Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.91 KB, 20 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở NGÂN HÀNG
CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM.
I . MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ
TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.
Hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp Nhà nước ở Ngân hàng Công thương
Hoàn kiếm trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Một mặt nó
thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị vay vốn, mặt khác nâng cao
hiệu quả đầu tư tín dụng đem lại lợi nhuận cho các ngân hàng. Song bên cạnh
những thành tựu đạt được đó, ngân hàng vẫn còn một số tồn tại trong hoạt động
cần phải giải quyết kịp thời để ngân hàng công thương Hoàn kiếm ngày càng phát
triển mạnh mẽ đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng khác trên địa bàn Hà nội. Vì
vậy để nâng cao hơn nữa hiệu quả đầu tư tín dụng đối với khu vực kinh tế nhà
nước, tôi xin đưa ra một vài giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế của ngân
hàng cũng như của các doanh nghiệp nhà nước.
A. Về phía ngân hàng công thương Hoàn kiếm
1. Tiếp tục tăng cường nguồn vốn huy động bằng mọi biện pháp cần thiết
Muốn nâng cao hiệu quả đầu tư tín dụng với quy mô số lượng lớn thì trước hết
ngân hàng phải có một nguồn vốn dồi dào. Do đó, tăng cường nguồn vốn huy động
là điều kiện tiên quyết đối với sự thành công của ngân hàng.
Với phương châm đi vay để cho vay, để có vốn đáp ứng kịp thời nhu cầu của các tổ
chức kinh tế trong và ngoài địa bàn, đòi hỏi ngân hàng phải có những giải pháp
hữu hiệu để thu hút tối đa mọi nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời trong dân cư và các tổ
chức kinh tế.
— Sử dụng đòn bẩy lãi suất để thu hút nhiều hơn nữa tiền gửi của khách hàng, tiền
gửi tiết kiệm của dân cư và thay đổi cơ cấu tiền gửi để tối thiểu hoá chi phí huy
động vốn.
Đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn, tiền giử tiết kiệm thì đòn bẩy lãi suất là công
cụ mang lại hiệu quả cao nhất trong việc huy động vốn. Với một mức lãi suất cạnh
tranh phù hợp, ngân hàng có thể thu hút được nhiều khách hàng không chỉ trong
khu vực quận mà cả khách hàng ở các quận lân cận. Với một nền kinh tế đang phát


triển ở nước ta, khi đời sống nhân dân còn thấp, tiền gửi tiết kiệm thường là các
khoản tiền trích góp từ lương hưu, từ tiền thu nhập hàng ngày. Do vậy mức lãi suất
cao và sự an toàn tiền gửi là hai nhân tố để khách hàng quyết định nên gửi tiền hay
không và gửi tiền ở đâu.
Các mức lãi suất cho các khoản tiền gửi có thể làm thay đổi cơ cấu tiền gửi theo ý
muốn. Trong ngân hàng, nguồn vốn có chi phí thấp nhất là tiền gửi không kỳ hạn
của các tổ chức kinh tế và cá nhân. Nhưng điểm yếu của nó là tính không ổn định
và buộc ngân hàng phải có khả năng thanh khoản cao. Nguồn tiền gửi có kỳ hạn,
tiền gửi tiết kiệm tuy ổn định có thể dự đoán trước được luồng vào ra nhưng chi
phí cho luồng này rất cao. Hiện nay, theo kết quả kinh doanh của ngân hàng, tiền
gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, cá nhân còn chiếm tỷ trọng thấp. Trong
lúc đó, tiền gửi tiết kiệm chiếm một tỷ lệ cao, do đó chi phí bình quân của nguồn
vốn càng cao, hạn chế lợi nhuận của ngân hàng. Để giảm chi phí này, ngân hàng
nên nâng mức lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế để thu hút
nguồn vốn này, duy trì một tỷ kệ hợp lý giữa tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có
kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm sao cho vừa đảm bảo sự an toàn về vốn kinh doanh trong
ngân hàng vừa đảm bảo chi phí bình quân của nguồn vốn thấp nhất.
