Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.65 KB, 14 trang )

TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ NGUỒN VỐN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
I. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Ngân hàng thương mại, vai trò và chức năng của ngân hàng thương
mại.
1.1.

Khái niệm về Ngân hàng thương mại (NHTM)

Sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến việc hình thành
thị trường tài chính và sự ra đời của trung gian tài chính, trong đó lực lượng nịng
cốt là các NHTM. Sự ra đời của hệ thống NHTM đã đánh dấu một bước phát triển
trong đời sống kinh tế xã hội loài người. Hệ thống Ngân hàng hiện nay là quá trình
hình thành và phát triển lâu dài, phù hợp với tiến trình phát triển gắn liền với nền
sản xuất hàng hoá và được xem là bộ phận không thể tách rời và tồn tại như một tất
yếu lịch sử trong đời sống kinh tế xã hội hiện đại.
Ở các nước khác nhau, quan niệm về NHTM cũng có một số điểm khác
nhau. Tuy nhiên điểm chung là đều coi NHTM là một doanh nghiệp chuyên nghề
kinh doanh tiền tệ và cung cấp dịch vụ tài chính cho nền kinh tế thị trường. Ở Việt
Nam theo pháp lệnh “Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và Cơng ty tài chính” ban
hành tháng 5 năm 1990 đã ghi: “ Ngân hàng là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt
động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện
thanh toán”. “Luật các tổ chức tín dụng” được Quốc hội thơng qua tháng 12 năm
1997 xác định “Ngân hàng là tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ các hoạt
động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh có liên quan”, trong đó “hoạt động
Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các
dịch vụ thanh tốn”.



Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, Ngân hàng gồm có các loại: Ngân
hàng thương mại, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách,
Ngân hàng hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác.
1.2.

Vai trị của Ngân hàng thương mại:

Trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng có vai trị hết sức quan trọng đối
với sự phát triển kinh tế.
Trước hết Ngân hàng đóng vai trị to lớn trong việc thu hút, huy động tích tụ
và tập trung các nguồn tài chính nhàn rỗi trong nền kinh tế, góp phần tài trợ nhu
cầu về vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội.
Ngân hàng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng thu hút những
khoản tiết kiệm trong phạm vi toàn xã hội để đáp ứng nhu cầu về vốn cho quá trình
sản xuất kinh doanh, đầu tư mở rộng năng lực hoạt động.
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng thúc đẩy nâng cao sử dụng các nguồn tài
chính, tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho việc luân chuyển vốn và sự di chuyển
vốn từ lĩnh vực kinh doanh kém hiệu quả sang lĩnh vực kinh doanh có hiệu quả.
Ngân hàng đã rút ngắn tốc độ lưu thơng hàng hố - tiền tệ. Hệ thống thanh
tốn khơng dùng tiền mặt của Ngân hàng góp phần rút ngắn thời gian và chi phí
thanh tốn.
Ngân hàng góp phần đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên
tục, không bị đứt quãng thông qua việc cung cấp vốn đầu tư. Ngân hàng đóng vai
trị là cầu nối ,thu hút vốn từ những thực thể thừa vốn chuyển sang những thực thể
thiếu vốn, từ đó đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục.
Ngân hàng góp phần thực hiện chính sách tài chính - tiền tệ của Nhà nước,
điều tiết và kiểm soát hoạt động của thị trường tiền tệ và thị trường vốn, điều hoà
hoạt động kinh tế xã hội. Chẳn hạn NHNN có thể thay đổi tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt



buộc đối với NHTM để thay đổi lượng tiền cung ứng, thực hiện điều hồ lưu thơng
tiền tệ.
1.3.

Chức năng của Ngân hàng thương mại:

- Tạo tiền: Một trong những chức năng chủ yếu của NHTM là tạo tiền và
huỷ tiền. Chức năng tạo tiền xuất phát từ chính nhu cầu bên trong của mỗi NHTM
riêng lẻ và sự tăng trưởng bội số theo tốc độ tăng trưởng của toàn hệ thống, thơng
qua các hoạt động tín dụng, đầu tư và thanh toán.

