BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
ĐẶNG NAM LIÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2000
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: TỔNG LUẬN CHUNG VỀ SỰ CẦN THIẾT ĐỊNH
HƯỚNGCHIẾN LƯC XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRÊN ĐỊA BÀN TP.HỒ
CHÍ MINH ĐẾN NĂM 2020
I.Những đặc điểm chung và khái niệm về doanh nghiệp
vừa và nhỏ trong lónh vực xuất khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh ........................... 1
I.1 Khái niệm và cách xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thế giới.............................. 1
I.2 Khái niệm và cách xác định của Việt Nam .................................................................... 2
I.3 Những đặc điểm chung của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam ......................... 3
I.4 Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Hồ Chí Minh ............................................... 4
I.5 Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lónh vực ................................................ 5
xuất khẩu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
II.Vị trí của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong .................................................................. 5
hệ thống các doanh nghiệp xuất khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh
III.Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với xuất khẩu,
đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh và Việt Nam .... 6
III.1 Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với xuất khẩu ....................................... 6
III.2 Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với tăng trưởng
và phát triển kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh và Việt Nam ................................. 7
IV. Sự cần thiết định hướng chiến lược xuất khẩu đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ nay đến năm 2020 ........... 9
IV.1 Bối cảnh thị trường khu vực và thế giới ....................................................................... 9
IV.2 Tình hình kinh tế Việt Nam và thành phố Hồ Chí Minh sau hơn 10 năm đổi mới ........... 10
IV.3 Chính sách khuyến khích và đẩy mạnh xuất khẩu của Đảng và Nhà nước Việt Nam............. 12
V. Kinh nghiệm thực tiễn của một số nước về hỗ trợ,
khuyến khíchxuất khẩu đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ........................... 13
V.1 Kinh nghiệm của Singapore......................................................................................... 14
V.2 Kinh nghiệm của Đài Loan.......................................................................................... 15
V.3 Kinh nghiệm của Thái Lan .......................................................................................... 16
V.4 Kinh nghiệm của Trung Quốc ...................................................................................... 16
V.5 Kinh nghiệm của Nhật Bản ......................................................................................... 17
1
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ
NHỎ VÀ TÌNH HÌNH HỖ TR XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI CÁC DOANH
NGHIỆP NÀY TRÊN ĐỊA BÀN TP.HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 1986 –
2000
I. Những thuận lợi và kết quả đạt được trong xuất khẩu của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1986 – 2000...................... 20
I.1 Thuận lợi ...................................................................................................................... 20
I.2 Kết quả đạt được trong lónh vực xuất khẩu của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ....................................................... 21
I.2.1 Thời kỳ 1986 – 1990 .............................................................................................. 21
I.2.2 Thời kỳ 1991 – 1995 ............................................................................................. 25
I.2.3 Thời kỳ 1996 – 2000 ............................................................................................. 29
II.Những khó khăn và các mặt tồn tại trong hoạt động xuất khẩu của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh............................ 33
II.1 Những khó khăn ............................................................................................................34
II.1.1 Thiếu vốn trầm trọng, đặc biệt trong giai đoạn khởi đầu
và vốn trung, dài hạn để đầu tư công nghệ ........................................................... 34
II.1.2 Khó khăn về thị trường tiêu thụ ngoài nước ......................................................... 34
II.1.3 Thiếu thông tin, máy móc thiết bị và năng lực công nghệ................................... 35
II.1.4 Lao động chưa đủ tay nghề, lao động dư thừa chưa sắp xếp được ...................... 35
II.1.5 Thiếu vật tư, nguyên liệu làm hàng xuất khẩu..................................................... 35
II.1.6 Cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật không đồng bộ,
đòi hỏi chi phí cao, thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh ..................................... 36
II.1.7 p lực từ các chính sách thuế, phí, lệ phí, lãi suất, tỷ giá hối đoái,
giấy phép, hạn ngạch,… của Nhà nước tương đối cao ........................................... 36
II.1.8 Các yêu cầu của các nước nhập khẩu về tiêu chuẩn chất lượng,
vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo môi trường,
nguồn gốc xuất xứ, tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm,…
quá khắt khe với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam................................... 37
II.2 Tồn tại ............................................................................................................................37
II.2.1 Hiệu quả sử dụng vốn thấp ................................................................................... 37
II.2.2 Năng lực nghiệm thu công nghệ kém ................................................................... 38
II.2.3 Phương pháp tổ chức sản xuất kinh doanh lạc hậu,
không đồng bộ, trình độ quản lý thấp ................................................................... 38
II.2.4 Hoạt động marketing hết sức yếu kém................................................................. 38
II.2.5 Sự hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh xuất khẩu giữa các
doanh nghiệp vừa và nhỏ với nhau, giữa các doanh nghiệp
với Nhà nước, chính quyền địa phương còn rời rạc, thụ động .............................. 39
II.2.6 Chưa chú trọng đầu tư nghiên cứu khoa học,
hoạch định chiến lược sản phẩm, giá cả, thị trường.............................................. 40
II.2.7 Chưa chú trọng đến chiến lược con người ............................................................ 40
2
II.2.8 Nhiều khiếm khuyết trong công tác sổ sách kế toán,
kiểm toán tài chính, tồn kho, theo dõi, đôn đốc, giám sát
quá trình thực tế sản xuất, kinh doanh xuất khẩu ................................................. 40
II.2.9 Nghiệp vụ xuất nhập khẩu yếu kém .................................................................... 41
III.Tình hình hỗ trợ xuất khẩu đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ........................................................ 41
III.1 Về chính sách, cơ chế ................................................................................................. 41
III.2 Về pháp lý .................................................................................................................. 42
III.3 Về tài chính, tín dụng ................................................................................................. 42
III.4 Về đổi mới công nghệ, xây dựng hệ thống quản lý chất lượng hiện đại ................... 43
III.5 Về xúc tiến thương mại, maketing xuất khẩu ............................................................. 43
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯC PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU CỦA C
I.Bối cảnh trong nước và quốc tế tác động đến doanh nghiệp vừa và nhỏ...................... 47
I.1 Bối cảnh trong nước ...................................................................................................... 47
I.2 Bối cảnh Quốc tế ........................................................................................................... 48
II. Hệ thống quan điểm khuyến khích và đẩy mạnh xuất khẩu
đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ............... 49
II.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam ............................................................. 49
II.2 Quan điểm của Đảng bộ và Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ...................... 50
III. Mục tiêu phát triển xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh............................................................................ 53
III.1 Mục tiêu tổng quát ...................................................................................................... 53
III.2 Mục tiêu cụ thể .......................................................................................................... 53
IV. Định hướng chiến lược phát triển xuất khẩu của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ nay đến năm 2020 .................... 54
IV.1 Định hướng cơ bản về chiến lược vốn ........................................................................ 54
IV.2 Định hướng cơ bản về chiến lược công nghệ sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu ............ 54
IV.3 Định hướng cơ bản về mặt hàng xuất khẩu chủ lực .................................................. 55
IV.4 Định hướng cơ bản về thị trường xuất khẩu ............................................................... 56
V. Hệ thống giải pháp thực hiện chiến lược phát triển xuất khẩu của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 .......... 56
V.1 Giải pháp vó mô ..............................................................................................................56
V.1.1 Nâng cao tính định hướng và ổn định lâu dài của Nhà nước về
hỗ trợ xuất khẩu đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ........................................ 56
V.1.2 Nhanh chóng quy hoạch và công bố những ngành hàng ưu tiên
xuất khẩu, chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ..................... 57
V.1.3 Sớm hình thành và đưa vào hoạt động các quỹ hỗ trợ và
3
khuyến khích xuất khẩu đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ............................ 59
V.1.4 Triển khai đồng bộ và toàn diện hệ thống quản lý chất lượng
sản phẩm và tổ chức sản xuất, kinh doanh của mọi doanh nghiệp
trên địa bàn thành phố theo tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000.......................... 59
V.1.5 Nhanh chóng triển khai các chương trình xúc tiến thương mại,
tạo điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ thông qua các hội chợ thương mại quốc tế và khu vực ...................... 60
V.1.6 Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác thương vụ ở nước ngoài .... 61
V.2 Giải pháp vi mô ..............................................................................................................61
V.2.1 Từng bước nâng cao năng lực và hiệu quả công tác marketing xuất khẩu ......... 61
V.2.2 Sớm ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trong và ngoài nước
vào sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ........ 63
V.2.3 Tận dụng ưu đãi và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn .......................... 64
V.2.4 Hình thành các liên kết giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ
với các ngân hàng, tiến tới thiết lập các liên kết
kinh tế – tài chính vững mạnh trong từng ngành hàng xuất khẩu......................... 64
V.2.5 Áp dụng có hiệu quả các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động xuất khẩu .. 66
V.2.5.1 Phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong quá trình chuẩn bị nguồn hàng........ 66
V.2.5.2 Phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong quá trình giao dịch,
đàm phán, soạn thảo và ký kết hợp đồng ............................................... 67
V.2.5.3 Phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong quá trình vận chuyển ...................... 69
V.2.5.4 Phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong quá trình giao nhận ......................... 69
V.2.5.5 Phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong quá trình mua bảo hiểm ................. 70
V.2.5.6 Phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong quá trình thanh toán ........................ 70
V.2.5.7 Phòng ngừa và hạn chế rủi ro do thiên nhiên .......................................... 72
V.2.5.8 Phòng ngừa và hạn chế rủi ro hối đoái .................................................... 72
V.2.5.9 Phòng ngừa và hạn chế rủi ro do lạm phát .............................................. 73
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
4
MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Kể từ khi Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới theo tinh thần
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, hoạt động kinh tế đối ngoại đã đạt được nhiều
thành tựu rực rỡ. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu cả nước không ngừng tăng lên qua các
năm góp phần đáng kể vào việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của Việt Nam trong
khu vực Đông Nam Á.
Thành phố Hồ Chí Minh, một trung tâm thương mại, công nghiệp và dịch vụ phía
Nam là nơi luôn có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao với giá trị kim ngạch
chiếm gần 40% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Năm 1999, kim ngạch ngạch xuất
khẩu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đạt 4.532 triệu USD, chiếm tỷ trọng 39,4% so
với cả nước. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân trên địa bàn thành phố
thời kỳ 1993-1999 là18,4% [Viện Kinh tế TP.Hồ Chí Minh, Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh 25 năm xây dựng và phát triển, Sở Văn hóa Thông tin TP.HCM, 2000, tr.101], riêng
6 tháng đầu năm 2000, con số này là 37,7%. [Nguyễn Hồng, Kinh tế TP.HCM 6 tháng đầu
năm, tăng trưởng chưa vững, Đầu tư, 55(654), ngày 6/7/2000, tr.12.] Đây là mức tăng kỷ
lục kể từ sau khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ trong khu vực.
