Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VÀ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.3 KB, 14 trang )

VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VÀ ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
I. VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng
a. Định nghĩa về tín dụng.
Vốn đầu tư sản xuất là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển
của một doanh nghiệp. Trong nền kinh tế, vốn được huy động dưới nhiều hình
thức khác nhau như: góp vốn, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vốn vay ngân
hàng... trong đó vốn vay ngân hàng là nguồn vốn linh động và tiện lợi nhất.
Đối với ngân hàng thương mại huy động và cho vay là nghiệp vụ chủ
chốt, nghiệp vụ này được gọi là nghiệp vụ tín dụng.
Tín dụng được định nghĩa là một phạm trù kinh tế phản ánh các quan hệ
kinh tế trong đó cá nhân hay tổ chức nhường quyền sử dụng một giá trị thể hiện
bằng tiền hay hiện vật cho một cá nhân hay tổ chức khác với những điều kiện
ràng buộc nhất định về thời hạn hoàn trả (cả gốc và lãi), lãi suất, cách thức vay
mượn và thu hồi.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng, các tổ chức
tín dụng với cá nhân, tổ chức kinh tế khác.
b. Phân loại tín dụng.
Tín dụng có thể được phân thành nhiều loại khác nhau theo các tiêu thức
khác nhau.
— Theo thời hạn sử dụng tín dụng được phân thành ba loại:
+ Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn không quá một năm.
Tín dụng này được sử dụng để tài trợ cho sự thiếu hụt vốn tạm thời như để dữ
trữ hàng hoá, tài trợ cho các chi phí sản xuất kinh doanh phát sinh và bằng tiền
mặt: Tiền lương công nhân viên, tiền điện nước v.v... Để thanh toán các khoản
nợ ngắn hạn, nhiều khi còn được doanh nghiệp tài trợ tạm thời cho vốn đầu tư
dài hạn khi có nguồn bảo đảm chi trả trong ngắn hạn. Đối với mỗi hộ gia đình,
tín dụng ngắn hạn được sử dụng để mua sắm đồ dùng phục vụ nhu cầu sinh hoạt
cá nhân.
+ Tín dụng trung hạn có thời hạn từ một năm đến 10 năm, các khoản tín


dụng này được sử dụng để mua sắm trang thiết bị là tài sản cố định có thời gian
sử dụng lâu dài, để đầu tư xây dựng các công trình có thời hạn thu hồi vốn dưới
10 năm.
+ Tín dụng dài hạn, có thời hạn trên 10 năm, thường được sử dụng để tài
trợ cho quá trình đầu tư xây dựng các công trình lớn, có thời gian thu hồi vốn
dài.
— Theo ngành kinh tế, tín dụng được phân thành tín dụng cấp cho ngành
công nghiệp, tín dụng cấp cho ngành thương nghiệp dịch vụ, ngành nông
nghiệp...
— Theo thành phần kinh tế tín dụng được phân thành tín dụng cấp cho
khu vực kinh tế quốc doanh, và tín dụng cấp cho khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh.
— Theo kỹ thuật cung cấp, tín dụng được phân thành:
+ Tín dụng chiết khấu. Tín dụng chiết khấu là hình thức tín dụng qua đó
người vay vốn đem các loại trái phiếu, thương phiếu, giấy nhận nợ, hoá đơn
chưa thanh toán... đến ngân hàng để làm vật cầm cố cho một khoản vay. Khoản
vốn vay này bằng mệnh giá của giấy nợ trừ đi phần lãi chiết khấu và hoa hồng
chiết khấu. Ngân hàng sau khi đã cung cấp vốn cho khách hàng có quyền giữ
các loại giấy nợ đó và có quyền thu hồi nợ khi đến hạn nếu khách hàng vẫn chưa
hoàn trả tiền vay. Hình thức tín dụng này rất phù hợp với nền kinh tế hiện đại
khi thanh toán chậm trả, thanh toán không dùng tiền mặt phát triển mạnh.
+ Thấu chi. Thấu chi là một hình thức tín dụng trong đó khách hàng là
chủ tài khoản ở ngân hàng được phép chi vượt trội số dư có của tài khoản mình
ở một mức nhất định, hay nói cách khác tài khoản khách hàng được phép dư nợ.
Loại tín dụng này rất thích hợp cho các khách hàng thường có các khoản chi bất
thường.
+ Tín dụng thời vụ: là tín dụng cấp cho khách hàng khi nhu cầu vốn của
họ lớn do đến thời vụ sản xuất.
Thời vụ sản xuất ở doanh nghiệp có thể là thời vụ đầu vào hoặc thời vụ
đầu ra. Các công ty sản xuất đường, cà phê, các công ty thu mua sản phẩm nông

