Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Biểu tượng nghệ thuật trong tiểu thuyết âm thanh và cuồng nộ của william faulkner

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.34 KB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Tấn Nguyên

BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG
TIỂUTHUYẾT “ÂM THANH VÀ CUỒNG NỘ”
CỦA WILLIAM FAULKNER

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Tấn Nguyên

BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG
TIỂUTHUYẾT “ÂM THANH VÀ CUỒNG NỘ”
CỦA WILLIAM FAULKNER
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số: 60 22 30 45

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. Đào Ngọc Chương

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa từng được cơng bố trong bất kì cơng trình
nào khác.

Học viên

Nguyễn Tấn Nguyên

1


LỜI CẢM ƠN
Luận văn hồn thành là q trình cố gắng của bản thân nên dù kết quả có ra sao thì
tơi cũng đã nỗ lực hết mình. Qua đây, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến:
PGS.TS Đào Ngọc Chương- người đã hướng dẫn tôi rất tận tình.
Phịng Sau Đại học, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn cùng Ban quản lý Thư viện
trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, các thầy cơ đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi để tơi hồn thành luận văn Thạc sĩ.
Thầy cô, bạn bè – những người luôn giúp đỡ, động viên tôi.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình vì đã hỗ trợ tơi mọi mặt.

Học viên

Nguyễn Tấn Nguyên

2



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 5
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................................. 5
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 6
3. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................. 6
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 13
5. Mục đích nghiên cứu .................................................................................................... 14
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................................. 14
7. Cấu trúc luận văn ......................................................................................................... 14

CHƯƠNG 1: BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT VÀ NHỮNG LÍ THUYẾT LIÊN
QUAN ......................................................................................................................... 16
1.1. Biểu tượng .................................................................................................................. 16
1.2. Biểu tượng nghệ thuật ............................................................................................... 21
1.3. Những lí thuyết liên quan đến Biểu tượng nghệ thuật ........................................... 25
1.3.1. Biểu tượng nghệ thuật với kí hiệu học ..................................................................25
1.3.2. Biểu tượng nghệ thuật với phân tâm học ..............................................................27
1.3.3. Biểu tượng nghệ thuật với huyền thoại học ..........................................................29

CHƯƠNG 2: HỆ BIỂU TƯỢNG ÂM THANH TRONG “ÂM THANH VÀ
CUỒNG NỘ” ............................................................................................................. 34
2.1. William Faulkner với “Âm thanh và cuồng nộ” ..................................................... 34
2.1.1. William Faulkner (1897-1962)..............................................................................34
2.1.2. Về tiểu thuyết “Âm thanh và cuồng nộ” ...............................................................35
2.2. Thanh âm của nhân vật ............................................................................................ 36
2.2.1. Thanh âm của Benjy..............................................................................................36

2.2.2. Thanh âm của Quentin ..........................................................................................43
2.2.3. Âm thanh của Jason...............................................................................................51
2.2.4. Tiếng hát Dilsey ....................................................................................................54

CHƯƠNG 3: HỆ BIỂU TƯỢNG VẬT THỂ KHÔNG - THỜI GIAN TRONG
“ÂM THANH VÀ CUỒNG NỘ” ............................................................................. 61
3.1. Biểu tượng thời gian .................................................................................................. 61
3.1.1. Đồng hồ - cảm thức lưu đày ..................................................................................62
3


3.1.2. Chiếc chuông- nhịp đập cuộc sống .......................................................................71
3.2. Biểu tượng không gian .............................................................................................. 73
3.2.1. Hàng rào và sự cách ngăn cuộc sống ...................................................................74
3.2.2. Đồng cỏ - ước muốn trở về tự nhiên .....................................................................76
3.2.3. Cửa sổ - hành trình vượt thốt cô đơn ...................................................................79
3.2.4. Ngọn cây - khát vọng truy tầm ..............................................................................82

CHƯƠNG 4: HỆ BIỂU TƯỢNG TÂM LINH TRONG “ÂM THANH VÀ
CUỒNG NỘ” ............................................................................................................. 85
4.1. Lửa như là bản nguyên của vũ trụ ........................................................................... 85
4.2. Nước - sự gột rửa nỗi đau.......................................................................................... 90
4.3. Hoa - nhịp thở lụi tàn ................................................................................................ 95
4.4. Bóng - những ảnh hình của cái chết ......................................................................... 97

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 107

4



MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Văn học Mỹ là một nền văn học lớn trên thế giới, trong đó William Faulkner cùng
với Ernest Hemingway là hai đại diện tiêu biểu của văn học Mỹ thế kỉ XX. Nếu ở Việt
Nam, tác phẩm của Hemingway được các nhà nghiên cứu nghiên cứu với nhiều cơng trình
khác nhau thì ngược lại sáng tác của Faulkner lại chưa được giới nghiên cứu tìm hiểu thật kĩ
lưỡng và chi tiết. Faulkner là nhà văn ln có ý thức đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật. Tác
phẩm của ông khá kén người đọc, luôn đòi hỏi người đọc phải làm việc thật nghiêm túc mới
có thể tìm thấy được những cái đẹp ẩn dưới các trang văn của ông.
Cuốn tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ (The Sound anh the Fury) là tiểu thuyết
được viết thứ tư trong số 20 cuốn tiểu thuyết của Faulkner. Nó được nhiều người đọc đánh
giá là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất của thế kỉ XX. Âm thanh và cuồng nộ lúc
mới ra đời chưa được hoanh nghênh, nhưng nó đã khẳng định tài năng tiểu thuyết của
Faulkner, để rồi qua sự gạn lọc của thời gian, giá trị của nó càng được khẳng định. Và đồng
thời, theo thời gian tác phẩm này luôn mời gọi và thách đố các nhà nghiên cứu bởi sự trộn
lẫn tinh tế và tài hoa của nhiều thủ pháp nghệ thuật, đặc biệt biểu tượng nghệ thuật với tư
tưởng nghệ thuật của Faulkner.
Faulkner là nhà văn sống và gắn bó máu thịt với mảnh đất miền Nam nước Mĩ, mỗi
tác phẩm của ơng ln chứa những yếu tố văn hóa sâu sắc, lâu đời của vùng đất này. Xuất
phát từ những lí do đó, chúng tơi tìm hiểu tác phẩm Âm thanh và cuồng nộ dưới góc nhìn
biểu tượng nghệ thuật.
Có thể khẳng định, cùng với hướng nghiên cứu văn học theo thi pháp học và huyền
thoại học thì tiếp cận văn học dưới ánh sáng của biểu tượng nghệ thuật là một hướng nghiên
cứu văn học đầy triển vọng. Hướng tiếp cận này có khả năng chỉ ra được những nét riêng
độc đáo trong tác phẩm văn học. Đồng thời đi theo hướng nghiên cứu này chúng ta có thể
nhận rõ hơn đặc thù của văn học trong mối tương quan, đối sánh với các ngành khoa học xã
hội và nhân văn khác đặc biệt là văn hóa học, tâm lí học,... để người nghiên cứu tiếp nhận
tiệm cận với chân lí văn chương.

Từ những lí do trên, chúng tôi tiến hành đề tài “Biểu tượng nghệ thuật trong Âm
thanh và cuồng nộ của William Faulkner” để từ đó thấy được phong cách sáng tác của ông
và tư tưởng nhân văn mà người nghệ sĩ này gửi gắm cho hậu thế.

5


2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng mà luận văn chúng tôi tiến hành nghiên cứu là biểu tượng nghệ thuật trong
Âm thanh và cuồng nộ, do đó chúng tơi sẽ tìm hiểu những biểu tượng nghệ thuật có trong
tác phẩm này và phân loại, sắp xếp chúng thành một hệ thống, từ đó làm chỉ ra cái hay và
cái đẹp trong sáng tác của Faulkner.
Phạm vi nghiên cứu chúng tôi tiến hành là tác phẩm Âm thanh và cuồng nộ do dịch
giả Phan Đan và Phan Linh Đan dịch (Nxb Văn học, 2008). Trong quá trình nghiên cứu
chúng tôi sẽ đối sánh với những tác phẩm khác của Faulkner để có một cái nhìn sâu sắc hơn
về biểu tượng nghệ thuật trong tiểu thuyết này.

