Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Văn xuôi nghệ thuật của trần tiêu giai đoạn 1930 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (599.26 KB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT CỦA TRẦN
TIÊU GIAI ĐOẠN 1930 - 1945

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ : 5 – 04 - 33

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS. TS. TRẦN HỮU TÁ
NGƯỜI THỰC HIỆN : NGUYỄN THANH DU

Thành phố Hồ Chí Minh, 2004


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 có nhiều hiện tượng phức tạp và biến cố lịch sử
quan trọng. Về góc độ xã hội, chúng ta nhận thấy, quân đội Pháp, Nhật, Tưởng Giới Thạch thay
nhau vào Việt Nam. Đời sống người dân chịu nhiều cơ cực. Đảng Cộng Sản Đông Dương ra đời
ngày 3 – 2 – 1930 như một luồng gió mới đã lãnh đạo nhân dân đứng lên tự giải phóng mình.
Hơn nữa đây là giai đoạn phát triển của khoa học kỹ thuật : nhà in, nhà xuất bản, nhà phát
hành, các cơ quan báo chí ra đời, tạo điều kiện cho các ấn phẩm văn hoá đến với công chún g,
trình độ dân trí được nâng cao. Về góc độ văn hoá, giai đoạn này cũng phải nói tới sự giao lưu
văn hoá với các nước châu Âu tạo nên các lớp văn nghệ só mới. Những đặc điểm trên đã tác
động trực tiếp tới quá trình sáng tác văn học giai đoạn này.
Mười lăm năm phát triển, đã đóng góp lớn cho tiến trình hiện đại hoá văn học nước nhà
“nó đã phát triển hết tốc lực khiến cho chỉ trong vòng mười lăm năm văn học đã tiến một bước
dài và nếu với nhịp độ bình thường thì phải hàng thế kỷ. Thành tựu gặt hái được của mười lăm


năm ấy thật là bề bộn, với biết bao giá trị đặc sắc, trên mọi khu vực, trên mọi thể loại” [25, tr.7].
Các văn nghệ só đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị lớn như : Chí Phèo, Sống mòn ( Nam Cao);
Tắt đèn, Việc làng (Ngô Tất Tố); Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan); Giông tố, Số đỏ, Cơm
thầy cơm cô (Vũ Trọng Phụng); Quê mẹ (Thanh Tịnh); Hai đứa trẻ, Sợi tóc, Gió lạnh đầu mùa
(Thạch Lam) …. Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hoành Khung, khi viết lời giới thiệu cho tập
sách Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945, ông đã nhấn mạnh “nói riêng về các thể loại văn
xuôi nghệ thuật thì đây là thời kỳ phát triển có tính chất bùng nổ, để vừa tiếp tục mởû đường, mau
chóng thành đạt tới độ trưởng thành vững chắc, đuổi kịp thế giới hiện đại, với không ít tác phẩm
tầm vóc và những áng văn thuộc loại kiệt tác” [25, tr.7]. Có thể nói, văn học nước nhà giai đoạn
này bắt nhịp cùng với sự phát triển của nền văn học các nước tiến bộ trên thế giới.
Trong số những nhà văn có cống hiến cho nền văn học giai đoạn này, không thể không
nhắc tới Trần Tiêu. Ông sinh năm 1900, quê ở xã Cổ Am, huyện Vónh Bảo, tỉnh Kiến An, nay là
Hải Phòng. Sinh trong một gia đình quan lại, bố là tuần phủ Trần Mỹ, anh là nhà văn Khái Hưng
(Trần Khánh Giư). Sau khi tốt nghiệp Cao đẳng tiểu học, Trần Tiêu đi dạy học tư và viết văn,
ông viết cả truyện ngắn, tiểu thuyết đăng trên báo của Tự lực văn đoàn, trước khi in thành sách.


Trần Tiêu chuyên viết về nông thôn ; chủ yếu nhằm khảo sát phong tục nông thôn, song phần
nào cũng phản ánh được cuộc sống vất vả lầm than của người nông dân đương thời.
Sau Cách mạng tháng Tám Trần Tiêu hưởng ứng phong trào Cách mạng từng làm Uỷ viên
hội đồng nhân dân xã Cổ Am và tham gia kháng chiến, có sáng tác ca ngợi người phụ nữ nông
thôn mới làm công tác cách mạng tuy chưa thật thành công. Do hoàn cảnh đau ốm ông trở về
Hải Phòng đang bị Pháp tạm chiếm và qua đời năm 1954 tại đây.
Sự ngiệp sáng tác của Trần Tiêu bao gồm những cuốn tiểu thuyết : Con trâu ( đăng báo
Ngày nay số 140, ngày 10 tháng 12 năm 1938, xuất bản 1940), Chồng con (xuất bản 1941), Dưới
ánh trăng viết chung với Khái Hưng (đăng báo1936), các tập trên ngắn Truyện quê (xuất bản
1942), Sau luỹ tre (xuất bản 1942).
“Nội dung hiện thực, ý nghóa xã hội của tiểu thuyết Con trâu (cũng như trong các tác phẩm
khác của Trần Tiêu) còn bị hạn chế cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Ông chưa đề cập được mối mâu
thuẫn đối kháng ở nông thôn, chưa phản ánh được cuộc sống bị áp bức bóc lột tàn tệ của người

nông dân. Ông nghiêng nhiều về mặt phong tục, thể hiện các phương diện sinh hoạt, hội hè, đình
đám, khao vọng một cách sinh động và bằng ngôn ngữ giản dị, trong sáng. Tuy vậy trong chừng
mực nhất định tác phẩm của ông vẫn nêu lên được hình ảnh những người nông dân hiền lương,
chất phác và tình trạng vất vả lam lũ của những người lao động chân lấm tay bùn” [21, tr. 437].
Sau Cách mạng tuy mất sớm ông cũng viết được ba truyện vừa : Cô gái mới (xuất bản
1948), Kí ức con vện và Kẻ bại trận [(bị mất bản thảo, dẫn theo nhà nghiên cứu Lê Thị Đức
Hạnh) 30, tr. 235]. Nhìn chung, tác phẩm không có tiếng vang đáng kể và người ta chỉ coi Trần
Tiêu là nhà văn thuộc giai đoạn trước Cách mạng. Dầu chỉ vậy, Trần Tiêu đã có những đóng
góp vừa phong phú vừa sắc sảo cho việc đi sâu miêu tả nhiều mặt, nhiều khía cạnh đôi khi là
những góc gách tinh tế trong cuộc sống người nông dân trước 1945.
Số lượng tác phẩm của ông không nhiều nhưng khá đa dạng về thể loại – đã đóng góp
đáng trân trọng cho sự nghiệp văn học nước nhà, đặc biệt là tiểu thuyết và truyện ngắn.
Trần Tiêu có cách xây dựng cốt truyện thật giản dị, chặt chẽ, sáng sủa, những tình tiết nhẹ
nhàng, lời văn hàm súc, nội dung tư tưởng chứa đựng nhiều vấn đề về cuộc sống của con người
sau luỹ tre xanh. Tác giả đã gợi lên những nét đẹp của làng cảnh, con người Việt Nam, mang
vào văn chương những buồn vui của cuộc sống nơi thôn ổ, đặc biệt, thân phận của những con
người trước khúc quanh của cuộc đời.


Truyện ngắn và tiểu thuyết của Trần Tiêu đã tỏ rõ là một nhà văn có phong cách nghệ
thuật độc đáo, đặc sắc và đã đóng góp cho tiến trình phát triển văn học Việt Nam hiện đại.
Với đề tài “Văn xuôi nghệ thuật của Trần Tiêu giai đoạn 1930 - 1945”, người viết luận
văn mong muốn góp phần soi sáng một số phương diện cơ bản của nội dung tư tưởng và một số
đặc sắc về nghệ thuật trong tiểu thuyết và truyện ngắn, từ đó xác định đúng đắn con đường xâm
nhập, phân tích tác phẩm của ông trong nhà trường hiện nay.
2. Giới hạn vấn đề
Trần Tiêu là nhà giáo, nhà văn. Là nhà giáo, ông tham gia soạn một số sách giáo khoa ;
Tập đọc quốc văn lớp 3 và lớp 4. Là nhà văn, sự nghiệp văn chương của ông không đồ sộ như
những nhà văn cùng thời hay những nhà văn trong nhóm Tự lực văn đoàn, nhưng khá đa dạng về
thể loại và có đóng góp thiết thực cho văn học nước nhà.

Sự nghiệp sáng tác của Trần Tiêu trước 1945 bao gồm hai cuốn tiểu thuyết, hai tập truyện
ngắn và một tác phẩm viết chung với người anh là Khái Hưng. Sau 1945, ông có ba truyện vừa
Cô gái mới (xuất bản 1948), Kí ức con vện và Kẻ bại trận (mất bản thảo) như đã trình bày ở
trên. Trong tình hình đó, một cái nhìn toàn cục là cần thiết đối với người nghiên cứu. Tuy vậy,
do điều kiện thời gian cũng như trình độ chưa cho phép, nên ở đây, người viết chỉ đi sâu vào
nghiên cứu văn nghiệp của Trần Tiêu thuộc những tác phẩm từ năm 1930 – 1945. Cụ thể, chúng
tôi khảo sát ở một số phương diện sau : Bức tranh làng quê Bắc bộ trong văn xuôi nghệ thuật của
Trần Tiêu, Người nông dân Bắc bộ trong văn xuôi nghệ thuật của Trần Tiêu trước Cách mạng,
Một số đặc sắc nghệ thuật trong sáng tác của Trần Tiêu.
3. Đóng góp chính của luận văn
3.1. Với mục tiêu nghiên cứu trên, chúng tôi đi tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật
trong sáng tác của ông, để thấy rõ sự đóng góp của tác giả với nền văn xuôi nghệ thuật nước
nhà.
3.2. Nghiên cứu văn xuôi nghệ thuật của Trần Tiêu, không chỉ đánh giá đúng tài năng và
những nỗ lực mà còn mong muốn giúp cho việc giảng dạy Trần Tiêu trong nhà trường có hiệu
quả hơn.
3.3. Các công trình nghiên cứu về Trần Tiêu từ trước đến nay đã có những nhận định, đánh
giá khá thoả đáng nhưng chưa đi sâu đánh giá toàn diện những đóng góp và hạn chế của nhà
văn này. Luận văn này bước đầu cố gắng bù đắp một phần chỗ khiếm khuyết đó.


