Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ CHO VAY Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.6 KB, 29 trang )

THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ CHO VAY Ở VIỆT NAM
I.Những thành tựu đạt được
Trong các loại hình kinh doanh của cơ chế thị trường, kinh doanh tiền
tệ là hóc búa nhất, thứ đến là thầu khoán và đơn giản nhất là kinh doanh
bình thường. Đó là sự khẳng định của nhiều nhà kinh tế và thực tế đúng
như vậy.
Từ những năm đầu của thập kỷ 90, khi Nhà nước chuyển đổi cơ chế
mới, ngành NH sớm đổi mới hoạt động theo hai pháp lệnh : Pháp lệnh về
NHNN và Pháp lệnh về NH, tổ chức tín dụng và công ty tài chính với sự
ra đời của NHTM : quốc doanh, cổ phần, liên doanh với nước ngoài, ngân
hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và các tổ chức tài chính, tín
dụng khác.
Ngành NH sau 47 năm hoạt động trong đó có một thời gian dài theo cơ
chế tập trung với nhiệm vụ chủ yếu là phục vụ sự nghiệp xây dựng miền
Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà và phát triển kinh tế sau chiến tranh.
Từ năm 1990 đến nay, trong nền kinh tế thị trường đầy thử thách và
khắc nghiệt, ngành NH đã tạo ra không khí cạnh tranh lành mạnh giữa các
NH đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và thu được những kết quả cơ
bản trong quá trình phát triển và phải gánh chịu những tổn thất, rủi ro
trong quá trình hoạt động có ảnh hưởng đến tổ chức kinh doanh NH của
một số NHTM quốc doanh lớn.
Trong điều hành vốn, chúng ta đã tập trung chủ yếu cho sự nghiệp
xuất nhập khẩu của đất nước, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các
ngành hàng quan trọng và các tổ chức kinh tế then chốt trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với nhiều hình thức mới, biết sử
dụng lợi thế của NH trong việc điều hành vốn cả nội tệ và ngoại tệ, tín
dụng bảo lãnh, sử dụng công nghệ NH tiên tiến để đáp ứng vốn, bảo đảm
an toàn vốn, hỗ trợ cho các doanh nghiệp thực hiện các dự án quốc gia về
cơ sở hạ tầng như viễn thông, hàng không, xi măng, vật liệu xây dựng, dệt
may, da giày, sản xuất chế biến, thu mua xuất khẩu hàng nông, lâm, hải
sản như cà phê, hồ tiêu, hạt điều... Từ chỗ hoàn toàn bị động trông chờ


vào cấp phát, tài trợ, giờ đây doanh nghiệp được tự chủ về tài chính.
Thông qua hoạt động tín dụng, họ có thể vay, trả ở bất cứ ngân hàng nào,
bất cứ thời điểm nào cần cho hoạt động kinh tế. Họ có điều kiện tự chủ về
tài chính và chủ động được trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều
này góp phần rất to lớn giải phóng sức sản xuất xã hội. Với cơ chế mới,
ngân hàng đã có sự chuyển đổi thực sự từ mang tính cấp phát sang NHTM
kinh doanh.
Vốn tín dụng ngân hàng đã đáp ứng mục tiêu chỉ định cuả Chính phủ
về cho vay thu mua lương thực dự trữ và xuất khẩu, cho vay khắc phục
hậu quả cơn bão số 5, cho vay vốn trung và dài hạn theo các dự án chỉ
định của Chính phủ đạt xấp xỉ bằng 100% kế hoạch. Bên cạnh việc cho
vay theo chỉ định của Chính phủ để đảm bảo hiệu quả đồng vốn vay và
mức tăng trưởng tín dụng hợp lý, NHNN đã kịp thời bổ sung, sửa đổi điều
kiện và thủ tục tín dụng, đưa tín dụng tăng nhanh vào những thánh cuối
năm. Đồng thời thực hiện chính sách đầu tư tín dụng góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, thể hiện tốc độ tăng tín dụng trung và dài hạn tăng
nhanh hơn tốc độ tăng tín dụng ngắn hạn, mở rộng cho vay các thành
phần kinh tế, sử dụng mức lãi suất ưu đãi cho vay vùng sâu, vùng xa, cho
vay tài trợ xuất khẩu, cho vay các mục tiêu phục vụ chính sách xã hội như
cho vay xoá đói giảm nghèo, cho vay tạo công ăn việc làm,v.v...
Đã tạo ra mặt bằng lãi suất thấp nhất trong 10 năm đổi mới, phù hợp và
bám sát chỉ số trượt giá, khắc phục được từng bước những bất hợp lý
trong lãi suất – tạo điều kiện để mở rộng tín dụng trong điều kiện phải
kích cầu, khắc phục hiện tượng thiểu phát, giúp các doanh nghiệp tiếp cận
với vốn vay NH – góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế.
II. Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân
1.
Những vấn đề còn tồn tại
1.1-
Tình trạng nợ quá hạn

