Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ để tạo lập văn bản tự sự cho học sinh trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.54 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

PHAN THỊ MỸ TIÊN

RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
SỬ DỤNG NGÔN NGỮ ĐỂ TẠO LẬP VĂN
BẢN TỰ SỰ CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ
Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Văn
Mã số : 60 14 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
PGS.TS. ĐẶNG NGỌC LỆ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2007


LỜI CẢM ƠN

Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS. Đặng Ngọc Lệ, người
đã tận tình hướng dẫn, hết lịng giúp đỡ để tơi hồn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trường Đại học Sư Phạm TP. HCM đã
tận tâm hướng dẫn, giảng dạy chúng tôi trong thời gian qua.
Xin cám ơn Khoa Văn, Phịng Khoa học Cơng nghệ - Sau đại học trường
Đại học Sư phạm TP. HCM, lãnh đạo Phòng Giáo Dục Quận 6, Hiệu trưởng các
trường THCS, các đồng nghiệp là giáo viên mạng lưới và giáo viên giảng dạy bộ
môn Ngữ văn ở Quận 6 đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, nhiệt tình giúp đỡ tơi trong
suốt q trình làm luận văn.


Tơi xin được dành lời cảm ơn cho gia đình và bạn bè đã động viên, khuyến khích
tơi hồn thành luận văn này.

Tác giả luận văn


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

GV

:

giáo viên

HS

:

học sinh

Nxb

:

nhà xuất bản

SGK

:


sách giáo khoa

SL

:

số lượng

TLV

:

tập làm văn

TL

:

tỉ lệ

THCS

:

Trung học sơ sở

VBTS

:


văn bản tự sự


MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................................. 2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................................ 3
MỤC LỤC ....................................................................................................................................... 4
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................................... 6
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................................................... 6
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................................... 7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu : ................................................................................... 11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 12
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................................... 12
6. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài ............................................................................. 13
7. Cấu trúc luận văn : ............................................................................................................. 13
CHƯƠNG 1. ĐẶC TRƯNG VĂN BẢN TỰ SỰ VÀ VIỆC TẠO LẬP VĂN BẢN TỰ SỰ
CHO HỌC SINH THCS .............................................................................................................. 14
1.1. Khái niệm, đặc điểm VBTS .............................................................................................. 14
1.1.1. Khái niệm văn bản ....................................................................................................... 14
1.1.2. Phương thức biểu đạt .................................................................................................. 14
1.1.3. Phương thức tự sự ....................................................................................................... 15
1.1.4. Mục đích giao tiếp của tự sự ....................................................................................... 15
1.2. Đặc điểm VBTS : .................................................................................................................. 15
1.2.1 Sự việc và nhân vật ....................................................................................................... 16
1.2.2. Chủ đề và dàn bài trong văn tự sự .............................................................................. 18
1.2.3. Thứ tự trong văn tự sự ................................................................................................. 19
1.3. Đặc điểm ngôn ngữ của VBTS ......................................................................................... 20
1.3.1. Lời văn tự sự ............................................................................................................... 20
1.3.2. Đoạn văn tự sự : .......................................................................................................... 23

1.3.3. Ngơi kể ......................................................................................................................... 25
1.4. Vai trị, ý nghĩa việc rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong

tạo lập VBTS cho

HS THCS .................................................................................................................................. 26
Chương 2 : VẤN ĐỀ DẠY HỌC TẠO LẬP VĂN BẢN TỰ SỰ Ở CHƯƠNG TRÌNH THCS
........................................................................................................................................................ 29
2.1. Đối chiếu VBTS với văn bản miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh, điều hành. 29


2.1.1. Văn bản miêu tả ........................................................................................................... 29
2.1.2. Văn bản biểu cảm ........................................................................................................ 29
2.1.3. Văn bản thuyết minh .................................................................................................... 30
2.1.4. Văn bản nghị luận........................................................................................................ 30
2.1.5. Văn bản điều hành (hành chính – cơng vụ) ................................................................. 31
2.1.6. Nội dung chương trình dạy tạo lập VBTS ở cấp THCS.............................................. 31
2.3. Một số thuận lợi và khó khăn trong giảng dạy tạo lập VBTS ..................................... 33
2.3.1. Thuận lợi : ................................................................................................................... 33
2.3.2 Khó khăn :..................................................................................................................... 34
2.3.3 Thực tế bài làm của HS THCS...................................................................................... 37
Chương 3 : PHƯƠNG PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TRONG
TẠO LẬP VĂN BẢN TỰ SỰ ...................................................................................................... 43
3.1. Rèn luyện dùng từ, viết câu, viết đoạn văn, bài văn tự sự ............................................ 43
3.1.1 Chọn ngôi kể :............................................................................................................... 43
3.1.2. Rèn luyện dùng từ ........................................................................................................ 46
3.1.3. Rèn luyện viết câu : .................................................................................................... 52
3.1.4. Rèn luyện làm văn tự sự theo bố cục của bài văn ....................................................... 54
3.2. Vận dụng thiết kế một số bài dạy cụ thể có chú trọng rèn luyện ngơn ngữ ở chương
trình THCS ............................................................................................................................... 61

3.2.1 Thiết kế giáo án thực nghiệm ....................................................................................... 61
KẾT LUẬN ................................................................................................................................... 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................... 89
PHỤ LỤC ...................................................................................................................................... 94


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đổi mới phương pháp dạy học là cuộc cách mạng trong ngành giáo dục từ nhiều thập niên
qua nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của HS, góp phần đào tạo những con người năng
động, sáng tạo, những người chủ tương lai đất nước. Đổi mới phương pháp dạy học bộ môn Ngữ
văn cũng nằm trong quỹ đạo chung ấy, nhất là từ chương trình và SGK mới thực hiện từ năm
2002 đến nay.
Phương pháp dạy làm văn đã được trang bị trong quá trình đào tạo tại các trường sư phạm,
được tập huấn trong các đợt bồi dưỡng thay SGK nhưng việc dạy TLV ở cấp THCS cịn gặp rất
nhiều khó khăn. GV tỏ ra lúng túng trong quá trình tổ chức, thiết kế giờ dạy, giải quyết việc phân
tích mẫu để hình thành khái niệm, luyện tập rèn kĩ năng tạo lập văn bản cho HS… Đối với HS,
thực tế cho thấy các em rất ngán ngại viết bài TLV và chưa có hứng thú học tập phân mơn một
cách tích cực. Thực tế đó địi hỏi người dạy phải nỗ lực không ngừng để trang bị cho HS kiến
thức lý thuyết làm văn, kĩ năng vận dụng tiếng Việt vào việc tạo lập văn bản.
Chương trình TLV THCS tập trung giảng dạy 6 kiểu văn bản gồm tự sự, miêu tả, biểu
cảm, nghị luận, thuyết minh và hành chính cơng vụ. VBTS nổi lên như một phương thức quan
trọng, xuyên suốt từ đầu cấp đến cuối cấp. Nhưng việc dạy và học tạo lập VBTS chưa được đầu
tư đúng mức, có xu hướng xem nhẹ. GV và HS thường cho đây là thể loại đơn giản, được học từ
chương trình Tiểu học, chỉ cần nghĩ gì viết ấy, hoặc thấy gì viết đó… Tâm lí này gây sự chây lười
trong việc rèn luyện tạo lập VBTS của HS.
Tự sự là phương thức phản ánh đời sống chân thực. Vấn đề lý thuyết tự sự ngày càng được
quan tâm phổ biến. Bởi vì lý thuyết tự sự cung cấp một bộ công cụ cơ bản, sắc bén nhất giúp cho
người ta có thể đi sâu vào các lĩnh vực nghiên cứu khác. “Tự sự học phải liên kết với các ngành
khác để hiểu biết con người và hiểu biết sự vật.” [75]. Nghiên cứu lý thuyết của VBTS và các vấn

đề liên quan khác là nhằm tìm hiểu đặc trưng VBTS và dạy HS tạo lập VBTS theo yêu cầu của
nhà trường, nhất là ở cấp THCS. Tạo lập VBTS chính là cách bồi dưỡng khả năng quan sát cuộc
sống, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm đẹp, góp phần hình thành nhân cách cho HS.
Vận dụng kiến thức của tiếng Việt vào việc tạo lập văn bản là nhiệm vụ của chương trình
mơn Ngữ văn nhằm hình thành và phát triển ở HS năng lực sử dụng tiếng Việt. Tạo lập VBTS
như thế nào từ cách sử dụng từ ngữ, câu, đoạn văn, các phương tiện liên kết … trở thành một vấn
đề quan trọng giúp HS có kiến thức và kĩ năng làm tốt bài văn trong nhà trường THCS. Đề tài
luận văn đặt trọng tâm ở việc rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong tạo lập VBTS có cơ sở
khoa học từ vị trí, mục tiêu, quan điểm xây dựng và phát triển chương trình của bộ môn Ngữ văn.