4. Lịch sử vấn đề
Văn nghiệp của Trần Tiêu so với các nhà văn cùng thời, số lượng tác phẩm khá khiêm tốn.
Từ tác phẩm đầu tiên được đăng trên báo Ngày nay cho đến tác phẩm cuối cùng, tất cả gồm hai
tiểu thuyết, hai tập truyện ngắn, một truyện ngắn viết chung với anh trai là Khái Hưng.
Vũ Ngọc Phan là người nghiên cứu văn nghiệp của Trần Tiêu sớm nhất. Trong cuốn Nhà
văn hiện đại, ông nhận xét “người dân quê dưới ngòi bút của Trần Tiêu bao giờ cũng là người
dân quê nghèo khổ và mê tín” [65, tr. 790]. Dưới cái nhìn của Vũ Ngọc Phan thì người dân quê
trong tác phẩm của Trần Tiêu bị xiềng xích trong những hủ tục. Do vậy, tác giả xếp Trần Tiêu
vào loại nhà văn phong tục cũng có lý của nó. Ông còn nhận xét “họ nghèo vì những hủ tục và

họ khổ vì những hủ tục này” [65, tr. 790]. Chúng ta không phủ nhận ý kiến đánh giá về Trần
Tiêu của ông. Nhưng thực tế, Vũ Ngọc Phan chỉ nhìn thấy sự nghèo đói, túng quẫn là do hủ tục
mang lại mà chưa chỉ ra nguyên nhân. Trần Tiêu mô tả họ nghèo khổ vì nhiều lý do khác : hạn
hán, mất mùa, sự áp bức bóc lột của địa chủ và quan lại. Tuy nhiên, lời nhận định này rất đáng
trân trọng, vì nó là cơ sở cho những người đến sau nghiên cứu văn nghiệp của Trần Tiêu.
Cùng trong thời gian này, nhà văn Khái Hưng nói chuyện với Trần Bảng (nay là Nghệ só
nhân dân chèo) con trai của Trần Tiêu, ông đánh giá truyện của Trần Tiêu như sau “về cách kết
cấu truyện thì bác không bằng đâu”. [30, tr. 250, dẫn lại]. Theo chúng tôi nghó, đây có thể là lời
đánh giá để khích lệ tinh thần sáng tác của người em nhưng không phải không có lý. Bởi kết
cấu truyện của Trần Tiêu chặt chẽ, gọn gàng, sáng sủa, có phần độc đáo. Cách đặt vấn đề trong
tác phẩm, ông thường làm người đọc bất ngờ từ những câu chữ đầu tiên. Truyện ngắn Năm hạn,
(in trong tập Trên quê), dễ thường người đọc sẽ nghó : “nhà xã Nhưng có ai đó qua đời”, thực
tế là trâu chết. Đáng tiếc, Khái Hưng mới chỉ nhận xét về kết cấu còn nội dung, tư tưởng, phong
cách nghệ thuật, … chưa nói tới.
Năm 1958, nhóm Lê Quý Đôn cho ra đời cuốn, Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, có
nhận xét “đối với số phận thảm thương của họ (người nông dân) phải chịu, ông thường đi tìm
nguyên nhân chính ở đầu óc hủ bại, dốt nát của họ, đặc biệt là tính hiếu danh mê muội ” [19,
tr.39]. Nhóm tác giả đã phát hiện ra nỗi khổ của người dân quê là do tệ hiếu danh.
Một thời gian sau, cuốn Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 do Viện
văn học soạn (1964), đã có một đoạn ngắn dành cho Trần Tiêu “Dường như Trần Tiêu muốn
chứng minh hủ tục ở nông thôn chủ yếu là do đầu óc mê tín và sự dốt nát của dân quê mà có.


Mâu thuẫn giai cấp ở đây rất mờ nhạt. Trong một số tác phẩm khác Trần Tiêu lại miệt thị nông
dân như trong truyện Dưới ánh trăng (viết cùng Khái Hưng)” [33, tr.161].
Trong một số tác phẩm (Hữu sinh vô dưỡng, Một diệu kế, Ai phải), Trần Tiêu viết về người
nông dân đưa ra những điểm yếu của họ nhưng không chủ ý miệt thị mà để cảnh tỉnh nhận thức
của con người. Do vậy, truyện Dưới ánh trăng có mô tả người nông dân chưa thực thoả đáng
nhưng đây cũng chỉ là lời cảnh tỉnh mà thôi.
Ba năm sau tại miền Nam, Nhà xuất bản Thiều Quang tái bản tiểu thuyết Con trâu (1967),

khi viết lời giới thiệu có đánh giá và tỏ rõ quan niệm của họ về tác phẩm của Trần Tiêu “ hầu
hết nội dung của những tác phẩm của ông ghi lại một cách hiện thực nếp sinh hoạt cùng phong
tục, tập quán của người dân quê Việt Nam. Họ là lớp người cần cù, làm lũ quanh năm suốt tháng
chân lấm tay bùn, nhưng họ vẫn sống trong niềm hy vọng của ngày mai. Ngày mai cuộc sống của
họ, con em của họ sẽ được tươi sáng hơn lên”. Lời giới thiệu gồm hai trang đầu của cuốn sách,
đã dành một vị trí khá xứng đáng cho văn nghiêïp của Trần Tiêu. Người viết lời giới thiệu đã
nhận ra cái mạch ngầm trong những dòng chữ, trong những hình tượng nghệ thuật của tác phẩm.
Cái quý là họ đã nhận ra sự vận động và phát triển của hình tượng nhân vật sẽ đi từ bóng tối ra
ánh sáng. Trong cái quằn quại, bộn bề của cuộc sống hôm nay, người nông dân không tuyệt
vọng, họ luôn hy vọng và đặt niềm tin vào tương lai “ngày mai cuôïc sống của họ và con em họ
sẽ được tươi sáng hơn lên”. Nét đẹp của người dân Việt Nam là luôn sống lạc quan yêu đời. Do
vậy, thực tại hôm nay rất khổ đau nhưng họ luôn nghó rồi sẽ qua, ngày mai sẽ vui hơn, sẽ bớt
buồn lo hơn “hết mưa rồi nắng hửng lên thôi”. Đây là sự vận động tư tưởng, thế giới quan của
nhà văn trong giai đoạn mới. Phải chăng ý thức về hiện thực đời sống của người nông dân đã
nhen lên trong tâm hồn Trần Tiêu từ những ngày trước cách mạng. Vì có một thế giới quan tiến
bộ như vậy mà sau này ông đã hăng hái tham gia hoạt động cách mạng, làm uỷ viên hội đồng
nhân dân xã Cổ Am. Theo chúng tôi, đây là lời đánh giá khách quan về nội dung tư tưởng tác
phẩm của Trần Tiêu. Trong cuốn Mấy vấn đề Văn học hiện thực phê phán Việt Nam (1968),
Nguyễn Đức Đàn có nhận xét “Con trâu của Trần Tiêu ra đời trong khoảng thời gian này là một
điều có ý nghóa. Phải nhận rằng trong Con trâu, Trần Tiêu đã thấy được cuộc sống quằn quại
của người nông dân nghèo dưới ách tô tức của bọn địa chủ và trăm thứ tục lệ hủ lậu” [9, tr. 33 –
34]. Nguyễn Đức Đàn là người đầu tiên đánh giá trân trọng và đúng đắn về văn nghiệp của
Trần Tiêu. Ông đã nhận ra điều Trần Tiêu muốn nói trong tác phẩm, đó chính là “cuộc sống


quằn quại của người nông dân nghèo”. Nguyên nhân chính đẫn tới cái nghèo không phải do mê
tín, hủ lậu mà do “ tô tức … và trăm thứ tục lệ hủ lậu” khác. Nhưng đáng tiếc, lời đánh giá chỉ ở
một tác phẩm Con trâu. Hơn nữa, trong cuốn sách dày cả mấy trăm trang bàn về mảng văn học
hiện thực lại chỉ giành một vài dòng để nói về Trần Tiêu, thật là chưa xứng đáng !
Trong cuốn Văn học Việt Nam 1930 – 1945, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghịêp,

1978, Phan Cự Đệ có nhận xét “Những yếu tố hiện thực có chiều hướng tăng lên trong một số tác
phẩm Tự lực văn đoàn thời kỳ Mặt trận dân chủ. Thạch Lam, Trần Tiêu là những hiện tượng tiêu
biểu cho sự phân hoá của văn xuôi lãng mạn trong thời kỳ này. Truyện ngắn và tiểu thuyết của họ
đánh dấu sự giao lưu giữa văn học lãng mạn và văn học hiện thực phê phán. […]. Sau đó cho
đăng trên báo những tác phẩm hiện thực chủ nghóa như Con trâu, Sau luỹ tre, Những ngày thơ ấu
…” [23, tr. 551].
Sáu năm sau, năm 1984 – cuốn Từ điển văn học ra đời, Trần Hữu Tá viết về Trần Tiêu, có
nhận xét, đánh giá tổng lược nhưng khá đầy đủ và sâu sắc về văn chương của Trần Tiêu “ Nội
dung hiện thực, ý nghóa xã hội của tiểu thuyết Con trâu cũng như trong các tác phẩm khác của
Trần Tiêu) còn bị hạn chế cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Ông chưa đề cập được mối mâu thuẫn
đối kháng ở nông thôn, chưa phản ánh được cuộc sống bị áp bức, bóc lột tàn tệ của người nông
dân […]. Tuy vậy trong chừng mực nhất định, tác phẩm của ông vẫn nêu lên được hình ảnh những
người nông dân hiền lương, chất phác và tình trạng vất vả lam lũ của những người lao động chân
lấm tay bùn” [21, tr. 437]. Trần Tiêu nằm trong nhóm Tự lực văn đoàn nhưng ông lại có cách
tiếp cận cuôïc sống khác với Tự lực văn đoàn. Ông có một đường đi riêng rất gần gũi với Văn
học hiện thực phê phán như : Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao. Nếu
như các nhà văn này đã khai thác trực diện sự áp bức, bóc lột, đẩy người nông dân đến “bước
đường cùng” của bọn địa chủ, cường hào thì Trần Tiêu nghiêng về nỗi khổ trong đời sống tinh
thần, tình cảm, những ước mơ không thể thực hiện được, những đau khổ do nếp sống cổ hủ, lạc
hậu… của người dân cày. Tất nhiên vật chất và tinh thần gắn bó mật thiết với nhau và nhiều khi
cái này là hệ quả của cái kia. Cho nên, khi nhà văn nói về mặt này thì đồng thời có thể cũng
làm rõ được mặt kia. Điều này thể hiện khá rõ trong nhiều tác phẩm.
Năm 1985, Nguyễn Đăng Mạnh viết lời giới thiệu cho Tổng tập văn học Việt Nam (tập 30
A), ông có nhắc tới Trần Tiêu và nhóm Tự lực văn đoàn một cách trân trọng. Ông nói một cách
rất vắn tắt nhưng lại bao hàm một ý nghóa rất lớn “Thạch Lam… Trần Tiêu… với những trang tả


cảnh, tả tình phát triển tâm lý, cảm giác một cách tinh tế trên lập trường của chủ nghóa hiện thực
và tính nhân dân, các nhà văn trẻ của chúng ta đã tận dụng kinh nghiệm nói trên của các cây bút
lãng mạn để bồi bổ cho mình khả năng tái hiện cuộc sống một cách phong phú và tinh vi hơn”