3. Lịch sử vấn đề
Khi tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ ra đời (1929) , tác phẩm đã thu hút được rất
nhiều sự quan tâm và nghiên cứu của người tiếp nhận trên thế giới. Trong khi ở Việt Nam,
việc nghiên cứu về Faulkner và sáng tác của ơng cũng ít nhiều được các học giả chú ý:
Trước 1975, ở miền Nam chuyên luận “William Faulkner cuộc đời và tác phẩm” do
Doãn Quốc Sỹ và Nguyễn Văn Nha viết là cuốn sách có giá trí nhất lúc đó trong việc nhìn
nhận và thẩm định tài năng nghệ thuật của Faulkner. Các nhà nghiên cứu đã thấy ở nhà văn,
“lối trưng bày quan điểm và kỹ thuật gợi cảm lương tri, ngay cả kỹ thuật vừa phân tích
ngun do, vừa mơ tả hành động của các nhân vật trong truyện cũng nhiều khi làm cho các
đoạn văn tối nghĩa, khiến người đọc lúng túng, kém hấp dẫn”[43, 27-28]. Họ tìm hiểu sáng
tác của ông thông qua tiếp cận thế giới nhân vật, đề tài cũng như các kĩ thuật độc thoại nội
tâm, dòng ý thức, cách dùng từ,... nhưng tác giả chưa chú ý đến biểu tượng nghệ thuật có
trong tiểu thuyết: “Kỹ thuật gợi tả của Faulkner qua lối độc thoại thay đổi tùy theo hoàn

cảnh và tùy theo nhân vật. Với Benjy thì câu viết ngắn, đứt quãng, dồn dập, tạo ra cái hiện
thực mãnh liệt của những tia chớp đột lóe trong đêm tối. Lời độc thoại nội tâm của chàng
Quentin thì rườm rà chải chuốt theo lối văn lãng mạn. Đến Jason thì câu ngắn gọn gàng,
mạch lạc, phản ánh đúng cái tâm trạng suy luận, tính tốn của chàng này. Giọng văn ở
phần cuối lập lại bút pháp đã sử dụng ở ba phần trên tùy theo tâm tính của từng nhân vật
xuất hiện”[43, 55]. Cùng thời gian này, Bùi Giáng cũng đã viết một chuyên luận bàn về tiểu
thuyết của Faulkner, “Martin Heiderger và tư tưởng hiện đại” trong đó ơng đánh giá tiểu
thuyết Âm thanh và cuồng nộ: “Đó là một bầu khơng khí u ám cuồng loạn, le lói những tia
sáng âm u bi đát… chập chờn bóng ma định mệnh về lè lưỡi giăng lưới phủ ngập cuộc đời,
6


trùm lên cõi thế một ngày tang tóc ảo não ác liệt, trong đó lố nhố những bóng người, đàn
ơng có đàn bà có, trẻ con có, gái trai già trẻ có, khơng thiếu mặt người nào và thảy thảy đều
điên loạn như những con múa rối mù quay cuồng theo Định Mệnh thuần túy trong điên tiết,
trong nhiệt tình man rợ, lao đầu vào cái chết để hình hài tan vỡ như xác pháo mà chơi…cho
đê mê đi vì sống làm sao nổi với những cái đa đoan hệ lụy chằng chịt cởi gỡ khơng ra
vướng vít quanh mình ám hại thể phách tinh anh bì bõm thịt xương da máu với chết chóc
với cưỡng dâm, với gia hình khốc hại, tự vẫn tơi bời giữa hãi hùng điên đảo gió mưa sa
ngàn năm”[20, 209]. Và ơng nhìn thấy đặc điểm thời gian trong tác phẩm , “chính khi kể
một giai đoạn ông cũng đảo lộn lung tung. Thời gian chảy ngập tràn lan trong một phút,
một phút loạn cuồng mê tơi vấn vít mịt mờ bóng sương xen đủ cả hiện tại, quá khứ, tương
lai..cái không gian điên đảo của Faulkner đã chạy lung tung khắp nẻo đường năm tháng lạc
lõng, bơ vơ, khác với không gian mù mịt”[20, 350]. Và rõ ràng thi sĩ họ Bùi đã có những
cảm nhận độc đáo khi đánh giá văn phong của Faulkner, nhưng chính lối phê bình ấn tượng
của ơng khiến những luận điểm của ơng khó được nhận ra.
Ở miền Bắc, viện sĩ Hồng Trinh có lẽ là người tiếp cận Faulkner sớm nhất. Trong
chuyên luận, “Phương tây, văn học và con người” nhà nghiên cứu xem Faulkner là, “một
trong những nhà văn đầu đàn đã mở đầu cho kỉ nguyên mới của tiểu thuyết hiện đại phương
Tây”[50, 293]. Hồng Trinh đặt Faulkner vào dịng chảy của văn học hiện đại và thấy ở ông

cùng với các nhà văn hiện đại khác là Kafka và James Joyce, “là những nhà văn đã dám
làm một cuộc ‘dấy loạn’ trong văn học hiện đại. Họ đã dám cắt đứt được các thứ ảo tưởng,
với tinh thần lạc quan ngây thơ và dễ dãi, với thói tự dối mình. Họ đã dũng cảm đi vào
những bí ẩn của cuộc sống, của “vấn đề con người”, của sinh tồn đích thực. Tiểu thuyết
của họ đã chọc thủng được những bức tường kiên cố bấy lâu nay bọc kín lấy thân phận con
người, khơng cho con người tìm thấy lại đúng bản thân mình”[50, 13]. Nhà nghiên cứu đã
nhận diện được chủ đề trong sáng tác của Faulkner là vấn đề thân phận của con người trong
xã hội tư sản: “Faulkner muốn chứng minh đời người trong thế giới tư bản chủ nghĩa chẳng
qua chỉ là một trò hề, một câu chuyện do một thằng ngốc kể lại, cũng đủ cả hò hét phẫn nộ
nhưng nào có ích gì đâu”[50, 43]. Thực ra thân phận con người mà Faulkner muốn viết
không chỉ là con người trong xã hội tư sản mà là con người nhân loại, “khi nhà văn viết về
con người tức là anh ta viết về những ước vọng, những gian khổ, những nỗi lo âu, lòng can
đảm và sự hèn nhát, những cái nhỏ nhen và những cái cao đẹp trong tâm hồn họ”[24, 357].

7


Ở chuyên luận này biểu tượng nghệ thuật trong Âm thanh và cuồng nộ cũng chưa được
viện sĩ Hoàng Trinh quan tâm.
Sau Hoàng Trinh, Lê Huy Bắc là nhà nghiên cứu đã có những tiếp cận Faulkner khi
dịch lại những đoạn phỏng vấn của phóng viên về Faulkner in trong tập “Phê Bình- lí luận
văn học Anh Mỹ”. Những mẫu đối thoại ấy đã gợi ý cho chúng tôi tiếp cận biểu tượng nghệ
thuật trong Âm thanh và cuồng nộ. Trong một đoạn phỏng vấn của chuyên luận này,
Faulkner nói, “tơi muốn rằng tác giả khơng dự tính trước nhưng tơi nghĩ, sống trong cùng
một mơi trường văn hóa, nền tảng tri thức của nhà phê bình và của nhà văn là giống nhau
đến nỗi mỗi phần lịch sử của mỗi người là hạt giống mà có thể được chuyển thành hình ảnh
tượng trưng và được xác định tiêu chuẩn trong nền văn hóa đó”[6, 165]. Biểu tượng nghệ
thuật tồn tại trong tâm thức sáng tạo của mỗi nhà nghệ sĩ và nhiệm vụ của nhà nghiên cứu là
nhận thấy nó bằng ánh sáng của tư duy khoa học. Ngồi ra trong cuốn “Lịch sử văn chương
Hoa Kỳ” Lê Huy Bắc đã nhận định về tiểu thuyết của William Faulkner: “Tiểu thuyết và