Trong mỗi NHTM riêng lẻ, khả năng tạo tiền chỉ đạt từ trên một lần, đến
dưới 2 lần tuỳ theo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Một khoản tiền mặt khách hàng gửi vào
ngân hàng được ngân hàng lưu giữ tại quỹ nghiệp vụ của ngân hàng, đồng thời
phản ánh trên tài khoản của khách hàng. Sau đó khách hàng trích tài khoản thực
hiện thanh tốn khơng dùng tiền mặt. Thơng qua các bút tốn này, dùng “tiền ghi
sổ” và thanh toán chuyển khoản, để tạo ra một khoản tiền mới. Đối với tồn hệ
thống NHTM thì bội số tạo tiền còn lớn đến mức kinh ngạc. Chức năng tạo tiền
làm cho các NHTM có khả năng đẩy nền kinh tế phát triển quá nóng, ngược lại
huỷ tiền gây thiểu phát, gây khó khăn cho tăng trưởng kinh tế.
Chức năng tạo tiền có liên quan đến tổng khối lượng tiền cung ứng cho nền
kinh tế phù hợp với chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Vì vậy các nhà khoa học
coi chức năng này là chức năng số một của NHTM.
- Thanh toán: Sự vận động vốn trong phạm vi tồn quốc và phạm vi tồn cầu
là địi hỏi của sự thống nhất và quốc tế hoá cao độ chức năng thước đo giá trị, chức
năng phương tiện lưu thông trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Vì vậy chức
năng thanh tốn của NHTM phát huy với tốc độ cao có liên quan đến việc cung
ứng tổng khối lượng thanh tốn cho tồn xã hội, một tác nhân của tăng trưởng kinh



tế. Chức năng thanh toán là chức năng cổ truyền của NHTM. Ngày nay những sản
phẩm hiện đại của nó là những tấm các điện tử, những tấm mica thay cho vàng bạc
châu báu, thay cho tiền tệ, là do sự phát triển của chức năng này.
- Tín dụng: Phạm trù tín dụng được trở thành chức năng của NHTM ngay từ
thuở Ngân hàng chào đời. Tín dụng bao hàm ý nghĩa huy động vốn, thu hút tiền
gửi và cho vay. Các nhà khoa học kinh tế đã coi Ngân hàng là một ngành cơng
nghiệp, thì việc cung ứng tín dụng được coi như việc thực hiện một trong các “sản
phẩm” chủ yếu, một “sản phẩm gián tiếp”. Sản phẩm này đem ra tiêu dùng sẽ tạo
ra việc làm, tạo ra sản phẩm cho xã hội do khai thác tài nguyên.
- Cung ứng dịch vụ Ngân hàng: Một xã hội văn minh được đánh giá bằng hệ
thống cung ứng dịch vụ. Một chức năng quan trọng của Ngân hàng hiện đại cũng
được phát triển theo sự tiến bộ của nền văn minh, đó là dịch vụ Ngân hàng.
Ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp, nhà xuất
khẩu và khách hàng là cá nhân những loại dịch vụ thơng thường và thanh tốn
chuyển tiền uỷ thác, tư vấn đầu tư mua trả góp, các dịch vụ lữ hành...Ngày nay
hiện đại hơn là các loại thẻ điện tử, máy rút tiền tự động, dịch vụ chứng khoán, các
dịch vụ Ngân hàng tại gia, séc...Chức năng này trong nền kinh tế thị trường phát
huy hơn bao giờ hết.
2. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, hoạt động trên cơ
sở huy động vốn và đầu tư vốn. NHTM đi vay để cho vay, thực hiện nghiệp vụ
chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Việc NHTM đi vay để cho vay cũng
nhằm mục đích trọng yếu nhất là tìm kiếm lợi nhuận. Đã là một doanh nghiệp hoạt
động trên thị trường tài chính, q trình hoạt động nghiệp vụ tín dụng, thanh tốn
và các nghiệp vụ kinh doanh khác là phải huy động vốn, sử dụng vốn huy động đó


làm nguồn vốn để kinh doanh. Bản chất của nguồn vốn huy động là tài sản của các
chủ sở hữu khác, không thuộc quyền sở hữu của Ngân hàng nhưng Ngân hàng có
quyền sử dụng trong thời gian hoạt đơng và có trách nhiệm hồn trả cả gốc và lãi.