[74, tr.16]. Ông đánh giá cao tài năng và đóng góp của nhóm Tự lực văn đoàn trong đó có Trần
Tiêu. Đặc biệt, ông đề cao cách miêu tả tâm lý, tả tình, tả cảnh của Trần Tiêu và sự tái hiện
cuộc sống hiện thực.
Viết lời giớùi thiệu cho cuốn Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945 (xuất bản năm
1989), Nguyễn Hoành Khung đã có những nhận định tinh tế về văn nghiệp của Trần Tiêu “
truyện của Trần Tiêu có cả con người và cuộc sống nông thôn được thể hiện khá chân thực”. Nhà
nghiên cứu đã phát hiện ra cái riêng về bút pháp của ông : không đi theo khuynh hướng lãng
mạn mà đi theo khuynh hướng hiện thực, mô tả chân thực cuộc sống của người nông dân. Có thể
nói, tác phẩm của Trần Tiêu là sự giao thoa giữa văn học lãng mạn và văn học hiện thực phê
phán. Ông nhận xét về đóng góp “ Trần Tiêu không phải không có những trang viết có gía trị
phát hiện khi miêu tả những nét tâm lý của người nông dân và khi miêu tả cảnh vật nông thôn với
những màu sắc, hương vị dân dã quen thuộc” [25, tr. 43]. Nguyễn Hoành Khung vừa có ý xếp
Trần Tiêu vào dòng Văn học hiện thực vừa đề cao sự phát hiện những nét đẹp của người dân
quê - hiểu sâu sắc và tinh tế đời sống của người dân - không chỉ nắm bắt được cảnh quê mà còn
biết được cả phong tục, tập quán một cách chi tiết và sắc nét.
Nguyễn Trác và Đái Xuân Ninh trong cuốn – Về Tự lực văn đoàn (xuất bản năm 1989), có
sự so sánh Trần Tiêu cùng với Ngô Tất Tố và đưa ra đánh giá “chủ đề không sâu sắc, sức tố cáo
không mãnh liệt, dữ dội bằng Tắt đèn (Ngô Tất Tố) nhưng ngòi bút tả thực chính xác, tỷ mỷ của
Trần Tiêu cũng giúp hiểu thêm về người nông dân và nông thôn” [90, tr.77]. Vấn đề tố cáo trực
diện, phanh phui những nỗi khổ của người dân, những “thói ăn bẩn, ăn tham” của bọn quan lại
thì Trần Tiêu chưa có được. Văn Trần Tiêu ít phanh phui vấn đề một cách trực tiếp mà chủ yếu
bằng con đường gián tiếp. Mỗi nhà văn có cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề riêng. Trần
Tiêu so với Ngô Tất Tố về góc độ phê phán trực diện thì không bằng nhưng phía sau những hình
tượng, những nỗi khổ của người nông dân là một câu hỏi lớn mà Trần Tiêu muốn nói cùng mọi
người. Tất cả sự đau khổ đói kém, tang thương ấy do đâu phải chăng do chế độ, quan lại, thực
dân ? Nguyễn Trác và Đái Xuân Ninh đề cao sự đóng góp của Trần Tiêu “vào sự phát triển của
nền văn học Việt Nam hiện đại” [90, tr. 79].


Sau này nhân lần tái bản tiểu thuyết Chồng con (1998), Hoàng Như Mai có nhận xét rất

đáng quý về văn nghiệp của Trần Tiêu “qua câu chuyện chị xã Bổng, nhà văn Trần Tiêu đã đưa
độc giả đến chứng kiến những nét sinh hoạt thường ngày và lễ hôïi ở nông thôn, sinh đẻ, cưới xin,
ma chay, khao vọng, đàn quy, giỗ tết…. Sự hiểu biết thấu đáo và bút pháp tinh tế của nhà vă n
cống hiến khá nhiều chương Folklore đặc sắc, thú vị cho người đọc ngày nay không được thấy
những cảnh ấy”. Hoàng Như Mai đã nhận thấy nhà văn này là người “hiểu biết thấu đáo” những
phong tục tập quán diễn ra nơi thôn ổ và phản ánh bằng “bút pháp tinh tế”. Chính những vấn đề
này đã đem đến cho bạn đọc hôm nay những thế hệ đã xa – rất xa – với cuôïc sống của nông
thôn miền Bắc thời phong kiến, có thể hình dung ra làng quê Bắc Bộ với bao sinh hoạt cả văn
hoá vật thể và văn hoá phi vật thể.
Ở bài Trần Tiêu là nhà văn chân quê (Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt Nam, xuất
bản 1999), nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh có nhận định khách quan đối với văn nghiệp của
Trần Tiêu “Trần Tiêu đã có những đóng góp vừa phong phú vừa sắc sảo cho việc đi sâu vào miêu
tả nhiều mặt, nhiều khía cạnh, đôi khi là những góc cạnh tinh tế của cuộc sống người nông dân
trước 1945” [30, tr. 236].
Như vậy, từ bài đánh giá của Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại cho đến lời nhận
định của Lê Thị Đức Hạnh trong cuốn Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt Nam đã có 13 ý
kiến khác nhau. Cùng một tác giả : người này khen, người kia chê. Người này cho là hiện thực,
người kia cho là lãng mạn. Theo chúng tôi, Trần Tiêu, cũng như Thạch Lam … là cây bút giao
thoa giữa văn học hiện thực và văn học lãng mạn. Bởi trong tác phẩm của Trần Tiêu yếu tố
hiện thực khá đậm đặc. Nhưng chưa ai có cái nhìn bao quát quá trình sáng tác của nhà văn.
Theo chúng tôi nghó, do khuôn khổ hạn hẹp của một bài báo hay một mục từ trong Từ điển, nên
các tác giả chưa có điều kiện triển khai đầy đủ các vấn đề trong văn nghiệp của Trần Tiêu.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp so sánh loại hình – lịch sử
Tác giả luận văn muốn so sánh một số truyện ngắn, tiểu thuyết của các nhà văn có gần
phong cách, giọng điệu và nội dung phản ánh với tiểu thuyết, truyện ngắn của Trần Tiêu để làm
rõ những vấn đề cần giải quyết. Luận văn sử dụng phương pháp loại hình để nhận diện phong
cách nghệ thuật của tác giả với tiến trình phát triển của văn xuôi hiện đại.
5.2. Phương pháp hệ thống



Luận văn nghiên cứu văn xuôi nghệ thuật của một tác giả nghóa là nghiên cứu khảo sát
mối quan hệ mật thiết giữa các yếu tố của một chỉnh thể nghệ thuật, làm nên nét riêng của tác
giả. Vì vậy, việc vận dụng phương pháp hệ thống sẽ giúp cho người nghiên cứu tránh được nguy
cơ nhận biết thiếu tính bao quát, thấy được cái bề ngoài mà không thấy được cái bản chất vấn
đề.
5.3. Luận văn cũng sử dụng đến thủ pháp thống kê hay phương pháp phân tích dưới góc độ
thi pháp học để làm rõ vấn đề.
Các phương pháp và thao tác nghiên cứu nêu trên được vận dụng phối hợp với nhau trong
khi khảo sát, phân tích, so sánh, tổng hợp nhằm nhận định xác đáng các đặc điểm và giá trị của
văn xuôi Trần Tiêu.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành ba chương
Chương I.
BỨC TRANH LÀNG QUÊ BẮC BỘ
TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT CỦA TRẦN TIÊU
Trong chương này, người viết chủ yếu đề cập tới vấn đề : bức tranh quê hương miền Bắc trước
Cách mạng trong sáng tác của Trần Tiêu. Qua đó nổi rõ phong cảnh quê hương thuần, phong mỹ
tục và các nếp phong tục tập quán cùng những hủ tục lạc hậu đè trên vai những người dân quê.
Chương II.
NGƯỜI NÔNG DÂN BẮC BỘ TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT CỦA TRẦN TIÊU
TRƯỚC CÁCH MẠNG
Người nông dân Bắc bộ đã được nhiều nhà văn chú ý và phản ánh trong tác phẩm của
mình không chỉ trong Văn học hiện thực mà còn cả trong Văn học lãng mạn. Trần Tiêu là nhà
văn thuộc Văn học lãng mạn, ông có cái nhìn khá đặc sắc về người nông dân. Đặc biệt là người
phụ nữ và giới quan trường. Qua việc xây dựng vấn đề này trong tác phẩm, ông bộc lộ rõ những
quan điểm nghệ thuật của mình về con người trong xã hội.
Chương III.



MỘT SỐ ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA TRẦN TIÊU
Trần Tiêu là nhà văn thành công hơn cả ở mảng tiểu thuyết và truyện ngắn. Ở mảng này,
ông đã bộc lộ tài năng của mình thông qua nghệ thuật miêu tả tâm lí, nghệ thuật tự sự – trần
thuật, giọng điệu trữ tình và lời văn hàm súc.


