ÐỀ TÀI NÔNG DÂN</b>


<b>1. Những nhân vật nông dân trong truyện ngắn Nam Cao</b>


Mỗi tác phẩm của nhà văn là một lời tố khổ chân thực, cảm động về cuộc sống tối tăm,
thê thảm của người nông dân.


Nông thôn trong tác phẩm Nam Cao là nông thôn Việt Nam vốn triền miên trong bần
cùng, giờ đây đang tiến tới thảm họa khủng khiếp 1945.


- Cảnh chết đói: lão Hạc ăn bả chó tự tử để tránh chết đói.


Anh Cu Phúc chết lặng lẽ trong xó nhà ẩm thấp trước đơi mắt "dại đi vì q đói " của hai
đức con (Ðiếu văn).


Bà cái Tí chết vì một bửa q no, một kiểu chết đói (Một bửa no).


Cảnh đám cưới chạy đói (Một đám cưới). Một đám cưới của Dần trong cảnh nghèo,
khơng đón đưa, khơng may mặc, khơng cỗ bàn, một đám cưới có 6 người cả nhà gái nhà
trai:: "cả bọn đi lũi lũi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt
nhau đi tìm chỗ ngủ ".


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

- Nam Cao chú ý đến những người thấp cổ bé họng nhất, bị áp bức bất công nhiều nhất,
chịu số phận đen đủi, hẩm hiu. Những kẻ cố cùng như Bình Chức "làm thì cật lực mà
quanh năm vẫn nghèo rớt mùng tơi, chỉ vì một miếng ăn mà cũng không giữ được mà ăn,
đứa nào vớ được nó cũng xoay mà đứa nào xoay cũng chịu". Như Chí Phèo bị cả xã hội
bỏ rơi ngay từ khi mới ra đời. Ðó là Thị Nở một người đàn bà ế chồng, sinh ra từ một gia


đình có mả hủi, bị lồi người xa lánh. Ðó là một mụ Lợi, Cu Lộ Lang Rận, những người
không được lồi người coi là người. Ðó là thân phận trâu ngựa của những đứa ở cho nhà
giàu, những cái Tí, cái Dần, anh Cu Phúc ăn thì chẳng bao giờ đủ no mà cơng việc và
những lời chửi rủa thì thừa bửa tứa tát.


- Bị ức hiếp nhiều nhất có lẽ là người phụ nữ trong xã hội; đó là dì Hảo (Dì Hảo), Nhu
(Ở hiền) những cơ gái hiền như một ngụm nước mưa, cả đời chỉ biết yêu thương, nhường
nhịn nhưng cả đời chỉ gặp cay đắng phủ phàng. Ðó là Mụ Lợi (Lang Rận), 36 tuổi vẫn
lận đận về chuyện chồng con, chỉ vì nghèo quá suốt đời đi ở "kể người ta nuôi mụ chỉ
biết ni, ni để mụ hầu hạ người ta, cịn cái sự mụ có chồng hay khơng có chồng thì
mặc mụ ".


Trong xã hội ấy, thân phận người phụ nữ là thân phận nô lệ, luôn bị chà đạp thô bạo, bất
cơng có khi họ là nạn nhân khốn khổ cùng kẻ mà họ phải thờ phụng. Những thằng chồng
vũ phu, tham ăn tục uống, hành hạ vợ một cách dã man (Ở hiền, Dì Hảo, Ðịn chồng, Trẻ
em khơng được ăn thịt chó)


Ði vào cuộc đời những con người bị ức hiếp nhiều nhất, càng hiền lành càng lụi xuống
bùn đen, Nam Cao đã làm nổi bật lên tình trạng bất công ghê gớm trong xã hội: "tại sao
trên đời này nhiều sự bất công đến thế?". câu hỏi không lời giải đáp đó trongỞí hiền" một
truyện ngắn có tính chất luận đề nghi vấn, cái "đạo lí ở hiền gặp lành " cũng là vấn đề
Nam Cao đặt ra trong hầu hết tác phẩm của mình.


- Trong tác phẩm của Nam Cao ta thường gặp những nhân vật nơng dân xấu xí, thơ lỗ,
độc ác, nhục nhã trong cuộc sống của họ. Ðiều đó khiến cho một số người hoài nghi ý
nghĩa hiện thực và nhân đạo của nhiều truyện Nam Cao. Ðúng là trong sự biểu hiện một
số truyện Nam Cao có vẻ tự nhiên chủ nghĩa. Nhưng khơng như những nhà văn chủ
nghĩa nhìn quần chúng như một lũ vật- người ngu dốt đầy thú tính.


Trái lại từ cái bề ngồi xấu xí, có khi rất thú vật của người nông dân đã phát hiện ra tâm


hồn con người. Nam Cao khơng chỉ nói đến tình cãnh bị bóc lột về thể chất mà đi sâu vào
nổi khổ, tâm hồn con người bị đày đọa, nhân phẩm bị xúc phạm, giá trị làm người bị tước
đoạt.


"Một bữa no" là câu chuyện cay đắng thê thảm về cái chết nhục nhã của một bà lão khốn
nạn


"Ðòn chồng" là câu chuyện về một người đàn bà khác bị sỉ nhục, bêu riếu hành hạ dã
man.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

thú vị kích thích tính tị mị của hai đưá đàn bà nhà giàu "nồng nộng chơi, không suốt
ngày tơ tuốt ", "cười hy hý và phát lưng nhau đồm độp... ". Cuối cùng chúng đã đặt Lang
Rận vào một tình thế vơ cùng nhục nhã khiến Lang Rận chỉ cịn một cách thắt cổ tự tử.
Bị sỉ nhục tàn tệ, người nơng dân khốn khổ chỉ có thể hoặc từ bỏ cuộc sống như Lang
Rận, hoặc phải từ bỏ lòng tự trọng nhân phẩm như Cu Lộ, Chí Phèo.


Nam Cao đã đanh thép lên án cái xã hội chà đạp người nông dân lượng thiện và dõng dạc
bênh vực nhân phẩm của họ ngay trong khi bị nhục mạ một cách độc ác bất cơng.


Trước Cách mạng tháng Tám ít có nhà văn hiểu được cách sâu xa ngõ ngách sâu kín,
những hy sinh thầm lặng mà cao quí trong tâm hồn người nơng dân như Nam Cao. Ðó là
chỗ mạnh trong cái tài của nhà văn nhưng trước hết là ở cái tâm "chữ tâm kia với bằng ba
chữ tài " tức là ở tấm lòng tri âm của nhà văn đối với người nông dân nghèo khổ.


Số phận người nơng dân có thay đổi được khơng? câu hỏi đó, Nam Cao cũng như mọi
nhà văn hiện thực phê phán chưa trả lời được. Truyện Nam Cao bao trùm một khơng khí
buồn thảm, u ám. Ðó là cái u ám của hiện thực. Nhưng cũng là u ám trong tâm hồn Nam
Cao. Dưới cái nhìn bi quan của nhà văn, cuộc sống là bế tắc vô vọng, con người vật vã
quằng quại, đau khổ nhưng chẳng đi đến đâu. Người nơng dân thì chỉ biết cúi đầu chịu
đựng, đến khi khơng chịu đựng được nữa thì điên lên, liều mạng vát dao giật lấy miếng


ăn. Nam Cao không đồng tình đối với thái độ nhẫn nhục cam chịu: "cái nghề đờii hiền
q hóa ngu, đã nhịn thì chúng ấn cho đến khơng cịn ngóc đầu lên được" (Chí Phèo).
- Miêu tả người nông dân Nam Cao quá thiên về mặt tha hóa nặng nề, những con người
xấu xí đến quái dị, ý nghĩa thẩm mỹ rất mỏng manh.


