Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.2 KB, 13 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP
I. VAI TRÒ, VỊ TRÍ, ĐẶC ĐIỂM CỦA NÔNG NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ
QUỐC DÂN.
1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp là một lĩnh vực rất phong phú. Nông dân sống ở khu vực nông
nghiệp gắn liền với nông thôn, sản xuất gắn liền với thiên nhiên, với môi trường và
gặp nhiều rủi ro, đặc biệt là đối với nước chưa phát triển, khoa học kỹ thuật còn lạc
hậu. Đại bộ phận, xét một cách tổng thể, các nước đang phát triển và kém phát
triển có trên 80% dân số và 70% lao động xã hội tập trung ở nông với sản xuất
nông nghiệp là chủ yếu, kỹ thuật canh tác lạc hậu, trình độ lao động thấp. Người
nông ở đây, họ vừa là những người sản xuất vừa là những người tiêu thụ sản phẩm
của chính bản thân họ làm ra. Bởi vậy, tính phối hợp liên ngành (cung ứng vật tư,
chế biến, tiêu thụ sản phẩm) còn ở mức độ thấp, đóng góp từ khu vực nông nghiệp
và thu nhập quốc dân chưa cao và bất ổn định.
Bên cạnh đó nông nghiệp Việt Nam còn có đặc điểm nổi bật khác do những
điều kiện tự nhiên và lịch sử đặc biệt.
Nước ta nằm ở khu vực nhiệt đới, đất nước trải dài theo hướng Bắc-Nam,
phần lớn địa hình là đồi núi, có ba mặt tiếp giáp với biển… chính vì vậy, có thảm
thực vật phong phú, đa dạng, có tiềm năng sinh khối lớn, nhiều loài vật có giá trị
kinh tế cho phép phát triển một nền nông nghiệp đa dạng và có thể đi vào chuyên
canh nhiều loại cây, con. Hiện nay, nông nghiệp nước ta sản xuất lương thực chủ
yếu là cây lúa nước nhưng phần tán, việc áp dụng các kỹ thuật cơ giới hoá, hiện đại
hoá vào sản xuất nông nghiệp thiếu kinh nghiệm và còn nhiều bất cập.
-Nước ta đất chật, dân số không ngừng tăng lên lên khả năng mở rộng quy
mô sản xuất nông nghiệp hạn chế.
-Việc chuyển nền nông nghiệp Việt Nam sang sản xuất hàng hoá gặp nhiều
khó khăn về vốn, kỹ thuật, trình độ lao động, khả năng quản lý …
Đây là những đặc điểm nổi bật cần phải khắc phục nhanh chóng tạo tiền đề
cho nhiệm vụ công nghiệp hoá -hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn nước ta theo
hướng bền vững, tiến lên một nền nông nghiệp mà :


-Đi vào sản xuất hàng hoá
-Năng suất cây trồng và gia súc cao.
-Năng suất lao động cao.
-Sử dụng hệ thống thuỷ canh.
Và khắc phục những hạn chế :
-Sử dụng năng lượng lãng phí
-Chất lượng nông sản kém.
-Môi trường bị ô nhiễm.
2. Vai trò, vị trí của sản xuất nông nghiệp.
Nông nghiệp giữ một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, đặc biệt đối
với các nước đang phát triển. Bởi vì các nước này đa số người dân sống dựa vào
nghề nông. Để phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi cho nhân dân, Chính phủ cần
có chính sách tác động vào khu vực nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất cây
trồng và tạo ra nhiều việc làm ở nông thôn.
Trừ một số ít nước dựa vào nguồn tài nguyên phong phú để xuất khẩu, đổi
lấy lương thực, còn hầu hết các nước đang phát triển phải sản xuất lương thực cho
nhu cầu tiêu dùng của dân số nông thôn cũng như thành thị. Nông nghiệp còn
cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động kinh tế . Để đáp ứng nhu cầu lâu dài
của phát triển kinh tế việc tăng dân số ở khu vực ở khu vực thành thành thị sẽ
không đủ khả năng đáp ứng. Cùng với việc tăng nâng suất lao động trong nông
nghiệp, sự di chuyển dân số ở nông thôn ra thành thị sẽ là nguồn nhân lực đáp ứng
cho nhu cầu nông nghiệp hoá đất nước. Bên cạnh đó, nông nghiệp còn là ngành
cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
Khu vực công nghiệp cũng có thể là một nguồn cung cấp vốn cho phát triển
kinh tế, có ý nghĩa lớn là vốn tích luỹ ban đầu cho công nghiệp hoá. Theo Timer-
1988, Morris và Adelma -1981 từ kinh nghiệm thực tế của thế kỷ XIX và nhất là
thập kỷ gần đâycho thấy, phát triển nông nghiệp là một điều kiện tiên quyết cho sự
thành công của công nghiệp hoá (do tích luỹ từ công nghiệp mang lại) hình thành
và phát triển thị trường trong nước, giải quyết việc làm ở nông thôn trong thời gian
đầu, hạn chế áp lực làm chậm quá trình công nghiệp hoá …)