Tuy nhiên, với gần 90% là các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn, tình hình này
như một “cơn sóng thần” có thể nhận chìm và cũng có thể thúc đẩy xuất khẩu như động
lực của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Mấu chốt vấn đề là làm thế nào để nâng
cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam nói chung và trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng trong điều kiện các yếu tố kinh tế thị trường ở Việt
Nam chưa được xác lập đồng bộ và đầy đủ.
Hơn nữa, cùng với Quyết định số 55/QĐ-TTg ngày 3/3/1998 của Thủ tướng Chính
phủ và Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ cho phép các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có quyền tham gia xuất khẩu trực tiếp, số lượng
các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tham gia vào hoạt động xuất khẩu ngày càng
nhiều và thực sự đã tác động tích cực đến sự tăng trưởng mạnh của kim ngạch xuất khẩu
thành phố trong năm 1999 và 6 tháng đầu năm 2000. Chắc chắn rằng trong giai đoạn mới,
số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ tăng lên (Kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực,
đến nay đã có 2.085 doanh nghiệp đăng ký thành lập trên địa bàn) nhanh chóng và trong
số đó tham gia vào hoạt động xuất khẩu sẽ chiếm tỷ trọng đáng kể do chủ trương khuyến
khích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ trước đây là các
đơn vị làm hàng xuất khẩu nay cũng tiến hành xuất khẩu trực tiếp, điều này một mặt làm
cho hoạt động xuất khẩu trên địa bàn trở nên sôi động nhưng mặt khác các doanh nghiệp
này lại phải cạnh tranh nhau về nguồn nguyên liệu xuất khẩu, thị trường xuất khẩu,… trong
khi các tiềm lực của doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa thật sự đủ mạnh.
Do đó, trong giai đoạn mới 2000 – 2020, việc hoạch định chiến lược phát triển xuất
khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố là vấn đề hết sức cấp bách
và có ý nghóa thiết thực nhằm phát huy tối ưu vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong việc đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao uy tín hàng hóa và hình ảnh của các doanh
nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời tránh được những tổn thất đáng kể cho
nền kinh teá.
5
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA TÁC DỤNG CỦA ĐỀ TÀI
Trước đây, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ,… và cũng
đã có nhiều đoàn khảo sát về kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
một số nước như Đài Loan, Trung Quốc,… Nhưng hầu như chưa có đề tài nào, đề
cập đến một chiến lược phát triển xuất khẩu đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trên địa bàn thành phố.
Mục đích nghiên cứu đề tài này là xây dựng các định hướng chiến lược về
phát triển xuất khẩu đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh. Trong đó, tập trung các định hướng về mặt hàng, ngành hàng xuất
khẩu, thị trường xuất khẩu, chiến lược marketing đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Đồng thời, chúng tôi cũng đề cập đến và các giải pháp hỗ trợ cho việc thực
hiện các chiến lược đó. Các giải pháp này phải mang tính khả thi cao và có luận cứ
khoa học chặt chẽ. Trong đó, chúng tôi đề cập đến những giải pháp trước mắt và
lâu dài, ở tầm vó mô và vi mô. Cụ thể là các giải pháp mang tính pháp lý, tạo tiền
đề cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giải pháp về tổ chức hình
thành các cơ quan chuyên môn quản lý và hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, giải pháp về đẩy mạnh công tác marketing xuất khẩu, ứng dụng công
nghệ mới vào sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ,…
Ý nghóa tác dụng của đềtài này như sau: về mặt thực tiễn, việc phát triển các
doanh nghiệp vừa và nhỏ và phát triển xuất khẩu ở các doanh nghiệp này sẽ tạo ra
nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tạo không khí sôi động trong
hoạt động xuất khẩu, đồng thời góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
của thành phố, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới “Thành phố phải đi trước và về
đích trước”. Hơn nữa, thành phố là trung tâm kinh tế lớn nhất của Việt Nam, nên
sự phát triển xuất khẩu của thành phố còn có ý nghóa như một “đầu tàu” đẩy nhanh
tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và từ đó góp phần tích cực
vào tiến trình đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngoài ra, nếu các định
hướng và giải pháp đề cập trong đề tài này được triển khai trong thực tiễn và được
kiểm nghiệm tính đúng đắn trong thực tế thì đó sẽ là những đóng góp bổ sung
về mặt lý luận của vấn đề vận dụng lý thuyết phát huy lợi thế năng động, linh hoạt,
dễ thích ứng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc vươn ra thị trường thế
giới, hội nhập khu vực và quốc tế.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Về mặt phương pháp luận, logic giải quyết vấn đề của chúng tôi trong luận văn này
là dựa theo lý luận của các học thuyết về thương mại quốc tế, các mô hình chiến lược phát
triển kinh tế đối ngoại, kinh nghiệm phát triển ngoại thương, đẩy mạnh xuất khẩu của một
số nước, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình thực hiện chiến lược
công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, và lý thuyết “cực tăng trưởng” đối với sự tăng
trưởng và phát triển của một quốc gia để phân tích, đánh giá hoạt động xuất khẩu trên địa
6
bàn thành phố và vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong sự phát triển đó, làm cơ
sở cho việc định hướng chiến lược và đề ra các giải pháp đồng bộ.
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng gồm có: quan sát thực tế, so
sánh,tổng hợp, phân tích thống kê, phỏng vấn chuyên gia, nghiên cứu kinh nghiệm điển
hình,… Trong đề tài này, chúng tôi đặc biệt coi trọng kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ và kinh nghiệm hỗ trợ xuất khẩu đối với các doanh nghiệp này của một số
nước Đông Á mà cụ thể là hai nhóm: NICs châu Á (được đánh giá là điển hình cho sự
phát triển nhanh trong hai thập niên vừa qua) và ASEAN (là các quốc gia có các điều kiện
tự nhiên – xã hội gần giống Việt Nam và đã đạt tốc độ phát triển tốt từ thập niên 80 trở
lại đây). Thực tiễn của hai nhóm trên cho thấy, để các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện
tốt chiến lược xuất khẩu, trong giai đoạn đầu cần có sự hỗ trợ về cơ chế, chính sách và tài
chính từ Chính phủ. Sự thành công vượt bậc của những nước này, và sự lớn mạnh của các
tập đoàn kinh tế-tài chính hùng mạnh hiện nay cũng xuất phát từ việc vươn ra thị trường
thế giới của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thời kỳ đầu công nghiệp hóa hướng về xuất
khẩu. Do đó, những bài học kinh nghiệm rút ra từ các trường hợp điển hình của hai nhóm
nước trên sẽ được nghiên cứu vận dụng vào việc thúc đẩy sự phát triển xuất khẩu đối với
các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
IV. ĐỐI TƯNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt
động trong lónh vực xuất khẩu (không chú trọng nhiều đến các doanh nghiệp
vừa và nhỏ là các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài) và vai trò của các doanh
nghiệp này trong việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu trên địa bàn được giới hạn
trong các phạm vi sau:
Về cơ cấu hàng xuất khẩu, chúng tôi không phân tích đến các loại hàng hóa vô hình.
Về thời gian, trong phần đánh giá hiện trạng dãy thời gian được phân tích từ năm
1986 đến nay, nhất là phân tích kỹ giai đoạn 1991-1999.
Về không gian, phạm vi nghiên cứu chủ yếu là địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh,
nhưng do tính chất và điều kiện của nền kinh tế mở, đối với nguồn hàng xuất khẩu chúng
tôi sẽ xem xét rộng ra cả khu vực phía Nam và trong một số chính sách quản lý nhất định
sẽ được xem xét trên bình diện chính sách chung toàn quốc có tác động đến Thành phố
Hồ Chí Minh.
Lónh vực nghiên cứu chủ yếu là các vấn đề định hướng, cơ chế, chính sách quản lý,
trong đề tài này sẽ có đề cập đến một vài giải pháp quản lý kỹ thuật chứ không nghiên
cứu những vấn đề kỹ thuật công nghệ cụ thể.
7
CHƯƠNG I
TỔNG LUẬN CHUNG VỀ SỰ CẦN THIẾT ĐỊNH HƯỚNG
CHIẾN LƯC XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ TRÊN ĐỊA BÀN TP.HỒ CHÍ MINH
ĐẾN NĂM 2020
I. Những đặc điểm chung và khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
lónh vực xuất khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh
I.1 Khái niệm và cách xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thế giới
Ngày nay, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, kể cả ở các nước phát triển đều nhận
thấy rõ vai trò và vị trí của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tiến trình phát triển kinh tế
– xã hội của mình. Song, cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm chung nhất nào, được
các nước thống nhất để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do vậy một doanh nghiệp
được xem là vừa và nhỏ ở một quốc gia này lại có thể được xem là doanh nghiệp lớn ở
quốc gia khác hoặc quá nhỏ ở quốc gia khác, thậm chí ngay trong cùng một quốc gia tùy
từng mục đích khác nhau mà người ta cũng có thể sử dụng các tiêu chí khác nhau để phân
loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này đã và đang gây khó khăn trong việc hoạch định
và triển khai các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, chiến lược khuyến khích và hỗ trợ
xuất khẩu của quốc gia. Và cũng chính điều ấy rất có thể sẽ làm cho doanh nghiệp bị thiệt
thòi khi mà các tổ chức tài chính – tín dụng trong và ngoài nước ngày càng quan tâm và
chú trọng hơn trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp loại này. Bởi lẽ, trước xu thế cạnh tranh
ngày càng gay gắt và khốc liệt trên thị trường thế giới thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ tỏ
ra khá năng động và linh hoạt.
Trong bối cảnh đó, các quốc gia đề ra cho mình những khái niệm làm cơ sở để xác
định doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhật Bản, quốc gia có nền kinh tế phát triển định nghóa
doanh nghiệp vừa và nhỏ như sau: Doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có từ 300 công
nhân trở xuống và vốn dưới 100 triệu Yên đối với ngành chế biến khoáng sản, công
nghiệp xây dựng, giao thông, chế tạo; có từ 100 công nhân trở xuống và vốn dưới 30 triệu
Yên đối với ngành kinh doanh bán buôn; và có từ 50 công nhân trở xuống và vốn dưới 10
triệu Yên đối với ngành kinh doanh bán lẻ. Doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có từ 20
công nhân trở xuống đối với ngành chế biến và từ 5 công nhân trở xuống đối với ngành
dịch vụ thương mại. Đài Loan, đại diện cho nhóm nước NICs định nghóa doanh nghiệp vừa
và nhỏ là doanh nghiệp có doanh thu dưới 40 triệu Đài tệ và tổng giá trị tài sản dưới 120
triệu Đài tệ. Trong khi đó, Thái Lan, đại diện cho nhóm các nước NIEs Châu Á lại định
nghóa doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có từ 50 công nhân trở xuống và doanh nghiệp
vừa là doanh nghiệp có từ 50 đến 200 công nhân.