Doanh thu của NHTM có được từ các nguồn thu chính là lãi suất cho vay, hoa
hồng dịch vụ và doanh lợi hối đối... Các khoản chi phí bao gồm chi phí cho nguồn
vốn huy động, chi lương và phụ cấp, chi phí nghiệp vụ, khấu hao tài sản,
thuế...Phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí là lợi nhuận của Ngân hàng; đây
là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả kinh doanh của Ngân hàng.
II. NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM
1. Các loại nguồn vốn của ngân hàng thương mại:
1.1. Nguồn vốn tự có: Vốn tự có chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn
vốn kinh doanh của Ngân hàng nhưng nó có ý nghĩa kinh tế rất lớn. Nguồn vốn
này có được nhờ chủ sở hữu đóng góp và bổ sung từ lợi nhuận. Nó khẳng định khả
năng

tài chính ban đầu của Ngân hàng, là cơ sở để Ngân hàng huy động các

nguồn vốn khác, nó quyết định đến quy mơ hoạt động của Ngân hàng, vì vậy Ngân
hàng ln phải quan tâm để tăng tỷ trọng nguồn vốn này.
1.2. Nguồn vốn huy động: Đây là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong mơi trường
cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các Ngân hàng
đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau. Nguồn vốn huy động
bao gồm: tiền gửi thanh toán (hay tiền gửi giao dịch); tiền gửi có kỳ hạn của doanh
nghiệp, các tổ chức xã hội; tiền gửi tiết kiệm của dân cư; tiền gửi của các Ngân
hàng khác.
1.3. Nguồn vốn vay: Ngân hàng có thể đi vay Ngân hàng Nhà nước, các
Ngân hàng và các trung gian tài chính khác. Nguồn vốn này có tính ổn định cao


nhưng đổi lại lãi suất phải trả khá cao. Một số Ngân hàng cũng vay mượn bằng
cách phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn.
1.4. Các nguồn vốn khác: Bao gồm nguồn vốn trong thanh tốn (séc trong

q trình chi trả, ký quỹ để mở L/C...), nguồn uỷ thác và các nguồn khác như thuế
chưa nộp, lương chưa trả...
2. Cơ cấu nguồn vốn huy động và đặc điểm của chúng:
2.1. Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch).
Đây là tiền gửi của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào Ngân hàng để nhờ
Ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi
trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được Ngân hàng thực hiện. Nhìn chung, lãi
suất của khoản tiền này rất thấp (hoặc bằng không), thay vào đó chủ tài khoản có
thể được hưởng các dịch vụ Ngân hàng với mức phí thấp. Ngân hàng mở tài khoản
tiền gửi thanh tốn (tài khoản có thể phát hành séc) cho khách hàng.
2.2. Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội.
Là loại tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội nhằm mục đích kiếm
lời. Người gửi khơng được sử dụng các hình thức thanh tốn đối với loại tiền gửi
này.

Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến Ngân hàng để rút tiền ra, tuy không

thuận lợi cho tiêu dùng song tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ
theo độ dài của kỳ hạn. Loại tiền gửi này có tính ổn định tương đối cao, vì khách
hàng gửi vào Ngân hàng với các thời hạn đã xác định cụ thể để hưởng lãi nên Ngân
hàng có thể chủ động lên kế hoạch để sử dụng loại vốn này.
2.3. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các
khoản tiền tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với Ngân hàng, họ đều
có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời (lãi suất loại


tiền gửi này cao hơn tiền gửi thanh toán) đối với các khoản tiết kiệm. Ngân hàng
có thể mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều chương mục tiết kiệm (hoặc là sổ tiết
kiệm) cho mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm khơng dùng để thanh