Chương I

BỨC TRANH LÀNG QUÊ BẮC BỘ
TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT CỦA TRẦN TIÊU
1. 1. Phong cảnh quê hương
Cùng đi vào phản ánh những nét đẹp của quê hương nhưng mỗi nhà văn lại có vùng thẩm
mó khác nhau, quê hương hiện lên trong trang viết của Thạch Lam bao giờ cũng là nét đẹp thanh
bình với những con người chất phác, thật thà, hiền hậu. Trần Tiêu cũng viết về quê hương
nhưng với một cảm hứng khác. Phần lớn cuộc đời ông sống gắn bó với quê hương – làng xã.
Trong trang viết của ông, người đọc sẽ nhận ra một làng Cổ Am – Vónh Bảo, đồng đất gan gà,
chua phèn và chỉ trồng hai loại cây cơ bản : thuốc lào và lúa.
Làng quê vào mùa gặt trên trang viết của Trần Tiêu rất sinh động. Từ mờ sáng ngoài
đường đã nhộn nhịp người đi lại, tiếng gọi nhau í ới khắp các ngõ. Từng đoàn thợ gặt kéo nhau
đi trong tiếng cười nói vui vẻ. Một đám thợ gặt hôm nay đến làm cho nhà xã Chính. Cái sân con
nhà bác “chật ních những người và ồn ào như một xưởng thợ” [83, tr. 24]. Họ ăn vội bát cơm đỏ
cho ấm bụng, uống vội bát nước chè xanh, nhai miếng trầu rồi kéo nhau ra ruộng lúc trời mờ
sương “đến nơi mặt trời vẫn chưa mọc phương đông một dải mây hồng nhạt những chùa, quán,
những luỹ tre làng, những cây đa mập mờ trong làn sương” [83, tr.25]. Không khí làm việc thật
sôi động. Tiếng liềm, tiếng hái va vào nhau vang lên những âm thanh vui nhộn, tiếng những
người thợ gặt cười vui trong làn sương sớm, phương đông mặt trời đã nhô lên, “dải mây hồng
dần dần lan rộng và mỗi lúc một đổi màu, từ màu hồng đến màu đỏ, màu da cam. Rồi bỗng vụt
hiện sau những đám mây tím viền vàng chói, những tia nắng toả ra thành hình dẻ quạt.
Làn sương tan dần, cảnh vật trở nên trong sáng như sau một trận mưa rực rỡ những màu
tươi thắm vang động những tiếng chim muông và những tiếng cười reo của bọn thợ” [83, tr. 25].

Trên mỗi con đường dẫn vào xóm đều phủ lớp rơm vàng óng bay mùi thơm ngậy, trong sân mỗi
nhà là đống thóc vàng. Một vụ mùa bội thu. Nụ cười mãn nguyện luôn được hiện lên trên đôi
môi của mỗi người dân.
Đây là cảnh nhà xã Chính trong năm được mùa “cái sân đất tí hon không đủ chứa thóc, bác
phải khẩn khoản mãi với ông Từ mới mượn được sân đình để phơi phóng. Suốt mấy ngày vợ chồng
con cái làm lụng đầu tắt mặt tối, sáng đội thóc đi, tối đội thóc về” [83, tr. 28, 29]. Bác đã cắt
việc cho thằng Chốc vừa trông em vừa phơi lúa nhưng bác cứ chạy qua chạy lại luôn để đảo


thóc cho chóng khô. Những hạt vàng óng ánh rẽ ra dưới chân bác, kết quả của năm sáu tháng
trời, bao nhiêu vốn liếng tiền bạc của cả gia đình dồn hết vào đây. Nay là kết quả “mỗi hạt thóc
của bác là một hột vàng cũng đáng giá” [83, tr. 29].
Lồng trong khung cảnh nhộn nhịp vui tươi, hồ hởi của ngày mùa bội thu là tiếng sáo diều
vang lên từ ngoài bãi vọng vào thôn xóm. Tiếng sáo réo rắt trầm bổng ngân vang. Cánh diều no
gió bay cao giữa khoảng trời quê hương thanh bình. Những cơn gió nồm nam thổi qua mặt sông,
qua những cánh đồng mới gặt tràn vào làng xóm làm dịu cái nắng oi nồng của mùa hè, khiến
người ta dễ chịu.
Vọng lại đâu đây là tiếng hát ru của người mẹ trẻ bên cánh võng kẽo kẹt, phá tan bầu
không khí tónh mịch của buổi trưa hè. “Cái ngủ mày ngủ a… cho lâu, Mẹ mày đi cấy đồng sâu
chưa về”. Tiếng hát đưa chị Bổng (Chồng con) về quãng thời thơ ấu. Trong câu hát, làng quê
đẹp như một bức tranh vui buồn lẫn lộn. Trước sân nhà xã Bổng một đàn gà đang gọi nhau làm
xáo động một không gian “một con gà sống ở chuồng lợn nhảy ra, đi dõng dạc đến đống bẫn
ngay cửa bếp. Nó lấy chân vãi bẩn tung toé ra chung quanh, rồi vừa mổ vừa cúc cúc một hồi. Ba
con gà mái ở chuồng lợn cùng nhảy ra, chạy lại, tranh nhau mổ ” [84, tr. 20].
Cảnh làng quê Bắc Bộ về chiều hiện lên trong văn của Trần Tiêu có hình ảnh, âm thanh,
màu sắc. Nó như bức tranh thuỷ mặc có đường nét chấm phá rất hữu tình “ánh đỏ dịu dần, đã
đổi sang màu tím và tím nhạt…. Một ngôi sao nhấp nhánh trên màn trời lam tối. Vài con chim
bay, chuông chùa thong thả buông rơi từng giọt buồn vào khoảng yên lặng. Một thứ yên lặng linh
thiêng của cảnh hoàng hôn nơi thôn dã ” [83, tr. 7]. Hoà cùng cảnh trời chiều là hình ảnh đàn
trâu lững thững bước đi trên những con đường đất gồ ghề tiến về phía làng, con nào con nấy no

tròn đen bóng.
Xa xa hàng tre xanh và đàn cò trắng. Một nét đẹp thanh bình của quê hương miền Bắc.
Cái nét thanh bình tưởng như ấm no hạnh phúc đó lại ẩn giấu những quặn đau nhức buốt của
biết bao cảnh đời đang phải gánh chịu nợ nặng lãi, khao vọng, … và tai hoạ do thiên tai đem đến.
Ở điểm này, Trần Tiêu gần với Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao về việc mô tả
phong cảnh quê hương. Đó là những đau khổ đang rên lên từng ngày từng giờ trước những sự
chà đạp, chèn ép, dưới những gông cùm của chế độ thực dân, nửa phong kiến .
Nông thôn miền Bắc trước Cách mạng, mỗi nhà văn có cách tiếp cận riêng để phản ánh
vào trong tác phẩm của mình. Trần Tiêu đã có những trang viết chân thực và khá sinh động về


nơi này. Ông đã phát hiện ra những nét đẹp, hồn quê hương trong trang viết của mình hoà cùng
trăn trở băn khoăn, với những tiếng nói thầm lặng mà da diết, đắng cay, thấm đẫm niềm cảm
thông và sự xót thương vô hạn đối với những người nông dân bị áp bức bóc lột. Những trang văn
của ông cũng là lời phản ánh về chế độ thực dân, nửa phong kiến. Nhà văn thể hiện sự ác cảm,
khinh thị những bọn ăn bám, bóc lột.
1. 2. Phong tục tập quán
Trần Tiêu không phải nhà văn xuất sắc của nông thôn Bắc Bộ như Ngô Tất Tố, Nguyễn
Công Hoan… nhưng viết về làng quê đặc biệt về phong tục tập quán hiện lên sống động và có ý
nghóa xã hôïi – nhân sinh.
Phần lớn cuộc đời Trần Tiêu sống gắn bó với quê hương. Thời niên thiếu và thanh niên có
đi học nhưng khi thành đạt lại về quê dạy học rồi viết văn làm báo. Ông qua đời cũng chính trên
quê hương mình. Hoàn cảnh sống đó đã tạo cho ông được gần gũi với những người dân cơ cực,
ông đã thấu hiểu những nỗi thống khổ của họ. Có lẽ chính ông cũng là người chịu những cảnh
mà người dân phải chịu. Đó là những hủ tục lạc hậu, nặng nề đang đè lên đôi vai của người dân
nghèo. Cho nên ông thông cảm, thông cảm rất sâu sắc với cái khổ nhục của nhà xã Chính (Sau
luỹ tre) trong việc mua danh. Bởi để có tiếng nói trước quan viên làng xã phải có chức danh, dù
cái danh hão đó chẳng mang lại lợi lộc gì về kinh tế cho gia đình, nhưng vẫn phải có. Xã Chính
bàn với Diếc - vợ anh ta - phải mua cho được chức lý thôn. Cái ngày mà Chính mang lễ ra đình
xin chức lý thôn được Trần Tiêu mô tả cười ra nước mắt “các anh ra làm việc khoá này là may

lắm đấy, mỗi anh chỉ phải bỏ ra có ba trăm trong ba năm tức là mỗi năm có một trăm để bù vào
tiền thuế má. Chứ từ xưa tới nay làm được cái lý thôn phải hàng nghìn là ít” [82, tr. 56]. Cái may
ở khoá này là bù vào thuế ít hơn ở các khoá trước. Trước kia mỗi vụ thuế phải bù ra ít nhất vài
ba trăm vì vậy cụ cử kết luận “anh nào không ra làm khoá này là dại”. Tiền khao ngày lên chức
lý thôn tốn hết năm chục bạc còn thêm tiền mua chè, cau trình các quan viên “chú thím phải
mua mười lăm bao chè trình các cụ bên trên với tám mươi gói cau khô tất cả hết độ hai lăm
đồng” và “một trăm bạc chồng cho làng nay mai ”. việc mua chức đã xong, xã Chính hôm nào
nay bước ra đường có người chào là lý Chính. Sự đổi đời của một ông xã thành một ông lý,
nhưng ông lý hôm nay làm việc giống như một đầy tớ không công “ông khoanh tay đứng hầu hạ
thay cho anh lính lệ, ông làm mọi việc như một đầy tớ không công, nhưng ông lý lấy làm hãnh
diện với những hạng không đủ tiền để ra làm những công việc như ông” [82, tr. 71]. Từ ngày leân