Các tiêu chí chủ yếu xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là căn cứ vào vốn,
số nhân công, doanh thu, thực trạng phát triển kinh tế hoặc xuất khẩu của các doanh
nghiệp mỗi nước, mỗi địa phương. Có một số nước chỉ dùng một tiêu chí, một số nước
dùng hệ thống hàng loạt các tiêu chí (tức là xác định bằng hai tiêu chí trở lên). Dưới đây
là một số tiêu chí được dùng để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước:
8
Bảng 1: Tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước
Nước
Các tiêu chí áp dụng
Tổng vốn
hoặc giá trị tài sản
Số lao động (người)
Australia
Canada
HongKong
Indonesia
Nhật
Mexico
Philippines
Singapore
Myanmar
Thái lan
Mỹ
< 500 trong CN và DV
< 500 trong CN và DV
<100 trong công nghiệp
< 50 trong dịch vụ
< 100
< 100 trong bán buôn
< 50 trong bán lẻ
< 300 trong các ngành khác
< 250
< 200
< 100
< 100
< 100
< 500
Doanh thu
< 20 triệu đô la Canada
< 0,6 tỷ Rupiah
< 30 triệu Yên
<10 triệu Yên
< 100 triệu Yên
< 7 triệu USD
< 100 triệu Pêsô
< 499 triệu USD
< 2 tỷ Rupiah
< 20 triệu Bath
I.2 Khái niệm và cách xác định của Việt Nam
Cho đến nay, Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Hợp tác xã và Luật Doanh nghiệp
đã có qui định rõ về doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, các loại công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp doanh và hợp tác xã,… nhưng chưa có một
định nghóa chính xác hay hệ thống những chỉ tiêu để phân loại như thế nào là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Trên thực tế, doanh nghiệp vừa và nhỏ tồn tại cả trong khu vực kinh tế
quốc doanh và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Trong khu vực kinh tế quốc doanh, số
các doanh nghiệp lớn rất ít và trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thì các doanh
nghiệp vừa và nhỏ chiếm đa số. Trong một số dự án nghiên cứu về doanh nghiệp vừa và
nhỏ của Việt Nam gần đây, người ta cũng thường sử dụng hai tiêu thức về số lao động
thường xuyên và vốn sản xuất [Học viện Chính trị quốc gia và Viện Friedrich Ebert
CHLB Đức, Kỷ yếu khoa học: “Dựa án chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Việt Nam”- Kết quả nghiên cứu giai đoạn I (tháng 8 đến tháng 12 năm 1996), Hà
Nội 12/1996]. Đây là hai tiêu thức được sử dụng rộng rãi vì tất cả các doanh nghiệp đều
có thể xác định được hai tiêu thức này ở mọi cấp. Theo đó, tiêu thức phân loại doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam như sau:
Bảng 2: Tiêu thức phân loại Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Lónh vực
Tiêu thức
Vốn sản xuất (VNĐ)
Lao động thường xuyên (người)
Công nghiệp
DNVVN
DN nhỏ
Dưới 5 tỷ
Dưới 1 tỷ
Dưới 300
Dưới 50
Thương mại, dịch vụ
DNVVN
DN nhỏ
Dưới 2 tỷ Dưới 1 tỷ
Dưới 200
Dưới 30
Nguồn: Học viện chính trị quốc gia và Viện Friedrich Ebert CHLB Đức, Kỷ yếu khoa học: “Dự án
chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam” – Kết quả nghiên cứu giai đoạn I (tháng
8 đến tháng 12/1996), Hà Nội, tháng 12/1996.
Tuy nhiên, theo mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, hoạch định
chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngày 20/06/1998, Thủ tướng
9
Chính Phủ đã ban hành Qui định tạm thời số 681/CP – KTN về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Theo Qui định này, tạm thời thống nhất tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay là doanh nghiệp có:
-Vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng Việt Nam
-Lao động trung bình hằng năm dưới 200 người.
Như vậy, doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam được hiểu bao gồm các chủ thể sản
xuất kinh doanh được thành lập và đăng ký hoạt động theo các qui định của pháp luật, có
qui mô vốn và/hoặc số lao động phù hợp với qui định của Chính phủ. Theo đó, khu vực
doanh nghiệp vừa và nhỏ được hình thành bởi:
- Các doanh nghiệp Nhà nước có qui mô vừa và nhỏ được thành lập và đăng ký theo
qui định của Luật doanh nghiệp nhà nước.
- Các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các doanh nghiệp tư nhân có
qui mô vừa và nhỏ được thành lập và đăng ký hoạt động theo Luật công ty, Luật
doanh nghiệp tư nhân.
- Các hợp tác xã có qui mô vừa và nhỏ được thành lập và đăng ký hoạt động theo
qui định của luật hợp tác xã.
- Các hộ tư nhân và nhóm sản xuất dưới vốn pháp định đăng ký theo Nghị định số
66/HĐBT.
I.3 Những đặc điểm chung của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Sự phát triển mạnh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời gian qua đã tích cực
góp phần vào việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Bên cạnh những
doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động rất hiệu quả cũng có không ít các doanh nghiệp vừa
và nhỏ gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh, nhất là vốn, công nghệ, năng lực quản lý và
điều hành,… Các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt nam được hình thành theo những
khoảng thời gian khác nhau. Có doanh nghiệp được hình thành trước khi có chủ trương đổi
mới của Đảng và Nhà nước nhưng cũng có doanh nghiệp mới được thành lập trong vài
năm trở lại đây. Nhưng nhìn chung, các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam có những
đặc điểm sau:
- Do lợi thế qui mô nhỏ và vừa nên các doanh nghiệp loại này tỏ ra khá năng động
trong sản xuất, kinh doanh, đáp ứng kịp thời các nhu cầu của khách hàng, có thể
thay đổi kịp thời số lượng và chất lượng theo yêu cầu của khách hàng trên cơ sở
quan hệ trực tiếp. Bộ máy tổ chức gọn nhẹ, chưa có các nhà quản trị được huấn
luyện chuyên môn cao.
- Có mặt trong hầu hết các lónh vực sản xuất của nền kinh tế như công nghiệp,
thương mại, dịch vụ. Cụ thể tập trung chủ yếu trong các ngành nông, lâm, ngư
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, gia công may mặc, da giày, công nghiệp nhẹ (chế
biến đồ uống, thực phẩm), cơ khí (công cụ công nghiệp, điện gia dụng).
- Có công nghệ sản xuất tương đối lạc hậu, chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng các
tiêu chuẩn quốc tế. Tốc độ thay đổi kỹ thuật, công nghệ diễn ra chậm. Từ đó năng
lực cạnh tranh của sản phẩm kém, khó thâm nhập vào thị trường thế giới. Trừ một
số ngành, nghề hoặc một số sản phẩm có tính đặc thù.
10
- Sử dụng nhiều lao động trên một lượng vốn đầu tư ban đầu ít. Xu hướng này giúp
cho doanh nghiệp tiết kiệm một khoản tài sản cố định khá lớn về nhà xưởng kho
tàng, đất đai. Đa số, nhà ở của chủ doanh nghiệp cũng được tận dụng làm công
xưởng, kho chứa. Hoạt động sản xuất kinh doanh có thể diễn ra trên một diện tích
chật hẹp, cơ sở hạ tầng kém, điều kiện sản xuất khó khăn, máy móc được mua lại
của những doanh nghiệp nhà nước giải thể hoặc thuê mướn, chỉ khi thật cần thiết
thì các doanh nghiệp này mới gia công những bộ phận sản phẩm hay những công
đoạn trong quá trình sản xuất mà yêu cầu công nghệ vượt quá khả năng của họ.
- Năng lực tài chính còn yếu, vốn đầu tư ít nên dễ chuyển đổi ngành nghề kinh
doanh và ít bị tổn thất khi thị trường biến động mạnh. Tuy nhiên, các doanh nghiệp
vừa và nhỏ luôn ở trong tình trạng thiếu vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, từ đó
khó có thể thực hiện những đơn đặt hàng với số lượng lớn và những đòi hỏi ngặt
nghèo về chất lượng.
- Thiếu sự hỗ trợ tích cực về chính sách tài chính – tín dụng từ các tổ chức Ngân
hàng, Chính phủ,… nên khó có điều kiện đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất
lao động. Do đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đa số chỉ dừng lại ở việc cải tiến
các công nghệ đang sử dụng hoặc cải tiến mẫu mã cho phù hợp với thị hiếu người
tiêu dùng.
- Chưa hiểu rõ và nắm vững các qui định, các chủ trương, chính sách pháp luật của
Nhà nước, từ đó khi gặp khó khăn dẫn đến thường trốn thuế, gian lận thương mại,
làm hàng giả,….
- Thiếu thông tin về thị trường thế giới do năng lực marketing còn nhiều yếu kém và
bất cập. Một phần do chưa có đội ngũ cán bộ làm công tác marketing, thiếu kinh
phí thực hiện các chiến lược marketing ở qui mô vừa và lớn. Hơn nữa, thiếu chính
sách hỗ trợ thông tin từ Chính phủ và các cơ quan chính sách.
I.4 Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Hồ Chí Minh
- Nếu căn cứ vào tiêu chí thành phần kinh tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo
qui mô vốn, lao động và doanh thu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm 1993
có thể xếp loại các doanh nghiệp đó như sau: (xem bảng 3)
- Qua bảng 3 ta thấy, doanh nghiệp nhà nước với qui mô vừa và nhỏ tại thành phố
Hồ Chí Minh tính từ năm 1993 có mức vốn đến 20 tỷ đồng, số lao động đến 500
người, doanh thu 25 tỷ đồng Việt Nam. Trong khi đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài với qui mô vừa có số vốn là 100 tỷ đồng, số lao động trung bình là 200
người, doanh thu 30 tỷ đồng. Doanh nghiệp tư nhân qui mô vừa với số vốn là 1,2 tỷ
đồng Việt Nam, số lao động 500 người. Như vậy, ngoài doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hai chỉ tiêu về vốn và lao động cao hơn
cách xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ của Chính phủ, các đơn vị còn lại đều là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ phù hợp với cách xác định của Chính phủ. Song, đây
cũng là điều dễ hiểu vì điều kiện đặc thù của các doanh nghiệp trên địa bàn thành
phố.