nghiệp...thường phải vay vốn theo thời vụ để mua mía, cà phê, sản nông nghiệp
để dữ trữ cho quá trình sản xuất kinh doanh trong năm.
+ Tín dụng thuê mua: tín dụng thuê mua là hình thức tín dụng, khi cấp
cho khách hàng, kèm theo các điều kiện thuê hoặc mua một loại tài sản nào đó.
Ở các ngân hàng thường hay có các tài sản thế chấp thu hồi từ những khách
hàng mất khả năng thanh toán. Khi bán tài sản này, ngân hàng có thể cung cấp
tín dụng thuê mua cho khách hàng. Đây như là một hình thức bán chịu sau
khách hàng phải trả lãi suất cho ngân hàng và khi khách hàng mất khả năng
thanh toán, ngân hàng có quyền thu hồi tài sản này.
+Tín dụng uỷ nhiệm thu.
Tín dụng uỷ nhiệm thu là hình thức tín dụng mà ngân hàng dành lấy
quyền đòi các khoản nợ của khách hàng khi cho khách hàng vay vốn. Theo hợp
đồng, nếu sau này các con nợ không có khả năng thanh toán, ngân hàng có
quyền quay lại đòi nợ khách hàng hay không có quyền đòi nợ khách hàng. Hình
thức tín dụng này có chi phí lớn, là tổng của chi phí hoa hồng cho vay uỷ nhiệm
thu và tiền lãi tính trên vốn cung cấp cho khách hàng. Song khi sử dụng tín dụng
này, khách hàng đã tiết kiệm được chi phí theo dõi, thu hồi nợ khê đọng, còn
ngân hàng thì chịu mức rủi ro cao hơn.
+Tín dụng tiêu dùng.
Tín dụng tiêu dùng là tín dụng cung cấp cho cá nhân, hộ gia đình để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân như mua nhà, mua xe hay các vật dụng khác.
Loại tín dụng này thường là tín dụng ngắn hạn gắn liền với việc mua sắm tiêu
dùng của khách hàng. Và nếu là tín dụng trung, dài hạn thì hình thức trả nợ là trả
theo chuỗi niên khoản.
+Tín dụng bảo lãnh.
Có thể nói đây là một dịch vụ của ngân hàng vì ngân hàng không trực
tiếp xuất quỹ cho khách hàng sử dụng mà chỉ đưa ra các cam kết bảo lãnh cho
các khoản nợ của khách hàng, tạo điều kiện cho các khách hàng vay vốn ở đối
tác thứ ba. Ngân hàng cam kết sẽ trả thay các khoản nợ cho khách hàng nếu
khách hàng mất khả năng thanh toán.