- Trong bi quan, bế tắc có lúc Nam Cao như mất phương hướng rơi vào khủng hoảng,
khi ấy nhà văn dễ tiếp thu tư tưởng định mệnh, ma quái: "Nửa đêm" những nhân vật
chính đều là những con vật người, điên loạn trong một khơng khí ghê rợn.


<b>2. Truyện ngắn "Chí Phèo"</b>
a. Chí Phèo lương thiện


Trong làng Vũ đại, Chí Phèo là thằng cùng hơn cả thằng cùng, khơng cha mẹ, khơng
người thân thích, khơng nhà cửa khơng có miếng đất cắm dùi.


Tuổi thơ bơ vơ hết đi ở cho nhà máy lại đi ở cho nhà khác, đến tuổi thanh niên làm canh
điền cho Bá Kiến.


Sống cuộc sống lao động cực khổ của người cố nông, khỏe mạnh, hiền lành, chất phác.
Có những ước mơ chân chính: một gia đình nhỏ làm thuê cuốc mướn vợ dệt vải. Trong
xã hội cũ, ước mơ chỉ là ảo tưởng, còn đau xót khổ cực mới là hiện thực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

Khi tỉnh rượu, anh tha thiết được trở lại với xã hội lồi người "thèm lương thiện muốn
làm hịa với mọi người biết bao".


Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã loé lên một tia chớp trong chuỗi ngày tăm tối dằng dặc. Sự
săn sóc giải dị ở Thị Nở, người đàn bà khốn khổ ấy đã khơi dậy, đánh, thức bản chất
lương thiện của người cố nơng Chí Phèo.


Lần đầu tiên sau bao năm Chí Phèo nghe tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của mấy


người đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ đuổi cá. Ðây là tiếng gọi tha thiết của sự sống
đang níu kéo anh trở về với lương thiện.


b. Chí Phèo lưu manh


Quãng đời lương thiện của Chí Phèo quá ngắn ngủi và chấm dứt khi bị Bá Kiến cho giải
lên huyện rồi đi ở tù: Sau bảy tám năm biền biệt, khi trở về Chí hồn tồn thay đổi.


Hắn khơng cịn là người nơng dân nữa mà là phần tử bị loại ra ngoài xã hội.


Nhà tù thực dân bắt người lúc lương thiện và thả ra thành hung dữ, nhà tù giết cái phần
"người " của Chí, chỉ cịn lại cái phần "con". Hiện tượng bi thảm ấy có tính chất qui luật,
tính phổ biến trong cái xã hội ăn thịt người. Trong truyện ngắn của Nam Cao, ta đã gặp
những họ hàng xa gần của Chí Phèo như Trạch Văn Ðồnh, Lê Văn Rự (Ơng thiên lơi)
"Nửa đêm", Cu Lộ Tư cách mỏ ", Tư Lăng, Binh Chức, Năm Thọ những tiền bối gần xa
của Chí Phèo.


Những cơn say triền miên của Chí dẫn đến hậu quả: say (chửi; say (cướp giật; say (chém
giết.


Chí Phèo sống cuộc đời bản năng thô bạo, cũng giống như những người bạn say của Chí
"lúc nào cũng nghĩ tới màu xanh của một chai rượu văn điển và màu vàng của một đùi
thịt chó nướng".


Chí Phèo trở thành tên quỉ dữ của làng Vũ Ðại. Chí Phèo sống trần trụi, Chí Phèo gây tội
ác một cách vơ ý thức.


Sau khi bị Thị Nở cự tuyệt, Chí Phèo rơi vào bi kịch của con người không được làm
người, muốn làm lại cuộc đời không được chấp thuận. Trong cơn tuyệt vọng, Chí vác dao
đi trả thù.



Chí Phèo chưa có ý thức giai cấp rõ rệt nhưng dây không phải là một hành động trả thù
có tính chất bản năng mù qng. Chí Phèo truy tìm ngun nhân, phù hợp với trạng thái
như chập chờn say tỉnh của Chí Phèo.


Chí Phèo chưa có ý thức trả thù Bá Kiến ngay. Trước tiên nghĩ đến bà cô Thị Nở. Phải
chăng theo thói quen của bước chân, Chí đến thẳng nhà Bá Kiến, nhưng cũng không hẳn
là quen chân mà sâu xa hơn là một nhân tố mới đã xuất hiện trong ý thức của người nơng
dân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

Chí Phèo trong trạng thái tỉnh của một cơn say đã lần ra đầu mối của vấn đề. Chí Phèo
hiểu rỏ Bá Kiến đãtước đi cái quyền làm người lương thiện và khả năng trở lại một người
lương thiện. Tiếng gọi đòi trở lại người lương thiện mang nội dung xã hội và có ý nghĩa
giai cấp. Nó như một tia sáng vụt dậy qua suốt cả cuộc đời cực nhọc tăm tối và đó cũng
là giây phút tỉnh táo, có ý thức nhất, vượt lên khỏi trạng thái bản năng tự nhiên. Chí Phèo
muốn được trở lại chính mình, trở về với bản chất vốn có của người nơng dân sau những
năm tháng dài bi tha hóa.


<b>Hạn chế về mặt nội dung </b>


"Tre già măng mọc, thằng ấy chết còn thằng khác". Nhà văn không hề thấy khả năng thay
đổi vươn lên làm chủ vận mệnh của người nông dân. Sự thức tỉnh của Chí Phèo chỉ dẫn
đến hành động khủng hoảng bi thảm. Trong thế giới nông dân của nhà văn, nếu không
phải kẻ mặt mày dữ tợn, những con ác thú, thì cũng là những con sâu cái kiến, sống trong
sợ hãi nhẫn nhục đến tê liệt.


Ngay cả đến Chí Phèo trước khi đi tù, tuy là canh điền khỏe mạnh nhưng vừa bóp chân
cho bà Ba vừa run. Binh Thức thì hèn đến nổi "ai quát một tiếng thì đái ra cả quần".
Trong cái làng Vũ Ðại khơng có lấy một bộ mặt sáng sủa, có sinh khí. Chỉ có một bộ mặt
vằn ngang vằn dọc của Chí Phèo, bộ mặt xấu xí "khơng được như mặt lợn" của Thị Nở.


Bộ mặt vơ nghĩa lí của lão Tư Lãng thầy cúng kiêm hoạn lợn, của mụ hàng rượu, của bà
cơ Thị Nở. Trong cái nhìn tri âm của Nam Cao đối với nông dân vẫn đôi lúc xen vào con
mặt khinh bạc, cố ý trút tất cả những nét "mỉa mai của hóa cơng" vào nhân vật Thị Nở
một chân dung biếm họa quá ghê tởm và lạc lõng. Nam Cao cũng như hầu hết các nhà
văn hiện thực phê phán, chưa thể vưỏn tới nhận thức cách mạng cũng chưa có một quan
điểm giai câp chính xác. Khi triết lý một cách bi quan: những người yếu đuối vẫn hay
hiền lành. Muốn ác phải là kẻ mạnh. Nhà văn đã xóa nhịa ranh giới giai cấp và vơ tình
biên hộ cho thống trị đầy tội ác mà nhà văn vừa lên án đanh thép.