— Công tác thanh toán trong ngân hàng phải được thực hiện nhanh chóng, chính
xác, kịp thời. Đối với tiền gửi không kỳ hạn, mục đích của khách hàng khi tiền là
vừa duy trì được tính linh hoạt của vốn, vừa không mất chi phí bảo quản, chuyên
chở khi thanh toán và còn nhận được những khoản lãi tuy không cao lắm. Do vậy
nên công tác thanh toán của ngân hàng nhanh chóng, chính xác sẽ tạo cho khách
hàng yên tâm khi gửi tiền, sẽ thu hút được nhiều tiền gửi hơn. Điều quan trọng và
có tính thuyết phục mạnh mẽ là ngân hàng cần thực hiện nguyên tắc “tiền gửi vào
ngân hàng hay lấy ra đều thực hiện một cách thuận tiện, công tác thanh toán nhanh
chóng, chính xác đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, đổi mới phong cách giao
dịch, tận tình hướng dẫn khách hàng khi khách hàng có nhu cầu gửi tiền, rút tiền,
chuyển tiền”.... Xoá bỏ thủ tục phiền hà trong giao dịch, tăng cường các công cụ
thanh toán, thay thế tiền mặt bằng cách áp dụng, trang bị máy móc kỹ thuật hiện
đại.

— Dùng các biện pháp kinh tế để khuyến khích khách hàng. Thưởng cho những
khách hàng có số dư lớn và ổn định trên tài khoản của họ, đặc biệt là khách hàng
thường xuyên có quan hệ tín dụng, quan hệ thanh toán với ngân hàng, có thể cho
các đối tượng này vay với lãi suất thấp hơn, nhận tiền gửi của họ với lãi cao hơn
một chút, tạo điều kiện khi họ vay vốn... để duy trì lâu dài mối quan hệ giữa ngân
hàng với khách hàng.
Các biện pháp này có thể làm cho chi phí bình quân của nguồn vốn giảm một cách
đáng kể mặc dù chi phí của tiền gửi không kỳ hạn có cao hơn. Đối với khách hàng,
với lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn cao, họ sẽ thích để tiền vào tài khoản tiền
gửi không kỳ hạn hơn là để ở tài khoản tiết kiệm và để ở trong quỹ của doanh
nghiệp. Như vậy tiền gửi có lãi suất thâp sẽ có tỷ trọng tăng lên mà vẫn duy trì
được tính ổn định của nguồn vốn. Qua các biện pháp này, Ngân hàng còn có thể
huy động được số tiền đang tồn đọng trong quỹ của một số doanh nghiệp do không
thích phiền hà và mức lãi suất thấp đã không gửi tiền vào ngân hàng.
— Tạo lập uy tín của ngân hàng, lòng tin của khách hàng là cơ sở cho việc khuyến
khích tiền gửi . Doanh nghiệp hay cá nhân sẽ gửi tiền khi họ yên tâm về các khoản
tiền gửi của họ an toàn và sinh lãi. Ngân hàng tạo ra lòng tin đó qua sự an toàn và
đúng đắn trong kinh doanh, quan hệ với khách hàng. Mặt khác, Ngân hàng phải
quán triệt ý thức Marketing trong hoạt động để tạo ra một hình ảnh tốt đẹp, an toàn
của ngân hàng trong mỗi khách hàng. Đó là phong cách làm việc, giao dịch, trình
độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng, đó là cơ sở vật chất hiện đại, phòng làm việc
trang nhã, hoà hợp gây cảm tình và có sức thuyết phục khách hàng.
— Mở rộng hệ thống phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm xuống tận cơ sở, nắm bắt kịp
thời mọi nhu cầu của khách hàng để đáp ứng tạo điều kiện thuận lợi về vị trí, thủ
tục cho khách hàng gửi tiền.