lý thôn, Chính chẳng mang lại lợi ích gì cho gia đình. Nay quan bắt phải làm cơm cúng tế, đãi
khách, mai phải nhập hội xóc đóa, tổ tôm, hát ả đào. Đến kỳ thu thuế gia đình anh lại phải bỏ ra
vài ba trăm bạc bù vào chỗ thuế thất thu. Trong năm có tới vài đợt họp làng, lý đương thứ như
anh phải chi tiền cho quan mượn làm cỗ nhưng chẳng bao giờ quan nhớ để trả “Lý đương thứ
đâu ! anh sắm cho hai mâm rượu ! Tiền, rồi các cụ sẽ tính sau…” [82, tr. 71]. Vậy là bao nhiêu
ruộng vườn, trâu, bò, lợn, gà cứ đội nón ra đi “Từ đầu tháng giêng cho đến cuối tháng ba, ngày
nào ông cũng bận, bận về các cụ. Hơi một tí các cụ gọi đến đương thứ” [82, tr. 71]. Từ một gia
đình làm ăn khá giả sau ba năm giữ chức lý thôn anh thành người vô sản. Cái nhà trơ ra bộ
khung mục nát. Trần Tiêu phải thốt lên “hết ba năm làm việc vốn liếng ruộng nương cũng hết
theo chỉ còn trơ ra mấy gian nhà tre với lũ trẻ con nheo nhóc” [82, tr. 72]. Đã vậy bây giờ, lý
Chính nhiễm bệnh quan đâm ra lười biếng, khinh người, hách dịch “quên hẳn trước kia anh cũng
ở trong bọn họ mà ra” [82, Tr. 72]. Nhà văn kết luận “hoàn cảnh đã nung đúc anh theo khuôn
khổ khác” [82, tr. 72]. Nhưng đổi lại lý Chính bây giờ được lên chức lý Cựu và mỗi khi làng có
việc là ông được ngồi đông đình và hưởng cỗ biếu của làng xã “đóa xôi miếng thịt trong làng”.
Cái được chẳng đáng là bao, mà cái mất qúa lớn !
Một tục lệ khác cổ hủ chết người mà vẫn được mọi người chấp nhận một cách mù quáng.
Gia đình khán Thỗn (Hữu sinh vô dưỡng) sinh đến mấy lần mà chưa lần nào nuôi đựơc. Nguyên

nhân là “cắt rốn trẻ bằng mảnh sành và bằng đóm hút thuốc lào”. Kết quả là chúng chết “vì
chứng sài “uốn ván” ” [85, tr. 62]. Chết do mất vệ sinh, nhiễm trùng uốn ván, người dân lại cho
là lạ ! Vì thế, họ cứ đổ cho Mùi vợ khán Thỗn là cao số, bắt phải đến chùa cúng cầu tự và lập
đàn giải hạn.
Nhà chùa tưởng như không còn vướng bận với vật chất tầm thường, ấy vậy mà lại luôn
nghó tới nó. Sư cụ luôn khen cái áo cà sa bằng vải lụa nhuôïm nâu của bà Tổng làng Lôi cúng
chùa. Sư cụ xuýt xoa nói “giá cứ mỗi đám lại một tấm lụa để nhà chùa may áo cà sa thì chất đầy
tủ không hết” [85, tr. 67]. Nhưng người đến cúng giải oan, cầu tự đâu có đi tay không. Họ phải
mang tiền, mang gạo, sắm đủ đồ lễ ; ba quan tiền, một thúng gạo với một cặp gà để trình diện sư
cụ, ba chục bạc để nhà chùa sắm lễ. Vậy mà vẫn phải “A di đà phật thôi thì bạch cụ Từ Mẫn
người cũng phát bồ đề tâm mà ra ơn bố thí cho. Thật là đại phúc cho nhà bác Khán chúng cháu”
[85, tr. 64]. Cảnh làm phép cho nhà bác Khán, ai thấy cũng phải sởn tóc gáy. Nó như hình phạt
thời trung cổ “trong chùa cháy sáng trưng những đèn nến, đèn dầu và khói hương nghi ngút toûa


khắp chùa như sương mù. Gian giữa chỗ thờ phật, đàn giải kết như chiếc đình màn chung quanh
có diềm những hình nhân xanh đỏ sặc sỡ rủ xuống như một lũ tôïi nhân bị treo bên cạnh đàn. Một
cái nồi hai mươi kê trên ba ông đầu rau và một bó củi ” [85, tr. 66]. Cách bài trí đàn giải kết như
sắp luộc sống một con người. Và đúng thế thực, chỉ môït chút nữa thôi bác Khán gái sẽ bị sư cụ
lấy chổi nhúng vào nước sôi sùng sục quét lên người. Cũng lập đàn kiểu này, có lần một sư ông
(một nhà sư ở chùa khác đến học cách lập đàn giải kết - NTD) bị tuột hết cả da tay phải nằm
dưỡng bệnh “sư ông bằng lòng thử phải nằm dưỡng bệnh hết hàng tháng…” [85, tr. 67], cũng
chính cách này, sư cụ Từ Mẫn chuẩn bị làm cho bác Khán “sư cụ cắt một ít tóc của bác bỏ vào
nồi nước sôi, tiếng thanh la lại nổi lên inh ỏi sư cụ vén tay áo cà sa lẫn tay áo trong để lộ cánh
tay trần rắn rỏi. Tay phải cụ cầm cái chổi mới tinh nhúng vào nồi nước sôi sùng sục quét lên
cánh tay cụ rồi quét lên lưng bác Khán. Mọi người rùng mình. Hết lưng sang cánh tay cụ quét đi
quét lại năm bảy lần” [85, tr. 70]. Làm lễ xong mọi người điều đặt lòng tin tưởng “thế nào bác
Khán cũng đẻ con trai và cũng nuôi được ra đầu ra đũa…”[85, tr. 70]. Nhưng rồi chúng vẫn cứ
chết, chết cả hai đứa, lần thứ ba bác phải liều thân vào bệnh viện phụ sản để sinh thì đứa bé
mới sống, mọi người đến thăm ai cũng phải thầm khen thằng bé mũm móm và trông thật dễ

thương. Các bà tới thăm bác Khán hôm ấy, đã phần nào ngộ ra rằng “thằng bé may mắn được đỡ
ở trong bụng mẹ ra một cách cẩn thận và được trông non chăm sóc theo cách vệ sinh nên người
nó trông mũm móm – khoẻ mạnh” [85, tr. 72]. Những người này lại quá ít, phần lớn, họ vẫn cho
cái may mắn là do sư cụ Từ Mẫn đã phát tâm bồ đề phật mà bố thí cho nhà bác.
Trong truyện Chồng con, Trần Tiêu có tiếng nói tố cáo những hủ tục lạc hậu khá sâu sắc.
Đó là quan niệm lạc hậu mất hết nhân tính, đạo đức và tình người. Người em lấy vợ đến ngày
vợ sinh đưa về quê để cho gần anh em dễ nhờ vả, Mẫn nghó chuyện chửa đẻ là thường. Nhưng
nó là chuyện quan trọng, trái hẳn với ý nghó của Mẫn – chồng Sồi. Lúc Sồi trở dạ đẻ, gia đình
người anh nhất định đuổi ra khỏi nhà, không cho sinh trong nhà họ. Họ cho rằng, đó là một thứ
xui xẻo hơn bất cứ cái điều xui xẻo nào. Nếu để Sồi đẻ ở đây sẽ làm cho gia đình này “xúi
quẩy, lụn bại không gì bằng trong nhà chứa một người đàn bà ở đâu đến đẻ” và người anh đi đến
kết luận hùng hồn “từ thượng cổ đến giờ không ai dám làm thế, làm vậy là táo bạo, liều lónh đến
bực nào cũng không dám để một việc xảy ra như thế” [85, tr. 242]. Do vậy, người anh phải lôi
đứa em dâu ra bằng được, tống khứ nó đi. Họ thi nhau đuổi như đuổi tà. Lúc đầu họ còn chắp
tay quỳ lạy, van xin “chú ơi tôi chắp tay tôi lạy cả chú thím, chú thím thương tôi, thương đến vợ


chồng con cái nhà tôi. Chú mà để thím ấy đẻ ở đây thì bằng chú giết tôi, giết cả vợ chồng con cái
nhà tôi. Sao chú nỡ tâm thế. Nhà anh chú mà lụn bại, tan nát thì chú có ngồi yên mà hưởng sung
sướng được không ? Thật tôi tưởng chú chả có cái tâm địa ấy” [85, tr. 242]. Nhưng sau những lời
van vỉ của vợ chồng người anh vẫn không thấy Mẫn chuyển đổi, lại bảo vợ xuống nhà ngang mà
đẻ thì họ đã hành động một cách mất hết nhân tính “họ xúm vào lôi tuột nhà cháu ra cổng. Họ
lôi mạnh quá nhà cháu ngã xoài nằm lăn ra đường. Cháu vội chạy đến nâng dậy. Vợ chồng họ
được dịp vội đóng sập cổng, cài then chặt” [85, tr. 244]. Phong tục lạc hậu đó tưởng như không
đâu có, vậy mà lại có ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Đôi vợ chồng trẻ dắt díu nhau quay
về nhà mẹ vợ để sinh, nhưng chỉ đi được vài bước, tới cái quán đất ven đường, người vợ sinh con
tại đó. Chỗ người vợ sinh con có khác nào cái chuồng trâu, trống hua, trống hoác, gió lùa, cát
bụi. Cảnh sinh nở này làm ta nghó tới tác phẩm Một con người ra đời của nhà văn Nga Mác Xim
– Gorki. Tuy hai đứa bé được sinh ra ở hai cảnh khác nhau – một bãi biển, một quán đất ven
đường – nhưng cả hai đều xót xa quặn thắt. Đau lòng hơn ở đây đứa bé vừa chào đời thì mẹ nó