Từ những lí do trên, tìm hiểu các đặc điểm ngôn ngữ của văn tự sự để rèn luyện cho HS kĩ
năng sử dụng ngôn ngữ trong tạo lập VBTS trở thành nhu cầu cấp thiết góp phần đổi mới phương
pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng học tập bộ mơn, hồn thành tốt mục tiêu của mơn học.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 . Sách giáo khoa
SGK chương trình cũ (chương trình cải cách (1986), chương trình chỉnh lí (1995)) : TLV
được coi là một phân môn trong môn Tiếng Việt, nhưng vẫn có SGK riêng mang tên TLV bên
cạnh SGK Văn và Tiếng Việt. Phân phối chương trình quy định dạy TLV về Kể chuyện ở lớp 7,
sau khi HS đã được học về Trần thuật, Miêu tả (lớp 6) Tường thuật (lớp 7). Các kiểu bài miêu tả,
trần thuật, tường thuật, kể chuyện chỉ tập trung vào hai khối lớp đầu cấp 6, 7.
Chương trình và SGK mới THCS (2002) được xây dựng trên quan điểm tích hợp ba phân
môn Văn học, Tiếng Việt và TLV. Theo tinh thần này, cả ba phân mơn có mối liên hệ hết sức
chặt chẽ, phụ thuộc vào nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong mỗi bài học và xuyên suốt với các bài học
khác trong chương trình. Phương châm của việc tích hợp là nhằm hướng cho HS hệ thống các tri
thức riêng của từng phân môn Văn, Tiếng Việt, Làm văn và gắn kết những tri thức có quan hệ
với nhau giữa các phân môn, giúp HS biết vận dụng những kiến thức đã học vào việc cảm nhận,
thẩm định cái hay, cái đẹp của văn bản, tạo lập văn bản, phục vụ cho hoạt động giao tiếp trong
đời sống hàng ngày. Chương trình THCS được chia thành hai vịng, theo vòng tròn đồng tâm.
Vòng một (lớp 6, 7) sẽ giữ vai trò cung cấp các kiến thức cơ bản. Vòng hai (lớp 8, 9), HS sẽ được

học các kiến thức mới trên cơ sở những điều đã học một cách nâng cao, sâu sắc hơn. TLV về
VBTS được bố trí cả ở hai vòng. Lý thuyết và kĩ năng làm bài văn Tự sự luôn được ôn luyện và
nâng cao. Chương trình mới đã có sự cải tiến rõ rệt trong việc bố trí thời lượng dạy tạo lập
VBTS, giúp HS có điều kiện ơn luyện, thực hành và nâng cao kĩ năng làm bài. Sự tập trung cho
thể loại Tự sự ở các cấp lớp cũng thể hiện sự phong phú của thể loại này trong việc giảng dạy và
học tập trong chương trình THCS.
SGK Ngữ văn 10, tập I [35] - chương trình Trung học phổ thơng (2006) tiếp tục hướng
dẫn HS thực hành và rèn luyện viết văn tự sự ở mức độ cao hơn THCS. Điều đó cho thấy chương
trình đã quan tâm và dành nhiều thời gian cho HS phổ thông học tập và rèn luyện tạo lập VBTS.
Trong quá trình xây dựng chương trình, các bài dạy cung cấp cho HS kiến thức và hướng
dẫn luyện tập cách làm bài nhưng vấn đề sử dụng ngôn ngữ như thế nào và cách thức rèn luyện kĩ
năng sử dụng ngôn ngữ ra sao chưa được quan tâm đúng mức.


2.2 . Các sách tham khảo về ngôn ngữ tiếng Việt và dạy học TLV tự sự
Từ điển Văn học (bộ mới) [29], Từ điển thuật ngữ Văn học [21], Từ điển Tiếng Việt [71]
đã giải thích về thuật ngữ Tự sự trên nhiều phương diện từ định nghĩa, nêu đặc điểm, các phương
tiện, biện pháp tự sự, hình thức tự sự, ngôi kể, người trần thuật… Tự sự chỉ một trong ba phương
thức biểu đạt của văn học (bên cạnh trữ tình và kịch). “Tự sự tái hiện hành động diễn ra trong
thời gian và không gian, tái hiện các tiến trình biến cố trong cuộc đời các nhân vật… Nét đặc thù
của tự sự là vai trò tổ chức của trần thuật với ngôn từ chủ yếu làm chức năng thông báo về cái đã
xảy ra từ trước…”[29]. Tự sự là phương thức tái hiện đời sống trong tồn bộ tính khách quan...
[21]. Khái niệm tự sự trong các sách trên đã được giải thích khá tồn diện và thống nhất, là cơ sở
lý luận trong quá trình nghiên cứu về đặc trưng VBTS.
R. Barthes và tự sự học (Lời giới thiệu của Đỗ Lai Thuý, Tôn Quang Cường dịch từ bản
tiếng Nga -

http

://vanhoanghethuat.org.vn/sach/sudongdanh/rbathes.htm) [73] : Đỗ Lai Thuý giới thiệu về

Roland Barthes (1915 –1980) là một nhà phê bình văn học, nhà văn hố học, một trong những đại
biểu nổi tiếng nhất của trường phái kí hiệu học Pháp. Tự sự học cấu trúc của R. Barthes được xác
định như là sự phân tích các thành tố và những cơ chế của truyện kể, nó trình bày một câu chuyện
qua hành động kể, sự kể. Tự sự học quan tâm đến truyện kể như một phương thức trình bày bằng
ngơn từ. Nó trả lời câu hỏi : ai kể cái gì và như thế nào ? Tác phẩm tự sự học tiêu biểu của R.
Barthes và của cả tự sự học cấu trúc nói chung là Đường vào phân tích cấu trúc truyện kể. Sau
phần nhập mơn phân tích cấu trúc truyện kể, mục một trình bày ngôn ngữ các VBTS với đặc
điểm chủ yếu là vượt ra giới hạn của câu. Theo quan điểm cấu trúc, bất cứ VBTS nào cũng đều
được xây dựng theo mô hình của câu, bất cứ một truyện nào cũng là một câu lớn và câu kể chính
là một sự tỉnh lược của một câu nhỏ. Các “chủ thể” lẫn cụm chủ vị trong VBTS cũng đều tuân
thủ quy tắc cấu tạo câu. Nhưng giữa câu ngôn bản tồn tại các mối quan hệ đồng đẳng khi lưu ý
đến mặt hình thức của chúng. Những mục tiếp theo về chức năng, hành động, tường thuật, hệ
thống VBTS đã được đề cập chi tiết. Barthes đã đi tìm định nghĩa cấu trúc về nhân vật, vấn đề
chủ thể, tình huống kể,…và đưa ra các cấp độ của từng đơn vị nghiên cứu. Các vấn đề mà
Barthes đặt ra có giá trị phương pháp luận khi nghiên cứu về VBTS và rèn luyện các kĩ năng tạo
lập VBTS.
Văn miêu tả và kể chuyện – Vũ Tú Nam - Phạm Hổ - Bùi Hiển - Nguyễn Quang Sáng –
Nxb GD 2001 [39]. Sách ghi lại những kinh nghiệm quý báu của các nhà văn có sở trường về
miêu tả và kể chuyện. Những đặc điểm của bài văn kể chuyện như nhân vật, cốt truyện, tình
huống, tình tiết đã được các tác giả cụ thể hóa bằng những mẩu minh họa sinh động. Các nhà văn
cũng lưu ý về nghệ thuật kể chuyện, nhất là kĩ năng mở bài và kết thúc câu chuyện [39, tr.23-38].