truyện ngắn của Faulkner tạo nên một diện mạo độc đáo và qui tụ rất nhiều nhà cách tân
văn xuôi trong nhiều thập kỉ tiếp theo. Faulkner nổi tiếng khi viết về những điều băng hoại
đang thối rữa với niềm đau ẩn sâu sau lối trần thuật đạt đến mức độ khái qt hóa cao.
Tồn bộ sự nghiệp sáng tác của Faulkner là đi tìm chân lí phổ quát cho sự tồn tại của con
người”[8, 629]. Những nhận định ấy rất có giá trị đối với việc nghiên cứu Faulkner khi đã
chỉ ra được nét chủ đạo trong cảm hứng tư tưởng ở người nghệ sĩ là “sự tồn tại của con
người”. Dẫu vậy tác giả vẫn chỉ dừng lại ở sự định giá về nghệ thuật văn chương của
Faulkner chứ chưa đi vào khảo sát những biểu tượng nghệ thuật trong Âm thanh và cuồng
nộ.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Đàn khi nghiên cứu về Faulkner trong “Hành trình văn
học Mỹ” đã đi vào khám phá nét độc đáo làm nên phong cách của nhà văn, “văn phong của
Faulkner khá độc đáo, nó tồn gồm những câu dở dang, theo kiểu ngơn ngữ điện tín, tuy
nhiên từ ngữ của tác giả rất phong phú và có những đoạn thu ngắn gây ấn tượng sâu sắc,
nhiều trang viết rất tối nghĩa vì hình thức q cơ đọng. Faulkner vốn ở miền Nam, trong
cách miêu tả các khung cảnh làm nền, ơng tỏ ra có hiểu biết sâu sắc về cảnh quan, phong
tục và tính cánh”[14, 259]. Ở đây nhà nghiên cứu không chỉ thấy nét đặc sắc của bút pháp
Faulkner từ phương diện ngôn từ mà đã bước đầu chú ý đến yếu tố văn hóa và đặc biệt là
những biểu tượng nghệ thuật: “Sáng tác của ơng có ý nghĩa biểu tượng, nhưng muốn tìm
hiểu các biểu tượng ấy cần phải có một cái nhìn tồn thể. Lúc bấy giờ các truyện ngắn và
8


tiểu thuyết của ông mới rõ nghĩa”[14, 264]. Dẫu nhà nghiên cứu khơng phân tích một tác
phẩm nào của Faulkner theo hướng biểu tượng học nhưng cuốn sách đã cho chúng tôi
những gợi dẫn để tiếp cận tác phẩm theo hướng này.
Tìm hiểu Âm thanh và cuồng nộ trên trang yume.vn có một bài viết rất lí thú liên
quan đến biểu tượng nghệ thuật trong tác phẩm trên. Người viết tiếp cận tác phẩm Âm
thanh và cuồng nộ trên bốn phương diện chính là kết cấu, cốt truyện, nhân vật, khơng gian,
thời gian. Ở đây tác giả đã có ý thức vận dụng biểu tượng nghệ thuật nhằm khám phá nét
độc đáo và hấp dẫn của thể loại tiểu thuyêt Gotich miền Nam nước Mỹ, các biểu tượng

“Cửa sổ”, “Đồng hồ”, đã được người viết đề cập như một gợi mở cho chúng tôi đi tiến hành
làm đề tài biểu tượng nghệ thuật trong Âm thanh và cuồng nộ của William Faulkner
Nghiên cứu về Faulkner cịn có khá nhiều cơng trình luận văn thạc sĩ có giá trị nhưng
chúng tơi chưa thấy luận án tiến sĩ nào viết về ông ở Việt Nam.
Các cơng trình luận văn thạc sĩ chúng tơi tìm được là luận văn thạc sĩ , “Âm thanh
và cuồng nộ của Wiliam Faulkner dưới góc nhìn phân tâm học” của học viên Đặng Thị
Nhã, trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn năm 2011 do PGS.TS Đào Ngọc Chương
hướng dẫn. Trong luận văn này, người viết đã tiếp cận tiểu thuyết trên dưới ánh sáng của
phân tâm học. Sau khi giới thuyết thuật ngữ phân tâm học ở chương một với ba khái niệm
trung tâm là vô thức, dục năng và giấc mơ, tác giả đã chỉ ra dấu ấn của phân tâm học trong
tiểu thuyết này: “Sự phân chia thành bốn chương như trên trong tác phẩm Âm thanh và
cuồng nộ, nếu nhìn dưới góc nhìn phân tâm học, nó giống với trình tự ba cấp độ tự ngã
(chương 10), bản ngã (chương 2) và siêu bản ngã (chương ba) trong cấu trúc tâm thần của
Freud và cuối cùng chính là con người tác giả”[34, 39]. Chúng tôi tập trung chú ý vào
chương hai của luận văn, trong chương này, ở phần 2.1.3, người viết đã nghiên cứu hệ thống
biểu tượng về chủ đề mất mát, “trong tác phẩm Âm thanh và cuồng nộ, chúng tôi thấy
xuất hiện hai loại biểu tượng: Biểu tượng gốc và biểu tượng phái sinh. Với những biểu
tượng gốc có liên quan đến cổ mẫu như: Nước, lửa, bùn,(đất) chúng tơi sẽ từ nghĩa gốc đi
tìm nét nghĩa mới mà Faulkner đã bồi đắp cho. Với những biểu tượng phái sinh là những
sản phẩm của cá nhân như: lá, hoa, chiếc dép, đồng hồ,..Chúng tôi giải mã nguyên nhân mà
biểu tượng đó hình thành”[34, 63]. Tác giả đã chỉ ra được một số biểu tượng gốc và biểu
tượng phái sinh xuất hiện trong văn bản này và cố lí giải nó gắn với chủ đề mất mát mà
Faulkner đã cố xây dựng. Có thể nói, luận văn đã thấy được dụng ý xây dựng biểu tượng
của nhà văn đồng thời xây dựng được một hệ thống chủ đề xoay quanh các biểu tượng.
9


Nhưng tác giả vẫn chưa đi nghiên cứu sâu đặc điểm của các biểu tượng gắn bó mật thiết và
trực tiếp với mỗi nhân vật. Cho nên tác giả kết luận: “Những biểu tượng này vẫn mãi là
những ẩn số khơi gợi sự tò mò muốn khám phá với những ai đã một lần chạm tay vào

nó”[34, 79]. Dẫu vậy, luận văn đã gợi ra cho chúng tôi một cái nhìn mới khi tiếp cận tiểu
thuyết Âm thanh và cuồng nộ.
Luận văn thạc sĩ của học viên Tạ Như Oanh với đề tài “Nhân vật Caddy trong Âm
thanh và cuồng nộ của William Faulkner” do PGS.TS Đặng Anh Đào hướng dẫn. Luận
văn của Tạ Như Oanh khi tiếp cận hình tượng nhân vật Caddy trên ba phương diện điểm
nhìn của người kể chuyện, cái nhìn thực ảo và tính Mẫu của nhân vật Caddy. Luận văn
cũng đã chú ý đến vấn đề biểu tượng ở trong chương 2: Thực và ảo trong nhân vật Caddy,
phần 2.2. Tính biểu tượng: Caddy được biểu hiện qua những hình ảnh gián tiếp. Tác giả
luận văn cho rằng, “trong tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ, nhân vật Caddy là nhân vật
trung tâm của toàn bộ tác phẩm đã được xây dựng bởi rất nhiều biểu tượng đặc biệt, giúp
gắn kết các sự kiện rời rạc trong tác phẩm. Những hình ảnh được nhắc đến nhiều trong tác
phẩm là cây, mùi hương, ngọn lửa, đồng hồ, nước, cây cầu… Trong đó loạt hình ảnh mang
tính biểu tượng về nhân vật Caddy được phác họa nhiều đó là ngọn lửa và cây”[40, 23].
Luận văn chỉ ra biểu tượng Lửa và biểu tượng Cây đã góp phần tạo nên sự độc đáo trong
cách thức xây dựng hình tượng Caddy. Dẫu chưa có một sự phân tích biểu tượng nghệ thuật
theo hướng hệ thống nhưng luận văn này cũng cho chúng tôi ý tưởng để tiến hành đề tài.
Các cơng trình nghiên cứu về Faulkner trên thế giới được chúng tơi tìm hiểu sẽ xoay
quanh những biểu tượng nghệ thuật tồn tại trong tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ bởi số
lượng cơng trình nghiên cứu về Faulkner ở Mĩ quốc và các nước khác là rất lớn. Chúng tơi
thấy có cơng trình “The Cambridge companion to the William Faulner” được viết bởi
Phillip M.Weinstein. Trong đó, tác giả đã cho nhấn mạnh tài năng của Faulkner, đặc biệt là
cảm hứng tư tưởng khi so sánh ông với Kafka, “xa hơn thế nữa, Faulkner và Kafka là hai
nhà văn mà tư tưởng của họ còn lớn hơn văn chương của họ”[56, 94]. Đồng thời khi đi vào
văn bản, người viết đã đánh giá: “Với Âm thanh và cuồng nộ, Faulkner đã khước từ lối
nhận diện dễ dàng với các chủng tộc khác ông và bắt đầu đến với vị trí thực trạng chủ đề
người da trắng trong nền chính trị và văn hóa của chủ nghĩa dân tộc miền Nam”[56, 135].
Và người viết thấy hình tượng của bốn đứa trẻ nhà Compson: “Chị gái của họ, Caddy
không sản sinh, khơng thể có tài khoản khi tất cả sự thay đổi và chuyển biến của nàng đều
gắn với mất mát ‘những nhành cây lấp lánh’ của tuổi trẻ trong một dòng lũ nhám của cuộc
10