Theo Sở Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh, loại doanh nghiệp theo Luật Công ty
và Luật doanh nghiệp được coi là loại doanh nghiệp vừa. Còn doanh nghiệp được tổ chức
11
theo NĐ66/HĐBT và NĐ26, 27/HĐBT thì được xếp vào loại doanh nghiệp nhỏ. Tất cả
đều tạo thành mạng lưới thương mại dịch vụ hoạt động khắp địa bàn dân cư.
Bảng 3: Phân loại các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn
TP. Hồ Chí Minh năm 1993
Loại hình doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp ĐTNN
Doanh nghiệp tư nhân
Hợp tác xã
Tổ hợp
Cá thể tiểu chủ
Qui mô vốn (tỷ đồng)
Thấp
TB
Cao
5 15-20
>30
11
100 >120
0,3
1,2
>2
0,10 0,175
0,6
0,01
0,10
0,3
0,05
0,01
0,02
Qui mô lao động (người)
Thấp
TB
Cao
100
500
0
30
200
0
30
500
0
5
50
0
15
40
0
1
2
0
Qui mô doanh thu (tỷ đồng)
Thấp
TB
Cao
0
25
0
0
30
0
0
1,8
0
0
1,5
0
0
0,6
0
0
0,05
0
Nguồn: Vương Liêm, Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Tập 1, tr.30
I.5 Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lónh vực xuất khẩu trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hoạt động trong
lónh vực xuất khẩu là các đơn vị gia công, làm nhiệm cung ứng hàng xuất khẩu cho các
doanh nghiệp lớn, hoặc doanh nghiệp trung ương đóng trên địa bàn. Trong đó, có một số
các doanh nghiệp vừa tham gia xuất khẩu trực tiếp các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền
thống. Hiện tại, xu hướng các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia xuất khẩu trực tiếp ngày
càng tăng do tiếp cận với thị trường thế giới.
Qua xem xét một số tài liệu khảo sát về doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn
thành phố, cũng như các địa phương khác của Việt Nam, chúng tôi nhận thấy khái niệm
về doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể “cứng nhắc” mà nên thống nhất trong một vài chỉ
tiêu chung, trong đó cần nghiên cứu kỹ các điều kiện phát triển thực tế của các doanh
nghiệp đó về ngành nghề đặc thù và lãnh thổ hành chính có tính lợi thế riêng. Để từ đó,
các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ khi triển khai sẽ đến được các doanh
nghiệp này.
II. Vị trí của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong hệ thống các doanh nghiệp
xuất khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh
Theo chị Trịnh Thị Hương – Trưởng phòng thuế Cục Hải quan thành phố Hồ Chí
Minh, trong năm 1999, tức là vào thời điểm có hiệu lực của Nghị Định 57/NĐ-CP (ban
hành ngày 31/7/1998) toàn thành phố có 3000 doanh nghiệp đăng ký áp mã số Hải quan,
cũng có nghóa là có khoảng 3000 doanh nghiệp đăng ký tham gia xuất khẩu trực tiếp. Số
doanh nghiệp trực tiếp tham gia xuất khẩu của thành phố Hồ Chí Minh chiếm gần 45% số
doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên số doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp
chiếm tỷ lệ quá thấp trong tổng số doanh nghiệp trên địa bàn (3.000/30.000 doanh
nghiệp). Điều đó cho thấy độ mở đối với doanh nghiệp là chưa lớn lắm. Trong 6 tháng đầu
năm 2000, cũng là 6 tháng kể từ khi Luật doanh nghiệp được thi hành, cả nước có 5.000
doanh nghiệp đăng ký thành lập, trong số đó, có 2.085 doanh nghiệp đăng ký trên địa bàn
TP. Hồ Chí Minh [Phạm Văn, Kinh tế, thành phố Hồ Chí Minh: những tín hiệu khả quan,
TBKTVN, số 78(644), ngày 30/6/2000, tr.1]. Ngoài ra, cùng với đông đảo các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trong tổng số 27.000 doanh nghiệp của thành phố đang tham gia tích
12
cực vào quá trình sản xuất, chế biến, ủy thác xuất khẩu đã, đang và sẽ tiếp tục tạo nên
những điều kỳ tích cho xuất khẩu trên địa bàn thành phố.
Khu vực tư nhân, nơi mà hơn 90% là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có không khí
kinh doanh rất sôi nổi và hiệu quả. Có thể nói rằng, hiện nay các doanh nghiệp vừa và
nhỏ thuộc mọi thành phần kinh tế đều đã được quyền tham gia và được khuyến khích
tham gia vào hệ thống các doanh nghiệp xuất khẩu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra còn có đông đảo các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tổng số 27.000 doanh
nghiệp của thành phố cũng tham gia vào quá trình sản xuất - chế biến và ủy thác hàng
xuất khẩu. Do vậy nếu xây dựng được chiến lược định hướng xuất khẩu kịp thời cùng với
các giải pháp đồng bộ và khả thi, vị trí của các doanh nghiệp xuất khẩu vừa và nhỏ trên
địa bàn thành phố sẽ ngày càng được nâng cao, tương xứng với tiềm năng và tỷ trọng của
các doanh nghiệp này trong tổng số các doanh nghiệp xuất khẩu đóng trên địa bàn.
III. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với xuất khẩu, đối với tăng
trưởng và phát triển kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh và Việt Nam
Theo tính toán của các nhà nghiên cứu, toàn bộ khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ
thuộc các thành phần kinh tế của cả nước chiếm khoảng 24% GDP và tạo ra 31% giá trị
tổng sản lượng công nghiệp hàng năm. [Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Dự thảo báo cáo Định
hướng chiến lược và chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đến năm
2010, tr.19] Điều này, cho thấy doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng đối với
việc thúc đẩy tốc độ tăng tưởng kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu.
III.1 Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với xuất khẩu
Có thể nói, sự tăng trưởng khá ổn định của kim ngạch xuất khẩu trong hơn 10 năm
qua đã góp phần đáng kể vào việc duy trì và nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Một
trong những nguyên nhân cơ bản về sự thành công của xuất khẩu, đặc biệt là trong thời
gian gần đây, đó là Chính phủ Việt Nam cho phép các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế được quyền tham gia xuất khẩu trực tiếp theo tinh thần Quyết Định số 53/QĐ-CP,
ngày 3/3/1998 và tiếp theo đó là Nghị Định 57/NĐ-CP, ngày 31/7/1998 về hướng dẫn chi
tiết thi hành Luật Thương mại đã tạo động lực mạnh mẽ cho các doanh nghiệp tư nhân
tham gia xuất khẩu (đa số là các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ). Sự tăng trưởng
vượt bậc cả tương đối lẫn tuyệt đối của kim ngạch xuất khẩu năm 1999 có sự đóng góp rất
lớn của khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước, trong đó gần 90% là các
doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ, có công nghệ lạc hậu, ít có kinh nghiệm trên thương
trường quốc tế… đã có bước bức phá ngoạn mục. Với kim ngạch xuất khẩu ước thực hiện
8,946 tỷ USD so với 7,378 tỷ USD năm 1998 và 7,6 tỷ USD dự kiến đầu năm, khu vực này
đạt mức tăng trưởng 21,25% so với năm 1998 và vượt 17,71% so với mục tiêu đề ra, trong
khi các chỉ số này của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 29,98% và 7,37%. [Thời báo
kinh tế Việt Nam 1999 – 2000, 23]. Các con số và sự kiện trên đây càng chứng tỏ vai trò
quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng và phát
triển xuất khẩu của Việt Nam.
Ngoài ra, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đối với xuất khẩu còn
thể hiện ở những điểm sau:
Một là, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ cao trong toàn bộ hệ thống các doanh
nghiệp xuất khẩu Việt Nam, là chỗ dựa “đầu vào” và “đầu ra” đắc lực cho các đầu mối
13
xuất khẩu. Hiện nay, trong mạng lưới thu mua xuất khẩu có đến 90% các doanh nghiệp tư
thương đảm trách các kênh lưu thông, phân phối rất linh hoạt, nhạy bén, sát thực với tình
hình biến động của thị trường.
Hai là, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mặt hầu hết trong các lónh vực sản xuất, chế
biến và kinh doanh xuất khẩu của Việt Nam, với nhiều mặt hàng xuất khẩu phong phú và
đa dạng. Trong đó, các hoạt động chủ yếu là gia công và chế biến xuất khẩu. Điều này
cho thấy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần tích cực trong việc triển khai chiến lược
đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu theo hướng lợi thế của Đảng và Nhà nước.
Ba là, doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần khai thác có hiệu quả các tiềm năng xuất
khẩu của Việt Nam, vốn rất phong phú trong các làng nghề truyền thống của thành thị và
nông thôn, từ đó nâng cao tính độc đáo của sản phẩm xuất khẩu Việt Nam trên trường
quốc tế. Trước đây do không được phép tham gia trực tiếp vào quá trình xuất khẩu, nên
các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa quan tâm đúng mức đến thị hiếu của nhà nhập khẩu
nước ngoài, chưa quan tâm đến sự ổn định của chất lượng ngành, sự đa dạng của mẫu
mã…. Ngày nay, khi tham gia xuất khẩu trực tiếp các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải chú
trọng đến những yếu tố này, do đó các tiềm năng quốc gia, các nguồn nguyên liệu cho
xuất khẩu được sử dụng hiệu quả hơn.
Bốn là, các doanh nghiệp vừa và nhỏ giữ vai trò quan trọng trong việc chuyển giao
công nghệ, cải tiến chất lượng sản phẩm xuất khẩu, ứng dụng nhanh công nghệ mới với
trình độ thích hợp vào sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu. Mặc dù Đảng và Nhà nước có
chiến lược đầu tư công nghệ nguồn, song điều kiện thực tế khách quan của đất nước vẫn
còn nhiều khó khăn về tài chính và đội ngũ cán bộ khoa học cũng như đội ngũ công nhân
bậc cao. Chủ trương trong giai đoạn trước mắt sử dụng các công nghệ phù hợp với trình độ
sản xuất chung của đất nước mà vẫn không lạc hậu, trước hết là khuyến khích áp dụng
công nghệ sử dụng nhiều lao động, và chỉ có các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là mấu
chốt để có thể phát huy hiệu quả, tác dụng của loại công nghệ này.