Nhà văn Vũ Tú Nam đưa ra kinh nghiệm quan sát thiên nhiên và loài vật và nhấn mạnh nội dung
phải được thể hiện một cách tự nhiên, dung dị qua các chi tiết sinh động của cảnh và vật đồng
thời dùng câu chữ cho chính xác, sinh động, gợi cảm [39, tr.7-8]. Nhà văn Phạm Hổ đưa ra
những dẫn chứng cụ thể cho một bài kể chuyện có các tình huống hợp lý, đúng sự thật, làm cho
người đọc, người nghe tin là có thật. Nhà văn Bùi Hiển thì nêu kinh nghiệm viết văn kể chuyện
của mình là sự quan sát, xuất phát từ tình cảm chân thành, chi tiết hợp lý, phù hợp với lơ gích tâm
lý. Các điều kiện không thể thiếu cho bài văn kể chuyện là câu chuyện phải tự nhiên, sự việc

được coi như có thể xảy ra thực và liên kết các sự việc trong chuyện sao cho câu chuyện ý vị, hấp
dẫn, nhiều kịch tính [39, tr.39-60]. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng đặt vấn đề về quan sát,
không chỉ quan sát bằng mắt mà bằng tấm lòng, nắm bắt chi tiết quý báu từ đời sống và đưa vào
trong tác phẩm [39, tr.61-66]… Những kinh nghiệm thực tiễn của các nhà văn – những người viết
văn chuyên nghiệp đã giúp ích GV rất nhiều trong quá trình dạy HS làm văn theo yêu cầu, mục
tiêu của nhà trường, đồng thời giúp HS sáng tạo một cách tự tin khi tạo lập VBTS.
Sách Làm văn (Giáo trình đào tạo GV THCS hệ Cao đẳng Sư phạm (Lê A – Nguyễn Trí –
NXBGD – 2001) [1, tr.167-214] : Sách đã hướng dẫn cụ thể từ “Khái quát về văn kể chuyện” đến
“Phương pháp làm bài văn kể chuyện” và các bài tập thực hành, trang bị cho sinh viên những
kiến thức khá tồn diện về chương trình giảng dạy và về văn kể chuyện. Từ việc nêu vai trò của
văn kể chuyện nói chung, văn kể chuyện được dạy trong nhà trường, đặc điểm văn kể chuyện và
cách phân loại, các tác giả đã đưa các ví dụ minh hoạ và phân tích chi tiết. Phần “Phương pháp
làm bài kể chuyện” gồm các bước tìm ý, chọn ý và xác định ý nghĩa cho câu chuyện, lập dàn ý,
viết bài văn… Ở phần viết bài văn, các tác giả đã có chú ý đến mở đầu và kết thúc câu chuyện,
đến viết lời kể (giới thiệu, thuyết minh) về nhân vật và sự việc, miêu tả trong văn kể chuyện và
chú ý đến ngôi kể. Các phương pháp này nhằm phục vụ cho việc giảng dạy văn kể chuyện trong
chương trình của nhà trường hiện hành lúc bấy giờ. Những vấn đề về lý thuyết được đề cập khá
chi tiết. Vấn đề rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS chưa được đề cập.
Ngữ pháp văn bản và việc dạy làm văn – Nguyễn Trọng Báu – Nguyễn Quang Ninh –
Trần Ngọc Thêm, Nxb Giáo Dục, Hà Nội (1985) [7] trình bày một cách tinh giản những vấn đề
và kết quả nghiên cứu hiện có trong lĩnh vực ngữ pháp văn bản và dạy làm văn như một ứng
dụng và thiết thực nhất của ngữ pháp văn bản. Các tác giả đã đưa ra một số vấn đề cơ bản của
ngữ pháp văn bản như lĩnh vực trên câu, sự ra đời của ngữ pháp văn bản, liên kết câu, chỉnh thể
trên câu đoạn văn. Đặc biệt trong “Thay phần kết luận, các tác giả đã “thử ứng dụng ngữ pháp
văn bản vào việc dạy làm văn và giảng văn”. Phần ứng dụng này cịn trình bày cịn dè dặt và sơ
lược [7, tr.144-151] một số ứng dụng, việc ứng dụng các kiến thức tiếng Việt trong dạy TLV
chưa đặt thành trọng tâm.


Phương pháp dạy học tiếng Việt - Lê A chủ biên, Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán,

NXB GD, 2003, chương 7 trình bày phương pháp dạy học Làm văn [2, tr.185-238]. Các tác giả
đã cung cấp một số tiền đề lý thuyết của việc dạy làm văn. Phương pháp dạy học Làm văn đề cập
đến phương pháp dạy lý thuyết, phương pháp dạy thực hành, phương pháp ra đề làm văn, phương
pháp chấm và trả bài làm văn. Phần cuối chương là một số kĩ năng làm văn cần rèn luyện cho HS
gồm sáu kĩ năng. Đó là kĩ năng xác định nội dung, yêu cầu của đề bài và phương hướng triển
khai bài viết, kĩ năng lập ý, kĩ năng viết đúng theo dàn ý, kĩ năng lập luận, kĩ năng hành văn, kĩ
năng hoàn thiện bài viết. Ở kĩ năng hành văn, các tác giả đặt vấn đề : “Có thể gộp vào kĩ năng
hành văn cả những năng lực sử dụng các đơn vị ngôn ngữ ở HS. Đó là kĩ năng dùng từ, đặt câu,
dựng đoạn” [2, tr.236]. Vì khi HS làm văn, về cơ bản, chỉ chú ý chạy theo nội dung, bám sát các
ý, chưa quan tâm tới việc lựa chọn phương tiện thể hiện nội dung đó như thế nào một cách đầy
đủ. Hoặc trong bài viết có ý, có nội dung nhưng do vốn từ ít, nắm khơng vững các kiểu kết cấu
ngữ pháp của câu, hoặc do ít được vận dụng, ít được luyện tập… nên ý khơng thốt và lời khơng
đạt. Tuy khơng trình bày các phương pháp dạy cụ thể cho từng kiểu văn bản, các tác giả cũng đã
đề cập đến một số kĩ năng cần rèn luyện cho HS. Đây là nội dung mà đề tài luận văn hướng đến.
Hướng dẫn dạy TLV lớp 7 – Trần Đình Sử – Vũ Nho – Nguyễn Trí, Nxb GD (1998) [56] :
sách có tính chất tham khảo với mục đích giúp HS nắm vững lý thuyết cơ bản, tăng cường kĩ
năng thực hành. Phần lý thuyết trình bày ngắn gọn, cụ thể lý thuyết kiểu bài và cách làm bài kể
chuyện. Phần thực hành gồm nhiều đề cho HS luyện tập. Sau đó là các bài kham khảo TLV. Sách
đã cung cấp cho HS một hệ thống đề, dàn ý, những bài văn tham khảo, giúp HS có một số tư liệu
cần thiết trong quá trình làm TLV. Tuy nhiên, sách cũng chưa đặt vấn đề hướng dẫn HS sử dụng
ngôn ngữ, rèn các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS như thế nào trong quá trình viết bài văn kể
chuyện.
Phát triển ngôn ngữ cho HS phổ thông - Trương Dĩnh - Nxb Đà Nẵng (2000) [17] đề cập
ý nghĩa, nội dung, nguyên tắc, phương pháp cụ thể đối với việc phát triển ngôn ngữ, khai thác các
biện pháp rèn luyện từ chính âm đến từ ngữ, ngữ pháp, phong cách với các mơ hình và ví dụ cụ
thể. Các quan điểm hiện đại về dạy học tiếng Việt như các mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy,
ngôn ngữ và nhân cách, ngôn ngữ và giao tiếp… được dẫn giải dễ hiểu. Tập sách chưa đặt vấn đề
về rèn luyện và phát triển kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong một phương thức tạo lập văn bản, cụ
thể là VBTS.
Các sách tham khảo khác : Những bài làm văn tự sự và Miêu tả 6 –Nguyễn Quang Ninh –