<b>IV. VÀI NÉT VỀ ÐẶC ÐIỂM NGHỆ THUẬT</b>


Nam Cao có một bản lĩnh nghệ thuật già dặn, một phong cách đa dạng, mới mẻ độc đáo.
1. Phản ánh những khía cạnh chân thực


Sức mạnh tài năng của Nam Cao thể hiện trước trước hết ở sự chân thực trong nội dung
và trong hình thức nghệ thuật.


Một đặc điểm đặc sắc của Nam Cao là từ những sự việc rất mực tầm thường quen thuộc
trong cuộc sống hàng ngày đã đặt vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn.


Ðọc Nam Cao, ta vừa thấy hiện rõ trước mắt những chi tiết chân thực cụ thể vừa vương
vấn những suy nghĩ triết lý mà tác giả gửi gắm đằng sau mỗi câu chuyện.


Viết về người nông dân, cốt truyện đơn giản mà ý nghĩa xã hội sâu sắc. Viết về người tri
thức là viết theo dòng suy nghĩ của nhân vật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

<b>2. Chất trữ tình </b>


"Trong văn xi trước Cách mạng, chưa có ai có được ngịi bút sắc sảo, gân guốc, soi
mói như của Nam Cao" (Lê Ðình Kị văn nghệ số 54, 8 - 5 - 1964)



Ngòi bút của Nam Cao thường lạnh lùng nhưng không hề giống cái lạnh lùng trước số
phận quần chúng của các "tác giả tả chân tư sản". Ngôn ngữ của Nam Cao dùng cho
"ông Chánh ", "bà phó " và dửng dưng khi nói đến con người nghèo khổ thường gọi là
"hắn ", "y", "thị ", "mụ ". chính giọng bình thản lạnh lùng ấy là cảm xúc nén lại khiến cho
sự phẩn uất xót thương càng tăng lên.


Ở nhiều truyện, Nam Cao thường mở đầu bằng tiếng cười hả hê, vô tâm trước một bộ mặt
xấu xí, một tình huống khơi hài của nhân vật, nhưng khi gấp trang truyện lại, người đọc
thấy sót xa rùng mình về số phận thê thảm của con người bị đè nén, bóc lột, bị sỉ nhục
thậm tệ.


Tác phẩm của Nam Cao có một phong thái trữ tình thắm thiết. Truyện Nam Cao thường
là truyện ít tình nhiều. Nhiều truyện có tính chất tự truyện kể về cuộc đời, tâm sự tác giả.
Nhà văn thường xen lẫn tự sự và trữ tình, vừa kể chuyện vừa tham gia vào câu chuyện.
Có khi Nam Cao bước hẳn vào tác phẩm trực tiếp đứng ra kể chuyện và phát biểu cảm
nghĩ của mình.


<b>Số phận bi thảm của dì Hảo</b>


Câu chuyện về anh Cu Phúc là những lời "điếu văn" cảm động trước cái chết (Ðiếu văn).
Giữa một câu văn tự sự bỗng vút lên tiếng kêu thương cảm thán: "Lão hạc ơi! Lão hãy
n lịng nhắm mắt ", "Dì Hảo ơi! tơi hãy cịn nhớ cái ngày dì bỏ đi lấy chồng. Ðó là một
buổi chiều cỏ sương bay". Một đám cưới "lủi thủi đi trong sương lạnh và bóng tối như
một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chổ ngủ " (Một đám cưới)


<b>3. Miêu tả tâm lí nhân vật</b>


Viết về người nghèo, Nam Cao chú ý đến những đau khổ về tinh thần của họ. Viết về
người trí thức tiểu tư sản, Nam Cao phát hiện ra bi kịch tâm hồn.



Thế giới nhân vật của Nam Cao đơng đảo mỗi nhân vật có một diện mạo tâm lý riêng.
Tính cách, tâm lý nhân vật được khắc họa rõ nét chủ yếu bằng sự soi sáng bên trong hơn
là bằng miêu tả ngoại hình và hành động bên ngồi.


Nhân vật Bá Kiến có giọng qt "rất sang " và tiếng cười "Tào Tháo" bá Kiến là một con
hổ biết cười.


Nhân vật trí thức tiểu tư sản Nam Cao chú ý cái thư thế còm ròm, xo ro, thể hiện một
cuộc sống mờ nhạt thiểu não nhỏ nhen. Có những nhân vật khơng miêu tả ngoại hình mà
vẫn sống vì được soi sáng từ bên trong.


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

Phèo, Một đám cưới, Ðời thức, Sống mòn)


- Nam Cao ít tả cảnh, mà có tả cảnh cũng để soi sáng nội tâm nhân vật. Cũng có trăng,
trăng của anh văn sĩ lãng mạn là "liềm vàng", "đĩa bạc là cái vú mộng tràn đầy mà thi sĩ
của muôn đời mơn man" (Trăng sáng). Cịn trăng trong "Chí Phèo" thì "nhễ nhại", "rời
rợi như là ướt nước...giẫy lên đành đạch như là hứng tình"


- Ngơn ngữ trong truyện của Nam Cao là lời ăn tiếng nói quần chúng, giản dị mà phong
phú chắc chắn mà uyển chuyển, có khi xù xì dài dịng nhưng trong sáng đậm đà thường
xen lẫn thành ngữ, tục ngữ.


<b>V. KẾT LUẬN</b>


Nam Cao thực sự là một cây bút văn xuôi đầy tài năng


Một quan điểm nghệ thuật vững vàng. Nội dung viết ra trong tác phẩm là tấm lòng yêu
thương ưu ái với tầng lớp người biết áp bức. Văn chương của Nam Cao là "tiếng đau khổ
kia thoát ra từ kiếp lầm than"



Nghệ thuật của Nam Cao là thứ nghệ thuật tìm tịi, sáng tạo "Biết đào sâu, biết tìm tịi,
khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có ".


<b>NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH (1890- 1969)</b>


<b>I. NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH LÀ NHÀ CÁCH MẠNG: </b>


Bác thời niên thiếu tên là Nguyễn Tất Thành, những năm hoạt động cách mạng lấy
tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều tên khác.


Bác xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước. Lúc nhỏ học chữ Hán, lớn lên
học chữ quốc ngữ và tiếng Pháp ở trường quốc học Huế. Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc
dạy học ở Dục Thanh Phan Thiết, sau đó đi ra nước ngồi, tìm đường cứu nước, từng
hoạt động ở nhiều nước như Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ, chủ yếu ở Pháp. Năm 1919
thay mặt người Việt Nam ở Pháp, Người gửi tới hội nghị hịa bình ở Vecxây bản u
sách quyền các dân tộc. Năm 1920 Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Ðảng cộng sản
Pháp. Ngày 3/2/1930 Người chủ trì hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành Ðảng
cộng sản Ðông Dương ở Hương Cảng. Tháng 2/1941 Nguyễn Ái Quốc về nước thành lập
Mặt Trận Việt Minh. Từ khi về nước Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh: đọc bản
tuyên ngôn độc lập, tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đến
thắng lợi.