Nếu người vay vốn cố tình không trả nợ, NHTM sẽ chuyển sang nợ quá
hạn. Kể từ ngày chuyển sang nợ qúa hạn, người vay phải trả lãi suất nợ
quá hạn bằng 150% lãi suất đã vay. Như vậy, lãi suất cho vay của NHTM
do Thống đốc NHNN quyết định nhưng lãi suất nợ quá hạn lại do giám
đốc Chi nhánh NHTM cơ sở quyết định. Bởi vậy, mỗi lần gia hạn, Giám
đốc Chi nhánh NHTM cơ sở còn là ân nhân của người vay vốn. Do đó gia
hạn nợ còn là cơ sở gây ra tiêu cực đối với một số cán bộ NHTM.
Các chi nhánh NHTM nước ngoài hoạt động ở nước ta có nợ quá hạn
chiếm tỷ trọng rất thấp trong tổng dư nợ. Một điều khác nữa là họ không
có khái niệm về lãi suất nợ quá hạn như các ngân hàng của Nhật Bản.
Riêng chi nhánh ngân hàng Lyonnais (Pháp), lãi suất quá hạn chỉ cao hơn
lãi suất cho vay 1% đến 2% / năm so với lãi suất cho vay theo hợp đồng
tín dụng là 8% / năm.
Trong khi đó, ở Việt Nam, nợ quá hạn tăng vượt mức bình thường ở
một số NHTM, một số nơi tỷ lệ nợ quá hạn đã vượt hai con số đến mức
báo động. Theo số liệu thống kê nợ quá hạn đến cuối năm 2000 chiếm
khoảng 4% tổng dư nợ toàn ngành ngân hàng, trong đó nợ khó đòi trên
50% tổng dư nợ quá hạn. Số nợ quá hạn đang có hướng gia tăng đe doạ
không chỉ hoạt động của nột NHTM nào riêng biệt mà còn đe doạ hoạt
động toàn bộ hệ thống các ngân hàng và tổ chức tín dụng.
Và cũng phải nói rằng, không loại trừ khả năng và những khoản nợ
hiện tại được coi là bình thường ( nợ đang trong hạn ) và ngay cả những
khoản nợ phát sinh mới, ai dám chắc rằng không có những khoản nợ xấu
xảy ra khi mà các cơ chế, chính sách quản lý kinh tế của nhà nước, của
ngân hàng được coi là thiếu đông bộ, thiếu đầy đủ và xa rời thực tế cuộc
sống, khi mà những nghịch lý về nguyên tắc và điều kiện vay vốn giữa
doanh nghiệp với ngân hàng chưa có lời giải hữu hiệu.
1.2
Vấn đề lãi suất
Đến nay, các NHTM ở nước ta đang thực hiện lãi suất cho vay ngắn