2. Ngân hàng cần có những giải pháp thích hợp để thay đổi cơ cấu của
nguồn vốn, tăng tỷ trọng nguồn vốn trung, dài hạn
Thực tế, trong thời gian qua cũng như hiện nay, nguồn vốn trung, dài hạn Ngân
hàng huy động được chiếm một tỷ trọng rất thấp, do đó tỷ lệ cho vay trung và dài
hạn cũng hạn chế. Để tạo lợi nhuận cao, lâu dài cho ngân hàng cũng như để tài trợ

cho nhu cầu vốn trung, dài hạn của nền kinh tế, ngân hàng cần nỗ lực hơn nữa
trong công tác huy động. Theo tôi, một số biện pháp mà Ngân hàng Công thương
Hoàn kiếm nên áp dụng trong việc tăng vốn trung, dài hạn là:
+ Phát hành kỳ phiếu theo định kỳ. Bản chất của nguồn vốn phát hành kỳ phiếu là
ngắn hạn, nhưng nếu sắp xếp một lịch trình phát hành phù hợp tạo sự luân chuyển
để luồng tiền vào có thể đáp ứng được luồng tiền ra thì ngân hàng đã có thể biến
nguồn vốn ngắn hạn của khách hàng thành nguồn vốn dài hạn của ngân hàng.
+ Chính sách lãi suất là một đòn bẩy mạnh trong việc huy động cũng như cho vay.
Duy trì một mức lãi suất trung dài hạn cao để khuyến khích tiền gửi trung, dài hạn
của dân cư là một biện pháp rất hiệu quả. Nếu như lãi suất huy động vốn trung và
dài hạn cao hơn hẳn so với lãi suất của tiền gửi ngắn hạn, tiền gửi không kỳ hạn,
người có tiền với mục tiêu tối đa hoá thu nhập sẽ thích gửi tiền lâu dài ở ngân hàng
hơn. Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp này, ngân hàng cũng phải quan tâm tới chi
phí huy động vốn và lãi thu được từ các khoản đầu tư để đặt ra mức lãi suất hợp
lý.
Một giải pháp khác trong chính sách lãi suất là ngân hàng nên duy trì một mức lãi
suất thực của tiền gửi trung dài hạn cố định. Có thể nói, hiện nay, dân cư đang ngần
ngại không gửi tiền vào ngân hàng lâu dài vì ba lý do chính:
Thứ nhất, tiền gửi dài hạn không có tính linh hoạt, không có khả năng thanh khoản
Thứ hai, sự an toàn của tiền gửi
Thứ ba, mối tương quan giữa lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát.
Với lý do thứ ba, khách hàng luôn lo lắng khoản tiền gửi của mình không những
không tăng mà càn giảm về giá trị theo thời gian nếu tỷ lệ lạm phát cao. Trong
nhiều năm qua, khủng hoảng kinh tế ở nước ta đã đẩy tỷ lệ lạm phát lên cao, gây
lên tâm lý hoang mang trong dân cư. Thực tế trong những năm trước, người gửi
tiền vào ngân hàng, khi đến hạn lĩnh được một khoản không bằng phần nửa giá trị
của tiền gửi do lãi suất thực âm. Tuy những năm gần đây, tỷ lệ lạm phát đã thấp và
ổn định ở mức 10 đến 15 % song vẫn chưa xoá bỏ được tâm lý lo sợ của dân
chúng. Hơn nữa một nền kinh tế đang phát triển như ở nước ta sẽ không thể tránh
khỏi những biến động, khó có thể dự đoán, kiểm soát được tỷ lệ lạm phát. Do vậy

dân cư vẫn còn lo sợ khi gửi tiền trung và dài hạn vào ngân hàng và các tổ chức tín
dụng. Điều đó đòi hỏi ngân hàng cần đặt ra một mức lãi suất thực dương, cố định
cho các khoản tiền gửi trung, dài hạn.
Ngoài các biện pháp trên, ngân hàng cũng phải tạo lập được uy tín của mình trên
thị trường qua hiệu quả trong kinh doanh, sức mạnh trong cạnh tranh, nguồn vốn
của ngân hàng lớn, tinh thần trách nhiệm của cán bộ ngân hàng trong hoạt động và
thông qua các chiến dịch Marketing.