<b>II. NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH VIẾT VĂN VÀ LÀM THƠ VÌ CÁCH</b>
<b>MẠNG:</b>


1. Hồ Chủ Tịch khơng có ý định trở thành một nhà văn nhà thơ: vì trách nhiệm của một
người dân mất nước, dường như Người đã linh cảm con đường tương lai của mình khơng
phải là con đường khoa cử văn chương.



2. Sinh thời khơng nhận mình là nhà văn nhà thơ. Trong Nhật kí trong tù Người viết:
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

mạng, Bác dùng văn thơ như là một phương tiện để tuyên truyền phục vụ cách mạng.


<b>III. NHỮNG TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH:</b>


_ Những tác phẩm kí tên Nguyễn Ái Quốc:
+ Truyện ngắn Vi Hành 1920


+ Tiểu thuyết: Bản án chế độ thực dân Pháp 1925.
+ Kịch: Con rồng tre 1922


+ Kí: Nhật kí chìm tàu 1935.


_ Những tác phẩm kí tên Hồ Chí Minh:
+ Thơ: Ngục trung nhật kí 1942 - 1943.
+ Truyện: Giấc ngủ 10 năm 1949.


+ Thơ Hồ Chí Minh gồm một số bài viết: chữ quốc ngữ và chữ Hán từ 1941 đến
1969. Ngồi ra cịn nhiều bút kí, truyện ngắn, Bác viết ở Pháp, Thái lan, Trung Quốc.
Bác còn dịch cuốn Tỉnh ủy bí mật của Phê - đơ - rôp. Năm 1974 nhà xuất bản đã cho in 6
truyện ngắn và bút kí của Hồ Chủ Tịch viết thời kì ở Pháp.


<b>IV. GIỚI THIỆU TÁC PHẨM NHẬT KÍ TRONG TÙ.</b>
<b>1. Hoàn cảnh ra đời</b>


Tháng 1 - 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Bác về nước, để chỉ đạo cách mạng
trong nước. Tháng 5 năm ấy Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Ðảng họp ở hang Pác Bó
dưới sự chủ tọa của Người, quyết định thành lập Việt nam độc lập đồng minh tức là mặt


trận Việt minh để đồn kết đơng đảo nhân dân đánh Pháp đuổi Nhật, giải phóng dân tộc.
Cần tranh thủ thêm sự giúp đở của đồng minh, mà đồng minh gần ta nhất là Trung Quốc.
Người hiểu biết trung Quốc hơn ai hết nên Trung ương cử Người đi Trùng Khánh nhằm
mục đích tranh thủ sự viện trợ của chính phủ Tưởng Giới Thạch, bên trong thì đặt quan
hệ với Ðảng Cộng Sản Trung Quốc. Bấy giờ Người đổi tên là Hồ Chí Minh.


Ði suốt trong 10 ngày 5 đêm, đến một thị trấn Túc Vinh thuộc tỉnh Quảng Tây, bị khám
xét, đồng chí người Trung Quốc dẫn đường khơng có giấy tờ bị bắt theo. Bọn bộ hạ của
Tưởng cho là Bác sang phá tổ chức Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội của Trương
Công Bội và Nguyễn Hải Thần, do chúng đỡ đầu. Cũng bởi thế cho nên những bức điện
của Bác gởi cho bọn cầm quyền trong chính phủ Tưởng đều khơng được trả lời.


Chúng giải Bác đi khắp nơi, tay bị trói cổ mang vịng xích, dầm mưa dãi nắng, trèo núi,
vượt truông. Hơn một năm trong nhà tù Tưởng Giới Thạch Bác đã làm 134 bài thơ in
trong cuốn Nhật lý trong tù trong đó có bài Mới ra tù tập leo núi làm sau khi Bác đã ra
khỏi tù nhưng nhà xuất bản văn học vẫn in chung trong tập Nhật ký trong tù, xuất bản
1960.


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Tây ngày 29 - 8 - 1942 được trả tự do ngày 10 - 9 - 1943,
một năm sau nữa, tháng 9 - 1944, nhà đương cục Trung Quốc mới để Bác về nước. Bác
viết Ngục trung nhật ký trong hồn cảnh ấy. Ơí đây thơ bật ra ngồi ý muốn của Người.
Nhật ký trong tù là cuốn nhật ký ghi chú sự việc xảy ra trong những ngày Bác bị giam
giữ. Nhật ký trong tù viết bằng thơ chữ Hán không phải là một bài thơ trường thiên liền
mạch mà là nhiều bài, mỗi bài về một vấn đề, thể điệu có thay đổi nhưng phần lớn là thơ
thất ngôn tứ tuyệt.


Thơ văn trong tù xưa nay có nhiều bài nổi tiếng như Thi tù tùng thoại của Huỳnh Thúc
Kháng, Xiềng Xích của Tố Hữu. Văn học thế giới có tác phẩm vĩ đại Viết dưới giá treo
cổ của Phu Xích và Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh là một điều hiếm có.



<b>2. Nội dung tác phầm Nhật ký trong tù</b>


a. Nhật ký trong tù thực chất là một bức tranh thu nhỏ của xã hội Trung Quốc thời Tưởng
Giới Thạch


Xã hội Trung Quốc thời kỳ 1942 - 43 mục ruỗng từ lâu đời. Nhật ký trong tù đã ghi lại sự
việc Bác đã phải sống, đã chứng kiến. Quang cảnh Bác nhìn thấy ở những nơi bị giam
hay bị giải đi qua: chuyện bị bắt ở Túc Vinh, sáng trưa, chiều tối. Chuyện cái cùm, dây
trói, cảnh người tù cờ bạc bị chết. Ðây là đặc trưng của bút pháp tả thực, đứng ở một góc
độ nhất định để diễn tả được một cách rõ ràng, chính xác... Bác đã đứng ở góc độ người
tù nhân đã tường tận nếm trải mọi cực hình, chứng kiến mọi sự việc xảy ra trong nhà tù
Tưởng Giới Thạch.


Trước hết hãy nói tới sự bất cơng vơ lí trong nhà tù. Vị lãnh tụ của Cách mạng Việt Nam
vừa sang khỏi biên giới đã bị bắt và đưa ngay vào nhà tù bọn Tàu tưởng


Ta là đại biểu dân Việt Nam
Tìm đến Trung Hoa để hội đàm
Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió
Phải làm khách q tại nhà giam.


(Ðường đời khó khăn)
Cái gì đang chờ Bác ở đó? Nhất là khi chúng biết Bác là người Cộng sản. Mà đường lối
xử thế đối với Ðảng viên cộng sản hồi bấy giờ Thà giết oan một trăm, còn hơn là để một
tên chạy thoát.


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

cắp, phạm đến quyền bóc lột và quyền tư hữu của bọn quan liêu. Cho nên vào đây có tiền
thì mua cơm mà ăn, khơng có tiền thì chết đói


Tù cứng ngày ngày no rượu thịt


Từ nghèo nước mắt, bọt mồm tuôn


(Tù cờ bạc)
Vào tù không cần hối cải, phục thiện, thậm chí tha hồ gây tội, tha hồ đánh bạc


Ðánh bạc ở ngồi quan bắt tội
Trong tù đánh bạc được cơng khai
Bị tù con bạc ăn năn mãi


Sao trước không vô quách chốn này.