tốn tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn nếu được Ngân hàng cho
phép.
2.4. Tiền gửi của các Ngân hàng khác.
Nhằm mục đích nhờ thanh tốn hộ và một số mục đích khác, NHTM này có
thể gửi tiền tại NHTM khác. Tuy nhiên quy mô nguồn này thường khơng lớn.
2.5. Các nguồn vốn huy động khác:
Ngồi các loại tiền gửi nói trên, Ngân hàng cịn huy động dưới hình thức bán
các loại phiếu nợ như trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi. Mục đích của việc
phát hành những phiếu nợ này là để thu hút các khoản tiền để dành của các doanh
nghiệp,

cá nhân. Đặc điểm của vốn huy động dưới hình thức này là lãi suất

cao hơn lãi suất tiết kiệm và đây là hình thức chủ động của Ngân hàng ở thị trường
vốn.
Tóm lại, đặc điểm chung của vốn huy động là tài sản của các chủ sở hữu
khác nhưng là khách hàng của Ngân hàng nên Ngân hàng được phép sử dụng vào
các nghiệp vụ cho vay, đầu tư, tiền gửi, chiết khấu nhưng phải đảm bảo các quy
định

an toàn vốn và thực hiện dự trữ theo quy định. Nguồn vốn huy động là

nguồn vốn kinh doanh quan trọng nhất của NHTM, vì vậy Ngân hàng ln tìm các
giải pháp để tăng nguồn vốn này.
3. Vai trò của nguồn vốn huy động đối với hoạt động kinh doanh của
NHTM.


Nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của
Ngân hàng, nó quyết định quy mơ kinh doanh, định hướng kinh doanh, khả năng

sinh lợi và các rủi ro đối với Ngân hàng bởi vì:
- Nguồn vốn là cơ sở để Ngân hàng tổ chức các hoạt động kinh doanh của
mình.
- Nguồn vốn của Ngân hàng sẽ quy định hoạt động của Ngân hàng, nguồn vốn
lớn thì thị trường tín dụng sẽ được mở rộng, tạo điều kiện cho Ngân hàng tăng sức
cạnh tranh trên thị trường.
- Nguồn vốn lớn sẽ đảm bảo khả năng thanh tốn của Ngân hàng, từ đó tạo uy
tín cho Ngân hàng trên thị trường tài chính.
- Nguồn vốn lớn sẽ góp phần ổn định lưu thơng tiền tệ, thực hiện tốt các chức
năng của Ngân hàng.
III. ĐẶC ĐIỂM CỦA NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG TRONG DÂN CƯ.
1. Nguồn hình thành.
1.1. Tiền tích luỹ và tiết kiệm của dân:
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, mức thu nhập của người
dân tăng lên, họ không những đủ chi tiêu cho hàng hố thiết yếu mà cịn có của ăn,
của để.

Họ có thể tự cất giữ số tiền tích luỹ được hoặc gửi vào Ngân hàng, các tổ

chức tài chính khác hay đầu tư tuỳ theo thói quen, mục đích tiêu dùng và sự ổn
định của nền kinh tế. Vì vậy Ngân hàng có thể khai thác đặc điểm này để tăng
nguồn vốn huy động.
1.2. Nguồn di chuyển từ nước ngồi vào nước ta:
Đó là lượng tiền của Việt kiều gửi về cho người thân; người đi lao động
nước ngoài, cán bộ chuyên gia, lưu học sinh và cộng đồng người Việt ở các nước