Nxb Giáo dục 2005 [44] ; Hướng dẫn TLV 6 - Vũ Nho chủ biên – Nguyễn Thúy Hồng, Trần Thị
Nga, Trần Thị Thành –– Nxb Giáo dục 2004 [41] ; Rèn kĩ năng làm văn tự sự và miêu tả 6 -


Đoàn Thị Kim Nhung, Phạm Thị Nga –Nxb Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh 2006 [42] ; Tư
liệu dạy Ngữ văn 6, 7, 8, 9 - Đỗ Ngọc Thống– Nxb Giáo dục 2003 – 2006 [61] ; Các dạng bài
TLV và cảm thụ thơ văn 6, 7, 8 , 9 - Cao Bích Xuân –– Nxb Giáo dục 2003- 2006 [69] ; Một số
kiến thức, kĩ năng và bài rập nâng cao Ngữ văn 6, 7, 8, 9 - Nguyễn Thị Mai Hoa – Đinh Chí
Sáng – Nxb Giáo dục 2003 – 2006 [23] và các tác giả khác với các quyển những bài làm văn
chọn lọc, những bài làm văn hay các lớp 6, 7, 8, 9,…Đây là các sách bài tập và tham khảo theo
chương trình SGK mới 2002. Nội dung trình bày của các sách trên có những điểm chung là tìm
hiểu khái qt về tự sự và đặc điểm của văn tự sự, các kiểu bài tự sự thường gặp, những điều cần
lưu ý, phương pháp làm bài văn tự sự, các bài tập rèn luyện và một số bài văn mẫu. Tuy nhiên
cũng có rất nhiều sách chỉ cung cấp cho HS, GV và phụ huynh những bài văn mẫu mà không
định hướng phương pháp cũng như rèn những kĩ năng hình thành năng lực viết VBTS cho HS.
Qua các tài liệu tham tham khảo, khái niệm và đặc điểm về văn tự sự được trình bày khá
thống nhất, luận văn kế thừa thành quả nghiên cứu vào việc tìm hiểu đặc điểm của VBTS. Việc
rèn luyện về kĩ năng sử dụng ngôn ngữ được trình bày lồng ghép trong các yêu cầu, phương pháp
làm bài văn tự sự, chưa đặt thành vấn đề cụ thể để hướng dẫn HS rèn luyện.
Đặc trưng của VBTS được xếp vào loại các văn bản nghệ thuật, bản thân nó vốn là một
loại văn bản vừa mang tính thực tế vừa có tính sáng tạo cao. Đưa vào chương trình giảng dạy
trong nhà trường, quá trình rèn luyện viết VBTS khơng chỉ cần thiết có các phương pháp đi từ dễ
đến khó, từ cơ bản đến nâng cao…, mà còn chú trọng cho HS cách dùng từ ngữ, câu, liên kết câu
cũng như những định hướng đúng để tạo lập được VBTS đạt yêu cầu cao… Đây là một lĩnh vực
nghiên cứu còn nhiều hứa hẹn, góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ mơn, giúp HS có kĩ
năng làm bài, đồng thời tạo sự yêu thích học văn trong HS, tạo cơ sở để bồi dưỡng và nâng cao
năng lực của HS trong việc tạo lập văn bản, nhất là VBTS.
Dạy tạo lập VBTS chú ý rèn kĩ năng sử dụng ngôn ngữ thể hiện rõ quan điểm dạy học tích
hợp của chương trình Ngữ văn mới. Luận văn kế thừa những nghiên cứu về phương pháp dạy
TLV và tiếng Việt của các nhà nghiên cứu, các nhà giáo đồng thời nghiên cứu về nội dung,

chương trình và soạn giảng một số bài dạy tiêu biểu của chương trình nhằm rèn luyện kĩ năng
làm bài cho HS, phát huy năng lực sử dụng tiếng Việt cho HS trong tạo lập VBTS.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu :
- Mục đích của luận văn là nhằm trang bị thêm cho GV một số cách thức cụ thể, khả thi
về phương pháp dạy TLV tự sự đạt hiệu quả và giúp HS thực hành bài văn tự sự một cách tự tin,
đúng yêu cầu, sáng tạo, sử dụng ngôn từ chuẩn xác, kể chuyện hấp dẫn… Luận văn thiết kế một
số bài giảng chú trọng đến việc rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong tạo lập VBTS cho HS
THCS. Từ thực tiễn học tập của HS, luận văn tìm giải pháp và đề xuất một số kiến nghị cho việc


giảng dạy tạo lập VBTS ở chương trình THCS đạt kết quả, nhằm góp phần đổi mới phương pháp
giảng dạy TLV, phục vụ cho việc giảng dạy chương trình và SGK mới.
- Nhiệm vụ của luận văn là ứng dụng lý thuyết tự sự trong việc soạn giảng các bài dạy
TLV tự sự, chú trọng rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS THCS. Để thực hiện nhiệm vụ
trên, tác giả luận văn đã tiến hành dự giờ, khảo sát thực tế giảng dạy và học tập về VBTS của GV
và HS ở Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh, tìm hiểu những thuận lợi khó khăn từ chương trình
SGK, từ GV, HS,… đối với việc dạy tạo lập VBTS ; thiết kế giáo án và ghi nhận những việc đã
làm được và chưa làm được trong việc dạy thể nghiệm đồng thời đề xuất các phương pháp giảng
dạy tạo lập VBTS có chú trọng rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là các bài dạy trong SGK và sách GV lớp 6, 7, 8, 9 về tạo lập
VBTS cấp THCS, các tiết dạy của GV về tạo lập VBTS và các bài viết TLV tự sự của HS một số
trường ở Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu là chương trình TLV tự sự THCS, cụ thể ở các lớp 6, 7, 8, 9 phân
bố trong học kì I.
5. Phương pháp nghiên cứu
Từ mục đích, nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu nghiên cứu trên, chúng tôi vận dụng các
phương pháp sau trong luận văn :
5.1 Phương pháp nghiên cứu liên ngành : vận dụng và kế thừa thành tựu nghiên cứu của
nhiều ngành : ngôn ngữ học, nghiên cứu văn học, giáo dục học, lý luận văn học, tâm lý học,…

trong đó đặc biệt chú ý đến việc vận dụng phương pháp giảng dạy TLV và Tiếng Việt trong tạo
lập VBTS. Luận văn tìm hiểu chương trình giảng dạy về TLV tự sự trong nhà trường, tham khảo
các tài liệu về lý thuyết văn tự sự, về phương pháp giảng dạy TLV và Tiếng Việt qua các sách,
báo, tạp chí chun ngành ngơn ngữ, tạp san, báo cáo chuyên đề…
5.2 Phương pháp quan sát, điều tra, phỏng vấn : dự giờ GV giảng dạy các tiết về tạo lập
VBTS, điều tra, thăm dò, phỏng vấn các GV THCS ở quận 6 để tìm hiểu những thuận lợi và khó
khăn của chương trình giảng dạy cũng như việc tiếp thu, thực hành làm văn tự sự của HS.
5.3 Phương pháp thống kê : thống kê các lỗi sai từ bài làm của HS trong việc dùng từ,
dùng câu, viết đoạn, viết VBTS.
5.4 Phương pháp thực nghiệm : thực hành soạn giảng một số bài dạy về tạo lập VBTS
trong chương trình chú trọng đến rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS.