(Cờ bạc)
Bọn chúng khơng hề đếm xỉa gì đến cơng lí, pháp luật Nhật ký trong tù có hai bài thơ
Bác nhắc tới việc trốn lính, vợ phải tù thay chồng. Mà đi lính để làm gì? Khơng phải là
để kháng Nhật, mặc dù Nhật đánh chiếm khắp nơi, mà để tấn công Hồng quân Liên xô,
Trung Quốc và để khai tăng con số cho nhiều để kiếm viện trợ ở Mỹ.


Trong tập thơ có hai bài thơ Bác viết về cảnh người vợ phải đi tù thay chồng. Ðã là cơng
lí thì ai làm nấy chịu. Thế nhưng nhà tù Tưởng Giới Thạch sổ toẹt tất cả, chà đạp tất cả.
Hơn thế nữa chúng còn bắt cả trẻ em vào tù.


Sở dĩ ngã niên tài bán tuế


Cháu bé trong nhà lao Tân Dương


Nhà tù của bọn Tưởng đã trở thành nơi đầu cơ hối lộ. Vào tù phải nộp tiền giam, phải
mua chỗ ngủ ở quán trọ, nếu không phải nằm cạnh chuồng xí, thổi cơm, đun nước đều
phải trả tiền cả:


Thổi một nồi cơm trả sáu hào


Nước sôi mỗi chậu,một đồng trao
Một đồng, của đáng sáu hào chỉí
Giá cả trong tù định rõ sao!


(Tiền công)
Những nét miêu tả trên đâu phải là những nét cá biệt, 18 nhà tù, Bác đã miêu tả nhiều hay
ít đến như thế. Nếu ngồi xã hội mà liêm chính, khơng có cảnh hối lộ cơng khai, phổ biến
thì làm thế nào những chuyện qi gở ấy thành lệ, thành chế độ trong nhà lao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

thuốc phiện. Bác đã sử dụng thứ vũ khí châm biếm để nói lên cái vơ lí, cái lố lăng, cái tàn
nhẫn đang ngự trị hồi bấy giờ:


Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn huyện trưởng làm công việc
Trời đất lai tân vẫn thái bình.


(Ở Lai tân)
Tóm lại, tồn bộ những cảnh tượng đã xảy ra trong Nhật ký trong tù là hình ảnh thu nhỏ
của một xã hội Trung Quốc thời bấy giờ. Biết bao những thối nát bất công và tàn bạo của
chế độ Tưởng đang đè nặng lên cuộc sống của dân lành. Nói tới sự bất cơng ngang trái
của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch những bài thơ trong Nhật ký như là một cái tát vào
mặt kẻ thù. Chất thép của Nhật ký trong tù là ở đó.


b. Nhật ký trong tù thể hiện một tâm hồn cao đẹp của Người


Nói tới tâm hồn có nghĩa là nói tời tình cảm trước hết nói tới tình yêu thương con người
của Bác. Trong văn học nhất là văn học cổ điển, có những trường hợp tư tưởng tác phẩm
tự đặt ra những vấn đề mà tác giả không hề nghỉ tới như truyện Kiều của Nguyễn Du.
Với Nhật ký trong tù thì trái lại, Bác chưa nói được hết những điều muốn nói. Nhưng


khơng phải vì thế mà phẩm chất đạo đức của Bác không ngời sáng trong thơ. Ðồng chí
Viên Ưng một nhà thơ Trung Quốc, sau khi đọc Nhật ký trong tù viết: Chúng ta được gặp
tâm hồn vĩ đại của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng...tơi cảm thấy trái tim vĩ đại đó tỏa
ánh sáng chói ngời trong một hồn cảnh tối tăm. Ánh sáng ấy trước hết là ánh sáng của
tình thương người. Ðồng chí Phạm Văn Ðồng nói: Tình nhân đạo, tình thương đồng bào
đó là điều sâu sắc nhất và tốt đẹp nhất trong con người Hồ Chủ tịch.


Bác ái ngại cho cảnh người vợ đến thăm chồng trong ngục, người đứng trong cửa sắt,
người đứng ngoài cửa sắt mà cách biệt như mộtđại dương. Có lần trong tù bổng nổi lên
tiếng sáo. Qua tiếng sáo không những Bác đốn được nổi lịng của người thổi sáo mà cịn
nghĩ tới một người nào đó ở phương xa tưởng như cũng đang bồi hồi vì tiếng sáo:


Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu


(Người bạn tù thổi sáo)
Cùng vất vả cực khổ thì Bác lại càng thương người bạn tù chỉ có cái chăn bằng giấy bồi,
đêm thu cũng như Bác, trằn trọc ngủ không yên. Thương người tù cờ bạc nghèo khơng có
cái gì ăn trước cái cảnh Ngày ngày no rượu thịt của kẻ khác, đành chịu Nước mắt bọt
mồm tn. Thương người bạn tù đêm qua cịn ngồi dựa lưng vào Bác, sáng ngày đã chết
cứng. Tuy chỉ là một người tù cờ bạc nhưng Bác thương sót như thương sót một người
thân, câu thơ đọc lên tưởng như rưng rưng nước mắt


Thân anh da bọc lấy xương


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

(Một người tù cờ bạc vừa chết)
Thương những người lao động dầm mưa, dải gió mà cơng lao chẳng được bao nhiêu.
Tâm trí Bác đã âu yếm ghi lại một cái quán nhỏ bên đường, chỉ có cháo hoa và muối
trắng nhưng khách qua đường vẫn lấy đó làm chỗ tạm dừng chân.


Thương tâm nhất vẫn là những em bé. Một em bé mới nửa tuổi, có tội tình chi cũng phải


theo mẹ vào tù. Bài thơ Cháu bé trong nhà lao Tân dương là lời của một em bé, đọc lên
nghe như một tiếng khóc: oa...! oa...! ooa...!


Bác thương mọi số phận, tha thiết với sự biểu hiện của sự sống và của tâm linh dù đó chỉ
là các run khẽ của hương hoa bị người đời và tạo hóa lãng quên, dù đó chỉ là chuyện cái
răng, chuyện chiếc gậy bị Lính ngục đánh cắp. Chẳng phải Bác cao siêu gì trong quan
niệm về con người. Người xưa nói: Nhân chi sơ tính bản thiện (Mạnh Tử), Tính tương
cận, tập tương viễn (Khổng Tử) Bác có thơ:


Ngủ thì ai cũng như lương thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên


(Nửa đêm)
Dạ bán- nửa đêm khi những tù cờ bạc, rượu chè, cướp giật, những "nạn hữu" nơi tù ngục
của người ngủ thì chỉ mình Người thức. Thức trắng đêm. Một mình ngắm ngía những kẻ
tội lỗi kia và bổng từ khuôn mặt của những kẻ xấu đó gợi dậy trong Người một xót xa
cay đắng, cao hơn một hy vọng, một quyết tâm cứu vớt chúng sinh. Bác gần gũi Giê
su-Thích ca trong cái mênh mơng vơ biên đó và chất nhân loại cũng chính là ở đó. Xn
Diệu nói:" Người bạn tù, người tù là đề tài nhân loại đối với Bác". Ðặng Thanh Lê từ
việc khảo sát "Hình tượng bằng hữu" trong "Ngục trung nhật ký" nhận xét chính xác
"Bác là một nhân cách văn hóa mang tâm hồn nhân loại". Ðề tài nào Bác cũng viết, hình
tượng nào Bác xây dựng, nhân vật nào Bác hướng tới nên rất nhân loại. Chế Lan Viên đã
phân tích kỹ về hai mối quan hệ đi về giữa dân tộc và nhân loại trong Bác. Ơí Bác cái
nhân loại trước tiên là nhân loại- nhân bản, nhân loại- văn hóa. Lịng thương người ở Bác
chính là tinh thần nhân đạo cao độ. Chúng ta càng thấm thía ở đây là mạch nhân đạo của
nhân loại chìm sâu trong Hồ Chủ tịch, có sức gợi, sức rung kỳ diệu. Mạch nhân đạo đó
giúp chúng ta hiểu vì sao độc lập tự do, hạnh phúc cứ như là một điệp khúc vang mãi
trong tâm tưởng của Người.



Nói tới tâm hồn cao đẹp ở Hồ Chủ tịch là nói tới lịng u người và tình u thiên nhiên.
Tình u thiên nhiên ở Bác cũng chính là lòng yêu đời. Cái mạch nhân đạo trong thơ Bác
giúp ta hiểu rõ cảm hứng thiên nhiên ở Người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

nhiên bởi khai thác vô kế hoạch, con người vẫn chưa cảm nhận đầy đủ sự phản ứng dữ
dội của thiên nhiên đối với mình do mình khơng cơng bằng, chỉ biết vơ vét, chứ không lo
bù đắp trở lại.


Trong sự khủng hoảng sinh thái như vậy thì việc trở về với thiên nhiên trong cách ăn
mặc, ở, trong cách giao hòa cảm xúc với cây cỏ., trăng sao, một cánh chim, một ánh mây
chiều... của Bác là bài học nhân đạo lớn lao biết nhường nào đối với mỗi người và cả thời
đại. Với Bác thiên nhiên đã làm tốt vai trị sinh thái cảm hóa con người "Trăng nhòm khe
cửa ngắm nhà thơ". Với thiên nhiên, Bác đã làm tốt vai trị người hóa: "Cảnh đẹp đêm
nay khó hững hờ". C.Mác nói: "Con người do hồn cảnh tạo ra, bởi vậyphải làm cho
hồn cảnh mang tính người". Bác Hồ là kiểu mẫu đầy nhân đạo trong tính hai chiều đó:


"Mặc dù bị trói chân tay


Chim ca rộn, núi hương bay ngát rừng
Vui say ai cấm ta đừng


Ðường xa âu cũng bớt phần quạnh hiu"


(Trên đường đi)
Thiên nhiên như muốn chia sẻ nổi vất vả với Bác, thiên nhiên muốn sưởi ấm thêm tâm
hồn Bác. Bởi Bác rất hiểu, rất cảm, rất mến thiên nhiên. Có được tình cảm ấy chính là
lịng u đời ở Bác.


Giữa bao nhiêu tăm tối dày đặc vẫn ngời lên ánh sáng của một tâm hồn thương người và


yêu đời vô hạn. Giữa bao nhiêu khổ cực Bác vẫn vui, vẫn cảm thấy cái vui tràn đầy trong
cuộc sống. Cái vui với trời đất theo một cánh chim, một làn mây, một xóm ven sơng
Những hình ảnh như thế khơng thiếu gì chung quanh ta, nhưng thường nó vẫn trơi qua đi
khơng có một tấm lịng u đời sâu sắc khơng thể nào ghi lại được.


Khơng phải cuộc sống ngồi nhà tù Bác nói vui mà ngay trong nhà tù, kẻ thù cũng không
sao cướp hết cái vui hồn nhiên trong cuộc sống được. Quý làm sao cái vui trên nét mặt
những người đang sống cảnh tù tội:


"Nắng sớm mặt trời soi cả ngục
Sương mù khói đặc sẽ tan hơi
Tràn đầy sinh khí trong trời đất
Tất cả tù nhân mặt nở tươi"


(Nắng sớm)
Sáng sớm vui, trưa cũng rất vui. Cái vui của một con người làm chủ được mọi hoàn cảnh
và biến hiện thực đen tối thành ánh sáng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

Vang tiếng đàn ca rộn tiếng ngân
Nhà ngục Tĩnh tây mờ mịt tối


Bổng thành nhạc quán viện hàm lâm"


(Xế chiều)
Sống là một niềm vui. Sự thật đơn giản và hiển nhiên là như vậy. Nhưng chúng ta còn
nhớ biết bao nhiêu tiếng kêu khóc thảm thiết đã vút lên trong văn thơ ngày trước. Trong
lịng phải có sẵn một tâm hồn lớn, một niềm tin tưởng vơ biên mới nhìn ra được cái sự
thật đơn giản và hiển nhiên ấy.


Trong hoàn cảnh xã hội cũ, lại sống trong tù đầy và giữa biết bao công việc lớn đang chờ


đợi thực không dễ gì mà vui. Cũng có lúc Bác thấy buồn vơ hạn:


"Nghìn dặm bâng khng hồn nước cũ
Mn tơ vương vấn mộng sầu nay
Ơí tù năm trọng thân vơ tội


Hịa lệ thành thơ tả nổi này"


(Ðêm thu)
Tóm lại, một trong những biểu hiện rất cao của tình thương người và lịng u đời chính
là lịng u nước. Nhật ký trong tù canh cánh trong lòng nỗi nhớ nước thương dân. Chân
bước đi trên đất Bắc mà lòng vẫn hướng về Nam, nhớ đồng bào trong hoàn cảnh lầm
than. Bác nhớ tiếng khóc của bao nhiêu em bé Việt Nam qua tiếng khóc của một em bé
Trung Quốc, nhớ đồng chí đưa tiễn đến bên sông, nhớ lá cờ nghĩa tung bay phất phới,
nhớ lúc tỉnh và nhớ cả trong lúc mơ.


"Một canh...hai canh... lại ba canh
Trằn trọc bâng khoân giấc chẳng thành
Canh bốn canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh"


(Không ngủ được)
c. Nhật ký trong tù đã thể hiện một tinh thần bất khuất kiên cường


Tình thương người lịng u đời, u nước trong thơ Bác về một mặt là kế tục truyền
thống thơ xưa, nhưng mặt khác lại không giống thơ xưa, nó là tâm tình của một người
Cộng sản, nó gắn liền với chiến đấu, vững tin ở chiến thắng. Bác từng nói rất rõ:


"Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong"



</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

cũng đã từng nói lên được trong những hình ảnh nên thơ:
"Gạo đem vào giã bao đao đớn


Gạo giã xong rồi trắng tựa bông"


(Nghe tiếng giã gạo)
Cuộc đời hoạt động của Bác là một bài thơ lớn, tràn đầy sức sáng tạo. Nhật ký trong tù
không thể nào sánh được với toàn bộ bài thơ lớn ấy. Bác là người làm thơ trong cuộc đời
nhiều hơn văn thơ. Trong sự nghiệp chung của Bác văn thơ chỉ là chuyện phụ.