—Theo phương thức thanh toán tín dụng có thể được chia thành tín dụng
hoàn trả một lần, tín dụng trả góp, cho vay luân chuyển...Trong đó cho vay luân
chuyển rất thích hợp với các doanh nghiệp có các khoản chi phí và thu nhập
không ổn định.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tín dụng ngân hàng xuất hiện ngày
càng nhiều loại khác nhau phù hợp với các hình thức thanh toán trong nền kinh
tế hiện đại, ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế.
c. Sự tồn tại khách quan của tín dụng.
Trong nền kinh tế luôn luôn tồn tại nhu cầu đi vay và cho vay vốn. Các
doanh nghiệp, cá nhân có những khoản tiền nhàn rỗi luôn có mong muốn cho
vay để hưởng lãi các doanh nghiệp, cá nhân có cơ hội đầu tư hay nhu cầu tiêu
dùng mà không có tiền sẽ cố gắng tìm vay những khoản tiền của người có cho
vay. Đối với người đi vay, họ luôn sẵn sàng chi trả một khoản chi phí để có được
quyền sử dụng vốn để đầu tư vào mục đích của họ với hi vọng khoản lợi thu
được sẽ lớn hơn phần chi phí phải bỏ ra. Hai nhu cầu vay và cho vay này gặp
nhau sẽ phát sinh quan hệ tín dụng.
Tuy nhiên người có tiền và người có nhu cầu vay tiền sẽ không thể tìm
gặp nhau trên thị trường. Sự gặp nhau giữa hai nhu cầu này phải thông qua
người thứ ba với tư cách là người trung gian, đó là ngân hàng và tổ chức tín
dụng.
Ngân hàng và các tổ chức tín dụng đứng ra nhận các khoản tiền gửi dưới
nhiều hình thức khác nhau, chi trả các khoản lãi cho khách hàng và tìm cơ hội
đầu tư, cho vay. Ngân hàng cũng là người thu được lợi do lãi thu từ các khoản
cho vay lớn hơn chi phí huy động vốn và chi phí phát sinh khác. Như vậy qua
nghiệp vụ này, có ít nhất ba người có lợi: người cho vay, ngưòi đi vay và ngân
hàng.
Như vậy, tín dụng tồn tại một cách khách quan trong nền kinh tế do nhu
cầu cho mượn và vay mượn tiền luôn luôn tồn tại trong nền kinh tế. Tín dụng
không những mang lợi lại cho các bên tham gia mà còn có lợi cho toàn bộ xã hội
nói chung khi nó tạo điều kiện cho quá trình lưu thông vốn giữa các cá nhân, các

ngành, nó đáp ứng được nhu cầu đầu tư, nhu cầu tiêu dùng, khuyến khích nhu
cầu tiêu dùng sản phẩm xã hội và đem lại sự tăng trưởng cho nền kinh tế.
2. Tín dụng đối với nền kinh tế thị trường.
Tín dụng ngân hàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho toàn bộ nền kinh
tế, nó tạo ra khả năng tài trợ cho các ngành công nghiệp, thương nghiệp, nông
nghiệp... nó tạo ra khả năng tiêu dùng cho dân cư, khuyến khích nhu cầu tiêu
dùng sản phẩm từ đó tạo nên sự tăng trưởng mạnh mẽ cho nền kinh tế.
Trong các ngành sản xuất kinh doanh, từ khâu sản xuất, lưu thông đến
tiêu dùng đều có sự tham gia của tín dụng:
Trong sản xuất, tín dụng tài trợ cho qua trình đầu tư xây dựng các nhà
máy công xưởng, mua sắm máy móc trang thiết bị cho sản xuất, tín dụng tài trợ
cho các chi phí sản xuất kinh doanh như dự trữ nguyên vật liệu cho sản xuất,
tiền lương, tiền công... là những đầu vào không thể thiếu cho quá trình sản xuất.
Tín dụng không những duy trì khả năng sản xuất cho các doanh nghiệp mà còn
thúc đẩy quá trình sản xuất nhanh chóng nhờ sự tài trợ cho đầu tư xây dựng,
mua sắm trang thiết bị mới, đổi mới công nghệ.
Trong lưu thông hàng hoá, tín dụng tài trợ cho việc xây dựng kho tàng
bến bãi mua sắm phương tiện lưu thông tài trợ cho lượng dự trữ hàng hoá và các
khoản chí phí khác phát sinh trong quá trình kinh doanh.
Trong tiêu dùng nhờ các khoản tín dụng mà mong muốn mua sắm của
người tiêu dùng trở thành nhu cầu thực sự, tín dụng tạo ra khả năng chi trả cho
người tiêu dùng.
Nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhu cầu vốn cho sản xuất,
tiêu dùng ngày càng cao do vậy vai trò của tín dụng ngân hàng cho sự phát triển
kinh tế xã hội rất to lớn.
Đối với nền kinh tế nước ta trong thời kỳ bao cấp, các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh là các doanh nghiệp nhà nước và các hợp tác xã được nhà nước
bao cấp toàn bộ vốn cho sản xuất kinh doanh, nhà nước chỉ định nguồn mua
nguyên vật liệu, bao tiêu sản phẩm và bù lỗ khi làm ăn không hiệu quả do đó
quan hệ tín dụng đã mất đi tính thực chất của nó.