sống trong nó. Trái ngược lại là Benjy, là người ‘ không bao giờ phải phát triển lúc này’
của mất mát và bất hạnh, Quentin và Jason là đại diện khác cho chế độ đã bị sụp đổ trong
sự đau buồn của họ”[56, 140]. Có thể nói cuốn sách đã cung cấp cho chúng tôi những hiểu
biết sơ bộ để đi vào khám phá những biểu tượng trong tiểu thuyết này.
Ngoài ra trong bài viết “Reflections of the 1920s in The Sound and the Fury” được
viết bởi Nancy D. Hargrove. Chúng tơi cũng tìm thấy những ý kiến giá trị xoay quanh tiểu
thuyết này. Tác giả sau đi vào phân tích những ảnh hưởng của thời đại, đặc biệt là công
nghệ điện ảnh và các nhà văn khác đối với Faulkner, đã thấy ở nhà nghệ sĩ này những dấu
hiệu độc đáo của phương thức tư duy biểu tượng trong văn bản Âm thanh và cuồng nộ, đó
là dịng nước và hoa kim ngân: “Và cảnh tự tử gây sửng sốt giữa Quentin I và Caddy trong
đó Caddy nằm trong dòng nước với mùi hương của hoa kim ngân và mưa thấm trong khơng
khí là một trong những chi tiết gợi cảm mạnh mẽ nhất trong văn học hiện đại”[54, 56].
Người viết nhận ra một cảm quan lịch sử của thế kỉ XX, tình trạng bất ổn về tâm lí của các
nhân vật, sự mất mát, đổ vỡ niềm tin: “Âm thanh và cuồng nộ cũng tái hiện lại những cảm
giác tuyệt vọng và mất mát được tìm thấy – từ Luster mất đi đồng 25 xu đến Jason mất cơ
hội đầu tư trên thị trường bông, từ Quentin đến Benjy mất Caddy và Caddy mất đi con của
mình, và cứ như vậy. Hơn nữa, nhiều nhân vật trong truyện đã bị vỡ mộng, ơng Jason
Compson với triết lí bi quan về cuộc sống đã thấy ở con người chỉ toàn sự thất bại và đổ vỡ
giá trị niềm tin và nhận thức: “khơng có trận chiến nào là thắng cả. Thậm chí họ khơng
chiến đấu. Cánh đồng chỉ là sự sở hữu điên rồ của con người, chiến thắng chỉ là trò ảo
tưởng của nhà triết học và những người ngốc”[54, 59].
Với cuốn “Faulkner International Perspectives”, một tập hợp những bài viết về
Faulkner và tác phẩm của ơng, nó được biên tập bởi Doreen Fowlor và AnnJ.Abdie, trong
đó chúng tôi chú ý tới bài viết “from Jefferson to the World” của Calvins Brown. Tác giả đã
chỉ ra những ảnh hưởng của các nhà văn trên thế giới đến với Faulkner đặc biệt là các tác
giả của hai nền văn học là văn học Pháp và văn học Anh, “Faulkner đọc được những tác
phẩm nổi tiếng của văn chương Pháp sau những bài thơ vĩ đại của văn học lãng mạn Anh,
với Balzac và Gautier”[55, 23]. Qua cuốn sách trên, chúng tơi thấy chính dấu ấn của những

nhà văn đi trước đã giúp Faulkner có được một kĩ thuật xây dựng tác phẩm độc đáo và đi
cùng với nó là cảm hứng sáng tạo mãnh liệt,.. Những điều đó đã thổi hồn vào trong các
trang viết của ông. Bài viết cũng giúp chúng tôi mở ra được một cánh cửa khi đi vào biểu
tượng không gian mà Faulkner đã sáng tạo.
11


Trong bài viết “In The Sound and the Fury, Benjy Compson Most Likely Suffers from
Autism” của Patrick Samway, S.J. Gentry Silve. Khi nghiên cứu về nhân vật Benjy, tác giả
thấy được ngồi vốn từ vựng Benjy sử dụng để nói lên cảm nhận của mình với cuộc sống
cịn có một tiếng khóc để nhân vật này giao tiếp với cuộc sống: “Các nhà phê bình đã đề
cập đến tiếng khóc của Benjy vì đó là một trong những cách thức làm nên đặc tính ở hắn,
chẳng hạn André Belaikastin đã viết, “tiếng kêu và âm thanh rên rỉ của hắn ám ảnh thơng
qua sự lặp lại của “khóc”, “than khóc”, “rên rỉ”, “chảy nước dãi”, “rống”,- cung cấp
những thứ tạo nên nền tảng ở phần một, không bao giờ khớp nối giống như lời nói, tiếng
kêu của Benjy là biểu hiện của sự đáng thương và nỗi thống khổ không lời và không thể
chịu đựng”[54, 11]. Bài viết đã khắc họa được hình tượng nhân vật Benjy nhưng chưa xâu
chuỗi nhân vật này vào trong hệ thống các nhân vật mà Faulkner tạo dựng. Dẫu vậy cơng
trình cũng cung cấp cho chúng tôi những khám phá thú vị xoay quanh thanh âm của Benjy.
Ngồi ra chúng tơi cịn thấy một tài liệu khác khá quan trọng có đề cập đến vấn đề
chúng tơi quan tâm, đó là “Rereading Faulkner: Authority, Criticism, and The Sound and
the Fury” của Stacy Burton . Trong cơng trình này, tác giả đã đọc lại những nghiên cứu về
Faulkner của những người đi trước như Malcolm Cowley, trong cuốn “Portable Faulkner
anthology the Appendix”, ở đó Cowley đã thấy ở cuốn tiểu thuyết này, “sự thay đổi cuối
cùng ơng muốn làm, đó là cái đích sáng tạo mà nhà nghệ sĩ muốn trong cơng việc của
mình”[57, 605], ông thấy ở Richard Godden khi đọc tiểu thuyết này, “một câu chuyện trong
ba truyện: liên kết bởi cái chết, sự phục sinh, một phần sự sụp đổ và một nửa phục sinh của
nhân vật”[57, 606]. Bài viết cũng chỉ ra những thứ mà Benjy yêu nhất là, “ Đồng cỏ, chị gái
Caddy và Lửa”. Những biểu tượng đó đã góp phần cho chúng tơi nhận thức sâu sắc hơn về
biểu tượng nghệ thuật trong sáng tác của Faulkner. Và cơng trình cũng lưu ý đến ý kiến của

Philip Weinstein trong bài viết năm 1980 khi tác giả của nó cho rằng trong văn bản Âm
thanh và cuồng nộ có dấu vết của nguồn gốc Kinh Thánh. Từ những ý kiến của những nhà
nghiên cứu trước, Stacy Burton đã đọc tiểu thuyết này dưới ánh sáng của lí thuyết Bakhtin.
Ơng thấy ở Faulkner sự cách tân mạnh mẽ và táo bạo của một tiểu thuyết gia hàng đầu thế
kỉ XX, bởi theo Bakhtin, “cuộc sống trong những tác phẩm văn học là sự liên tục sáng tạo:
thực tại và đại diện thế giới tìm thấy bản thân họ trong sự tương tác lẫn nhau như người
đọc với không- thời gian, sáng tạo lại cũng như viết lại văn bản”[57, 627], với Âm thanh
và cuồng nộ, nhà văn đã xóa nhịa mọi đường biên thể loại như tác giả đã thấy. Ngồi ra tác
giả cịn thấy trong văn bản biểu tượng trung tâm là Caddy: “Hình ảnh Caddy Compson với
12


chiếc quần đầy bùn, trèo lên ngọn cây và nhìn ra cửa sổ và truy tìm do đó tiểu thuyết này là
một chuỗi những nỗ lực được kể không bao giờ nằm trong sự yên lặng một cách đúng
đắn”[57, 620]. Theo tác giả, văn bản này ngoài khả năng phân tích tâm lí sâu sắc đã chứa
đựng huyền thoại: “Thế giới của nhà Compson giống như một vũ trụ nhỏ của những huyền
thoại lớn về mất mát và tái tạo”[57, 621]. Những luận điểm của tác giả đã dẫn chúng tôi
đến việc đưa những biểu tượng nghệ thuật của Faulkner vào nghiên cứu dưới ánh sáng của
huyền thoại.
Những tài liệu trong nước và quốc tế về nhà văn Faulkner và tiểu thuyết của ông đã
giúp chúng tôi rất nhiều trong việc khảo sát biểu tượng nghệ thuật trong tác phẩm Âm
thanh và cuồng nộ .