hạn là 1,2% / tháng và lãi suất cho vay trung dài hạn là 1,25% / tháng,
nhưng nhiều doanh nghiệp và hộ sản xuất không chịu đựng nổi lãi suất
này.
Ơ các nước có nền kinh tế ổn định, lãi suất cho vay ngắn của các
NHTM cao nhất là 8% / năm. So với lãi suất cho vay này gần gấp đôi so
với lãi suất của họ.
Các NHTM ở nước ta còn đặt ra chế độ thu lãi trước hàng tháng. Tức là
đến hạn, người vay mới trả gốc còn lãi thì trả hàng tháng, tính từ ngày
vay vốn. Cách làm này, giai đoạn đầu có lợi cho NHTM, nhưng gây khó
khăn cho người vay vốn. Vốn vay NHTM chưa đem lại hiệu quả kinh tế,
thì người vay lấy đâu ra tiền để trả lãi hàng tháng. Trong tín dụng ngân
hàng, khi nào thu hồi được vốn và lãi thì mới hoàn thành được một chu kỳ
cấp tín dụng, và người cấp tín dụng mới hoàn thành được nhiệm vụ của
mình. Thu lãi trong cho vay mấy năm trước lớn, tạo thành lợi nhuận cao,
có những năm, ngân hàng ngoại thương nộp thuế lợi tức tới 370 tỷ đồng,
trong khi đó lại không chú ý đến thu lãi gốc. Gần đây, một số NHTM đã
chú ý đến thu gốc trước, số lãi chưa thu được hàng tháng đã hạch toán
vào kế toán ngoại bảng – gọi là “lãi treo”. Ơ một số chi nhánh NHTM số
“lãi treo” đã lên tới hàng vài chục tỷ.
Kể từ đầu năm 2000, chính sách lãi suất của NHNN đã có sự thay đổi
theo hướng tự do hóa : bỏ qui định về lãi suất tiền gửi, bỏ qui định về lãi
suất cho vay thoả thuận, điều chỉnh giảm mức trần lãi suất cho vay phù
hợp với cung- cầu vốn và lạm phát thấp, NHTM căn cứ vào mức trần lãi
suất cho vay và chênh lệch giữa lãi suất cho vay và huy động vốn bình
quân 0,35% / tháng để ấn định lãi suất cho vay và huy động, lãi suất cho
vay trung dài hạn lớn hơn ngắn hạn 0,1% tháng, lãi suất cho vay ở khu
vực nông thôn lớn hơn thành thị 0,1%-0,2% / tháng, lãi suất cho vay đối
với hộ nghèo và cho vay ở khu vực miền núi cao, hải đảo và vùng đồng
bào Khơ - Me sống tập trung thấp hơn lãi suất thị trường khoản 15%-
30%. Những thay đổi của chính sách lãi suất đã được thị trường chấp

nhận và hướng thị trường tiền tệ vận động theo mục tiêu của chính sách
tiền tệ – tín dụng là tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, tỷ trọng cho
vay trung, dài hạn và khuyến khích NHTM tăng khối lượng vốn chuyển
về đầu tư cho khu vực nông thôn. Tuy nhiên về quy định chênh lệch lãi
suất 0,35% còn nhiều điều chưa phù hợp. Khi lãi suất cho vay bị giới hạn
bởi trần và phí bị khống chế 0,35% / tháng, thì về mặt lý thuyết, lãi suất
huy động cũng bị khống chế cứng nhắc, đương nhiên làm giảm sự cạnh
tranh trên thị thường tiền tệ, không khuyến khích các NHTM đưa ra sản
phẩm dịch vụ mới.
Lãi suất cho vay thực tế bình quân – lãi suất huy động thực tế bình
quân = chênh lệch lãi suất thực tế bình quân, bị khống chế tối đa
0,35% / tháng, nghĩa là NHTM có chênh lệch lãi suất càng thấp thì càng
tốt sẽ không khuyến khích các NHTM cạnh tranh bằng uy tín và hiệu quả
kinh doanh để có thu nhập và lợi nhuận cao, mà thay vào đó là khuyến
khích cạnh tranh bằng cách nâng lãi suất huy động vốn.
Việc khống chế chênh lệch lãi suất 0,35% sẽ không khuyến khích
NHTM tập trung vốn cho đầu tư tín dụng, mở rộng cho vay trung và dài
hạn, mà chỉ tập trung cho vay ngắn hạn, vì cho vay thời hạn dài thì rủi ro
càng lớn nhưng chênh lệch lãi suất bị khống chế. Đây là điều không phù
hợp của chính sách tín dụng hiện nay, NHTM lo lắng chênh lệch lãi suất
thực tế vượt 0,35% thì Nhà nước sẽ thu, hoặc mức trần lãi suất cho vay có
thể tiếp tục điều chỉnh giảm thấp, nên đã có phản ứng tiêu cực để đối phó
như giảm thu lãi, tăng chi lãi huy động vốn vào những tháng cuối năm
nhằm khống chế chênh lệch lãi suất dưới 0,35%, làm cho kết quả kinh
doanh của NHTM được phản ánh không chính xác, luân chuyển vốn tín
dụng bị ách tắc. Do quy định chênh lệch lãi suất 0,35% đã làm hạn chế
tính năng động, linh hoạt trong hoạt động tín dụng hoặc gây nên vướng
mắc khi thực thi thể chế như cho vay trung, dài hạn theo lãi suất cố định,
khi lãi suất huy động giảm, dẫn đến chênh lệch lãi suất vượt 0,35% thì bị
coi như vi phạm quy định của Nhà nước. Do vậy, trên thực tế, việc quản