Trong cuộc sống nghèo nàn ấy, Bác đã tìm đủ đề tài cho hơn một trăm bài thơ. Cơ hồ như
đối với Bác chuyện gì cũng thành thơ.Chuyện núi non trăng hoa thành thơ mà chuyện
dưa cà mắm muối cũng thành thơ. Bác làm thơ vì một cái răng, một cái gậy, kể cả những
chuyện rất ít nên thơ cũng thành thơ. Cho nên khi Bác nói trong thơ nên có thép ta cũng
cần tìm hiểu thế nào là thép trong thơ. Có lẽ phải hiểu một cách rất linh hoạt mới
đúng."Khơng phải chỉ nói chuyện thép và giọng thép mới là có tinh thần thép". Trong thơ
văn cũng như trong cuộc đời cái điều quan trọng nhất vẫn là cái thực chất của con người
Nhật ký trong tù ít có những lời hơ to nói lớn:


"Giọng của người khơng phải sấm trên cao
Thấm từng tiếng ấm vào lòng mong ước"


(Sáng tháng năm)
Bác cứ nhỏ nhẹ, cứ hồn nhiên mà toàn bộ tập thơ toát lên một tinh thần thép, tinh thần
của một anh hùng bất khuất, luôn luôn vững bước tiến lên, bền gan chiến đấu.


Sống trong tù lúc nào Bác cũng thể hiện được phong thái ung dung, bình tĩnh, phảng phất
thơ văn của nhà nho xưa đầy khí tiết. Nhưng cái ung dung ngày trước có khi là cái ung
dung của người quay lưng lại với cuộc đời: trả áo mũ về sống ẩn dật, hay bất chấp mọi


nỗi thăng trầm của thế sự. Bác hồn tồn khơng phải như vậy. Ðồng chí Phạm Văn Ðồng
nói:"Hồ Chủ tịch là hình ảnh của sức mạnh bình tĩnh khơng khiếp sợ, khơng hoảng hốt,
đó là sức mạnh của những người sống một nhịp với trào lưu của thế giới, với quy luật
tiến hóa của lịch sử. Chính Bác cũng đã nói:


"Sự vật vẫn xoay đà định sẳn
Hết mưa là nắng ửng lên thơi"


(Trời hửng)
Nhật ký trong tù chúng ta tìm thấy một sức chịu đựng vô cùng mãnh liệt ở Bác. Nhà tù đã
đày đọa thân thể Bác, chúng giải Bác đi khắp nhà tù này đến nhà tù khác, tối ngủ chân bị
cùm, đi thuyền thì bị treo giị


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

Bốn tháng không thay quần áo"


Bị giam lâu, chân mềm như trùn, thế mà lúc ra tù, Bác tập leo núi ngay để chờ lúc băng
núi rừng về nước. Ðó là cái gương cương nghị ở Bác.


Bài thơ "Bốn tháng rồi" đã tổng kết một chặng đường đấu tranh lâu dài, khốc liệt của Bác
ơ trong tù. Chứng kiến những nổi đau khổ đè nặng lên con người Bác, huỷ hoại thân thể
Bác chúng ta cảm thấy hết sức đau lịng và càng kính u Bác. Chúng ta cũng vô cùng
sung sướng tự hào trước chiến thắng của tinh thần Bác, tinh thần của một chiến sỹ công
sản vĩ đại đã bất chấp cả bạo lực của kẻ thù. Bằng sức mạnh của nghệ thuật, Người đã
truyền cho chúng ta một bài học của một tâm hồn sáng chói, bất diệt:


"Vật chất tuy đau khổ
Không nao núng tinh thần"


(Bốn tháng rồi)
Nhờ có tinh thần thép mà mọi gian nguy, hiểm nạn Bác đều vượt qua. Nhờ có tinh thần


thép mà mọi thiếu thồn về vật chất Bác đã đẩy lùi. Bác là tinh hoa của lịch sử, khí phách
dân tộc, và tâm hồn thời đại.


3. Nghệ thuật tác phẩm "Nhật ký trong tù "
a. Nhật ký trong tù đẹp một vẻ đẹp giản dị


Theo ý Xuân Diệu: "Thơ Nhật ký trong tù theo ý tôi, rất dễ và rất khó. Dễỵ là dễ hiểu,
giản dị, gần gũi với mọi người, các bài có cơ sở đầu tiên ở thực tế dễ thơng cảm. Nhưng
nếu chưa nâng tâm trí mình lên đúng mức thì chưa thấy hết các tinh tuý ở bên trong thơ,
cho nên nói là rất khó". Xuân Diệu viết tiếp:"Nếu ai đọc cứ quen theo thị hiếu thơng
thường, thích lời thơ phải hoa mỹ như cơ gái đeo nhiều nữ trang, thích vị thơ phải chua
cay, ngọt...thì người ấy sẽ thấy thơ này bình thường quá. Phải ở trong cái khơng khí cao
sáng của trí tuệ này, phải nối liền mạch với trái tim rất nhân đạo này thí mới nhận hết
được cái chất thơ cao quý này. Người xưa nói:" Ðối diện đàm tâm" nghĩa là mặt nhìn mặt
miệng khơng nói mà hai tâm hồn trị chuyện, như vậy là tinh vi lắm, là cái thứ im lặng rất
cao đàm tâm được với nhau". Ðọc Nhật ký trong tù cũng phải tế nhị như vậy. Cái hay vô
song của tập thơ là chất người cộng sản Hồ Chí Minh, được đào tạo trong lị hun đúc của
Lê Nin mà vẫn mang cái tinh anh của Nguyễn Trãi, Văn Thiên Tường...


Nếu nói đến tínnh chất nhật ký, đây là ngịi bút của một phóng viên ghi nhanh và sắc. Các
nét dù là nhỏ nhất trong đời thường cũng không qua mắt được tác giả: từ giờ giấc trong
một ngày:


"Sớm dậy người người đua bắt rận "
"Hai giờ ngục mở thơng hơi"


"Cơm xong bóng đã xuống trầm trầm"


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

"Lệ thường tù mới đến
Phải nằm cạnh cầu tiêu"



(Quá trưa)
Ðến những thói ăn người trắn trợn.


"Hút thuốc nơi này cấm gắt gao
Thuốc anh nó tịch bỏ vào bao"


(Cấm hút thuốc lá)
Gặp những nét ấy nếu một người có cái phương pháp suy nghĩ chỉ thiên về "vĩ đại", "cao
siêu" thì sẽ bỏ đi hết, làm gì có Nhật ký trong tù nữa. Mất cái tính chất nhật ký thì chùm
thơ cũng mất đi cái đặc tính của nó, cái hương vị của nó sẽ trở thành ra một chùm thơ
khác.


b. Nghệ thuật trào phúng


Nhật ký trong tù ta tìm thấy nghệ thuật trào phúng, nụ cười trào phúng lúc thì đau đớn lúc
thì chua xót "cái cùm" và sự đới nhiều khi đến kỳ lạ:


"Ðược cùm chân mới yên bề ngủ
Không được cùm chân biết ngủ đâu"


Có khi nụ cười gắn với lời tố cáo, như bài "cờ bạc" mở đầu trình bày sự việc rất điềm tỉnh
"Ðánh bạc ở ngoài quan bắt tội


Trong tù đánh bạc được cơng khai"


Ðột nhiên ngịi bút sắc, mạnh đánh kẻ thù bật ngã mà vẫn cứ mát mẻ:
"Bị tù con bạc ăn năn mãi


Sau trước không vô quách chốn này"



Bác bị giải đi ba mươi huyện mười tám nhà lao, Bác đã quắc mắt hỏi tội bọn chúng:
"Phạm tội cái gì? ta thử hỏi


Tội trung với nước, với dân à?"