trên

thế giới gửi và mang về nước. Từ những nguồn này người dân có thể tiêu


dùng hoặc tích luỹ theo hướng có lợi nhất cho mình tuỳ thuộc vào hồn cảnh gia
đình, chính sách của Nhà nước và sự ổn định của đồng tiền.
2. Các hình thức huy động vốn trong dân cư.
Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng càng phong phú, đa dạng và
linh hoạt bao nhiêu thì khả năng thu hút vốn lớn bấy nhiêu. Hiện nay Ngân hàng
đang áp dụng các hình thức sau:
2.1. Tài khoản cá nhân:
Đây là những tài khoản ở Ngân hàng, người sử dụng có quyền được phát
hành séc. Đối với tài khoản này, chủ tài khoản được toàn quyền sử dụng số tiền
trên tài khoản tiền gửi, tuỳ theo yêu cầu chi trả, chủ tài khoản có thể thực hiện các
khoản thanh toán qua Ngân hàng hoặc rút tiền mặt để sử dụng.
Đối tượng mở tài khoản cá nhân là tất cả các tầng lớp dân cư bao gồm
Doanh nghiệp tư nhân, hộ sản xuất kinh doanh, những người buôn bán hàng hố.
Mục đích của người mở tài khoản loại này là để thanh toán chi trả. Ở các nước
khác, khách hàng chỉ được hưởng dịch vụ Ngân hàng chứ khơng được hưởng lãi,
nhưng ở nước ta do hình thức này mới phát triển nên Ngân hàng để người gửi được
hưởng một mức lãi suất thấp và không phải trả lệ phí cho Ngân hàng để khuyến
khích người dân sử dụng tài khoản cá nhân.
2.2. Tiền gửi tiết kiệm:
Đây là nguồn quan trọng đối với Ngân hàng, có mức lãi suất cao hơn mức
lãi suất của tài khoản cá nhân bởi vì người gửi tiết kiệm khơng được hưởng nhiều
dịch vụ như đối với các tài khoản séc. Mục đích của khách hàng khi gửi tiền là bảo
quản và sinh lợi. Tiền gửi tiết kiệm bao gồm tiết kiệm không kỳ hạn và tiết kiệm có
kỳ hạn. Ngồi ra cịn có tiết kiệm có đảm bảo giá trị theo vàng và USD - Đây là


hình thức khá hấp dẫn để huy động vốn trung và dài hạn bởi vì nó loại bỏ tâm lý lo
sợ đồng tiền mất giá của người dân. Theo hình thức này số tiền khách hàng gửi vào
Ngân hàng được quy ra giá trị vàng hoặc USD tương đương tại thời điểm gửi tiền,

hết hạn sẽ nhận lại số tiền tương đương vàng hoặc USD tại thời điểm đó cộng thêm
phần lãi tính trên số vàng hoặc USD. Hình thức này có ưu điểm đảm bảo giá trị
vốn gốc và vẫn có lãi, khá thích hợp với người dân Việt Nam xưa nay có thói quen
tích luỹ tài sản dưới dạng vàng và USD.
Tiết kiệm xây dựng nhà ở là một hình thức tiết kiệm của các tầng lớp dân cư
do Ngân hàng áp dụng nhằm hỗ trợ cho người dân sớm có nhà ở trong thời gian
ngắn góp phần vào chính sách nhà ở của Đảng và Nhà nước. Với hình thức này,
người dân có nhu cầu mua sắm, cải tạo, nâng cấp nhà ở đều có thể gửi tiền tiết
kiệm với thời hạn ít nhất một năm trở lên và được Ngân hàng cho vay thêm vốn để
cùng với số tiền tiết kiệm được để làm nhà ở. Tiền gửi tiết kiệm được Ngân hàng
trả lãi, tiền vay người vay phải trả lãi đảm bảo lợi ích của người gửi và chi phí của
Ngân hàng. Mức vốn tối đa người gửi tiết kiệm có thể vay được bằng số dư tiết
kiệm tại thời điểm xin vay.
2.3. Kỳ phiếu:
Ngân hàng phát hành kỳ phiếu nhằm huy động vốn trong dân cư một cách
linh hoạt, đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho sản xuất, một số chương trình, một số
dự án kinh tế hoặc kinh doanh của Ngân hàng. Kỳ phiếu gồm các loại có ghi tên,
khơng ghi tên bằng VND hoặc USD với các mệnh giá khác nhau và có thể chuyển
nhượng được. Hình thức huy động này rất có hiệu quả vì nó có lãi suất ưu đãi của
Ngân hàng.
2.4. Trái phiếu:


Trái phiếu là loại giấy nhận nợ của Ngân hàng với khách hàng. Khác với kỳ
phiếu được sử dụng linh hoạt với khung lãi suất, thời gian phát hành riêng biệt ở
từng chi nhánh, trái phiếu thường được phát hành với thời hạn dài (trên một năm)
với quy mô lớn và đồng loạt trong cả hệ thống Ngân hàng. Mệnh giá trái phiếu là
số tiền Ngân hàng công bố trên bề mặt trái phiếu để cam kết trả cho người sở hữu
trái phiếu. Trái phiếu có thể mua bằng VND hoặc USD với những thời hạn khác để
được Ngân hàng mua lại theo thể thức chiết khấu.