Theo Timmer-1988 ở giai đoạn bắt đầu phát triển nông nghiệp chiếm phần
lớn sản phẩm trong nước, tích luỹ chủ yếu từ nông nghiệp, nguồn thu của Nhà
nước chủ yếu do các loại thuế đánh vào nông nghiệp.
+Giai đoạn nông nghiệp đóng góp củ yếu cho sự tăng trưởng một phần
nguồn thu từ nông nghiệp được đầu tư lại hco nông nghiệp (chủ yếu cho nghiên
cứu và cơ sở hạ tầng) sản lượng nông nghiệp tăng lên.
+Giai đoạn lao động nông nghiệp bắt đầu giảm, nông nghiệp phải được liên
kết về thị trường lao động và tín dụng liên kết kinh tế thành thị-nông thôn, nông
nghiệp ngày càng phụ thuộc vào thị trường.
+Giai đoạn nông nghiệp dưới mức 20% của tổng lao động trong nước, nông
nghiệp còn được hỗ trợ bằng nhiều biện pháp linh hoạt của Nhà nước.
Để đạt được như vậy thì điều kiện đầu tiên quan trọng nhất là ta phải thực
hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng
của nền kinh tế quốc dân.
II. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VỚI PHÁT
TRIỂN NÔNG NGHIỆP - NÔNG THÔN.
1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp với sự phát triển của nền
kinh tế quốc dân.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là bộ phận cấu thành rất quan
trọng của nền kinh tế quốc dân, có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển kinh tế
-xã hội ở nước ta. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là tổng thể của kinh tế
bao gồm mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất thuộc khu vực kinh tế nông thôn trong những khoảng thời gian và điều
kiện kinh tế xã hội nhất định.
Sau khi nghị quyết 10 của Bộ chính trị và nhiều chính sách mới được ban
hành đã giải được những khả năng buộc phong kiến phi kinh tế trong nông nghiệp
và nông thôn, tạo cho nông nghiệp đạt được những thành tựu to lớn góp phần từng
bước chuyển nền nông nghiệp tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá. Sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng và nông thôn nói chung đã và đang có
sự khởi sắc, sản xuất phát triển đời sống nhân dân được cải thiện. Mặt khác, việc

chuyển dịch cơ cấu ngành, theo vùng, lãnh thổ, theo các thành phần kinh tế, theo
cơ cấu kỹ thuật - công nghệ hướng tới nền sản xuất hàng hoá và đạt được nhiều
tiến bộ đángg kể.
Thế nhưng ở trong phạm vi của từng vùng trong nước thì không hẳn thế. Do
có sự phát triển không đều giữa các vùng trong nước, quá trình đó diễn ra ở các
vùng không giống nhau: ở vùng kinh tế phát triển , quá trình đó diễn ra theo trình
tự chung còn ở vùng kinh tế kém phát triển, quá trình đó có thể bắt đầu từ việc phá
thế độc canh hoá chuyển sang đa canh lúa, màu phát triển chăn nuôi và bước tiếp
theô là phát triển các ngành nghề tiều, thủ công nghiệp và dịch vụ. Xu hướng
chung của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là: tỷ trọng
nông nghiệp ngày càng giảm và tỷ trọng các ngành công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng.
Bên cạnh đó, để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn còn
phải có sự quan hệ rất nhiều tới các ngành khác như phát triển nông nghiệp hàng
hoá phải chịu sự tác động mạnh mẽ của công nghiệp và nông nghiệp không thể tự
đi lên nếu không có sự tác động trực tiếp của một nền công nghiệp phát triển. Và
được các ngành nghề mới trong nông nghiệp.
Trong nông nghiệp và nông thôn, đi cùng với sự chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp và nông thôn là sự phân công lao động cũng được diễn ra. Từ lao động
trồng lúa chuyển sang lao động trồng hoa màu chăn nuôi, làm các ngành nghề tiểu
thủ công nghiệp và dịch vụ, nó không chỉ phụ thuộc vào phục vụ cho cả nhu cầu
phát triển nông nghiệp mà còn phục vụ cho cả nhu cầu phát triển công nghiệp,
thương nghiệp và các ngành doanh nghiệp khác.
Từ thế kỷ 20 đã chứng minh và xác định khoa học kỹ thuật công nghệ phát
triển và đổi mới như vũ bão, tính cộng đồng trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
ngày càng cao, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một nước không thể tách rời với
sự phát triển kinh tế của cộng đồng quốc tế hay cũng như không thể tách rời sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn với cơ cấu kinh tế vùng và
cơ cấu kinh tế chung của cả nước.
Mặt khác, sự phân hoá giàu nghèo ở nông nghiệp và nông thôn không thể

tránh khỏi, nó diễn ra theo hướng : khi sản xuất hàng hoá kém phát triển thì khoảng
cách đó tương đối doãng ra, khi sản xuất hàng hoá phát triển ở trình độ cao thì
khoảng cách đó thu hẹp laih và có thể trở lại khoảng cách ban đầu (nhưng ở trình
độ cao hơn). Điều đó chứng tỏ sự phân hoá giàu nghèo vừa là kết quả, vừa là động
lực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

×