Năm là, doanh nghiệp vừa và nhỏ là môi trường tốt và thuận lợi để đào tạo và rèn
luyện để trở thành các nhà doanh nghiệp lớn, có kinh nghiệm và bản lónh trên thương
trường quốc tế trong tương lai. Bởi lẽ, trong quá trình hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp
vừa và nhỏ phải chịu nhiều sức ép từ phía các doanh nghiệp lớn. Mặt khác các doanh
nghiệp vừa và nhỏ mới tham gia trực tiếp vào hoạt động xuất khẩu chỉ vài năm trở lại đây
nên còn gặp nhiều khó khăn thử thách. Điều này đòi hỏi những nhà lãnh đạo của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ phải không ngừng cải tiến và đổi mới phương pháp quản lý, tổ
chức sản xuất và kinh doanh. Trong trường hợp có rủi ro xảy ra thì tổn thất và thiệt hại
cũng không lớn lắm. Vì thế, đây là bước đệm tốt nhất cho các nhà kinh doanh xuất khẩu
Việt Nam thực hành và tích lũy kinh nghiệm trong hoạt động xuất khẩu của mình.
Do vậy, trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, để duy trì và nâng cao kim ngạch xuất
khẩu, đưa Việt Nam thành nước có nền ngoại thương phát triển thì việc phát huy vai trò
tích cực của các doanh nghiệp xuất khẩu vừa và nhỏ là hết sức cần thiết.
III.2 Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với tăng trưởng và phát triển
kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh và Việt Nam
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng trên 70% các doanh nghiệp xuất khẩu,
đang đảm nhiệm trọng trách tạo động lực để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa – hieän
14
đại hóa đất nước. Thực tế hiện nay, các nguồn thu ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị
cần thiết của nước ta rất khan hiếm, trông chờ chủ yếu từ nguồn thu xuất khẩu. Thu ngoại
tệ từ xuất khẩu chiếm khoảng 2/3 trong tổng nguồn thu ngoại tệ của nước ta. Xuất khẩu
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tác dụng “kích cầu”, tạo “đầu ra” cho sản xuất trong
nước từ đó mở rộng quy mô sản xuất trong nước, giải quyết việc làm cho người lao động.
Hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam tương đối cao, vào khoảng 6% -7%/năm, riêng
thành phố Hồ Chí Minh trong năm 1999 tỷ lệ này là 7,04% [Thời báo kinh tế Việt Nam
1999 – 2000, tr.12]. Nhu cầu về việc làm ở Việt Nam lên đến từ 3 – 4,5 triệu người mỗi
năm. Trong khi đó, khu vực kinh tế quốc doanh cao nhất cũng chỉ thu hút được 2 triệu lao
động. Hơn thế nữa, theo xu hướng tinh giảm gọn, nhẹ và hiệu quả bộ máy tổ chức hành
chính Nhà nước, trong năm 2000 giảm 15% tổng biên chế, đồng thời cùng với quá trình
đẩy nhanh tốc độ cổ phần hóa khoảng 4000 doanh nghiệp nhà nước đến năm 2005 và thời
gian nhàn rỗi ở nông thôn vượt trên mức 65%, áp lực giảm quyết việc làm cho người lao
động còn tiếp tục tăng cao. Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ đã góp phần đáng kể vào việc giảm áp lực nói trên. Trung bình
hằng năm các doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút khoảng hơn 25% lực lượng lao động
[TS.Đào Duy Chữ, Thực trạng và chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt
Nam, Thời báo kinh tế Sài Gòn, số 42/98(407), ngày 15/10/1998, tr.14.]. Một khi nhu cầu
lao động được giải quyết và ngày càng có nhiều người lao động tham gia vào quá trình
sản xuất thì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế sẽ được duy trì và phát triển.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh tham gia tích cực và
nhanh chóng vào việc đổi mới thiết bị và công nghệ, góp phần đáng kể vào tiến trình đẩy
nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thành phố và cả nước. Trong thời gian 1990 –
1996, tốc độ tăng trưởng công nghiệp bình quân trên địa bàn hàng năm lên đến 14%, trong
đó có một số ngành tăng trưởng khá cao, đạt mức 36% [Trần Ngọc Côn, Các Doanh
nghiệp vừa và nhỏ TPHCM với vấn đề đổi mới thiết bị, doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam:
thực trạng và giải pháp, Nhà xuất bản Thống kê, tr,85]. Trong thời gian vừa qua tốc độ
tăng trưởng này tuy có chậm lại nhưng cũng đạt trên 10%/năm, và trong 6 tháng đầu năm
2000, con số này là 15,5% [Phạm Văn, Kinh tế TPHCM 6 tháng đầu năm: Những tín hiệu
khả quan, Thời báo KTVN, số 78(644), ngày 30/6/2000, tr.1], riêng khu vực doanh nghiệp
có vốn đầu tư trong nước, mà hơn 80% là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đạt 15,8%. Sự
phát triển của công nghiệp thành phố là động lực rất lớn cho sự phát triển của các ngành
công nghiệp chế biến, trong đó có chế biến hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Những kết quả đó đã và đang làm cho chất lượng hàng xuất khẩu Việt Nam ngày
càng được nâng cao, cơ cấu hàng xuất khẩu chuyển biến theo hướng tích cực, giảm dần tỷ
lệ xuất khẩu hàng nguyên thô. Trong sự phát triển công nghiệp và chế biến hàng xuất
khẩu đó có vai trò quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố,
bởi lẽ hiện tại giá trị sản lượng công nghiệp và giá trị kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh luôn chiếm gần 40% của cả nước.
Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh còn có tác dụng tích cực tạo động lực cho xuất khẩu của vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam, tạo đầu ra cho các mặt hàng nông, lâm, thủy hải sản, khai thông thị
trường trong nước. Với vai trò là vệ tinh cho các doanh nghiệp xuất khẩu lớn, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ làm cho trao đổi hàng hóa hai chiều giữa thành phố và các vùng lân
cận được đảm bảo: hàng công nghiệp và tiêu dùng từ thành phố được chuyến đến nông
15
thôn và các vùng tỉnh lân cận, ngược lại nguồn hàng phục vụ cho chế biến xuất khẩu của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố được cung cấp bởi các đơn vị, cơ sở
làm hàng xuất khẩu tại các vùng phụ cận và từ các hộ gia đình nông thôn. Đến lượt mình,
các doanh nghiệp xuất khẩu vừa và nhỏ sẽ cung cấp hàng cho các doanh nghiệp xuất khả
năng hoặc xuất khẩu tiếp. Nếu như hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trên địa bàn thành phố gặp trở ngại, đầu ra thị trường thế giới gặp khó khăn thì qui trình
này sẽ không diễn ra thông suốt, hàng hóa nông sản xuất khẩu (chiếm tỷ trọng gần 70%
tổng kim ngạch xuất khẩu) ứ đọng sẽ gây khó khăn cho các đơn vị và những hộ gia đình
sản xuất hàng xuất khẩu, từ đó gây ra hiệu ứng kìm hãm tốc độ tăng trưởng và phát triển
kinh tế của thành phố và cả nước.
Với chủ trương doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được quyền tham gia xuất
khẩu trực tiếp theo tinh thần Quyết định 55/QĐ/Ttg ngày 3/3/1998 của Thủ tướng và Nghị
định 57/NĐ – CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ, cùng với sự năng động và linh hoạt của
mình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ tham gia mạnh mẽ vào hoạt động xuất khẩu. Trong
giai đoạn từ nay đến năm 2020, số lượng và qui mô các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia
trực tiếp vào hoạt động xuất khẩu chắc chắn sẽ tăng mạnh, nhất là sau khi Luật doanh
nghiệp được thực thi. Do đó, để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình
quân từ 24 – 28%/năm và đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu tiềm năng, thì việc xây
dựng chiến lược thúc đẩy xuất khẩu ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ có ý nghóa hết sức
quan trọng, từ đó tạo động lực cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế thành phố Hồ Chí
Minh và Việt Nam. Khi xuất khẩu tăng mạnh, nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu được đảm
bảo, ngân sách nhà nước hạn chế được tình trạng thâm hụt nghiêm trọng, (hiện nay thu từ
thuế xuất nhập khẩu chiếm 22% và thu từ thuế giá trị gia tăng chiếm 20% tổng các nguồn
thu của ngân sách Nhà nước), vì thế các máy móc thiết bị cần thiết cho quá trình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa được đáp ứng.
IV. Sự cần thiết định hướng chiến lược xuất khẩu đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ nay đến năm 2020
IV.1 Bối cảnh thị trường khu vực và thế giới
Ngày nay, phân công lao động quốc tế và thị trường thế giới thực chất vẫn là phân
công lao động quốc tế tư bản chủ nghóa và thị trường thế giới tư bản chủ nghóa. Mọi quan
hệ kinh tế, thương mại, khoa học - kỹ thuật chủ yếu phải được điều tiết bằng các qui luật
kinh tế như: qui luật giá trị, qui luật cung - cầu, qui luật cạnh tranh và qui luật tối đa hóa
lợi nhuận… Cạnh tranh về kinh tế diễn ra ngày càng căng thẳng và quyết liệt hơn giữa các
nước và các khu vực với nhau, mà điển hình là với sự hình thành nên ba trung tâm cạnh
tranh buôn bán lớn nhất thế giới là Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản với hàng loạt khu vực ảnh
hưởng khác đang lôi kéo và thu hút đông đảo các quốc gia tham gia. Để thắng thế trong
cạnh tranh, buộc các quốc gia phải tìm những đối sách, những công cụ cạnh tranh hiện đại
và tinh vi. Các chính sách thể chế, luật pháp của các quốc gia vốn là các yếu tố “phi kinh
tế”, song, ngày nay đã được các quốc gia coi như là một công cụ đắc lực cho việc can
thiệp ngày càng sâu và mạnh vào đời sống kinh tế quốc tế. Trong điều kiện ấy, các nước
đang và kém phát triển buộc phải chấp nhận “luật chơi” chung của những nước có tiềm
lực về kinh tế và thế lực về chính trị trên thị trường thế giới.
16
Trên thị trường thế giới ngày nay các nước đang và kém phát triển luôn ở vào tình
trạng bất lợi trong buôn bán với nước ngoài, điều kiện mậu dịch của các nước này ngày
càng trở nên tồi tệ hơn. Bởi vì,
Thứ nhất, xu hướng thị trường thế giới ngày nay đã thay đổi căn bản về cơ cấu mặt
hàng xuất nhập khẩu: tăng nhanh vai trò lưu thông quốc tế về mặt hàng thành phẩm và
bán thành phẩm công nghiệp, có hàm lượng công nghệ cao, đồng thời giảm mạnh vai trò
lưu thông quốc tế về mặt hàng sơ chế. Nếu như trước chiến tranh thế giới thứ hai, mặt
hàng thành phẩm và bán thành phẩm công nghiệp chỉ chiếm 1/3 tổng kim ngạch buôn bán
thế giới thì ngày nay tỉ trọng này đã tăng lên 2/3, đặc biệt đối với nhóm hàng máy móc
thiết bị hiện đại, chiếm hơn 40% kim ngạch buôn bán thế giới.