3. Phát triển trung tâm tư vấn, dịch vụ tư vấn
Trong thời đại ngày nay, khi nền kinh tế đã phát triển, hệ thống thông tin rộng khắp
thì việc đáp ứng nhu cầu hiểu biết của con người trở nên rất cần thiết. Với tình
trạng ít hiểu biết về hoạt động của ngân hàng của dân cư hiện nay, thì ngân hàng
mở các trung tâm tư vấn là hợp lý. Cũng như những trung tâm tư vấn khác, tư vấn
ngân hàng là một lĩnh vực nhằm đánh giá, phân tích, dự báo thông tin về tình hình
kinh tế xã hội, pháp luật và các thông tin về hoạt động ngân hàng...có liên quan đến
vấn đề đầu tư tín dụng, giải đáp mọi thắc mắc về lĩnh vực ngân hàng của các doanh
nghiệp, của dân cư giúp họ đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn.
Hiện nay có nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là tầng lớp dân chúng ở nước ta rất ít
hiểu biết về lĩnh vưc đầu tư, thể lệ hoạt động tín dụng của ngân hàng. Chính vì vậy
mà việc đầu tư tín dụng của ngân hàng cũng như việc đầu tư vào các công trình của
các doanh nghiệp chưa thu được kết quả như mong muốn, mức độ rủi ro càng cao.
Để phổ biến rộng khắp, cung cấp những thông tin cần thiết về hoạt động của ngân
hàng, giải đáp thắc mắc cho khách hàng, ngân hàng công thương Hoàn kiếm cần
mở các trung tâm tư vấn. Các trung tâm này, ngoài nhiệm vụ tập hợp cung cấp
thông tin cho khách hàng, giải đáp thắc mắc cho khách hàng thì còn phải phát hiện
những nhu cầu mới của khách hàng để phục vụ. Để tiết kiệm chi phí hoạt động,
ngân hàng có thể lồng ghép các trung tâm này vào các quỹ tiết kiện, quầy giao dịch
đào tạo cán bộ ở các phòng này để họ có đủ kiến thức, tận tình hướng dẫn khách
hàng khi khách hàng đến giao dịch với ngân hàng
4. Nỗ lực và thận trọng trong đầu tư tín dụng đối với nền kinh tế nói
chung và đối với doanh nghiệp Nhà nước nói riêng

Nỗ lực trong hoạt động là để tăng số lượng vốn đầu tư, thận trọng là nhằm nâng
cao hiệu quả của các khoản tín dụng cũng như đề phòng được mọi rủi ro.
— Tăng số lượng vốn đầu tư buộc cán bộ, nhân viên trong ngân hàng phải đi sát,
sâu vào thị trường tìm hiểu quá trình sản xuất, kết quả kinh doanh và nhu cầu của
mọi đơn vị trong địa bàn quận để đáp ứng kịp thời. Hiện nay, ở ngân hàng, cán bộ
tín dụng chỉ mới tìm hiểu về quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp khi doanh nghiệp đến ngân hàng yêu cầu vay vốn. Điều này có hai
vấn đề hạn chế : Thứ nhất, cán bộ sẽ không đánh giá chính xác được kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp qua các con số được. Tuy có xuống
các cơ sở để tìm hiểu nhưng sẽ không phát hiện ra được những hành vi che dấu cố
ý của doanh nghiệp khi họ có sự chuẩn bị từ trước (ở đây chỉ nói đến những doanh
nghiệp làm ăn không đứng đắn). Thứ hai, khi doanh nghiệp đến vay vốn, ngân
hàng phải mất một thời gian để thẩm định, phân tích, đánh giá quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp mới có thể cho vay và đó là nguyên tắc. Trong hoạt
động tín dụng, điều này đã hạn chế tính kịp thời của quá trình lưu thông vốn. Nếu
như cán bộ cơ sở xuống cơ sở tìm hiểu trước quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, tổng hợp các thông tin về doanh nghiệp thì không những có thể
đánh giá chính xác hơn mức độ hoạt động của doanh nghiệp, thẩm định cho vay
một cách nhanh chóng hơn mà còn tìm hiểu phát hiện được nhu cầu mới để đáp
ứng.