4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những biểu tượng nghệ thuật có trong tác phẩm Âm thanh và
cuồng nộ, phương pháp đầu tiên mà chúng tơi sử dụng là phương pháp kí hiệu học. Phương
pháp này sẽ được chúng tôi sử dụng trong chương hai khi nghiên cứu về hệ thống biểu
tượng Âm thanh của các nhân vật trong tiểu thuyết để chỉ ra nghĩa hàm của mỗi biểu tượng
bên cạnh nghĩa biểu hiện của nó.
Mỗi biểu tượng nghệ thuật phải được nhìn nhận trong hệ thống, do đó muốn hiểu sâu

mỗi biểu tượng nghệ thuật theo chúng tơi phải đặt nó vào trong hệ thống nên phương pháp
thứ hai chúng tôi vận dụng là phương pháp hệ thống. Và phương pháp hệ thống được chúng
tôi sử dụng trong bốn chương của luận văn để tạo một cái nhìn liên đới cho luận văn nhưng
nó được vận dụng nhiều nhất ở chương ba khi chúng tôi xây dựng hệ biểu tượng Không thời gian.
Biểu tượng nghệ thuật liên quan chặt chẽ đến văn hóa, xã hội, tâm lí,... nên phương
pháp liên ngành cũng đươc chúng tôi sử dụng trong luận văn này. Đặc biệt phương pháp
liên ngành được chúng tôi vận dụng nhiều trong chương cuối khi tiếp cận biểu tượng nghệ
thuật tâm linh để thấy được sự mối quan hệ của văn học với các loại hình nghệ thuật khác.
Âm thanh và cuồng nộ là một tác phẩm khó đọc do đó để có một cái nhìn sáng rõ
hơn về nó thì phương pháp cấu trúc cũng được chúng tôi sử dụng. Phương pháp cấu trúc sẽ
được chúng tôi vận dụng khi xây dựng cấu trúc luận văn và từng chương trong luận văn.
Đồng thời chúng tôi vận dụng trong luận văn phương pháp phê bình phân tâm học
mà chủ yếu là phân tâm học của C. Jung. Dưới góc nhìn của phương pháp phê bình phân
tâm học, chúng tơi hi vọng sẽ tiệm cận được những ánh sáng tâm lí trong mỗi biểu tượng.
13


Ngồi ra chúng tơi cịn áp dụng phương pháp thống kê để khảo sát tần số xuất hiện
của các biểu tượng nghệ thuật, nhằm chỉ ra được ý nghĩa biểu trưng của mỗi biểu tượng
nghệ thuật.

5. Mục đích nghiên cứu
Tiến hành đề tài “Biểu tượng nghệ thuật trong tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ
của William Faulkner”, chúng tôi muốn tiếp cận tác phẩm này theo một hướng mới: biểu
tượng nghệ thuật. Đồng thời qua đó, chúng tơi có thể thấy được vài nét về phong cách và tư
tưởng nghệ thuật của Faulkner.

6. Đóng góp của luận văn
Luận văn mang đến cho người tiếp nhận một hướng tiếp cận mới đối với tác phẩm
“Âm thanh và cuồng nộ”.

Đồng thời luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những độc giả nào quan tâm
đến Faulkner và văn học hiện đại.

7. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm bốn phần: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận và phần tài liệu
tham khảo. Trong phần nội dung chúng tôi phân làm bốn chương.
Chương 1: Biểu tượng nghệ thuật và những lí thuyết liên quan
Trong chương này chúng tơi sẽ cố gắng chỉ ra được những đặc trưng của khái niệm
biểu tượng nghệ thuật. Phân biệt nó với những khái niệm khác gần biểu tượng nghệ thuật là
hình tượng nghệ thuật, ẩn dụ và hoán dụ, mẫu gốc. Đồng thời chúng tơi sẽ lí giải lí thuyết
biểu tượng nghệ thuật dựa trên các lí thuyết huyền thoại học, phân tâm học, kí hiệu học để
có một cách hiểu sâu hơn về lí thuyết biểu tượng nghệ thuật.
Chương 2: Hệ biểu tượng âm thanh trong Âm thanh và cuồng nộ
Chương này chúng tơi tìm hiểu hệ thống biểu tượng âm thanh trong mối tương giao
với các nhân vật trong truyện để thấy được những thủ pháp nghệ thuật độc đáo và cảm hứng
tư tưởng mãnh liệt mà nhà văn muốn chia sẻ với người đọc.
Chương 3: Hệ biểu tượng vật thể không – thời gian trong Âm thanh và cuồng nộ
Mĩ học của Faulkner là mĩ học bản thể. Các sáng tác của nhà văn luôn hướng về con
người, “tôi từ chối sự lụi tàn của con người”(Faulkner). Do đó chủ đề con người cô đơn
trong không-thời gian luôn được nhà văn trăn trở trong các tác phẩm của mình. Từ đó chúng
14


tôi muốn xem các biểu tượng nghệ thuật không –thời gian đã soi sáng tâm thức lưu đày và
cảm thức cô đơn, bất hạnh của các nhân vật như thế nào ? Qua đó thấy được giá trị nhân văn
và nhân đạo của nhà tác phẩm.
Chương 4: Hệ biểu tượng tâm linh trong Âm thanh và cuồng nộ
Giá trị của mỗi kiệt tác văn chương theo chúng tôi phải chứa đựng ý nghĩa phổ quát
toàn nhân loại. Và mỗi dân tộc sẽ nhận thấy gương mặt của mình trong tác phẩm đó.
Chương này chúng tơi tập trung tìm hiểu những biểu tượng làm nên giá trị thẩm mỹ ấy trong

tác phẩm Âm thanh và cuồng nộ.

15


CHƯƠNG 1: BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT VÀ NHỮNG LÍ
THUYẾT LIÊN QUAN
1.1. Biểu tượng
Biểu tượng là một phương thức tư duy chỉ có ở con người. Nguồn gốc hình thành
của nó phải xét trên sự hình thành con người. Trải qua hàng triệu năm tiến hóa, nhờ vào q
trình lao động, con người làm ra nghệ thuật, trong đó có văn chương. Muốn tìm hiểu thật
sâu sắc biểu tượng, chúng tơi nghĩ phải lần theo mối quan hệ biện chứng giữa tư duy và
ngôn ngữ.
Biểu tượng giúp con người lưu giữ hình ảnh mình quan sát được trong cuộc sống, đi
liền q trình hình thành ngơn ngữ ở con người, tức là với q trình tư duy. Ngơn ngữ là vỏ
vật chất của tư duy, nó ra đời khi con người muốn trao gửi một thông điệp cho nhau. Để
khái quát thông điệp, tư duy phải biểu đạt sự vật dưới lớp vỏ ngôn ngữ. Theo Marx ngôn
ngữ, “là sự ý thức hiện thực” bởi, “ý nghĩa phải được cấu thành trước hết dưới một hình
thức khách quan trong sự vận động của ngôn ngữ, nổi bật ra trực tiếp từ những mối quan
hệ của đời sống xã hội”[49, 45]. Do đó tìm mối quan hệ giữa tư duy và ngơn ngữ phải đi
vào hiện thực đời sống.
Buổi ban đầu loài người chưa có ngơn ngữ, họ phải nhờ vào những cử chỉ, chỉ dẫn
bằng hình thể để trao đổi thơng điệp cho nhau. Do đó biểu tượng có xuất phát điểm là cử
chỉ. Cử chỉ đánh dấu sự hiện diện của chủ thể trong đời sống hiện thực. Và, nhờ vào các
giác quan bên ngồi, đặc biệt là thính giác và thị giác, chúng góp phần hình thành nên cảm
giác, đem lại nhận thức cảm tính đầu tiên về sự vật, giúp con người có ấn tượng ban đầu về
sự vật. Để lưu giữ những cảm giác có được ấy vào trí não mình, lồi người cần một tư duy
cao hơn, tri giác xuất hiện. Tri giác tổng hợp các cảm giác về sự vật, đưa đến khả năng nhận
thức sự vật một cách sâu sắc. Nhưng tri giác vẫn chưa giúp loài người nhận ra bản chất sự
vật, do đó tư duy cần một bước tiến nữa, lúc này biểu tượng được hình thành. Biểu tượng

giúp nhận thức khu biệt được những đặc trưng cơ bản của sự vật. Trong giai đoạn thứ ba
này, sự vật hiện ra tương đối hồn chỉnh. Bởi biểu tượng có sự tham gia của các hoạt động
giác quan cùng sự tổng hợp, phân loại của tư duy. Theo Lenin, con đường nhận thức chân lí
của lồi người ln đi, “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu
tượng quay trở về thực tiễn”.