Kỳ phiếu và trái phiếu có điểm khác so với gửi tiết kiệm là tuỳ thuộc tình
hình cân đối nguồn vốn và cho vay tại thời kỳ với một tỷ lệ lãi suất đủ hấp dẫn,
Ngân hàng
có thể chủ động huy động được lượng vốn mong muốn trong thời gian ngắn. Việc
phát hành các loại kỳ phiếu, trái phiếu ngồi mục đích huy động cịn có tác dụng
kiềm chế lạm phát và góp phần cho sự phát triển của thị trường chứng khoán.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn vốn huy động trong dân cư.
3.1. Nhân tố chủ quan:
- Chính sách lãi suất:
Việc duy trì lãi suất tiền gửi cạnh tranh với các Ngân hàng khác đã trở nên
cực kỳ quan trọng trong việc thu hút các khoản tiền gửi mới và duy trì tiền gửi hiện
có. Trong giai đoạn hiện nay, khi mà cạnh tranh trong nghiệp vụ huy động vốn
giữa các

Ngân hàng càng trở nên gay gắt thì việc áp dụng một chính sách lãi

suất linh hoạt, ưu đãi là vơ cùng cần thiết. Đặc biệt trong các giai đoạn khan hiếm
tiền tệ, dù cho những khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy người
dân gửi tiết kiệm vào Ngân hàng mình. Tuy nhiên, khơng phải đưa ra một mức lãi
suất cao là có thể thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, vấn đề là
mức lãi suất cụ thể Ngân hàng đưa ra sẽ đem lại cho người gửi tiền mức lợi nhuận


thực tế là bao nhiêu, mức độ thoả mãn thế nào, đặc biệt là khi có lạm phát phải
đảm bảo mức lãi suất đầu vào, đầu ra để Ngân hàng kinh doanh có hiệu quả. Vì
vậy, khi đưa ra một mức lãi suất huy động cụ thể Ngân hàng phải căn cứ vào tình
hình phát triển của nền kinh tế, chính sách lãi suất của Ngân hàng Trung ương,
chính sách tín dụng và xu hướng vận động của thị trường tài chính.
- Mạng lưới huy động và hình thức huy động vốn của Ngân hàng:
Mạng lưới huy động rộng khắp sẽ huy động được tối đa nguồn vốn nhàn rỗi

trong dân cư. Ngân hàng áp dụng các hình thức huy động càng phong phú, đa
dạng, linh hoạt, thuận tiện bao nhiêu thì khả năng thu hút vốn càng lớn bấy nhiêu.
Việc áp dụng nhiều hình thức tiết kiệm với các thời hạn khác nhau sẽ đáp ứng mọi
nhu cầu của khách hàng, thoả mãn được mong muốn của họ.

- Các dịch vụ Ngân hàng cung cấp:
Ngày nay, khi xã hội phát triển, văn minh và hiện đại thì nhu cầu được phục
vụ ngày càng cao. Những dịch vụ đa dạng phong phú của Ngân hàng sẽ góp phần
thắng lợi cho Ngân hàng trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt. Dịch vụ Ngân hàng
qua thư, máy rút tiền tự động hay dịch vụ tư vấn kinh doanh...sẽ giúp Ngân hàng
thu hút được lượng lớn khác hàng, bao gồm khách hàng sử dụng một dịch vụ và
đồng thời sử dụng nhiều dịch vụ. Ở nước ta hiện nay Ngân hàng Ngoại thương đã
thực hiện chương trình hiện đại hố trên tồn quốc nên rất được khách hàng ưa
chuộng. NHĐT&PTVN cũng đã bắt đầu tiến hành hiện đại hoá vào cuối năm 2003.
- Uy tín của Ngân hàng:
Khi gửi vốn vào Ngân hàng hay một tổ chức tín dụng, người gửi tiền ln
muốn đồng tiền của mình được sinh lợi và an tồn nên họ phải chọn nơi nào đáng