cũng nhắm mắt ra đi. Tiếng khóc chào đời của trẻ thơ cũng là tiếng khóc tiễn đưa người mẹ về
cõi vónh hằng. Thằng bé trai mũm móm, dễ thương vừa ra đời, có tội gì đâu mà nó phải gánh
chịu tổn thất quá lớn, nếu như bác nó không làm điều thất đức như vậy. Cái chết của Sồi, tiếng
khóc uất nghẹn của trẻ thơ và cái nghẹn ngào nghẹt thở của Mẫn đã tố cáo mạnh mẽ cái hủ tục
lạc hậu ở nơi thôn ổ. Tiếng nói nhân đạo của Trần Tiêu đã chỉ ra những hủ tục lạc hậu để cho
người dân nhìn vào sự thực, sửa đi những gì không phù hợp để sống tốt hơn. Nhà văn phản ánh
hủ tục đớn đau phi nhân bản đến thế mà vẫn bằng giọng văn trầm, không đao to búa lớn, cứ nhẹ
nhàng thế mà làm người đọc quặn đau, xót xa tận con tim. Tiếng nói nhân đạo cứ lan mãi thấm
vào từng con người làm thức tỉnh bản chất hiền lương trong họ.
Trần Tiêu không bàng quan trước nỗi cơ cực của người nông dân. Ông đã phần nào hiểu
nguyên nhân dẫn đến hủ tục lạc hậu, những đau khổ của họ. Đáng lẽ xã Chính (Con trâu) cũng
đủ ăn, đủ tiêu và có tiền tậu trâu, nhưng do làng bắt mua xã, thầy bói bắt sửa mộ Tam đại, sang
cát cho cha ; do vậy, bảy sào ruộng phải gán nợ, bảy chục bạc do gán nợ còn dư cũng tiêu hết.
Vậy là bác trở thành vô sản. Lúc nhắm mắt xuôi tay bác Chính trai cứ mơ về con trâu cái.
Miệng luôn lảm nhảm về con trâu cái mà không sao có được. Đói khổ, cơ cực con người làm
quần quâït mà chẳng nuôi nổi nhau vậy mà con trâu lại nuôi nổi con người ! Con trâu không chỉ
nuôi nổi môït con người mà là nuôi đủ cả một gia đình. Rồi cả gia đình ấy sẽ làm giàu từ một


con trâu cái ! “Rồi con trâu cái sẽ giúp bác kiếm ra tiền. Rồi mỗi năm bác sẽ tậu thêm được vài
sào. Rồi bác sẽ giàu có ! ” [83, tr. 21]. Thật khó mà trả lời được, trâu nuôi người hay người nuôi
trâu ? Cái bi và cái hài ở đây xen lẫn vào nhau tạo ra một tiếng nói tố cáo sâu sắc của Trần
Tiêu.
Trần Tiêu quan tâm đến số phận những người nông dân, ông đã dành khá nhiều trang viết
rất chân tình cho những người “nhỏ bé” bị lép vế nhất ở nông thôn. Viết Việc làng, Ngô Tất Tố
dùng ngòi bút phóng sự để kể về nỗi cơ cực của người nông dân sống ở nơi thôn ổ, mười bảy
chương sách là mười bảy câu chuyện về hủ tục ở thôn quê. Ở đây, Trần Tiêu không dùng lối
văn phóng sự mà dùng lối văn truyện ngắn và tiểu thuyết để nói về nỗi khổ của người dân quê.
Phản ánh nỗi khổ bằêng tiểu thuyết, truyện ngắn nhưng nó không mất đi phần thời sự. Tính thời
sự cứ hiện ra lộ rõ mồn một trên mỗi trang viết, trong tâm trí bạn đọc. Người đọc thấy người ấy,

cảnh ấy cứ hiện ra nhãn tiền. Ngòi bút nhà văn đi sâu vào cuôïc sống thê thảm, tối tăm của
người dân lao động. Tác phẩm Sau luỹ tre là câu chên kể về gia đình nhà lý Chính. Lúc chưa
mua lý thôn thì cả gia đình làm còn có bát ăn bát để, khi mua rồi thì hỡi ôi không còn miếng để
ăn. Trần Tiêu không nói tới cảnh cả gia đình nhà lý Chính dắt díu nhau đi ăn xin hay bỏ quê lên
tỉnh làm thuê như trong Viêïc làng của Ngô Tất Tố nói về gia đình nhà bác Luỹ. Kể từ ngày bác
Luỹ khao vọng cho chồng (ngày 15 tháng 8) lên chức lý cựu rất linh đình và “danh giá” thì năm
sau bà Cựu vội vàng đi lên tỉnh làm mướn. Ngô Tất Tố kết luâïn
“Năm sau nữa tôi gặp bà Cựu cắp nón đi ra cổng làng với một dáng điệu không vui.
- Chào ông ở nhà, cháu đi làm đây.
Và không đợi tôi hỏi, bà ấy vội vàng cắt nghóa :
- Cháu sang Hà Nội làm vú già ông ạ, có gần mẫu ruộng và nửa con trâu đã bán tất cả, lại
còn nợ thêm bảy mươi đồng nữa nếu không đi làm thì lấy gì mà đóng họ ?” [86, tr. 51].
Người đọc cũng sẽ hình dung ra cả gia đình bác Chính sẽ lụn bại nay mai và ôm lấy chức
lý cựu – một danh hão - rồi chết trong xó nhà tranh xiêu vẹo.
Phải chăng, người nông dân trong sáng tác của Trần Tiêu hám danh hão? Thực ra không
phải. Họ chỉ muốn an phận làm ăn nhưng vì phong tục của làng xã ép buộc, họ đành phải chấp
nhận. Trong xóm nếu không có danh phận thì thật là chua xót. Do vậy không có gì khó hiểu tại
sao họ lại bầu xã, bầu lý từ khi đứa trẻ chưa chào đời. Đây là lời tâm sự của bác xã Chính trong
tác phẩm Con trâu :


“Đó cũng là vạn bất đắc dó. Bác năm nay đã hơn bốn mươi tuổi đầu mà động có rước là bác
phải ra cầm tán hay khiêng kiệu với bọn mục đồng ; động có quan về là bác phải thân ra dọn
đường, rẫy cỏ dưới con mắt hỗn xược của một anh quản xã chỉ nhớn bằng chạc con bác. Động có
việc gì nặng nhọc là đến tay bác. Trăm nghìn sự thiệt thòi đổ dồn xuống đầu bác và đầu những kẻ
bạch đinh như bác.
Lại còn một nhẽ nữa : bác đi đến đâu cũng bị người ta chế riễu, khinh bỉ. Họ cho bác là keo
kiệt coi đồng tiền hơn phẩm giá. Bác động mở mồm là họ chặn họng “còn danh giá gì cái thằng
bạch đinh mà cũng ăn với nói !” cái khổ tâm của bác là thế, nên bác bắt buộc phải nhắm mắt,
vuốt bụng mà chạy cho xong cái xã nhưng. Thực ra bác có thiết gì nắm xôi miếng thịt trong làng !

” [83, tr. 41, 42].
Phong tục tập quán của người dân quê trong văn Trần Tiêu không chỉ là mua các chức dịch
trong làng xã mà còn là lòng tin mù quáng vào các thế lực thần linh. Khi gia đình làm ăn gặp
nhiều trắc trở, hàng xóm láng giềng đột nhiên có những bệnh tật xảy ra hay thời tiết diễn ra bất
bình thường các quan viên trong làng thường họp nhau lại và khu xử theo phong tục rất cổ hủ
như xem bói, cầu đảo : (Con trâu, Chồng con, Hữu sinh vô dưỡng, Ai phải, …). Lời thầy bói phán
thế nào thì trăm họ phải nghe như vậy. Thầy bói trong tác phẩm của Trần Tiêu đóng vai trò như
một nhà tiên tri mặc dù họ toàn nói dựa, nói liều nhưng ai cũng cho là linh nghiệm. Trong
truyện Con trâu, bác Chính gái đi xem bói và thầy bói phán rằng ; mộ cụ tam đại bị động phải
tạ, môï bố chồng phải chuyển sang nơi khác thì mới làm ăn phát đạt và sinh quý tử. Tin lời thầy
bói, xã Chính chọn ngày cẩn thận và tìm thầy địa lý giỏi về làm lại ngôi mộ cho bố. Bác đâu
biết nguyên nhân gia cảnh sa sút do hạn hán mất mùa liên tiếp cùng vay nợ nặng lãi của nhà
chánh Bá mà ra.
Ngày sang cát cho cụ thân sinh, bác thấy xương xám như tro. Bác ngao ngán thở dài. Thầy
địa lý an ủi “rồi được chỗ đất tốt hài cốt lại màu dần. Mà ngôi mộ tôi sắp để cho ông cụ nhà bác
mười phần chắc chắn là tốt cả mười” [83, tr. 282]. Câu nói đó đã làm “xã Chính hớn hở trong
lòng đầy hy vọng”, mỗi lần bác xếp những khúc xương vào trong tiểu sành lại lầm rầm khấn vái
“ lạy cụ, cụ có khôn thiêng, xin cụ phù hộ cho cả nhà được thịnh vượng, làm ăn được may mắn,
buôn bán được nhất bản vạn lợi…” [83, tr. 251]. Khi ngôi mộ được hoàn tất, đặt trên bụng của
một con cá sắp hoá long, thầy địa lý nói chỗ này sẽ phát to và sinh quý tử thì càng làm cho gia
đình bác hy vọng “hai bác mừng rỡ, vui sướng như tưởng tượng trước cảnh giàu sang mới phát”.