16


Trên con đường ấy, con người phải có một cơng cụ đi cùng tư duy là ngôn ngữ. Tư
duy và ngơn ngữ ln dính chặt với nhau như hai mặt của một tờ giấy. Chúng thống nhất và
biện chứng trong nhau. Biểu tượng với tư cách là một phương thức của tư duy khơng thể
khơng xét nó trên gốc nghĩa ngôn ngữ.
Biểu tượng (Symbol) theo nghĩa từ nguyên là một vật được cắt làm đơi, mang đặc
tính hai mặt: “Biểu tượng chia ra và kết lại với nhau, nó chứa hai ý tưởng phân li và tái
hợp, nó gợi lên ý một cộng đồng, đã bị chia tách và có thể tái hình thành. Mọi biểu tượng
đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ; ý nghĩa của biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ
vừa là kết nối những phần của nó lại với nhau” [10, XXIII]. Mỗi biểu tượng ln có hai
mặt, một mặt được trưng ra và một mặt bị dấu đi, cho nên biểu tượng là thuật ngữ mang bản
chất khó xác định và vơ cùng sống động. Tuy vậy nó vẫn có dấu hiệu nhận diện: “Chính là
ở chỗ nó tổng hợp trong một biểu hiện dễ cảm nhận tất cả những ảnh hưởng ấy của vô thức
và ý thức cùng các sức mạnh bản năng và trí tuệ, xung đột lẫn nhau hay đang trong tiến
trình hài hịa bên trong mỗi con người”[10, XV].
Biểu tượng là sự kết tinh của quá trình tư duy hàng nghìn năm của nhân loại. Đồng
thời nó cũng chịu sự ảnh hưởng của văn hóa cộng đồng nơi nó ra đời, nên cần xét thuật ngữ
này trên nhiều phương diện. Với tâm lí học và triết học, biểu tượng, “khái niệm chỉ một giai
đoạn, một hình thức của nhận thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật cịn giữ lại
trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào trong các giác quan ta đã chấm dứt”[44, 223].
Cịn với ngơn ngữ học, biểu tượng được hiểu như một phép chuyển nghĩa dựa trên cơ
chế của hai mặt là cái biểu trưng và cái được biểu trưng. Từ những tìm hiểu về nguồn gốc

của biểu tượng, chúng tôi nghĩ đây là một thuật ngữ mở, mang tính khơi gợi và rất khó cố
định vào những nghĩa duy nhất. Bởi biểu tượng bắt nguồn từ đời sống hiện thực, hình thành
bởi tư duy con người, vận động cùng thời gian và tồn tại trong khơng gian văn hóa của cộng
đồng sử dụng nó. Do đó cần hiểu biểu tượng như một sinh thể phức tạp, đa nghĩa và tùy vào
từng ngành khoa học mà có sự khu biệt nghĩa riêng về khái niệm “biểu tượng”.
Với văn học, “biểu tượng theo nghĩa rộng là sự phản ánh cuộc sống bằng hình
tượng của văn học nghệ thuật, nhưng nó có cội nguồn trong tâm thức của văn hóa nhân loại
biểu tượng tồn tại trước một văn bản cụ thể và khơng phụ thuộc vào nó. Biểu tượng rơi vào
ký ức nhà văn từ chiều sâu của kí ức văn hóa và được làm sống lại trong văn bản mới, như
một hạt giống đánh rơi vào lòng đất. Sự gợi nhớ chuyện cũ, trích dẫn hay gợi nhắc đều là
bộ phận hữu cơ của văn bản mới, thực hiện chức năng trong bình diện đồng đại. Chúng đi
17


từ văn bản vào chiều sâu của kí ức, cịn biểu tượng thì đi từ ký ức vào văn bản”[21, 314].
Ngồi ra nếu nhìn theo nghĩa hẹp thì: “Biểu tượng là một phương thức chuyển nghĩa của lời
nói hoặc một hình tượng nghệ thuật đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát
được bản chất của một hình tượng nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng, hay
một triết lí sâu xa về con người và cuộc đời”[21, 315].
Từ các khái niệm trên, chúng tôi nhận thấy vài phương diện chính yếu về bản chất
của thuật ngữ biểu tượng.
Trước hết biểu tượng mang tính hai mặt, nó bao hàm trong bản thân hình ảnh biểu
hiện ra bên ngồi và hình ảnh được ẩn dấu bên trong. Biểu tượng có tính dấu hiệu, nó được
bắt nguồn từ những cử chỉ bên ngoài của con người và hình ảnh mà biểu tượng lưu giữ ln
bắt nguồn từ hiện thực đời sống. Biểu tượng không loại bỏ ý nghĩa cụ thể, cảm tính của vật
tượng trưng hay của hình tượng nghệ thuật. Ý nghĩa của nó tồn tại cả trong và ngồi văn bản
bởi q trình sinh nghĩa của mỗi biểu tượng luôn thường gắn với chiều dài văn hóa lịch
sử, gắn với q trình hình thành quan niệm về thế giới của con người cổ xưa. Mỗi biểu
tượng đi vào văn bản nghệ thuật tự bản thân nó đã mang trong mình ngơn ngữ văn hóa, mã
thời đại và tồn bộ sức nặng ngữ nghĩa mà nó tính lũy được qua nhiều thế kỷ. Do đó biểu

tượng bao giờ cũng mang tính mở.
Là một phạm trù lịch sử, biểu tượng chịu sự chi phối của ngôn ngữ, tâm lí, quan niệm
của dân tộc và thời đại. Do đó biểu tượng chứa vơ thức tập thể. Biểu tượng được cấu trúc
trong trí tưởng tượng của con người, nó làm biến dạng các sao chép thực dụng do tri giác
cung cấp, cải tạo các cảm giác cho nên biểu tượng có “sức vang cốt yếu và tự sinh”. Nghĩa
là nó vừa biểu hiện vừa che đậy, vừa thiết lập vừa tháo dở, nó là một dạng thức gây xúc
động vì nó có thể tác động đến cấu trúc tinh thần của con người, bởi tính chất ảnh – động
lực của nó mà có lần C.Jung gọi đó là những mẫu gốc. Chúng là vật nối liền cái phổ quát
với cái cá thể.
Những biểu tượng ln có tính động, chúng khơng đứng riêng một mình mà có xu
hướng kết hợp với những biểu tượng khác tạo thành hệ biểu tượng. Theo J. Lacan, “hệ biểu
tượng chỉ loại hiện tượng mà khoa phân tâm học quan tâm trong chừng mực chúng được
cấu trúc như một ngơn ngữ”[10, VXI]. Có thể thấy, hệ biểu tượng là tập hợp cấu trúc, cách
xếp đặt các biểu tượng và tìm hiểu nghĩa của biểu tượng cần đặt biểu tượng trong hệ biểu
tượng.