lý, điều hành cho phí của NHTM bằng khống chế chênh lệch lãi suất
0,35% không đạt được như mong muốn, trái lại nó gây nên tiêu cực đối
với hoạt động kinh doanh của NHTM.
2.3- Vấn đề thế chấp tài sản
Hiện nay mối quan hệ giữa các doanh nghiệp và NHTM trong quan hệ
tín dụng chủ yếu là mối quan hệ “có tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh”.
Các NHTM có tâm lý là chỉ cảm thấy an toàn đối với các khoản cho vay
và bảo lãnh khi các doanh nghiệp có đủ tài sản thế chấp, còn phương án
sản xuất kinh doanh là thứ yếu. Do đó, nhiều phương án sản xuất kinh
doanh khi tiến hành thẩm định thì 90% không có cơ sở thực tế. Ơ một số
nơi, cán bộ ngân hàng chỉ thẩm định trên giấy tờ, còn thẩm định thực tế là
thiếu. Cán bộ tín dụng có tình trạng yêu cầu doanh nghiệp có đầy đủ giấy
tờ thế chấp và giấy tờ thẩm định là đủ. Cũng chính vì lý do đó nên khi
phương án sản xuất kinh doanh triển khai gặp khó khăn, thực hiện không
có hiệu quả, nợ quá hạn phát sinh thì cán bộ ngân hàng quay trở lại tìm
cách bổ sung tài sản thế chấp. Trường hợp doanh nghiệp có dự án đảm
bảo tính hiện thực và tính khả thi cao song doanh nghiệp không có tài sản
thế chấp, cầm cố, bảo lãnh thì khả năng nhận được khoản vay của NHTM,
nhằm thực hiện dự án quả là điều không dễ dàng ( đa số các NHTM
thường từ chối ).
Hơn nữa, theo quy định hiện hành, để xử lý tài sản thế chấp của người
vay, ngân hàng phải phát đơn kiện tới Toà án. Toà kinh tế tiến hành xử lý
án rồi bước tiếp theo là phải thực hiện các biện pháp thi hành án, như vậy
việc phát mại tài sản mới thực hiện được. Nhưng có trường hợp Toà án đã
ấn định được ngày xét xử rồi nhưng khi mời đương sự ra hầu toà thị họ lại
cáo ốm, thế là hoãn lại, cứ lần này lại lần khác, sự việc cứ kéo dài mãi mà
không xét xử được, vốn ngân hàng không thu hồi được. Trong khi đó, ở
nhiều nơi, Toà kinh tế quy định khi NHTM đã phát đơn kiện thì không
được tính lãi và thu lãi đối với người vay. Như vậy tình trạng kéo dài
không tiến hành xét xử được đã tạo điều kiện cho đương sự càng cố tình

trây ỳ, lẩn tránh việc xét xử của Toà kinh tế. Không những thế, ở nhiều
địa phương, ngay cả khi Toà xét xử rồi thì cũng không biết bao giờ mới
thi hành được án, phát mại tài sản của người vay, thu hồi vốn cho ngân
hàng. Các cơ quan chức năng không có biện pháp cưỡng chế buộc đương
sự phải chấp hành án. Ơ một số tỉnh, NHTM còn phải đi lo mua một ngôi
nhà khác có giá trị nhỏ hơn tài sản phát mại, lo chỗ ở cho người vay rồi
mới tiến hành phát mại được.
Đã vậy, trong tình trạng hiện nay khi mà thị trường bất động sản trì trệ,
tài sản phát mại có bán được hay không, có thu hồi được đủ số gốc vốn
cho vay hay không là vấn đề nan giải. Hiện có tình trạng nhiều ngân hàng
thương mại đang phải ôm hàng “đống” nhà và đất, vẫn phải lo chi phí bảo
vệ, quản lý vừa ngày càng mất giá, vừa đọng vốn ngân hàng. Chẳng hạn
như ở tỉnh Thanh Hoá, các chi nhánh NHTM đang phải quản lý gần 500
ngôi nhà thế chấp của người vay không còn khả năng trả nợ.
Cũng trong vấn đề xử lý tài sản thế chấp, nhiều loại đó là vật tư hàng
hoá không thể để lâu được, như : phân đạm, sắt thép, xi măng, ... nhưng
lại nằm trong hồ sơ các vụ án chưa được xét xử. Các tài sản có đủ giấy tờ
pháp lý đã đem thế chấp cho ngân hàng, nhưng cơ quan chức năng không
cho phát mại, không cho bán mà phải chờ đến khi xét xử, đến thi hành án
rồi mới cho bán. Vì vậy hàng hoá xuống cấp chi phí bảo quản lớn, nhiều
kho không còn đủ phẩm chất để xử dụng.

×