Giọng thơ trào phúng khơng đơn điệu vì nó theo sát tính phong phú của ý thơ. Mỗi bài
thơ mỗi vẻ. Có bài đanh thép như một cái tát vào mặt quân thù như bài kể chuyện "Nộp
tiền đèn" có bài lời thơ tựa hồ dửng dưng mà thực ra thì tràn đầy căn giận như bài "Ở Lai
Tân". Có bài xót xa chua chát:


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

(Gia quyến người bị bắt lính)
Có bài thơ như một bài nói đùa về ghẻ lở "Ði Nam Ninh ", "Dây trói", mỗi bài là một
tiếng cười như để lấy thêm sức mạnh.


Tóm lại, bằng bút pháp vừa tả thực vừa trào phúng, những bài thơ trong Nhật ký trong tù
đã nêu lên được nỗi cơ cực của người tù nhân và tập thơ lên án chế độ nhà tù phi nhân
loại của Tưởng Giới Thạch.


c. Nghệ thuật triết lý


Nghệ thuật thơ Bác là nghệ thuật những bài thơ triết lý sâu sắc như bài "Nửa đêm"
"Ngủ thì ai cũng như lương thiện


Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên"


Hay bài "Nghe tiếng giã gạo", bài "Học đánh cờ". Mỗi bài thơ nêu lên một thái độ sống,
hay sự nhìn nhận đúng, hoặc đề ra một cách giải quyết về những định đề đã nêu ra.



Chúng ta quán triệt toàn bộ thơ Bác là tư tưởng của một nhà yêu nước vĩ đại, một nhà
Cách mạng vĩ đại. Thơ Bác không phải biểu hiện cuộc sống mà còn cải tạo cuộc sống, chỉ
đạo cuộc sống. Ðó là tính Ðảng cộng sản lớn lao, đó chính là chất thép của thời đại.


Nói đến thơ Bác khơng thể khơng nói đến nghệ thuật. Vì thơ Bác là thơ của tâm hồn, thơ
của tình cảm, thơ của tư tưởng, thơ của hành động, Bác đã sử dụng không biết bao nhiêu
phương tiện biểu hiện thật hết sức phong phú đa dạng, nhiều lúc tưởng như trái ngược
nhau mà lại có một sự nhất quán lạ lùng đó là sự bình dị tuyệt vời khơng có ai có thể bắt
chước được.


Trong những bài thơ của Bác bên cạnh những vấn đề rất lớn lao cao cả, Bác có thể nói
đến những vấn đề nhỏ nhặt hàng ngày mà ít ai có thể nói đến trong thơ: ai có thể ngờ
được bên cạnh câu thơ mang ý nghĩa lớn:


"Ðau khổ chi bằng mất tự do"
Lại một câu khác:


"Ðến buồn đi ỉa cũng không cho"


Thế mà câu thơ đọc lên không chổi, trái lại làm tăng thêm sức tàn ác, làm cho việc mất tự
do, cái tự do tối thiểu của con người cũng khơng có, càng được nhấn mạnh.


Bác không từ chối một đề tài nào. Bác không từ chối một từ nào không dùng miễn là từ
ấy dùng đúng chỗ, dùng đắt. Bác đem rất nhiều những từ dùng hàng ngày vào trong thơ
mà những từ ấy không làm cho thơ Bác tầm thường đi. Trái lại câu thơ của Bác càng sinh
động, càng thực, càng xúc động lòng người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

Tù mềm "Nước mắt bọt mồm tuôn"



Lối chơi chữ của Bác trong bài "Ðêm ngủ ở Long tuyền"
"Ðôi ngựa" ngày đi chẳng nghỉ chân


Ðêm "gà năm vị lại thường ăn"


"Ðôi ngựa" hai chân đi; "Gà năm vị" khi ngủ hai chân phải bắt chéo lại như chéo chân gà
trong mâm cỗ tiệc.


Hay là cách nói tượng trưng ước lệ, chiết tự, nói nhại đến cách nói trực tiếp, cách nói
hiện thực: rất thực, rất thẳng, rất sâu


Trong thơ Bác các yếu tố quan hệ rất hài hòa với nhau: tự sự và trữ tình, lãng mạng và
hiện thực, cổ động và giáo dục, phản ánh và triết lý... đã kết hợp với nhau một cách chặt
chẽ một cách nghệ thuật.


Trong Nhật ký trong tù, Bác thích dùng lối đối chọi giữa các mặt đối lập, tạo nên một sự
châm biếm có khi nhẹ nhàng, có khi gay gắt nhưng cuối cùng gây một nụ cười sâu sắc.


"Ta thì người dắt, lợn người khiên"
"Uốn để pha trà đừng rửa mặt"
"Ðánh bạc ở ngoài quan bắt tội"
"Trong tù đánh bạc được công khai"


Sự đối lập ấy tạo nên một sự buồn cười. Bài thơ nói đến đau khổ mà vẫn trào lộng. Ðọc
thơ Bác chúng ta luôn luôn gặp một nụ cười độ lượng và tế nhị gay gắt mà thấm thía, một
nụ cười riêng của Bác.


Chúng ta đã nói sự bình dị tuyệt diệu trong thơ Bác. Sự bình dị tuyệt diệu đó bắt nguồn từ
con người của Bác, từ cuộc sống hàng ngày của Bác. Bình dị mà khơng tầm thường, giản
dị mà khơng đơn giản. Bác nhìn cuộc sống từ nhiều mặt đối lập của nó, nhìn hiện tại mà


hướng về tương lai, coi trọng tư tưởng mà rất chú trọng đến nghệ thuật.


<b>V. KẾT LUẬN:</b>


Tập thơ Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy viết bằng chữ Hán nhưng về mặt
nội dung và cả về mặt phong cách nghệ thuật rõ ràng là một tác phẩm văn học Việt nam
đậm đà tính dân tộc. "một tác phẩm văn học lớn có tác dụng giáo dục sâu sắc phầm chất
đạo đức Cách mạng cho tất cả chúng ta ngày nay".(Lời nói đầu khi xuất bản cuốn Nhật
ký trong tù của Viện văn học). Tập thơ đưa ta đi sâu vào những cảm xúc, những suy nghĩ,
những băn khoăn của một con người cộng sản vĩ đại trong một hoàn cảnh khó khăn.
Chúng ta có cái may mắn được nghe những lời tâm sự của một vị lãnh tụ kính yêu vì thế
tấm gương đạo đức cao cả của Người đối với ta vô cùng gần gũi. Tôi muốn nhắc lại ý thơ
của Hồng Trung Thơng trong bài "đọc thơ Bác"


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68></div>

<!--links-->

×