5.5 Phương pháp tổng hợp, phân tích, đánh giá : tổng hợp các vấn đề lý thuyết của VBTS ;
phân tích nguyên nhân lỗi sai của HS từ kết quả thống kê bài làm và đánh giá những đóng góp
của luận văn.
6. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
Cơ sở khoa học : Mục tiêu của môn Ngữ văn cấp THCS là hoàn thiện kiến thức cơ sở về
từ vựng, ngữ pháp tiếng Việt ; cung cấp kiến thức về văn bản học, lí luận văn học ; hình thành ở
HS năng lực tiếp nhận và tạo lập các kiểu VBTS, miêu tả, biểu cảm, lập luận, thuyết minh và
hành chính - cơng vụ. Luận văn thể hiện sự tích hợp giữa lý thuyết TLV và đặc điểm ngôn ngữ
của VBTS để rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong VBTS, vận dụng đổi mới phương pháp
dạy học, phát huy tính tích cực, chủ động trong hoạt động dạy học TLV đáp ứng yêu cầu giao
tiếp, phát huy năng lực sử dụng tiếng Việt làm công cụ để giao tiếp và tư duy.
Cơ sở thực tiễn : luận văn được thực hiện theo chương trình giáo dục phổ thông cấp THCS
và SGK mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo được áp dụng đại trà từ năm 2002 đến nay. Luận văn
khảo sát thực tế giảng dạy của GV môn Ngữ văn và chất lượng học tập bộ môn của HS THCS ở
Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh năm học 2006 -2007.
7. Cấu trúc luận văn :
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương :

Chương I : Đặc trưng VBTS và việc rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong tạo lập
VBTS cho HS THCS.
Chương II : Vấn đề dạy học tạo lập VBTS ở chương trình THCS.
Chương III : Phương pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS THCS trong tạo
lập VBTS.


CHƯƠNG 1. ĐẶC TRƯNG VĂN BẢN TỰ SỰ VÀ VIỆC TẠO LẬP VĂN
BẢN TỰ SỰ CHO HỌC SINH THCS
1.1. Khái niệm, đặc điểm VBTS
1.1.1. Khái niệm văn bản
Văn bản trong ngôn ngữ học được định nghĩa rất phức tạp. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,
với nghĩa rộng : 1) Bản ghi bằng chữ viết hoặc in, một phát ngôn hoặc một thông báo ngôn từ
(phân biệt với việc thực hiện phát ngơn hoặc thơng báo ấy bằng nói miệng) ; 2) Phương diện tri
giác của tác phẩm được biểu đạt và ghi nhận bằng các kí hiệu ngơn ngữ ; 3) Đơn vị nhỏ nhất (có
tính thống nhất tương đối và tính độc lập tương đối) của giao tiếp bằng ngôn từ. Với nghĩa hẹp :
văn bản là một chỉnh thể nghĩa, một khối thống nhất có tổ chức của các thành tố hợp thành, một
thông báo mà tác giả (người phát) gửi tới người đọc, người xem (người nhận).[ 21, tr.270-271]

Theo Từ điển giải thích thuật ngữ ngơn ngữ học : “Văn bản là chuỗi các đơn vị
kí hiệu ngôn ngữ làm thành một thể thống nhất bằng mối liên hệ ý nghĩa mà thuộc
tính cơ bản của nó là sự hồn chỉnh về hình thức và nội dung ; sản phẩm của lời nói
được định hình dưới dạng chữ viết hoặc in ấn.” [70, tr.413]
Theo SGK Ngữ văn 6 : “Văn bản là chuỗi lời nói miệng hay bài viết có chủ đề thống nhất,
có liên kết, mạch lạc, vận dụng phương thức biểu đạt phù hợp để thực hiện mục đích giao tiếp”
[47, tr.17]. Khái niệm trên chú ý đến những tính chất cơ bản tạo thành văn bản để thực hiện giao
tiếp, cung cấp cách hiểu cơ bản về văn bản cho HS cấp THCS.
1.1.2. Phương thức biểu đạt
Thuật ngữ “phương thức biểu đạt” là một khái niệm được dùng phổ biến trong chương
trình và SGK mới. Phương thức là cách thức và phương pháp (nói tổng quát) [71, tr.766], biểu

đạt là làm cho nội dung tư tưởng được tỏ rõ ra bằng hình thức nào đó [71, tr.63]. Phương thức
biểu đạt được hiểu như là cách thức biểu đạt nội dung cần thể hiện, cách thức miêu tả, phản ánh
và tái hiện lại đời sống (thiên nhiên, xã hội, con người) của người viết, người nói. Mỗi phương
thức biểu đạt phù hợp với một mục đích, ý đồ phản ánh, tái hiện nhất định và được thực hiện bởi
một thao tác chính nào đó. [64]
Tùy theo mục đích giao tiếp mà người ta sử dụng các kiểu văn bản với các phương thức
biểu đạt phù hợp. Có thể chia ra sáu phương thức biểu đạt như tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết
minh, nghị luận (lập luận), điều hành (hành chính – cơng vụ). Phương thức biểu đạt là căn cứ để
xác định kiểu văn bản. Ứng với sáu phương thức biểu đạt này là sáu kiểu văn bản tương ứng.
Kiểu văn bản là hình thức biểu đạt cơ bản nhất của mọi biểu đạt. Mỗi kiểu văn bản tương ứng với


phương thức biểu đạt chính. Một kiểu văn bản có thể bao chứa trong nó các phương thức biểu đạt
khác.
1.1.3. Phương thức tự sự
Khi muốn tái hiện lại một câu chuyện đã xảy ra nhằm giải thích sự việc, tìm hiểu con người,
nêu vấn đề và bày tỏ thái độ khen chê thì người viết phải trình bày một chuỗi sự việc liên quan
đến nhau, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng có một kết thúc. Đó chính là phương thức tự
sự.
Khái niệm phương thức tự sự trình bày các sự việc (sự kiện) có quan hệ nhân quả dẫn đến
kết cục, biểu lộ ý nghĩa. Khái niệm tự sự ở đây bao gồm các nội dung kể chuyện, tường thuật,
trần thuật trong chương trình TLV trước đây. Hình thức văn bản cụ thể của VBTS là bản tin báo
chí, bản tường thuật, tường trình, tác phẩm lịch sử, tác phẩm văn học nghệ thuật : truyện, tiểu
thuyết, kí sự. Từ “kể chuyện” khá tiêu biểu cho tự sự, cho nên nhiều khi được dùng để thay thế tự
sự.
“Tự sự là phương thức trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia,
cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa.” [47, tr.28]. Phương thức tự sự ở TLV tập
trung vào hành động kể việc, thuật việc, trình bày diễn biến sự việc.
Thể loại tự sự là phương thức tái hiện đời sống, bên cạnh hai phương thức khác là trữ tình
và kịch được dùng làm cơ sở để phân loại tác phẩm văn học. [21, tr.263]. Thể loại tự sự bao hàm