tin cậy nhất. Uy tín, sự nổi tiếng vững mạnh của Ngân hàng là tài sản vô cùng quý
giá cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, nó cịn tạo mối quan hệ lâu dài
không chỉ với các khách hàng hiện có mà cịn với các khách hàng tiềm năng. Uy
tín của Ngân hàng có thể được đánh giá qua các đặc điểm như: Thâm niên của
Ngân hàng, quy mô vốn tự có, cơ sở vật chất và kỹ thuật hiện đại, đội ngũ cán bộ có
trình độ và nhiệt tình.
- Chiến lược khách hàng:
Khách hàng ngày càng có nhiều cơ hội lựa chọn các sản phẩm dịch vụ do
các Ngân hàng khác nhau cung cấp, cho nên việc xây dựng chính sách khách hàng
đúng đắn sẽ giúp Ngân hàng thu hút được khách hàng, lôi kéo họ giao dịch với
Ngân hàng mình. Các Ngân hàng có thể xây dựng chiến lược bằng cách nghiên cứu

thị trường, nghiên cứu nhu cầu của khách hàng để đưa ra các chính sách phù hợp
nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Đây cũng là một nhân tố quan
trọng để giữ khách hàng hiện có, đồng thời thu hút được khách hàng tiềm năng.

3.2. Nhân tố khách quan:
- Môi trường kinh doanh chung:
Hoạt động của NHTM nói chung và hoạt động nguồn vốn nói riêng khơng
thể thốt ly mơi trường kinh doanh, đặc biệt là mơi trường kinh tế, chính trị và luật
pháp. Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh đặc biệt chịu rất nhiều các chính sách,
các quy định điều chỉnh của chính phủ và của NHNN. NHNN thay đổi chính sách
về tài chính, tiền tệ, tín dụng, lãi suất sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn cũng
như chất lượng nguồn vốn của NHTM. Sự ổn định về chính trị hay chính sách
quan hệ ngoại giao tác động đến quan hệ nguồn vốn của một Ngân hàng với các
quốc gia khác trên thế giới.


Văn hoá là yếu tố quyết định đến tập quán, tâm lý, thói quen trong việc sử
dụng tiền của dân cư. Mức độ chấp nhận rủi ro của xã hội, thói quen tích luỹ ảnh
hưởng đến quyết định của những thành viên trong xã hội về phương thức tiêu dùng
và tiết kiệm, giữ tiền ở nhà, gửi tiền ở Ngân hàng, đầu tư chứng khoán hay bất
động sản.
Ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ đã trở thành một trong những
điều kiện bắt buộc để tồn tại của một Ngân hàng. Trong những năm gần đây, nhờ
sự tiến bộ của công nghệ thông tin, chúng ta đã chứng kiến sự ra đời của các loại
sản phẩm dịch vụ Ngân hàng mới liên quan đến hoạt động nguồn vốn của Ngân
hàng như dịch vụ Ngân hàng tại nhà, máy rút tiền tự động...Với những sản phẩm
và dịch vụ mới, tỷ lệ gửi tiền và thanh toán qua Ngân hàng ngày càng tăng. Giới
hạn về phạm vi thị trường đang dần mất đi ý nghĩa nhờ mạng thơng tin tồn cầu.
- Thu nhập của dân cư:
Dân cư có thu nhập càng cao thì mức tiết kiệm càng tăng bởi lẽ tỷ lệ tiêu

dùng hàng thiết yếu trong tổng thu nhập ngày càng giảm. Đặc biệt khi thu nhập
bình quân đầu người đạt đến một mức độ nhất định thì tỷ lệ tiết kiệm không tăng
tương quan với thu nhập nữa mà sẽ tăng lên với một tỷ lệ rất lớn nhằm thoả mãn
nhu cầu thiết yếu cao hơn.



×