Thứ hai, các nước tư bản công nghiệp phát triển ngày nay là những nước xuất khẩu
chủ yếu về các mặt hàng thành phẩm và bán thành phẩm công nghiệp, chiếm 95% kim
ngạch thế giới về nhóm mặt hàng này, mà xu thế giá các mặt hàng này đang tăng cao
(trung bình 10% năm). Trong khi đó, các nước đang và kém phát triển là những nước xuất
khẩu chủ yếu những mặt hàng nông, nguyên nhiên liệu, nhưng xu thế giá của nhóm mặt
hàng này lại đang giảm mạnh, đồng thời các nước này nhập khẩu chủ yếu máy móc thiết
bị của các nước tư bản công nghiệp phát triển. Điều này làm cho các nước đang và kém
phát triển vốn đã ở vào vị trí bất lợi lại càng bất lợi hơn trong mậu dịch quốc tế.
Cùng với việc Việt Nam gia nhập vào khối thương mại tự do ASEAN (AFTA) và
APEC đã ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. Và chắc chắn rằng
trong tương lai không xa Việt Nam cũng sẽ gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Điều đó có nghóa là, trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 và xa hơn là năm 2020, Việt
Nam cần phải chuẩn bị cho mình những tiền đề vững chắc trước sự cạnh tranh mạnh mẽ
và gay gắt trên thị trường thế giới. Khi tham gia AFTA, các mặt hàng nông sản đã chế
biến không phải là lónh vực áp dụng các quy chế “nhạy cảm” theo Hiệp định CEPT. Vì
vậy, tập trung vào ngành công nghiệp chế biến sẽ là hướng đầu tư quan trọng và thích hợp
nhất. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ Thành phố Hồ Chí Minh với lợi thế về công nghệ chế
biến của mình sẽ là trung tâm chế biến hàng xuất khẩu cho các vùng phụ cận. Quá trình
tự do hóa mậu dịch của các tổ chức này sẽ tạo ra những mối liên kết kinh tế lớn với nền
kinh tế thế giới, đặc biệt với các nền kinh tế phát triển nhất là Khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương, từ đó mở được thị trường xuất khẩu rộng lớn cho các mặt hàng xuất khẩu của
nước ta. Do vậy, để có thể hội nhập nhanh chóng, đồng thời nâng cao sức cạnh tranh, các
doanh nghiệp xuất khẩu vừa và nhỏ cần xây dựng cho mình những chiến lược sản xuất,
kinh doanh xuất khẩu cụ thể, trong đó việc xác định các cặp “sản phẩm – thị trường” lợi
thế của doanh nghiệp là vấn đề có ý nghóa hết sức quan trọng.
Với những xu thế đó của thị trường khu vực và thế giới, để phát huy vai trò đầu
tàu, tạo động lực cho xuất khẩu của cả nước, việc xây dựng và tìm kiếm các giải pháp
thực hiện chiến lược phát triển xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ nay đến năm 2020 là vấn đề hết sức cần thiết và có ý
nghóa thiết thực.
IV.2 Tình hình kinh tế Việt Nam và thành phố Hồ Chí Minh sau hơn 10 năm đổi mới
Sau hơn 10 năm thực hiện chính sách đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được
những thành tựu vượt bậc, hết sức khả quan, thể hiện:
17
Một là, nhịp độ tăng GDP bình quân giai đoạn 1991 – 1998 là 8,4%/năm (rất cao so
với 1%/năm của thời kỳ 1976 – 1981, nặng về bao cấp). Trong đó, năm 1997, cao thứ nhì
châu Á sau mức 9,8% của Trung Quốc, và năm 1998 dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính Đông Á, nhịp độ tăng trưởng giảm còn 5,8%, nhưng vẫn giữ vị trí cao thứ
nhì châu Á sau Trung Quốc (7,8%). Năm 1999 con số này tụt xuống còn 5% (theo báo cáo
của quốc hội khóa XI, kỳ họp tháng 5/2000).
Hai là, ngành nông nghiệp đạt mức tăng tổng sản lượng bình quân 6%/năm trong
giai đoạn 1991 – 1998, và năm 1999 đạt mức tăng 5,2% (Thời báo kinh tế Việt Nam 1999 –
2000) (thuộc loại cao so với nhiều nước trên thế giới chỉ tăng phổ biến từ 2-4%/năm),
khiến cho ngành này đã thực sự trở thành nền tảng của công nghiệp hóa. Đặc biệt, có thể
coi thành quả sản xuất lương thực là một kỳ tích của Việt Nam, chỉ sau một năm áp dụng
cơ chế “khoán 10” (Nghị quyết 10 của Bộ Chính Trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp
ban hành năm 1988), kể từ năm 1989 nước ta đã có thừa gạo để xuất khẩu, chấm dứt quá
trình nhập khẩu ròng lương thực khéo dài 27 năm (1962-1988) và hiện nay đã trở thành
quốc gia đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo sau Thái Lan (sản lượng gạo xuất
khẩu năm 1998 đạt 3,86 triệu tất, chiếm thị phần 15% và năm 1999 đạt 4,5 triệu tấn).
Ba là, các ngành công nghiệp và dịch vụ cũng phát triển khá nhanh (nhịp độ tăng
bình quân trong giai đoạn 1991 - 1998 của ngành công nghiệp là 13%/năm và của ngành
dịch vụ là 8,3%/năm), dẫn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý hơn. Đến
năm 1999 cơ cấu ngành kinh tế cơ bản của Việt Nam đã đạt được: nông nghiệp: 25,4%,
công nghiệp: 34,5%, dịch vụ: 40,1%.
Bốn là, Luật đầu tư nước ngoài được công bố vào tháng 12/1987 (đến nay đã qua
bốn lần sửa đổi, bổ sung) đã tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đáng kể vốn đầu tư nước
ngoài. Trong giai đoạn 1988 – 1998 có 2.488 dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài được
cấp giấy phép, tổng vốn đăng ký đầu tư 35,5 tỷ USD (nhịp độ tăng bình quân đạt
57,8%/năm). Trong đó, vốn đã thực hiện khoảng 14 tỷ USD, đóng góp 28,5% nguồn vốn
đầu tư toàn xã hội và tạo việc làm cho hơn 270 ngàn người. Với hàng loạt qui trình quản
lý và công nghệ hiện đại đã được triển khai kèm theo vốn đầu tư, chắc chắn rằng khu vực
kinh tế này sẽ phát triển nhanh chóng và chiếm vị trí ngày càng quan trọng.
Năm là, hoạt động ngoại thương cũng đã có những đóng góp rất quan trọng vào
thành tựu kinh tế trên. Nhịp độ tăng xuất khẩu bình quân trong thời kỳ 1991 - 1999 là
18,4%.[Dương Ngọc, Biến động thị trường xuất khẩu: khôi phục thị trường cũ và mở rộng
thị trường mới, Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 64(630), ngày 29/5/2000, tr.6] Đặc biệt,
trong năm 1999, lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu Việt Nam vượt mốc 10 tỷ USD, đạt
11,532 tỷ USD. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ
USD/năm như dầu thô, dệt may, da giày, Tính ra kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu
người của Việt Nam năm 1999 đạt khoảng 150 USD, đó là một bước tiến dài so với hồi
đầu thập niên 80 chỉ tiêu này hầu như không đáng kể.
Trong bối cảnh đó, mức tăng trưởng kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh thường
xuyên đạt tốc độ cao, dẫn đầu so với cả nước, cụ thể là nhịp độ tăng GDP bình quân trong
thời kỳ 1991 – 1998 đạt bình quân 13%/năm (riêng giai đoạn 1996 – 1998 là 12%/năm).
Không những thế, nhiều chỉ tiêu kinh tế quan trọng của thành phố Hồ Chí Minh luôn là
chiếm tỷ trọng cao và dẫn đầu so với cả nước. (Xem bảng 4)
18
Bảng 4: So sánh một số chỉ tiêu tăng trưởng giữa TP.HCM và Việt Nam
Chỉ
Tiêu
Tốc độ tăng GDP (%)
Tốc độ tăng kim
ngạch xuất khẩu (%)
Tốc độ tăng trưởng
công nghiệp (%)
1990
TP VN
10,5
28,2 23,5
17,9
3,1
1995
TP VN
15,3 9,54
44,3 34,4
18,2
14,5
1996
TP VN
14,6 9,34
47,4 33,2
17,7
14,2
1997
TP VN
12,1 8,15
26,6
0
13,5
13,8
1998
TP VN
9,2 5,80
-1,9 1,9
12,5
12,1
1999
TP VN
5,0
6,2
23,6 23,3
10,2
10,4
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê 1995, 1999
Cục Thống Kê TP. Hồ Chí Minh, Niên giám Thống kê 1991, 1994, 1999
Những thành tựu về kinh tế sau hơn 10 năm đổi mới cho phép Việt Nam tiếp tục đẩy
mạnh xuất khẩu, phát huy lợi thế các mặt hàng xuất khẩu truyền thống, đồng thời đầu tư
phát triển xuất khẩu các mặt hàng có hàm lượng chất xám và công nghệ cao như phần
mềm tin học, các sản phẩm công nghệ sinh học,… góp phần duy trì và nâng cao kim ngạch
xuất khẩu trong giai đoạn mới, nhanh chóng đưa Việt Nam thành nước có nền ngoại
thương phát triển với kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người lên 200 USD/năm. Muốn
vậy, cần phát huy vai trò xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh.