cả kể và miêu tả sự việc, sự vật.
VBTS lớn hơn phương thức tự sự vì có chứa nhiều phương thức biểu đạt.
1.1.4. Mục đích giao tiếp của tự sự
Mục đích kể chuyện là để biết, để nhận thức con người cũng như ngoại giới và phương thức
kể là kể từng việc, lần lượt có đầu có đi, có tính liên tục, có ngun nhân, kết quả. Kể khơng
theo trình tự đầu cuối, sắp xếp các tình tiết khơng hợp lí, người đọc khơng nắm được sự việc, tức
là khơng đạt được mục đích giao tiếp.
Tự sự giúp người kể giải thích sự việc, tìm hiểu con người, nêu vấn đề và bày tỏ thái độ
khen chê. [47, tr.28]
1.2. Đặc điểm VBTS :
Phương thức phản ánh hiện thực qua các sự kiện, biến cố và hành vi của con người làm cho
tác phẩm tự sự trở thành một câu chuyện về ai đó hay về một cái gì đó. Cho nên tác phẩm tự sự
bao giờ cũng có cốt truyện. Gắn liền với cốt truyện là hệ thống nhân vật được khắc hoạ đầy đủ
nhiều mặt hơn hẳn nhân vật trữ tình và kịch. Trong tác phẩm tự sự cốt truyện được triển khai,
nhân vật được khắc hoạ nhờ một hệ thống chi tiết nghệ thuật phong phú đa dạng, bao gồm chi tiết
sự kiện xung đột, chi tiết nội tâm, ngoại hình của nhân vật, chi tiết tính cách, chi tiết nội thất,


ngoại cảnh, phong tục, đời sống văn hoá, lịch sử, lại cịn có cả những chi tiết liên tưởng, tưởng
tượng, hoang đường mà không nghệ thuật nào tái hiện được.
Những điểm nói trên làm cho tác phẩm tự sự trở thành loại văn học có khả năng quan trọng
trong đời sống tinh thần của con người hiện đại… [21, tr.263-264]
1.2.1 Sự việc và nhân vật
-

Cốt truyện :

Từ điển Văn học (bộ mới) giải thích “Thuật ngữ cốt truyện chỉ sự phát triển của hành động,
của tiến triển các sự việc, các biến cố trong tác phẩm tự sự và kịch, đơi khi cả trong tác phẩm trữ
tình” [29, tr.324-326]. Cốt truyện có chức năng quan trọng là bộc lộ các mâu thuẫn của đời sống,

tức là thể hiện xung đột. Bản thân thuật ngữ “cốt truyện” của tiếng Việt, dễ bị hiểu như cái “lõi”,
“bộ xương”, cái “sườn”, “cơ sở” của truyện chứ chưa phải là truyện. Gorki coi cốt truyện là hệ
thống các quan hệ qua lại của các nhân vật, là “lịch sử phát triển và sự tổ chức một tính cách nào
đó”. Cái dệt nên cốt truyện là hành động của các nhân vật (hành động là sự thể hiện các cảm xúc,
ý nghĩa, ý định của con người vào các hành vi, hoạt động, lời nói, cử chỉ, nét mặt … của họ).
Chương trình giảng dạy tự sự cấp THCS đưa vấn đề cốt truyện vào sự việc, nhân vật và xác định
đây là hai yếu tố then chốt của VBTS.
-

Sự việc

“Sự việc là yếu tố quan trọng, cốt lõi của tự sự.” [47, tr.79], là “cái xảy ra được nhận thức
có ranh giới rõ ràng, phân biệt với những cái tồn tại khác” [70, tr.846]. Sự việc là những việc xảy
ra và những việc do con người làm ra. Muốn tự sự phải chọn sự việc và tổ chức sự việc sao cho
thể hiện được điều muốn nói. Sự việc tạo thành chuyện phải tiêu biểu, có vai trị dẫn dắt câu
chuyện, khắc họa đặc điểm tính cách nhân vật tác động của sự việc phải gây biến đổi, nhằm bộc
lộ bản tính, nguyên nhân gì bên trong của con người hay sự vật thì mới tạo thành chuyện.
Trong VBTS có thể chỉ một sự việc được kể cùng một số chi tiết làm ra sự việc đó. Nhưng
thường thì câu chuyện được kể là một chuỗi sự việc từ khởi đầu, phát triển đến cao trào và kết
thúc. Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh có các sự việc sau [61, tr.33-34] :

 Sự việc khởi đầu : Vua Hùng kén rể.
 Sự việc phát triển : Sơn Tinh, Thuỷ Tinh cầu hôn, Vua Hùng ra điều kiện.
 Sự việc cao trào : Sơn Tinh được vợ, Thuỷ Tinh tức giận đánh Sơn Tinh.
 Sự việc kết thúc : Thuỷ Tinh thua và thường xuyên trả thù.
Sự việc trong văn tự sự phải được kể cụ thể : do ai làm, việc xảy ra ở đâu, lúc nào, nguyên
nhân, diễn biến, kết quả. Chính các yếu tố này làm truyện được cụ thể, sáng tỏ. Truyền thuyết
Sơn Tinh, Thuỷ Tinh có các yếu tố tự sự cụ thể :
 Ai làm (nhân vật là ai) : Sơn Tinh và Thuỷ Tinh.



 Việc xảy ra ở đâu (địa điểm) : Thành Phong Châu.
 Lúc nào (thời gian) : Đời Vua Hùng thứ 18.
 Nguyên nhân : Thuỷ Tinh căm tức vì không lấy được Mỵ Nương.
 Diễn biến : Hai chàng trai tài giỏi cùng muốn lấy Mỵ Nương, Thuỷ Tinh thua cuộc,
Thuỷ Tinh và Sơn Tinh đánh nhau quyết liệt.
 Kết quả : Thuỷ Tinh thất bại.
“Sự việc trong VBTS được trình bày một cách cụ thể : Sự việc xảy ra trong thời gian, địa
điểm cụ thể, do nhân vật cụ thể thực hiện, có nguyên nhân, diễn biến, kết quả,… Sự việc trong
văn tự sự được sắp xếp theo một trật tự, diễn biến sao cho thể hiện được tư tưởng mà người kể
muốn biểu đạt” [47, tr.38]. Tuy nhiên sự việc cần được kể một cách đầy đủ, chứ không bắt buộc
phải kể đủ các yếu tố đó trong mọi văn bản. Chuỗi sự việc khơng phải lúc nào cũng được kể theo
tuần tự diễn biến tự nhiên. Nhưng dù kể theo cách nào cũng phải thể hiện được tư tưởng mà
người kể muốn biểu đạt và tạo được hứng thú cho người nghe. Sự việc có quan hệ với nhau và
với nhân vật, với chủ đề tác phẩm. Trong tự sự, chuỗi sự việc tạo thành cốt truyện của văn bản.
-

Nhân vật

Trong văn tự sự, nhân vật là yếu tố luôn đi cùng với sự việc.
Vậy thế nào là nhân vật trong VBTS ? Hiểu theo nghĩa hẹp, nhân vật là những con người
được nói tới trong VBTS. “ Nhân vật trong văn tự sự là kẻ thực hiện các sự việc và là kẻ được thể
hiện trong văn bản” [47,tr.38]. Những nhân vật đó có thể có tên như chị Dậu, Nghị Quế (Tắt đèn
– Ngô Tất Tố), Thu (Chiếc lược ngà – Nguyễn Quang Sáng),… có thể khơng có tên như anh
thanh niên, ơng hoạ sĩ, cô kĩ sư (Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long), ông giáo (Lão Hạc - Nam
Cao),… Hiểu theo nghĩa rộng, nhân vật là tất cả những chủ thể tạo nên hành động trong tác
phẩm. Theo nghĩa này, nhân vật có thể là người, có thể khơng phải là người, có thể là vật, có thể
là đồ vật.
Nhân vật có thể là thần (Gióng trong Thánh Gióng - truyền thuyết), là người (ông Hai
trong Làng – Kim Lân)), là vật (Dế Mèn trong Dế Mèn phiêu lưu kí – Tơ Hồi). Trong văn tự sự

nhiều khi có nhân vật xưng “tơi”. Nhân vật này có khi là người dẫn chuyện, người chứng kiến
việc xảy ra và kể lại cho ta nghe, người như biết hết mọi chuyện trong tác phẩm, cứ thấp thoáng
khi ẩn khi hiện trong câu chuyện. Có khi nhân vật “tơi” này là một trong những người tham gia,
đóng vai nhất định trong truyện như nhân vật “tôi” trong Tôi đi học của Thanh Tịnh, hoặc “tơi”
trong Trong lịng mẹ của Ngun Hồng… Nhân vật, đó là cá thể làm ra sự việc và là sản phẩm
của lời kể. Có nhiều cách thể hiện nhân vật và phân loại nhân vật như nhân vật chính diện và
nhân vật phản diện (Thạch Sanh, Lí Thơng), nhân vật chính và nhân vật phụ (Đơn Ki-hơ-tê, Xanchơ Pan-xa). Ngồi ra cịn có nhiều cách phân loại nhân vật như nhân vật tích cực (Nho, Phương