Trên đường về nhà, bác luôn nghó tới cảnh giàu sang sắp tới : “Suốt dọc đường từ mộ về nhà,
bác yên lặng đi, mắt mơ mộng một cảnh giàu sang, cảnh ấy theo ý thiển cận của bác, là một con
trâu cái béo mập cùng con nghé đương tơ thảnh thơi trên đường cỏ, là những ruộng lúa xanh non
hay vàng hoe bông thóc, là một nếp nhà tranh sạch sẽ, kín đáo với rặng cau tươi tốt đằng trước,
khu vườn đầy chè đằng sau, với ba bốn con lợn lành mạnh tranh nhau thọc mõm trong chiếc ang
sành đầy cám” [83, tr. 260]. Nhưng sự thực, bác thuê ruộng khán Kiệu, lý Hảo đều bị chủ ruộng
lừa cho nên thuê một mẫu hai chỉ còn lại có tám sào. Cảnh nhà đã đói khổ nay lại càng đói khổ

hơn.
Ở trên ngắn Ai phải, Trần Tiêu kể lại câu chuyện cười ra nước mắt của vợ chồng xã
Khoản chuyên nghề cày thuê cuốc mướn sinh nhai. Gia đình anh có mảnh vườn và cái ao con
thả bèo. Anh tát ao lấy bùn đổ vườn trồng rau, chè xanh, ao thì thả cá. Nhưng thật trớ trêu nhà
xã Khoản lấy bùn ao mà nhà xã Cỏn lại sinh đau mắt hột từ chủ cho tới đầy tớ :
“Trong vòng có mươi hôm mà gần hết cả nhà cũng bị. Lạ thật ! chắc là động địa gì ở đâu
đây chứ khi nào lại gần hết cả nhà cùng đau mắt bao giờ ; chả còn cách nào hơn là đi xem bói.
Chỉ thầy bói mới tìm được nguyên do cái tai nạn này. Bác Xã gái nghó như vậy. Cứ gì bác. Ai mà
không nghó như vậy…” [85, tr. 19].
Xem bói ra ma, quét nhà ra rác. Câu thành ngữ đó đã đúng trong trường hợp này. Xã Cỏn
vội chạy sang điều đình nhưng không xong cuối cùng phải ra làng phân xử. Kết quả thật bi đát
“Khoản lâïp tức phải gánh bùn đổ xuống ao, đem giầu cau ra đình tạ tội và sửa lễ gà xôi tạ ông
thổ cai quản cánh đồng có ngôi mộ tam đại nhà xã Cỏn” [85, tr. 27]. Từ một việc tin lời nhảm
nhí “bác không coi lời thầy bói vào đâu à ? ” và lời kết luận của các cụ trong làng ; “ Khoản chỉ
còn biết cúi đầu vâng theo mệnh lệnh” [85, tr. 28], tình làng nghóa xóm không còn.
Nếu truy tìm về nguyên nhân của tất cả các vụ việc trên, chúng ta sẽ nhận thấy một điều
thật đơn giản. Nhận thức của họ có phần hạn chế. Đói, no đâu phải do số phận. Ốm đau đâu
phải do động long mạch. Theo suy luận của họ, tất cả là do bàn tay siêu hình làm ra, vì thế phải
cúng, phải xem bói. Thầy bói phán sao phải coi là đúng không được cưỡng lại.

1. 3. Nếp sinh hoạt
Sinh hoạt ở một vùng quê, nó mang tính tập quán, tâïp tục. Nó là nề nếp lâu dần thành thói
quen trong cách thức sinh hoạt hàng ngày. Nề nếp sinh hoạt này đã được nhà văn chiếm lónh và


thể hiện trong tác phẩm của mình bằng nghệ thuật sáng tạo. Chính từ góc độ này mà nền nếp
sinh hoạt trong tác phẩm nó giống nhưng đồng thời lại có phần khác với nền nếp sinh hoạt ngoài
cuộc sống. Cuộc sống chỉ là nền tảng cho nhà văn cảm nhận, chiếm lónh ; khi phản ánh vào
trong tác phẩm nó mang tính quan niệm của người sáng tác. Không có cuộc sống hẳn nhiên
không có tác phẩm văn chương, nhưng không phải mọi vấn đề trong tác phẩm văn chương đều

là cuộc sống. Cuộc sống trong tác phẩm vừa là nơi thể hiện tư tưởng nghệ thuật vừa là nơi bộc
lộ quan niệm thẩm mỹ của nhà văn.
Nền nếp sinh hoạt đã được nhà văn phát hiện và ghi nhận nó trong tác phẩm của mình
bằng sự thấu hiểu sâu sắc. Bữa ăn trong ngày mùa thật đạm bạc nhưng ấm tình người, tình làng
xóm. Bữa cơm dọn ra tuy chỉ là rau luộc, vừng rang, nồi cá kho và một nồi cơm gạo đỏ nhưng
“mọi người ngồi xếp hàng hai bên mâm, suốt dọc sân. Cơm đỏ xới ra bát, hơi thơm bốc lên nghi
ngút. Họ nhai trông rất ngon lành. Mỗi bát chỉ và độ ba, bốn miếng là hết” [83, tr. 24 - 25]. Bữa
ăn quây quần, ấm cúng và tràn đầy niềm thân thiện trong quan hệ giữa con người, chủ và tớ
không có sự phân chia. Người nông dân đâu mong gì nhiều ! Họ chỉ mong sao đời họ ngày có
hai bữa cơm đạm bạc, nhưng đó cũng là vấn đề khó khăn đối với họ. Trần Tiêu đã hiểu sâu sắc
đời sống và những ước mơ của người nông dân. Ước mơ ngày hai bữa ăn tưởng như nhỏ nhưng
không hề nhỏ. Đó là vấn đề thiết thực, thiết thân của biết bao con người nông dân sống trong
chế độ cũ. Cảnh sinh hoạt của một gia đình được tác giả đặt cho cái tên Một bữa cơm đầy đủ : cả
gia đình nhà xã Chính quây quần bên mâm cơm đạm bạc. Bữa ăn chẳng có gì chỉ bốn con cá
khô (Người hàng xóm cho) và nồi cơm nhỏ nhưng tất cả thành viên trong gia đình đều thể hiện
được tình thương yêu, nhường nhịn lẫn nhau “Bác chọn khúc cá ngon nhiều nạc gắp bỏ bát chồng
như chủ tiếp khách. Đến lượt sau, chồng biết ý gạt bát ra và nói :
- Bu nó ăn đi chứ ! Tôi chỉ thích ăn đầu cá !
Nói rồi bác gỡ lấy khúc đầu bỏ lên bát.
Ba người, vợ, chồng, con gái vừa ăn vừa để ý đến nồi cơm. Mỗi người trong thâm tâm cùng
muốn nhịn để nhường người khác. Nhưng lần này không ai phải đói” [83, tr. 180].
Mối quan hệ giữa con người với con người, tình làng nghóa xóm, quan hệ gia tộc v…v. Đời
sống thôn quê Bắc Bộ luôn thể hiện những quan hệ chằng chịt, có khi, đó là quan hệ gia tộc
nhưng cũng có khi chỉ là quan hệ hàng xóm láng giềng. Trần Tiêu đã trở thành một cây bút sắc
sảo trong việc tái hiện những mối quan hệ xóm làng này. Xã Vót (Chồng con) một người đàn bà


nhanh nhẹn, tháo vát luôn quan tâm và hy sinh việc nhà vì mọi người. Hễ nhà ai có việc cần
giúp là chị có thể bỏ công việc nhà mình đến giúp họ cả ngày không nghó ngợi. Cô Mít (Chồng
con) một lúc nuôi hai đứa trẻ mà không chút ái ngại. Gia đình bác Na (Một diệu kế ) nghèo đói

nhưng thấy nhà ông đồ đói hơn mình liền cắp rá gạo sang giúp đỡ. Nền nếp sinh hoạt này đã trở
thành nếp sống văn hoá của người dân quê không chỉ của người dân miền Bắc mà là nếp sinh
hoạt chung cho tất cả các vùng quê Việt Nam. Đó là quan niệm lá lành đùm lá rách, lá rách
đùm lá nát, chung lưng đấu cật để cùng nhau vượt khó khăn. Từ mối quan hệ rộng, nhà văn đã
đi sâu vào mối quan hệ gia đình, gia tộc thể hiện sự thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Điều đặc
biệt, mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu xưa nay thường xảy ra bất hoà, nó đã được dân gian ghi
nhận trong câu thành ngữ “mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng”. Nhưng ở đây, Trần Tiêu lại
miêu tả quan hệ mẹ chồng nàng dâu rất thân thiết, giống như mẹ đẻ con gái.
Trong hầu hết các tác phẩm của mình, Trần Tiêu đã đề cập đến mối quan hệ này, nó là
mối quan hệ rất đẹp. Đây là một quan niệm khác so với các nhà văn cùng thời. Nhất Linh, Khái
Hưng khi xây dựng quan hệ mẹ chồng nàng dâu thường là quan hệ đối đầu, thường xuyên xảy ra
xung khắc (Mai và mẹ Lộc trong Nửa chừng xuân ; Loan và mẹ Thân trong Đoạn tuyệt). Trần
Tiêu xây dựng quan hệ này lại khác, trong truyện Chồng con, đó là quan hệ tình cảm, hoà hợp,
mẹ chồng nàng dâu lo cho nhau. Mối quan hệ vốn dễ bất hoà trở thành mối quan hệ tình cảm
thân thiện.
Quan hệ anh chị em, vợ chồng cũng thể hiện được những quan hệ mới của Trần Tiêu. Sự
thương yêu đùm bọc của cái Hóm đối với những đứa em chứng tỏ cô là một người chị sớm
trưởng thành biết lo toan tính toán công việc nhà. Hoặc như một cử chỉ đẹp của xã Chính giúp
vợ trong những lúc kó khăn : vợ đi mua thóc xa, anh chạy ra tận đầu làng giúp vợ gánh thóc về
thể hiện sự chia sẻ công việc giữa những thành viên trong gia đình, mối quan hệ bình đẳng vợ –
chồng đã được nhận thức đúng đắn. Quan niệm về người vợ và người chồng đã thực sự trở thành
một quan niệm tiến bộ của Trần Tiêu trong giai đoạn mới. Nhà văn không miêu tả mối quan hệ
bất hoà giữa mẹ chồng nàng dâu, hay nói rộng ra là quan hệ đại gia đình phong kiến như trong
sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng mà cứ nhẹ nhàng lồng trong văn mình những quan niệm mới
về gia đình, để từ đó chuyển đổi dần quan niệm lạc hậu.
Bên cạnh những nét đẹp của nếp sinh hoạt còn những điều cần phải lên án, phê phán để
người dân thấy mà sửa đổi. Trong sáng tác của mình, Trần Tiêu đã phê phán những nếp sinh


hoạt lạc hậu, phản tiến hoá. Ông mô tả người dân quê nghèo khổ, sống một cuộc đời thiếu thốn