Bước sang nền kinh tế thị trường, nhà nước xoá bỏ bao cấp, các doanh
nghiệp tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tất cả các hoạt động sản xuất của mình.
Với các khoản vốn ban đầu do nhà nước cấp, doanh nghiệp, phải tự tìm kiếm các
nguồn vốn để tài trợ cho chi phí. Điều này buộc họ phải tự tìm đến ngân hàng để
vay vốn.
Không chỉ đối với các doanh nghiệp nhà nước mà tất cả các thành phần
kinh tế khác, vốn tự có không thể tài trợ đầy đủ cho chí phí sản xuất. Họ luôn
luôn ở trong tình trạng thừa hoặc thiếu vốn, hay nói cách khác luôn có nhu cầu
đi vay và cho vay.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp, công ty có thể có thể huy động nhiều vốn
từ nhiều nguồn khác nhau thông qua thị trường vốn. Nhưng chỉ các doanh
nghiệp, công ty lớn làm ăn hiệu quả, có uy tín trên thị trường mới có thể huy
động được vốn thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Ở nước ta các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng lớn, hơn nữa thị
trường tài chính chưa phát triển, thị trường cổ phiếu chưa hoạt động thực sự cho
nên sẽ rất khó khăn trong việc huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, trái
phiếu và chi phí huy động vốn sẽ rất cao nên nguồn vốn vay ngân hàng đang là
nguồn vốn duy nhất ngoài vốn tự có tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp.
Tín dụng ngân hàng không những tài trợ cho hoạt động của các doanh
nghiệp mà là còn tài trợ cho quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng, là cơ sở vật chất
tạo ra động lực cho sự tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Đối với nước ta
hiện nay cơ sở hạ tầng còn rất lạc hậu thiếu thốn, nhu cầu vốn cho đầu tư xây lắp
sửa chữa rất lớn.
Ngoài ra trong nền kinh tế thị trường luôn xuất hiện sự phân cách giữa
người giàu và người nghèo, tín dụng ngân hàng có thể tạo nên sự công bằng cho
xã hội thông qua việc cho vay đối với những hộ gia đình có khó khăn trong kinh
tế với mức lãi suất hợp lý, giúp họ có được khả năng sản xuất, tạo ra thu nhập.
II. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC.

1. Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Thực tiễn trên thế giới, nền kinh tế hàng hoá của bất kì một nước nào
cũng đều cần có sự quản lý của nhà nước, dù đó là nước phát triển, đang phát
triển hay kém phát triển, dù đó là nước xã hội chủ nghĩa hay nước tư bản chủ
nghĩa, vấn đề khác nhau chỉ là ở chỗ mức độ và hình thức can thiệp. Vai trò diều
tiết , đem lại sự cân bằng cho nền kinh tế của nhà nước là không thể thiếu. Nhà
nước có thể can thiệp vào nền kinh tế bằng nhiều công cụ vĩ mô khác nhau,
trong đó phải kể đến công cụ vật chất của khu vực kinh tế nhà nước bao gồm
nhiều công ty độc quyền nhà nước, chiếm giữ các ngành kinh tế then chốt, mũi
nhọn mà nhà nước đầu tư 100% vốn hay chiếm giữ một tỷ lệ vốn chi phối thông
qua chế độ tham dự.
a. Định nghĩa doanh nghiệp nhà nước

×