— Giảm bớt các thủ tục phiền hà trong hoạt động cho vay vốn, đồng thời phân
công trực tiếp cho từng cán bộ phụ trách các mảng, các doanh nghiệp trong vấn đề,
tiện trong việc theo dõi tình hình sử dụng vốn, khả năng tài chính và để duy trì
quan hệ lâu dài giữa khách hàng với ngân hàng.
— Trong quá trình cho vay, điều quan trọng đầu tiên không phải là việc giám định
đơn thuần về tài sản thế chấp hoặc định giá tài sản cố định thế chấp, cầm cố mà
phải đặt sự hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, khả năng tài chính của họ lên
hàng đầu. Ngân hàng phải gắn liền sự hiệu quả của ngân hàng với sự hiệu quả của
doanh nghiệp và phải quán triệt ý thức về chất lượng tín dụng một cách đúng nghĩa
của nó, tức là , vốn cho vay của ngân hàng được khách hàng sử dụng vào quá trình

sản xuất, kinh doanh... để tạo ra một lượng tiền lớn hơn, vừa để hoàn trả ngân hàng
gốc và lãi, trang trải các chi phí khác và có lợi nhuận. Ngân hàng thu nợ là thu lại
phần vốn của mình sau khi doanh nghiệp đã sử dụng và tạo ra lợi nhuận cho họ.
Đặt vấn đề tài sản thế chấp là vấn đề hàng đầu khi cho vay như hiện nay ngân hàng
vẫn làm là không hợp lý. Mặt khác ngân hàng cũng phải thận trọng trong việc giám
định tài sản thế chấp vì chính nó với vai trò là vật bảo đảm cho một khoản vốn vay,
cũng hàm chứa những rủi ro.
— Ngân hàng cần ban hành quy chế xử lý trách nhiệm cá nhân trong nội bộ ngân
hàng liên quan đến việc cho vay không thu hồi được vốn nhằm bảo đảm sự chấp
hành thể lệ tín dụng, quy trình cho vay của cán bộ tín dụng, đồng thời xác định rõ
trách nhiệm của cán bộ thẩm định, tránh việc làm qua loa chiếu lệ, đối phó để đủ
hồ sơ cho vay nhằm hạn chế tiêu cực cũng như nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng.
Hiện nay, ở Ngân hàng Công thương Hoàn kiếm, tỷ lệ tín dụng trung dài hạn cho
nền kinh tế còn rất thấp. Tồn tại đó là do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân
chính là vốn trung dài hạn chiếm tỷ trọng không cao trong tổng nguồn vốn huy
động. Khắc phục tình trạng này, ngân hàng cần thực hiện những giải pháp như:
— Kết hợp giữa việc quản lý tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng một cách khoa
học, chặt chẽ, tăng cường huy động vốn trung dài hạn để mạnh dạn cho vay, trú
trọng tìm các cơ hội cho vay bằng cách nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu thị trường
thông qua phương tiện thông tin đại chúng, thông qua việc cử cán bộ xuống cơ sở
để tìm hiểu, xem xét thu thập thông tin.
— Ngân hàng cần giảm lãi suất cho vay trung dài hạn để tạo ra sức cạnh tranh trên
thị trường vốn, khuyến khích nhu cầu đầu tư xây dựng mới, đổi mới thiết bị của
doanh nghiệp. Tất nhiên lãi suất chỉ giảm tới một mức nhất định sao cho ngân hàng
không bị thua thiệt trong hoạt động. Biện pháp này tuy làm giảm lợi nhuận của
ngân hàng cho từng khoản đầu tư nhưng mở rộng được quy mô của tín dụng trung,
dài hạn.
— Có thể nói, tỷ trọng cho vay trung dài hạn chưa cao do nguồn vốn trung dài hạn
huy động được không lớn, nhưng với nguồn vốn ngắn hạn tương đối ổn định, ngân
hàng có thẻ dự đoán nhu cầu rút vốn, nhu cầu gửi tiền của dân cư trong quận để

hoạch định cho mình một tỷ lệ phần trăm vốn ngắn hạn có thể đầu tư trung dài hạn.