mà luôn gắng tỏ ra đủ ăn, đủ mặc. Hay một vấn đề khác, đó là tổ chức sinh hoạt trong gia đình.
Không chỉ nhà nghèo mới luộm thuộm mà ngay cả nhà giàu cũng luộm thuộm không kém. Họ
sống mất vệ sinh và rất hủ lậu…. Tất cả thành thói quen. Trong tác phẩm Chồng con, nhà văn
miêu tả “cổng ra vào mở ngay ở đầu chuồng lợn. Ở khoảng đầu nhà trên và nhà bếp là một mẩu
đất vuông để đống rạ. Vì hết chỗ, và vì tiện lợi nữa, bốn năm cái nồi “chân” và một cái vại mẻ
đựng nước tiểu đặt thành “rẫy” dài từ cổng đến tận cái tường hoa […]. Người ra vào đã quen với
mùi nước tiểu và mùi phân lợn […]. Chả thế mà có người quá hà tiện, lúc đi đường cố nhịn để về
giải vào vại nhà” [84, tr. 11]. Cách sinh hoạt này đã trở thành nếp sống của người nông thôn vì
nó là thói quen, được mọi người chấp nhận. Khi ốm đau, họ thường nhờ vào cúng lễ hay các
lang băm. Bọn lang băm này thi nhau khoe tài, kèn cựa, và chê bai các bác só. Trong truyện
ngắn Lang thang, Trần Tiêu đã khắc hoạ hình ảnh những ông lang vườn thi nhau trổ tài trước
con bệnh : một bệnh nhân táo bón nhiều ngày đã bị ngộ độc, các lang băm thi nhau phán bệnh,
cho là thương hàn nhập lý và hết cách chữa nhưng nó lại được chữa khỏi bằng cách hết sức bình
thường, đó là “thụt tháo” của y học hiện đại. Còn đây là cách chữa bệnh lao của các lang băm.
Các thầy lang nói rằng các bác só thấy ho là phán vi trùng đục phổi “động ho là đốc tờ đổ tại
phổi bị vi trùng đục khoét. Rồi cứ nhè phổi mà chữa mãi. Kỳ thực căn nguyên nó có ở đấy đâu.
Thưa nó ở gan, ở thận ạ” [82, tr. 18]. Đến đây căn nguyên bêïnh đã rõ, các thầy lang thi nhau
tranh tài, người thì cho phải chữa “bổ gan, bổ thận tức bổ phổi, tức đờm sẽ hạ và ngày một bớt
dần” [82, tr. 18]. Các thầy lang chữa mãi không khỏi và con bệnh lăn ra chết, khi đó các thầy
cho là gia đình hết phúc “nhà bà có kém hồng phúc. Bà nên làm âm, tìm phúc cho nhiều và ngày
đêm cầu trời khấn phật thì hoạ chăng con cái bà mới thoát khỏi. Chứ hai vợ chồng con trùng này
tinh khôn quỷ quyệt lắm. Tôi nghó gì chúng nó đều biết cả. Ông nhà bà đã đến ngày tận số. Bà
nên chuẩn bị trước đi là vừa” [82, tr. 15]. Họ thi nhau bàn về hình dạng của trùng lao, kẻ cho nó
giống như con dán đất, kẻ cho nó giống như con thạch sùng. Đó là cách chữa bệnh của các lang
băm, còn anh chữa bệnh theo Tây học thì quanh đi quẩn lại chỉ có cái “bốc” và môn thụt tháo….
Trần Tiêu đã vạch rõ những yếu kém trong ý thức của người dân, đặc biệt là về vệ sinh, phòng
bệnh. Chính vì những hạn chế trong hiểu biết nên người dân hay chữa bệnh bằng cách cúng
khấn. Còn các thầy lang do hạn chế trong hiểu biết về y thuật nên khi hành nghề bệnh nhân



chết thì đổ cho hết phúc. Qua đây ông muốn phê phán cả hai đối tượng : người nông dân và
người thầy thuốc. Đặc biệt là những người thầy thuốc không có lương tâm nghề nghiệp.

1. 4. Bức tranh lễ hội
Làng quê Bắc Bộ với nhiều lễ hội trong năm : lễ hội lớn tập trung vào ba tháng (Giêng,
Hai, Ba) và nhiều lễ hội nhỏ được rải đều trong năm. Chính những lễ hội đó đã làm nền cho
những sáng tác của Trần Tiêu. Trong nhóm Tự lực văn đoàn khi viết về đời sống nông thôn
không ai viết như Trần Tiêu. Ông có cách diễn tả khác. Đặc biệt viết về lễ hội vùng thôn quê
Bắc bộ thì Trần Tiêu thể hiện rất đa chiều và giàu chất hiện thực. Trong bức tranh này, ông
truyền tải hai măït của lễ hội : phần Lễ và phần Hội, phần tích cực và phần tiêu cực. Trong sinh
hoạt văn hoá dân gian thì Lễ – Hội bao gồm hai thành phần : Lễ là những quy tắc, lề lối mà
trong các hoạt động văn hoá dân gian phải tuân thủ. Đi trái với Lễ là phạm vào quy tắc, hành sử
thiếu văn hoá, văn minh. Hội là phần hợp thành của Lễ thường diễn ra sau Lễ và trước Lễ
nhằm mục đích khuấy động phong trào, tăng thêm vẻ vui nhộn của Lễ. Hội thông thường không
theo quy tắc do Lễ đặt ra nhưng Lễ nào thì hội ấy. Mối quan hệ Lễ và Hội là hai mặt của một
vấn đề. Muốn khẳng định được Lễ Hội này đúng với truyền thống văn hoá hay không cần phải
quan tâm tới tiến trình tổ chức. Như vậy, muốn khẳng định mặt tích cực hay chỉ ra những tiêu
cực của Lễ Hội trong sáng tác của Trần Tiêu, chúng ta cần quan tâm tới quá trình hành Lễ và
hành Hội. Đồng thời cũng cần quan tâm tới đối tượng điều hành của Lễ Hội.
Lễ Hội đối với người Việt Nam nói chung và nhân dân miền Bắc nói riêng là một trong
những điều không thể thiếu trong nếp sinh hoạt của con người. Nó mang lại thư thái trong tâm
hồn, ôn lại truyền thống của dân tộc, cho thế hệ mai sau. Đó là cách giữ lại những gì quý giá
của dân tộc. Với Trần Tiêu, Lễ Hội bao gồm hai vấn đề : mặt tích cực và mặt tiêu cực. Trong
những trang viết về Lễ Hội, Trần Tiêu tỏ ra là một cây bút tài hoa trong việc mô tả cảnh hội hè
đình đám của làng xã. Từ cách bố trí không gian đến những con người hành lễ đều được tác giả
mô tả chính xác và tỷ mỷ với tư cách một cây bút già dặn và am hiểu phong tục thôn quê.
Hoàng Như Mai đã đánh giá “Trần Tiêu đã dẫn độc giả đến chứng kiến những nét sinh hoạt
thường ngày và lễ hội ở nông thôn, […]. Sự hiểu biết thấu đáo và bút pháp tinh tế của nhà văn
cống hiến khá nhiều chương folklore đặc sắc, thú vị cho người đọc” [84, tr.3]. Tác phẩm Con
trâu, Chồng con là hai tác phẩm thể hiện sâu sắc những không gian Lễ Hội. Trong Con trâu,



nhà văn đã khắc hoạ hàng loạt không gian lễ hội như : Cỗ mừng thôn, Hội quan lão, Đình đám,
Từ việc nhà đến việc làng, …. Dưới bút pháp của Trần Tiêu, ngày hội đã bị biến chất. Nó không
phải là ngày hội mà là những gì làm cho người dân phải chịu thêm cơ cực. Đây là một đoạn
trong Hội quan lão:
“Mỗi khi chước tửu, phường trống nghỉ, phường bát âm nổi lên. Bốn chị ả đào nhà quê ở hai
bên giải võ, đi lại múa nhạc sau lưng cụ Tuần. Mặt chị nào chị ấy thưỡn ra như cán tàn. Hai cánh
tay giơ ra ngang phè, bàn tay xoè đủ năm ngón như tay ếch. Thân cứng đờ xoay đi xoay lại một
chỗ như chiếc trục.
Ấy thế mà thiếu các chị buổi tế sẽ mất vẻ long trọng. Và phần nhiều kẻ đi xem đều chú mục
vào các chị hơn các cụ. Họ nhìn các cụ mãi cũng đâm chán, nếu không có bọn “nhà tơ” đến làm
vui mắt họ” [83, tr. 92]. Chúng ta thấy, cái nhìn của nhà văn không phải là người thảnh thơi đi
ngắm cảnh giải trí mà là người đứng ngoài khung cảnh để nhận định đánh giá vấn đề một cách
chính xác. Ông đã nhìn cụ Tuần và quan viên có phần hài hước. Buổi tế đáng lẽ phải long trọng
đằng này đã bị tiếng cười trào lộng làm mất vẻ linh thiêng. Trong cái nhìn của Trần Tiêu, bọn
hòa mục chỉ toàn những kẻ ăn chơi trác táng, chìm ngập trong những hủ tục nay hội mai lễ bịa
ra để bóc lột dân quê. Chúng duy trì những thứ vốn rất thanh cao này để vơ vét tiền của trong
làng xã. Ở ngoài đình vì dòng họ mà chúng kèn cựa lẫn nhau, cạnh khoé, dèm pha lẫn nhau (Ai
phải). Những buổi họp làng kèm theo ăn uống diễn ra thường xuyên. Trong khi đó hạn hán
không ai lo. Chúng lại bày ra những trò cờ bạc, thuốc phiện, cô đầu, …. Cuộc đời cứ thế trôi đi
như một dòng nước phẳng lăïng không một gợn sóng, lớp già qua đi lớp trẻ thay thế chẳng có gì
chuyển đổi tư tưởng. Nhà văn nhìn bọn trẻ con xô đẩy nhau nhặt những quả pháo rơi, cùng nhau
xếp những cái đình bằng đất, ông đã khôi hài hình dung ra “sau này chúng lớn lên sẽ nhường
đình cho con để nhập bọn với các cụ” [83, tr. 93]. Trong đoạn Cỗ mừng thôn và Đình đám, mới
đọc, chúng ta cảm thấy rất trịnh trọng nhưng chính trong cái trịnh trọng ấy lại chứa đựng những
cái khôi hài. Những con người được giao chức trách cao trong làng xã bề ngoài mũ cao áo dài,
uy nghi : “ông đi lại suốt dọc đình, sai bảo truyền lệnh, thét oang oang” [83, tr. 97] nhưng cái uy
nghi bề ngoài này chẳng tồn tại được lâu, chỉ trong chốc lát “hàng cán, xã nhao nhao, hỗn độn
như đám bạc bị bắt”, quan viên trở thành một mớ hỗn độn, người hỏi người trả lời “ồn ào như

một phiên chợ”, cỗ bàn đem lên các ông ăn uống no say kể hết chuyện làng đến chuyện nhà,
cuối cùng chỉ khổ các bà cựu làm lụng vất vả để lấy tiền cung phụng các ông. Vậy là, quan viên


×