Định – Những ngôi sao xa xôi – Lê Minh Khuê), nhân vật tư tưởng (Nhĩ - Bến quê – Nguyễn
Minh Châu)… Nhân vật được thể hiện qua các mặt : tên gọi, lai lịch, hình dáng, tính nết, việc
làm, suy nghĩ, hành động, tâm trạng (Thúy Kiều - Truyện Kiều - Nguyễn Du),…
Trong các VBTS nghệ thuật, sự việc và nhân vật khơng tách rời, vì nhân vật là kẻ làm ra
sự việc và nhân vật chỉ có thể hiện lên trong các sự việc đó qua lời kể. Tương tự, mỗi sự việc đầy
ắp chi tiết về nhân vật.
1.2.2. Chủ đề và dàn bài trong văn tự sự
-

Chủ đề là yếu tố nội dung không thể thiếu của VBTS. “Chủ đề là vấn đề chủ yếu được

quán triệt trong nội dung một tác phẩm văn học nghệ thuật, theo một khuynh hướng nhất định”
[71, tr.168]. Khái niệm chủ đề của văn bản thường gợi ra nhiều cách hiểu xuất phát từ nhiều
hướng tiếp cận. Khi nhà văn sáng tạo ra tác phẩm thì chủ đề của văn bản là tư tưởng của tác giả
gửi gắm qua tác phẩm, là thông điệp nghệ thuật của nhà văn. Khi người đọc tiếp nhận văn bản thì
vấn đề đời sống tốt lên từ câu chuyện là chủ đề tác phẩm. Nói một cách đơn giản, “chủ đề là vấn
đề chủ yếu mà người viết muốn đặt ra trong văn bản [47,45]. “Chủ đề là điều mà câu chuyện
muốn đề cao, muốn ca ngợi, khẳng định hoặc muốn lên án, phê phán, chế giễu. Chủ đề thấm
nhuần trong sự việc, trong mâu thuẫn và trong cách giải quyết mâu thuẫn của truyện. Người kể
phải chọn các sự việc thích hợp với chủ đề, phải có cách kể sao cho chủ đề được biểu hiện ra để
người đọc nhận thấy. Chọn các sự việc không hợp chủ đề sẽ làm cho bài văn lạc đề, rời rạc.” [51,

tr.9].
Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long [50, tr.180 -188] khắc họa thành cơng
hình ảnh những con người lao động bình thường, mà tiêu biểu là anh thanh niên làm cơng tác khí
tượng ở một mình trên đỉnh núi cao. Qua đó, truyện khẳng định vẻ đẹp của con người lao động và
ý nghĩa của những công việc thầm lặng. Tác giả muốn nói với người đọc : “Trong cái lặng im của
Sa Pa, có những con người làm việc và lo nghĩ cho đất nước” [54, tr.200]. Chủ đề tác phẩm cũng
gợi ra những vấn đề ý nghĩa và niềm vui của lao động tự giác, vì những mục đích chân chính đối
với con người.
-

Dàn bài bài văn tự sự thường gồm ba phần :



Mở bài : giới thiệu chung về nhân vật, sự việc và tình huống xảy ra câu chuyện.

(Cũng có khi nêu kết quả của sự việc, số phận nhân vật trước.)



Thân bài : kể diễn biến của sự việc theo một trình tự nhất định nhằm thể hiện chủ

đề. (Trả lời các câu hỏi : Câu chuyện diễn ra ở đâu? Khi nào? Với ai? Như thế
nào?…)
Trong khi kể, người viết thường phải kết hợp miêu tả sự việc, con người và thể
hiện tình cảm, thái độ của mình trước sự việc và con người được miêu tả.





Kết bài : kể kết cục của sự việc, cảm nghĩ của người trong cuộc (người kể

chuyện hay một nhân vật nào đó) hoặc khẳng định chủ đề của truyện.
“Dàn bài là sự sắp xếp bên ngoài, mà chủ đề là mối liên hệ bên trong. Chủ đề có lúc thể
hiện ở những câu then chốt trong phần mở bài hoặc kết bài, có lúc thể hiện ở chi tiết, hành động.”
[53, tr.49]. Dàn bài chỉ nêu lên một cách chung nhất sự sắp xếp cơ bản của bài văn tự sự. Thực tế
bài văn tự sự hoàn chỉnh rất linh hoạt, nhất là phần mở bài và kết bài.
Truyện ngắn Tôi đi học của Thanh Tịnh [49] đã diễn tả những kỉ niệm trong sáng của tuổi
học trò trong buổi tựu trường đầu tiên. Trình tự diễn tả những kỉ niệm của nhà văn trong tác
phẩm :



Mở bài : từ hiện tại mà nhớ về dĩ vãng : biến chuyển của trời đất cuối thu và

hình ảnh mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón là mẹ lần đầu tiên đi đến trường gợi cho
nhân vật “tôi” nhớ lại mình ngày ấy cùng những kỉ niệm trong sáng.



Thân bài : diễn biến tâm trạng của nhân vật “tơi” :
• Tâm trạng, cảm giác trên con đường cùng mẹ tới trường.
• Tâm trạng, cảm giác khi nhìn nhìn ngơi trường ngày khai giảng, khi
nhìn mọi người, các bạn, lúc nghe gọi tên mình và phải rời bàn tay mẹ
để vào lớp.
• Tâm trạng lúc ngồi vào chỗ



Kết bài : tâm trạng của nhân vật “tơi’ đón nhận giờ học đầu tiên.


1.2.3. Thứ tự trong văn tự sự
Khi kể chuyện, người viết có thể kể các sự việc nối tiếp nhau theo trình tự thời gian, việc
gì xảy ra trước kể trước, việc gì xảy ra sau kể sau, lần lượt cho đến hết chuyện. Nhưng trong
nhiều trường hợp không nhất thiết phải theo trình tự thời gian, để làm cho câu chuyện bất ngờ,
tạo hứng thú cho người đọc, bộc lộ tình cảm với nhân vật, người viết có thể kể kết quả hoặc kết
thúc câu chuyện trước rồi mới dẫn dắt người đọc vào các sự việc diễn ra trước đó hoặc diễn biến
tiếp theo của câu chuyên. Có khi người ta kể chuyện bắt đầu từ mốc thời gian giữa câu chuyện rồi
kể lại từ đầu, sau đó kể tiếp câu chuyện.
Truyền thuyết Con Rồng, cháu Tiên ; Bánh chưng, bánh giầy [47] kể theo thứ tự thời gian
có sự tiếp nối ngay cả khi câu chuyện đã kết thúc. Truyện ngắn Chiếc lược ngà của nhà văn
Nguyễn Quang Sáng [50] bắt đầu từ mốc thời gian hiện tại. Nhân vật ông Ba đang kể chuyện cho
đồng đội về một kỉ niệm sâu sắc trong cuộc đời mình, sau đó là tồn bộ diễn biến câu chuyện và
kết thúc câu chuyện và những tình cảm của người kể.