18


Biểu tượng là một phạm trù siêu nghiệm, nghĩa là nó chứa đựng sự bí ẩn khơn cùng
nên phải tiếp nhận biểu tượng với tất cả trí tuệ lẫn tâm hồn, như Eliade đã phát biểu:
“Khuynh hướng biểu tượng là một dữ kiện tức thì của con người tồn vẹn, tức là của con
người bộc lộ đúng mình. Con người ý thức được vị trí của mình trong vũ trụ; những khám
phá hàng đầu đó gắn liền với tấn bi kịch của con người cho đến nỗi chính khuynh hướng
biểu tượng đó quyết định cả hoạt động tiềm thức lẫn những biểu hiện cao cả nhất trong đời
sống tinh thần của nó”[10, XXVI].
Đi vào tìm hiểu biểu tượng, buộc người nghiên cứu phải có thái độ dấn thân bởi đặc
tính của biểu tượng, “mãi mãi gợi cảm đến bất tận: mỗi người thấy ở đấy cái mà năng lực
thị giác của mình có thể nhận ra. Thiếu sự thâm thúy sẽ chẳng nhận ra được cái gì cả”[10,
XXVI]. Quá trình giải mã biểu tượng, chúng ta phải nhận thấy rằng nếu sử dụng những

cơng cụ khoa học sẽ có nguy cơ làm: “Đông cứng nghĩa của biểu tượng, nếu ta khơng nhấn
mạnh đến tính chất tổng thể tương đối, cơ động và có tính cá thể hóa của nhận thức biểu
tượng”[10, XXVI]. Nên, “lối phân tích bằng cách cắt vụn và đập nhỏ ra không thể nắm bắt
được sự phong phú của biểu tượng; trực giác không phải bao giờ cũng đạt được điều đó;
phải tổng hợp và đồng cảm hết mực, nghĩa là chia sẻ và cảm nghiệm một cái nhìn nào đó về
thế giới”[10, XXVII]. Cái nhìn nhất lãm sẽ không thể nào nắm bắt được trọn vẹn và đầy đủ
ý nghĩa của biểu tượng, bởi biểu tượng có tính đa trị, tính đồng thời của những ý nghĩa nó
gợi lên.
Rõ ràng mỗi biểu tượng là một thế giới vĩ mơ trong một hình ảnh vi mơ, phải cảm
nhận và phân tích nó trên bình diện của vũ trũ lẫn bình diện của ý thức cá nhân. Todorov đã
thấy ở biểu tượng một hiện tượng ngưng kết, nghĩa là trong một biểu tượng, cái biểu trưng
hàm chứa trong mình rất nhiều dấu hiệu của cái được biểu trưng: “Chỉ một cái biểu đạt giúp
ta nhận thức ra nhiều cái được biểu đạt; hoặc đơn giản hơn…cái được biểu đạt dồi dào hơn
cái biểu đạt”[10, XXVII]. Bởi nghĩa mà biểu tượng ln bộc lộ, “tính khơng thích hợp giữa
tồn tại và hình thức…sự ứ tràn của nội dung ra ngồi dạng biểu đạt của nó”[10, XXVII].
Dẫu vậy biểu tượng chứa đựng hạt nhân là chiều dài của văn hóa nhận thức của nhân loại
nên nó mang trong mình tính ổn định về nghĩa của cái được biểu trưng và cái biểu trưng cho
dù vách ngăn về nghĩa ở hai khái niệm này là không rõ ràng. Các biểu tượng ln có khả
năng thâm nhập lẫn nhau, từ đó chúng trở nên đa chiều về nghĩa, buộc người cảm nhận về
biểu tượng phải ln thấy được tính đa dạng và sự sâu sắc khi nhìn về biểu tượng.

19


Đồng thời không thể tách rời biểu tượng khỏi môi trường sống, nơi biểu tượng đó ra
đời. Vì biểu tượng gắn bó sâu sắc với nghi lễ của người nguyên thủy, chính cái bè đệm hiện
sinh này giúp biểu tượng trở nên sống động nên cần đặt biểu tượng trong mơi trường nghi lễ
để xem xét nó.
Từ những đặc tính trên của biểu tượng, chúng tôi muốn xem xét những chức năng cơ
bản mà khái niệm này mang lại trong hoạt động tinh thần của con người. Thế giới tự nhiên

là vô cùng tận, mà khát vọng nhận thức và cải tạo nó của con người là có hạn. Biểu tượng là
cơng cụ giúp nhân loại thăm dị tự nhiên và chính bản thân mình. Con người với bản chất
phiêu lưu ln cố đi đến đích và muốn hiểu biết đến tận cùng cuộc sống trong khi cuộc sống
luôn chứa đựng sự bí ẩn và phức tạp của mình, nằm ngồi tri thức của con người. Do đó
biểu tượng được tạo ra để cố gắng diễn đạt những khái niệm mà con người chưa hiểu biết
được trọn vẹn. Chính tư duy biểu tượng đã mở ra, “khả năng lưu thông tự do qua các cấp
độ của thực tại”(M.Eliade). Chúng ta dùng biểu tượng để diễn đạt những gì con người chưa
biết nhưng có khả năng tồn tại trong thực tại: “Một biểu tượng bao giờ cũng giả định là
cách diễn đạt được chọn lựa đó chỉ rõ hoặc trình bày được hồn hảo nhất những sự kiện
nào đó cịn chưa biết, nhưng rõ ràng có tồn tại và cần tồn tại”[10, XXIX]. Các dạng thức
tưởng tượng của biểu tượng sẽ mời gọi con người vào những cuộc thăm dò, hướng vào cái
chưa biết vì nó đã sáng tạo ra một tương quan, mỗi lần giải mã, biểu tượng lại gợi ra những
ý nghĩa mới, “khi trí óc muốn làm cơng việc thăm dị một biểu tượng, nó sẽ đi đến những ý
tưởng nằm ở bên ngồi những gì lí trí của chúng ta có thể nắm bắt được” (C. Jung). Và cái
bị che dấu, cái chưa biết nó khơng phải là cái trống rỗng mà nó là cái khơng xác định của dự
cảm, cho nên chức năng thứ hai của biểu tượng là khả năng làm vật thay thế. Với tính hình
tượng của mình, biểu tượng khơng chỉ thay thế cho những hình ảnh, nội dung khơng thể
được diễn đạt bằng ý thức mà cịn cho cả vơ thức, “chức năng cơ bản của biểu tượng đích
thị là sự phát hiện hiện sinh của con người cho chính mình, thơng qua một trải nghiệm có
tính vũ trụ”[10, XXXI]. Chức năng thay thế của biểu tượng đã bắt những chiếc cầu nối liền
kinh nghiệm của con người trong xã hội, tôn giáo và vũ trụ tạo thành lực liên, kết thống nhất
chúng lại với nhau khiến con người có một điểm tựa khi biểu tượng chuyển di vào trong đầu
óc con người, giúp con người xâm nhập sâu hơn vào bản chất của hiện thực do chức năng
cộng hưởng của nó với môi trường xã hội nơi biểu tượng nảy sinh.
Từ những cách hiểu về nguồn gốc, bản chất và chức năng của biểu tượng như trên,
chúng tôi cố gắng đi tìm câu trả lời cho câu hỏi vậy khi nào một biểu tượng được gọi là biểu
20


tượng nghệ thuật? Và mối quan hệ của nó với những lí thuyết liên quan tới biểu tượng là kí

hiệu học, phân tâm học và huyền thoại học như thế nào?