IV.3 Chính sách khuyến khích và đẩy mạnh xuất khẩu của Đảng và Nhà nước Việt Nam
Với đường lối đổi mới kể từ sau Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách
ngoại thương Việt Nam có nhiều thay đổi căn bản quan trọng. Những cột mốc đánh dấu sự
thay đổi trong cơ chế quản lý ngoại thương là: Nghị định 64/HĐBT ngày 10/6/1989 về chế
độ và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu; Nghị định 114/HĐBT ngày
7/4/1992 về chế độ và tổ chức quản lý hoạt động xuất nhập khẩu theo hướng tự do hóa,
mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế; và gần đây nhất là Nghị định 57/1998/NĐ – CP ngày 31/7/1998 qui định chi tiết
thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán
hàng hóa với nước ngoài… Hiện nay, cơ chế quản lý dựa trên nguyên tắc “Nhà nước độc
quyền ngoại thương” đã thay đổi một cách căn bản, Nhà nước không “ôm đồm” nữa mà
chú trọng nhiều vào việc điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu bằng các chính sách, qui định
hành chính và cơ sở pháp luật. Có thể nêu ra một số vấn đề tiêu biểu về thuế quan và các
biện pháp phi thuế quan đã và đang được điều chỉnh như sau:
Về thuế quan, Việt Nam chỉ áp dụng thuế chủ yếu trên hàng nhập khẩu, còn hàng
xuất khẩu có thuế suất không đáng kể. Biểu thuế xuất nhập khẩu mới nhất của nước ta
được ban hành ngày 1/1/1996 phù hợp với yêu cầu của CEPT sau khi Việt nam gia nhập
ASEAN. Trong đó, mức bảo hộ mậu dịch của biểu thuế đã giảm đi nhiều so với trước đây.
Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu đã cởi mở hơn, theo tinh thần Nghị định
57/1998/NĐ-CP, các doanh nghiệp được thành lập hợp pháp thuộc mọi thành phần kinh tế
đều có quyền trực tiếp xuất khẩu hàng hóa theo ngành nghề đăng ký kinh doanh (không
phải qua ủy thác). Đây là bước quan trọng tiến đến tự do hóa xuất nhập khẩu hoàn toàn,
thống nhất hoạt động thương mại, không phân biệt nội thương và ngoại thương nữa. Mức
19
thuế suất cũng được thay đổi. Hiện nay chỉ còn 3 mức: thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi
đặc biệt và thuế suất thông thường.
Về nguyên tắc, các doanh nghiệp có quyền xuất nhập khẩu mọi chủng loại hàng hóa,
ngoại trừ các mặt hàng cấm xuất nhập khẩu và một số loại hàng hóa xuất nhập khẩu có
điều kiện theo qui định hằng năm của Chính phủ. Đây là cơ hội hết sức thuận lợi cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, vốn trước đây là các doanh
nghiệp làm hàng xuất khẩu có nhiều tiềm năng nhưng do cơ chế chưa được tiếp xúc trực
tiếp với khách hàng nước ngoài.
Thủ tục quản lý xuất nhập khẩu, tất cả doanh nghiệp có đăng ký mã số kinh doanh
xuất nhập khẩu (theo Nghị định 57) khi đã ký được hợp đồng xuất nhập khẩu chỉ cần đến
thẳng Hải quan cửa khẩu để làm thủ tục thông quan hàng hóa (lập tờ khai hải quan, nộp
thuế xuất nhập khẩu theo qui định,…). Riêng trường hợp xuất nhập khẩu hàng hóa được
quản lý bằng hạn ngạch hoặc có qui định giấy phép thì đơn vị phải xuất trình kèm theo
văn bản phân bổ hạn ngạch hoặc giấy phép của Bộ Thương mại. Đồng thời, Hải quan
cũng đã không ngừng cải tiến thủ tục quản lý để rút ngắn thời hạn thông quan hàng hóa
bằng cách phân luồng theo thứ tự ưu tiên (luồng xanh: giải quyết xong thủ tục trong vòng
4 giờ; luồng vàng: trong 8 giờ; luồng đỏ: hơn 8 giờ nhưng không quá 3 ngày). Mới đây,
Hải quan cũng đã thí điểm thực hiện hậu kiểm đối với hàng hóa xuất khẩu. Tức là các
doanh nghiệp xuất khẩu chỉ thực hiện việc kê khai theo đúng thủ tục, và Hải quan chỉ thực
hiện việc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm. Đây cũng là một thuận lợi cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tham gia xuất khẩu.
Nhìn chung, đến năm 1999 chính sách ngoại thương và cơ chế quản lý xuất nhập
khẩu của Việt Nam đã có sự chuyển biến khá mạnh mẽ. Tuy nhiên, những biện pháp của
Chính phủ triển khai thực hiện chưa thật đồng bộ, còn kẽ hở cho tiêu cực phát sinh, đã tạo
không ít khó khăn cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ làm hạn chế kết
quả và hiệu quả của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Với chủ trương khuyến khích và đẩy mạnh xuất khẩu, ngày càng có nhiều doanh
nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp đóng trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Cùng với quá trình hội nhập vào kinh tế
khu vực và thế giới chắc chắn rằng mức độ cạnh tranh trên thị trường thế giới ngày càng
khốc liệt hơn. Bên cạnh đó, các chính sách tài trợ xuất khẩu, bảo hộ sản xuất của chính
phủ Việt Nam cho các doanh nghiệp cũng trở nên khó khăn hơn do bị rằng buộc bởi các
hiệp định thương mại song và đa phương đã và sẽ ký kết với các nước, các khối mậu dịch.
Vì thế, hơn bao giờ hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam nói chung và trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cần sớm chủ động chuẩn bị cho mình những chiến lược
sản xuất kinh doanh xuất khẩu, xác định những mặt hàng là lợi thế của doanh nghiệp cũng
như nhanh chân tìm kiếm và thâm nhập vào các thị trường lớn nhiều tiềm năng. Có như
vậy mới thực hiện thắng lợi chính sách khuyến khích và đẩy mạnh xuất khẩu.
V. Kinh nghiệm thực tiễn của một số nước về hỗ trợ, khuyến khích xuất
khẩu đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Do đặc điểm kinh tế, văn hóa và lịch sử, sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
mỗi quốc gia có nhiều nét riêng biệt khác nhau. Từ đó, chính sách hỗ trợ, thúc đẩy sự phát
triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở mỗi quốc gia cũng không giống nhau. Trong phạm vi
20
đề tài này, chúng tôi tập trung khảo sát kinh nghiệm của các quốc gia có những điều kiện
kinh tế tương đồng với Việt Nam về chính sách hỗ trợ tài chính tín dụng, chính sách hỗ trợ
phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, chính sách xúc tiến thương mại, tiếp
thị,… Những kinh nghiệm này, sẽ được chúng tôi vận dụng vào bối cảnh kinh tế Việt nam,
nhất là điều kiện kinh tế hiện tại cũng như những cơ hội và thách thức của thành phố Hồ
Chí Minh trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, giúp cho việc triển khai các giải pháp thực
hiện chiến lược phát triển xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành
phố đạt được hiệu quả như mục tiêu đã đề ra.
V.1 Kinh nghiệm của Singapore
Quan điểm của Chính phủ Singapore về hỗ trợ khuyến khích xuất khẩu đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ như sau:
Thứ nhất, Xây dựng chiến lược ba mũi: hỗ trợ có trọng điểm, hỗ trợ toàn ngành
công nghiệp và hỗ trợ rộng rãi.
Hỗ trợ có trọng điểm là dành ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có triển vọng
phát triển mạnh nhất để có thể trở thành công ty quốc tế, đứng đầu trong lónh vực của
mình tại Singapore nhằm đối phó với cạnh tranh quốc tế, bằng cách giúp các doanh
nghiệp vừa và nhỏ xây dựng hình ảnh, phương hướng, chiến lược rõ ràng. Thậm chí khi
cần thiết thuê chuyên gia nước ngoài giúp đỡ, trước hết là chia sẻ thông tin về phát triển
công nghiệp, giúp mở rộng cơ sở kinh doanh thông qua mở rộng sản xuất và khách hàng
(sản phẩm không chỉ cung cấp cho công nghiệp điện tử mà còn cho công nghiệp ô tô, sản
xuất thiết bị y tế, chẳn hạn: khuôn đúc nhựa), giúp tăng cường hoạt động cả ở nước ngoài.
Hỗ trợ toàn ngành công nghiệp: giúp cấu trúc lại toàn ngành công nghiệp, tăng
cường trao đổi thông tin và đề xuất các phương án cấu trúc lại với hội công nghiệp hay
nhóm công ty, mục tiêu là tăng năng suất lao động.
Hỗ trợ rộng rãi là giúp đỡ các doanh nghiệp địa phương kể cả lớn hay nhỏ, đáp ứng
cho nhiều lónh vực, ngành nghề, tiếp thị và ứng dụng công nghệ, cải tiến chất lượng, tin
học hóa, tăng cường xúc tiến mở rộng kinh doanh ra nước ngoài.
Thứ hai, hợp tác với các quốc gia nhằm tạo sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các doanh
nghiệp vừa và nhỏ với các công ty đó. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ nhận công nghệ
và khả năng sản xuất cao, có nhiều điều kiện đột phá vào thị trường mới, trước hết là
trong khu vực bằng việc biến mình thành các vệ tinh cho các công ty lớn, tham gia mạnh
vào các dịch vụ thầu phụ công nghiệp và đảm bảo uy tín, chất lượng.
Thứ ba, xây dựng và phát triển trung tâm doanh nghiệp vừa và nhỏ một cửa, được
hình thành từ năm 1996, thuộc Cục năng suất tiêu chuẩn, có nhiệm vụ liên lạc chặt chẽ
với các cơ quan chính phủ như Cục Phát triển Kinh tế, Cục Phát triển Thương mại, Cục
Khoa học và Công nghệ quốc gia,… để hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện
kế hoạch 5 mũi: công nghệ, tài chính, thông tin, thị trường và phát triển nguồn nhân lực.
Thứ tư, phương châm giúp đỡ bằng các chính sách phát triển và nâng cấp theo cơ
chế thị trường tự do (không lạm dụng trợ cấp trực tiếp) với 4 nguyên tắc là: giúp các
doanh nghiệp vừa và nhỏ để họ tự giúp chính mình, chỉ giúp chứ không bảo hộ, tạo khả
năng tham gia được vào guồng máy phát triển kinh tế chung (mà ở đó có rất nhiều công ty
quốc tế đang hoạt động), duy trì một môi trường kinh doanh thân thiện.
21
Với kinh nghiệm của Singapore, mô hình chiến lược 3 mũi, kế hoạch 5 mũi, tăng
cường hợp tác với các công ty đa quốc gia là những bài học quý báu đối với về trợ giúp
các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố xây dựng và thực hiện chiến lược
phát triển xuất khẩu của mình để tăng tốc phát triển, đưa Việt Nam tiếp cận với công
nghiệp hiện đại vào những năm tiếp theo sau khi phục hồi và ổn định phát triển từ khi xảy
ra khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực.
V.2 Kinh nghiệm của Đài Loan
Theo báo cáo của ông Chou Yan – Trưởng văn phòng kinh tế Đài Bắc tại Việt Nam
cho biết, chính phủ Đài Bắc rất chú trọng hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
giai đoạn đầu phát triển kinh tế (vào những năm 70). Đây cũng là một trong những
nguyên nhân chính đưa Đài Loan trở thành con rồng Châu Á.