5. Biện pháp kiểm tra, xử lý thu hồi nợ quá hạn
Trong hoạt động kinh doanh tín dụng, hiện tượng phát sinh nợ qúa hạn xảy ra là
điều dễ thấy bởi nhiều nhân tố khách quan và chủ quan của các đơn vị vay vốn.
Vấn đề đặt ra là ngân hàng cho vay như thế nào để hạn chế tối thiểu việc phát sinh
nợ quá hạn và có những biện pháp xử lý như thế nào để đảm bảo thu hồi được nợ,
vừa không gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của người vay đồng
thời giữ được quan hệ tốt giữa khách hàng với ngân hàng.
Đối với ngân hàng công thương Hoàn kiếm, để hạn chế nợ quá hạn có thể sử dụng
những biện pháp như:
— Chỉ cho vay khi đã có khá đầy đủ về thông tin, khi đã phân tích kỹ tính khả thi,
tính hiệu quả của dự án, báo cáo tài chính, khả năng tài chính khả năng quản lý và
đặc biệt là các tiêu chuẩn về đạo đức của người vay.
Không nên quá nhấn mạnh lợi nhuận và phát triển của ngân hàng khi cho vay.
Phải gắn liền lợi ích của ngân hàng với lợi ích của doanh nghiệp và sự phát triển
của doanh nghiệp.
— Chú trọng giám sát hoạt động của doanh nghiệp trước, trong và sau khi doanh
nghiệp vay vốn, hướng dẫn doanh nghiệp sử dụng vốn vay đúng mục đích và kinh
doanh có hiệu quả, phát hiện những khoản cho vay có vấn đề để kịp thời xử lý.
— Nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng trong quá trình thẩm định, ký duyệt
cho vay, tránh những tiêu cực trong quá trình cho vay.
Tuy nhiên, dù có biện pháp gì đi chăng nữa thì vẫn không thể tránh khỏi sự xuất
hiện của nợ quá hạn. Ở ngân hàng công thương Hoàn kiếm hiện nay, nợ quá hạn
đang là một gánh nặng cho ngân hàng, vì vậy ngân hàng cần có những biện pháp
hữu hiệu để xử lý thu hồi bảo toàn vốn cho ngân hàng.
Trước hết, ngân hàng phải phân loại lợ quá hạn theo các tiêu thức khác nhau để
tìm ra các biện pháp hiệu quả để sử dụng khi thu các loại nợ.
— Đối với các đơn vị hoạt động thua lỗ, chưa có khả năng trả nợ cho ngân hàng,
trong trường hợp đơn vị thực sự cần thêm vốn và nếu có vốn thì có thể tiếp tục sản
xuất kinh doanh, mang lại hiệu quả cao, khi doanh nghiệp trình bày rõ với ngân

hàng về vốn cần vay thêm, kế hoạch sản xuất kinh doanh, lợi nhuận mang
lại...ngân hàng cần xem xét một cách cụ thể, dĩ nhiên cán bộ ngân hàng phải có
thẩm quyền, có trình độ, khả năng đánh giá dự án, kế hoạch thực hiện sản xuất
kinh doanh của đơn vị vay vốn đồng thời cán bộ tín dụng phải trực tiếp xuống
kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp, từ đó xem xét khả năng đầu tư tiếp cho doanh nghiệp hay ngừng đầu tư và
thực hiện thu nợ.
— Đối với các khoản nợ quá hạn do nguyên nhân khách quan như thiên tai, bệnh
tật, tai nạn..., doanh nghiệp không thể trả nợ hay thực hiện việc trả góp đối với tín
dụng tiêu dùng thì dưới tình hình như vậy, tình huống có thể được xử lý tốt nhất
bằng việc gia hạn nợ hoặc hợp đồng cho vay.
— Đối với doanh nghiệp có hàng hoá ứ đọng, tồn kho chưa bán được thì ngân
hàng có thể tìm, giới thiệu đơn vị mua hàng để giải quyết hàng tồn kho cho doanh
nghiệp có tiền trả nợ. Trường hợp hàng tồn kho không có khả năng tiêu thụ do chất
lượng kém, lạc hậu... thì đơn vị phải chịu bán thua lỗ để lấy tiền trả nợ cho ngân
hàng.

×