1.2. Biểu tượng nghệ thuật
Nghệ thuật là một trong những hình thái nhận thức đời sống của lồi người. Trong
qui trình sáng tạo nghệ thuật, người nghệ sĩ sẽ tư duy theo nhiều kiểu khác nhau. Chúng tôi
dùng thuật ngữ “biểu tượng nghệ thuật” để chỉ phương thức tư duy nhà văn sử dụng để sáng
tạo tác phẩm mà ở đây là thể loại tiểu thuyết. Qua đó chỉ ra những nét đặc trưng của biểu
tượng nghệ thuật. Trước hết, chúng tơi xem cái gì đã biến một thơng điệp lời nói trở thành
một văn bản văn học.
Theo Jakobson, khơng thể đi tìm bản chất của văn học mà lại bỏ qua chất liệu thứ
nhất của nó là ngơn ngữ: “Một nhà ngơn ngữ học mà khơng biết gì về chức năng của thi ca
thì cũng như một chuyên gia văn học vô tâm đối với những vấn đề của ngôn ngữ học và mịt
mù với những phương pháp của ngành khoa học ấy, cả hai loại này về sau đều là những thứ
lỗi thời một cách quả tang”[26, 360]. Một văn bản nghệ thuật giá trị, ngoài sự nhận thức và
cảm hứng tư tưởng của nhà văn thì chất liệu ngôn ngữ là nhân tố vô cùng quan trọng trong
q trình sáng tạo nghệ thuật. Văn chương khơng thể tồn tại ở ngồi xã hội, nó ln ln
biến chuyển cùng thời đại và chiếm một vị trí quan trọng trong các loại hình nghệ thuật.
Thấy được điều đó chúng ta sẽ hiểu rõ hơn biểu tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn
chương.
Biểu tượng nghệ thuật là những kí mã thẩm mĩ mang tính chủ quan nhưng chứa xúc
cảm của người nghệ sĩ nhằm tác động vào tư tưởng, tình cảm, trí tuệ của người tiếp nhận.
Vậy, biểu tượng nghệ thuật bao hàm những dấu hiệu, bản chất như biểu tưởng và ngồi ra
nó phải mang năng lượng xúc cảm của nhà văn.
Là một hình thức nghệ thuật, biểu tượng nghệ thuật có những đặc trưng của một
phương thức tư duy nghệ thuật. Đó là tính cá thể hóa và tính khái qt hóa, tính phi vật thể
của hình tượng văn học. Đồng thời, biểu tượng nghệ thuật xét trên phương diện là một cơng
cụ chuyển nghĩa của lời nói, một cái biểu trưng chuyển tải nhiều cái được biểu trưng, tạo
nên sự đa nghĩa khi lí giải biểu tượng nghệ thuật. Ngồi ra tìm hiểu biểu tượng nghệ thuật,
chúng ta phải vận dụng phương pháp liên ngành. Vì biểu tượng nghệ thuật tồn tại trong kí
ức của nhân loại, như một thứ vô thức tập thể. Từ những điều trên ta mới có cơ may hiểu rõ

về biểu tưởng nghệ thuật.

21


Biểu tượng là sáng tạo độc đáo của nhà văn, cần phải nhìn nó trong mối tương quan
với chủ thể sáng tạo. Là một hình thức nghệ thuật, biểu tượng nghệ thuật không chỉ chuyển
tải thông điệp của nhà văn mà nó cịn cộng hưởng với những yếu tố nghệ thuật khác trong
văn bản nhằm tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật độc đáo. Và văn bản mang tính biểu tượng
bao giờ cũng cổ sơ hơn văn bản phi biểu tượng.
Mỗi biểu tượng bao giờ cũng chứa một cái gì cổ sơ, thuộc về một thời đại văn hóa.
Ngược dịng thời gian nhìn về lịch sử nhân loại, khi con người chưa có chữ viết, họ đã sáng
tạo nên các kí hiệu, chúng được khắc trên những vách đá, đó là dạng biểu tượng sơ khai. Đi
cùng với nó là các chuyện kể, chúng được gìn giữ trong văn học dân gian. Ngồi ra cịn một
đặc điểm khác cũng cổ sơ, thú vị hơn đối với chúng ta: mỗi biểu tượng như là một văn bản
đã hồn thiện, khơng thể tham gia vào bất cứ chuỗi kết hợp khác, mà dù nếu có đưa vào thì
nó vẫn giữ tính độc lập về ý nghĩa và cấu trúc của nó. Nó dễ dàng tách khỏi mơi trường kí
hiệu xung quanh, cũng như dễ dàng tham gia vào các kết hợp văn bản khác. Từ đó có thể
thấy biểu tượng nghệ thuật không bao giờ thuộc vào một mặt cắt đồng đại của văn hóa. Nó
bao giờ cũng xuyên qua mặt cắt đó bằng chiều thẳng đứng, đi từ quá khứ đến tận tương lai.
Tìm hiểu một biểu tượng có phải là biểu tượng nghệ thuật hay không là một việc làm
không khó, nhưng để chỉ ra giá trị và nghĩa của nó thì khơng đơn giản. Bởi biểu tượng
nghệ thuật hàm chứa tính nguyên hợp của tư duy nguyên thủy, gắn liền với những nhân tố
nghi lễ và ma thuật nên lí giải nó như một phương thức nghệ thuật là chưa đủ. Phải thấy
trong nó cái phơi mầm của văn hóa học, nhân học và ngơn ngữ học. Chính sự phức hợp, đa
tạp, đó là nét đặc thù rất riêng của biểu tượng nghệ thuật.
Những lí thuyết về biểu tượng nghệ thuật hiện nay vẫn chưa thống nhất, mỗi loại
hình nghệ thuật có những cách hiểu riêng về thuật ngữ này. Và văn học, một hình thái nghệ
thuật nhận thức cuộc sống đặc thù mà đặc trưng của nó là sáng tạo nên những hình tượng
độc đáo khơng thể nào khơng dùng đến biểu tượng nghệ thuật. Từ đó biểu tượng nghệ thuật

trong văn học hay bị nhầm lẫn là hình tượng nghệ thuật.
Người nghệ sĩ với tư cách là chủ thể sáng tạo, anh ta nhận thức hiện thực và chuyển
nhận thức này thành thơng điệp, gửi nó đến người tiếp nhận. Quá trình lập mã và chuyển mã
buộc nhà văn nên chọn mã nào. Mã đó là mã hình tượng hay mã biểu tượng, hay mã huyền
thoại là tùy vào đặc điểm của thơng điệp. Chính các mã sẽ qui định phương thức tư duy
nghệ thuật của người nghệ sĩ. Và khơng có một ranh giới rạch rịi giữa các phương thức tư
duy. Bởi văn học là nghệ thuật ngôn từ mà ngôn ngữ lại là tài sản chung của nhân loại. Các
22


phương thức tư duy nghệ thuật khác nhau sẽ biểu đạt thơng điệp khác nhau. Trong tư duy
hình tượng, mỗi hình tượng nghệ thuật sẽ biểu đạt một ý nghĩa nhất định. Trong tư duy biểu
tượng, một biểu tượng sẽ biểu trưng nhiều hơn một ý nghĩa. Chỉ những hình tượng nghệ
thuật nào vươn lên đến mức điển hình hóa mới có thể trở thành biểu tượng nghệ thuật. Biểu
tượng nghệ thuật có nguồn gốc ở văn hóa. Việc hiểu biểu trưng nghệ thuật, cắt nghĩa nó
phải vận dụng cả góc nhìn đồng đại lẫn lịch đại. Nghĩa là, xem xét một biểu tượng nghệ
thuật nào đó khơng chỉ với nghĩa mà nó tạo dựng mà cả q trình hình thành nghĩa biểu
tượng này trong đời sống cộng đồng. Đồng thời đặt nó dưới ánh sáng của các ngành khoa
học xã hội.
Biểu tượng nghệ thuật là một kí mã thẩm mỹ đặc thù. Nếu cấu trúc của một kí hiệu là
mối quan hệ của cái biểu đạt và cái được biểu đạt dựa trên cơ chế võ đốn, thì cấu trúc của
biểu tượng nghệ thuật lại khác. Tiếp nối Saussure, nhà ngôn ngữ học Hjelmslev đã chỉ ra
trong ngôn ngữ khơng chỉ có nghĩa biểu thị cho khái niệm mà còn chứa một nghĩa hàm.

Sơ đồ 1.1. “Cú pháp học hàm nghĩa nghĩa của R.Bathes” [59]
Dựa vào sơ đồ trên, chúng tơi thấy có hai hệ thống. Hệ thống A đó một kí hiệu biểu
thị, nó chứa cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Hệ thống này lại làm hình thức hay làm cái
biểu đạt cho hệ thống B, hệ thống kí hiệu học nghĩa hàm. Hai hệ thống A và hệ thống B tạo
nên hệ thống siêu kí hiệu, hay còn gọi là biểu tượng nghệ thuật.
Vận dụng vào văn học, những hình tượng nghệ thuật muốn trở nên hấp dẫn và độc

đáo phải thống nhất và biện chứng với hình thức nghĩa hàm. Có như vậy chúng mới chuyển
tải sâu sắc nội dung cho nghĩa hàm, làm thành biểu tượng nghệ thuật trong tác phẩm.
Biểu tượng nghệ thuật được thốt thai từ biểu tượng văn hóa. Nó tồn tại suốt tiến
trình tiến hóa của lịch sử lồi người và thuộc về vô thức tập thể của cộng đồng nhân loại,
tồn tại dưới dạng những nguyên mẫu. Biểu tượng chỉ trở thành biểu tượng nghệ thuật khi
23


×