Những biện pháp khuyến khích xuất khẩu và hỗ trợ xuất khẩu được áp dụng đối với
các doanh nghiệp vừa và nhỏ là:
- Gắn hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ với giải quyết việc làm, nhờ vậy tỷ lệ
thất nghiệp rất ít khi vượt lên 3%, hàng hóa sản xuất từ các doanh nghiệp này tập
trung đáp ứng yêu cầu nội địa nhằm hạn chế nhập khẩu nhu yếu phẩm.
- Miễn thuế là hình thức ưu đãi chủ yếu dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc
biệt là ưu đãi trong đầu tư máy móc – thiết bị, áp dụng chính sách cạnh tranh bình
đẳng khi đưa hàng nội địa đi xuất khẩu, thực hiện biện pháp tái xuất khẩu để nhập
khẩu máy móc - thiết bị hiện đại hơn.
- Thực hiện chủ trương tự do hóa hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ đăng ký là được hoạt động ngay, chỉ cần nộp thuế theo qui định. Việc đăng ký
kinh doanh rất thuận lợi và dễ dàng.
- Khuyến khích và yêu cầu các ngân hàng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn
để thành lập công ty và hoạt động, áp dụng chính sách ưu đãi mức lãi suất. Thành
lập trung tâm hướng dẫn sử dụng vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ vốn
và hỗ trợ dịch vụ, đánh giá quyết định cho vay vốn của ngân hàng, giúp đỡ tiêu thụ
sản phẩm, giảm chi phí hành chính thông qua thành lập hệ thống hợp tác xã tiêu
thụ sản phẩm ra nước ngoài.
- Thành lập các khu công nghiệp với giá rẻ, điều kiện thành lập rất đơn giản, chi phí
của các khu công nghiệp chính phủ chỉ bằng 1/2 chi phí của các khu công nghiệp
do tư nhân mở.
- Tất cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải nắm vững nguyên tắc phân công quốc tế
với phương châm tiến lên (phát triển từng bước, từ dưới đi lên). Xây dựng hệ thống
sản xuất hoàn chỉnh, liên hoàn, liên ngành giữa các ngành công nghiệp nặng (hóa
dầu) với công nghiệp nhẹ (da giày, dệt may, dụng cụ thể thao,…) để tạo thuận lợi
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia.
- Xúc tiến xuất khẩu thông qua chính sách khu chế xuất, kho ngoại quan, chế độ
hoàn thuế, thành lập các trung tâm hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ, quản lý vốn, chú trọng
huấn luyện và đào tạo, trung bình mỗi năm đào tạo trên 300.000 người, chiếm 25%
tổng số người tham gia hành nghề.
22
Những kinh nghiệm này rất có ích cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh xây dựng chiến lược vốn, chiến lược kinh doanh xuất khẩu trong
giai đoạn mới.
V.3 Kinh nghiệm của Thái Lan
Kinh nghiệm thành công trong hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Thái Lan gồm:
- Lấy tư hữu hóa chính sách kinh tế thị trường làm hạt nhân, chú trọng phát huy hiệu
suất của ngành nghề tư doanh và bảo vệ lợi ích tư bản tư nhân, không thành lập
công ty quốc doanh cạnh tranh với doanh nghiệp tư nhân cùng loại.
- Thực hiện chính sách mở cửa đa phương lâu dài song có mức độ, ưu tiên cho tư bản
tư nhân trong nước ở các giai đoạn phát triển về sau.
- Động viên, khuyến khích phát triển kinh tế xuất khẩu của tư nhân bằng các hình
thức khen thưởng rất thiết thực, cụ thể chủ yếu qua thuế.
- Chính sách phát triển kinh tế rất linh hoạt và nhạy bén với các biến cố diễn ra từ
môi trường kinh doanh đối với hoạt động tư nhân, hỗ trợ đắc lực cho xí nghiệp dân
gian giảm rủi ro từ các “cú sốc kinh tế”.
- Thực hiện chính sách ngành nghề thận trọng vói đường lối công nghiệp hóa ưu tiên
phát triển công nghiệp nhẹ nhằm phát huy cao năng lực sản xuất của các xí nghiệp
vừa và nhỏ.
- Thực hiện chính sách “ngoại giao cân bằng”, trước hết là cân bằng trong quan hệ
thương mại với các nước lớn: Mỹ, Nhật, EU nhằm đa cực hóa thị trường xuất khẩu,
tránh cọ sát mậu dịch, tạo điều kiện tối đa cho các xuất khẩu của các doanh nghiệp
tư nhân.
- Hình thành sự liên kết giữa các công ty lớn với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc
đấu thầu ngày nay đã trở thành hiện tượng phổ biến cần được nhắc tới. Đây là
trường hợp các doanh nghiệp nhỏ thầu lại những hình thức kinh doanh lớn hơn của
các doanh nghiệp xuất khẩu. Một ví dụ điển hình là hệ thống sản xuất của ngành
may mặc gần như dựa hoàn toàn vào phương thức đấu thầu lại. Hơn nữa, sau khủng
hoảng tiền tệ, xuất khẩu Thái Lan phục hồi nhanh hơn dự kiến một phần là nhờ sự
hợp tác xuất khẩu giữa các doanh nghiệp chính phủ với các doanh nghiệp tư nhân,
đưa hàng Thái Lan tới các thị trường truyền thống và các thị trường mới nhằm đạt
giá trị xuất khẩu 62-65 tỷ USD, tăng 6,5% trong năm 2000. [Nguyễn Thế Nghiệp,
Thương mại toàn cầu khởi sắc, TBKTVN, số 49(615), ngày 24/4/2000, tr.14]
V.4 Kinh nghiệm của Trung Quốc
Bài học thành công trong đổi mới cơ chế quản lý đối với các doanh nghiệp tư nhận,
hộ cá thể, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đó là:
- Lấy nông nghiệp làm khâu đột phá của công cuộc cải cách mở của, cải cách cơ chế
quản lý kinh tế, thực hiện chế độ khoán sản phẩm đến hộ gia đình.
- Điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp theo hướng đa thành phần, gắn liền với cải cách
kinh tế ở thành thị theo hướng trao quyền tự chủ kinh doanh cho các doanh nghiệp,
có chú ý tới nâng đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ qua các công cụ đòn bẫy kinh tế
vó mô: giá, tỷ giá hối đoái, lãi suất, mức lương.
23
- Giải quyết hợp lý vấn đề sở hữu, thực hiện kinh tế có kế hoạch cùng với việc vận
dụng qui luật giá trị vào phát triển kinh tế hàng hóa, không bài xích nhau mà thống
nhất với nhau.
Mô hình doanh nghiệp vừa và nhỏ thành công ở Trung Quốc đó là xí nghiệp hương
trấn ở nông thôn. Trong 4 năm 1984 – 1988, dự trữ ngoại tệ xuất khẩu của các xí nghiệp
hương trấn là 25 tỷ USD, chiếm 24,7% kim ngạch xuất khẩu toàn quốc. Sự phát triển của
xí nghiệp hương trấn ở nông thôn có tác dụng thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn, phát triển công nghiệp nông thôn, tạo việc làm cho người lao động theo nguyên lý
“ly nông không ly hương”. Đây là mô hình mà Việt Nam cần xem xét trong quá trình công
nghiệp hóa nông thôn, đặc biệt là phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực nông
thôn nhằm tạo việc làm nâng cao đời sống cho người lao động, giải phóng nông sản tồn
đọng sau thu hoạch, từ đó sẽ kích cầu khu vực nông thôn, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu.
V.5 Kinh nghiệm của Nhật Bản
Trong nền kinh tế Nhật Bản, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò cực kỳ quan
trọng. Theo thống kê các cơ sở doanh nghiệp năm 1991 của Ủy ban tổng hợp Nhật Bản, số
các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 99,1% tổng số cơ sở doanh nghiệp trên toàn quốc, trừ
ngành công nghiệp sơ chế. Theo biểu thống kê về công nghiệp năm 1992, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trong các ngành sản xuất tạo ra 51,9% tổng giá trị xuất xưởng; 56,7%
tổng giá trị gia tăng. Trong ngành lưu thông phân phối hàng hóa và dịch vụ, doanh nghiệp
vừa và nhỏ chiếm 60% doanh số bán ra của ngành bán buôn và gần 80% doanh số của
ngành bán lẻ. Lịch sử phát triển kinh tế Nhật Bản đã chứng kiến, nhiều công ty lớn ngày
nay xuất thân từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ như: Toyota, Honda…
Kinh nghiệm về hỗ trợ tài chính tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Thông thường 80% doanh nghiệp nhỏ có tính chất gia đình sẽ được vay không cần
thế chấp từ kho bạc nhân dân (people’ finance corporation - PFC). Đây là các doanh
nghiệp có tương lai phát triển nhưng không có khả năng vay. Số tiền cho vay được thu hút
từ nhân dân thông qua hình thức tiết kiệm qua hệ thống bưu điện, tiền bảo hiểm của người
lao động và tiền hưu trí của quốc gia.
Bên cạnh đó, khi cần vốn đầu tư nhà xưởng trang thiết bị, máy móc, mở rộng sản
xuất, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể vay từ Tổ chức tài chính Nhật Bản cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ – Japan finance corporation for small business - JFS). Mục đích
của JFS là cung cấp vốn dài hạn cần thiết cho việc thúc đẩy sự phát triển của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. JFS có hai hình thức cho vay: cho vay thông thường với lãi suất
4,9%/năm và cho vay đặc biệt với lãi suất ưu đãi hơn hình thức chovay thông thường (có
thể là 3%/năm tùy theo mục đích ưu tiên của Chính phủ). Ngoài ra, JFS còn cung cấp
những thông tin về quản lý và kinh doanh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hệ thống bảo lãnh và bảo hiểm tín dụng ở Nhật Bản hoạt động rất tích cực và hiệu
quả. Hệ thống này được thành lập nhằm giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn từ các
ngân hàng tư nhân bằng cách đứng ra bảo lãnh và cung cấp bảo hiểm. Bởi lẽ, Ở Nhật Bản
điều kiện cho vay của ngân hàng tư nhân rất chặt chẽ: chỉ được dùng đất để thế chấp và
được đánh giá bằng 70% giá trị thật của đất. Hội bảo lãnh tín dụng được Nhà nước trung
ương và chính quyền địa phương đầu tư vốn đứng ra bảo lãnh cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ không có tài sản thế chấp. Chức năng của hội này là nhằm tránh rủi ro cho caùc
24