1.3. Đặc điểm ngôn ngữ của VBTS
Đặc điểm ngôn ngữ của VBTS nằm trong đặc điểm chung của kiểu văn bản này. Việc tách
riêng thành đặc điểm ngôn ngữ của VBTS nhằm mục đích nhấn mạnh đến đặc thù về ngôn ngữ
mà đề tài luận văn hướng đến.
1.3.1. Lời văn tự sự
“Lời văn là hình thức diễn đạt bằng ngơn ngữ được viết thành văn” [71, tr.566]. Lời văn tự
sự là hình thức diễn ngơn tự sự. Lời giới thiệu, kể sự việc, miêu tả, đối thoại, độc thoại, bình luận
là các bộ phận tạo thành lời văn tự sự.
Lời văn tự sự hết sức phong phú, đa dạng. Có thể phân làm 2 loại lớn là lời giới thiệu nhân
vật và lời văn kể việc.
Lời giới thiệu nhân vật là yếu tố rất cơ bản của lời văn tự sự. Bất kì VBTS nào cũng
có lời giới thiệu nhân vật. Đó là những thơng tin về nhân vật, từ tên, họ, lai lịch, quan hệ cho đến
tính tình, tính cách, tài năng, ý nghĩa của nhân vật, sự ảnh hưởng của nhân vật trong tiến trình
phát triển của truyện. Lời giới thiệu cũng bao gồm cả sự bày tỏ thái độ khen chê của người viết.

Ví dụ, lời giới thiệu nhân vật trong truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh [31, tr.45] :
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương, người đẹp như
hoa, tính nết hiền dịu. Vua cha yêu thương nàng hết mực, muốn kén cho con một người
chồng thật xứng đáng.
Một hơm có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên có tài lạ :
vẫy tay về phía đơng, phía đơng nổi cồn bãi ; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng
dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh. Một người ở miền biển, tài năng cũng khơng
kém : gọi gió, gió đến ; hô mưa, mưa về. Người ta gọi chàng là Thủy Tinh. Một người là
chúa vùng non cao, một người là chúa vùng nước thẳm, cả hai đều xứng đáng làm rể vua
Hùng.
Hai đoạn văn trên giới thiệu về vua Hùng và Sơn Tinh, Thủy Tinh. Cách giới thiệu đầy đủ,
cô đọng :
Đoạn 1 : gồm 2 câu, giới thiệu về vua Hùng và Mị Nương.
Câu (1) : Cung cấp thông tin xác định cụ thể vua Hùng của đời thứ mười tám, có một cơ
con gái xinh đẹp, nết na tên gọi Mị Nương.
Câu (2) : Giới thiệu về tình cảm của vua Hùng dành cho con gái và nguyện vọng kén
chồng xứng đáng cho con.
Đoạn 2 : gồm sáu câu, giới thiệu về Sơn Tinh, Thủy Tinh. Câu 1 giới thiệu chung, câu 2, 3
giới thiệu lai lịch, tài năng Sơn Tinh, câu 4, 5 giới thiệu cũng giới thiệu lai lịch, tài năng Thủy
Tinh, cuối câu 5 là sự khẳng định tài năng của hai người đều xứng đáng làm rể vua Hùng.


Các kiểu câu thường được dùng trong giới thiệu nhân vật là :
 Câu trần thuật có nịng cốt câu có từ “có” :
 Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái…
 Một hơm có hai chàng trai đến cầu hôn.
 Một người ở vùng núi Tản Viên có tài lạ…




Câu trần thuật đơn có từ “là” :
 Người ta gọi chàng là Sơn Tinh.
 Người ta gọi chàng là Thủy Tinh.
 Một người là chúa vùng non cao, một người là chúa vùng nước thẳm, cả hai đều
xứng đáng làm rể vua Hùng.
Các loại từ thường dùng là danh từ, đại từ, tính từ chỉ tính cách, thuộc tính của con

người.

-

Lời văn kể việc

Ngồi giới thiệu nhân vật, văn tự sự cịn kể việc. Thơng thường, trong lời kể có lời dẫn dắt
cốt truyện, giới thiệu thời gian, không gian, lời kể về sự kiện diễn ra trong truyện.
Khi kể việc thì kể các hành động, việc làm của nhân vật, những thay đổi do các hành động
ấy đem lại cũng như kết quả của hành động, câu chuyện. Lời văn kể việc thường là lời thông báo,
thuyết minh về sự việc. Yếu tố kể sự việc bao gồm thứ tự, quan hệ của hành động, sự việc và
cách dùng động từ. Lời văn kể việc trong truyện Thánh Gióng[47, tr.20] :
Giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt. Vừa lúc đó,
sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến
thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong, lẫm liệt. Tráng sĩ bước lên vỗ vào
mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình
ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh
giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những
cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy
trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên
đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.




Các sự việc được kể tuần tự :

Sự việc 1 : Giặc đã đến chân núi Trâu, thế nước nguy cấp. (Câu 1, 2)
Sự việc 2 : Sứ giả mang áo giáp sắt, ngựa sắt đến. (Câu 3)
Sự việc 3 : Các hành động, việc làm của Thánh Gióng chuẩn bị lên đường và giết giặc.
(Câu 4 - 10)


Sự việc 4 : Giặc thua. (Câu 11 -12)
Sự việc 5 : Hành động của Thánh Gióng sau khi thắng giặc. (câu 13)
Lời văn kể việc là lời văn có nhiều câu chỉ hoạt động, các câu có nhiều động từ chỉ hành
động, có sử dụng từ chỉ thời gian (ngày xưa, bấy giờ, một hôm, bèn, từ đấy, hiện nay,…).
Trong VBTS thường xuất hiện rất nhiều lời miêu tả. Miêu tả cảnh trong văn tự sự không
chỉ vẽ lên cảnh tượng mà cịn tạo khơng gian, điều kiện để bộc lộ nhân vật. Miêu tả người trong
VBTS không chỉ vẽ lên một chân dung mà còn lột tả một tính cách nào đó. “Mặt lão đột nhiên co
rúm lại. Những vết nhăn xô lại nới nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên
và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...” (Lão Hạc – Nam Cao) [49].
Miêu tả chi tiết ngoại hình đau đớn của lão Hạc bị dằn xé trong tiếng khóc, tác giả diễn tả sự ân
hận, đau đớn của lão Hạc dường như đến tột cùng khi lão nghĩ mình đã đánh lừa một con chó.
Lời văn tự sự khơng chỉ là lời văn giới thiệu, kể việc, miêu tả tâm lí nhân vật gắn với hành
động, diễn biến tâm tư của nhân vật để bộc lộ tính cách mà cịn là lời đối thoại, độc thoại của
nhân vật ; lời nhận xét, biểu cảm, bình luận của tác giả về sự việc, nhân vật,… Lời văn tự sự đôi
khi là lời biểu cảm, bình luận của tác giả về sự kiện hoặc nhân vật. “Hỡi ơi lão Hạc! Thì ra đến
lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hết… một người như thế ấy !... Một người đã khóc vì
trót lừa một con chó!... một người nhịn ăn để tiền lại làm ma, bởi khơng muốn liên lụy đến hàng
xóm, láng giềng… Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư ? Cuộc đời
quả thật cứ mỗi ngày thêm đáng buồn…” (Lão Hạc – Nam Cao) [49]. Đây là suy nghĩ của nhân
vật ông giáo ngộ nhận việc lão Hạc xin bã chó để làm điều xấu. Đó là sự thất vọng và sụp đổ
niềm tin vào con người của ông giáo. Lời văn thể hiện tình cảm của ơng giáo cũng như lời bình

luận, đánh giá về lão Hạc và cuộc đời.
Về hình thức ngữ pháp, câu sử dụng trong VBTS cũng rất đa dạng. Các câu đơn, câu ghép,
câu phức, câu rút gọn, câu đặc biệt,… đều được sử dụng. Đoạn trích mở đầu truyện Những ngôi
sao xa xôi – Lê Minh Khuê ở SGK Ngữ văn 9 tập 2 :
Chúng tôi có ba người. Ba cơ gái. Chúng tơi ở trong một hang dưới chân cao điểm.
Con đường qua trước hang, kéo lên đồi, đi đến đâu đó, xa ! Đường bị đánh lỡ loét, màu
đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đường khơng có lá xanh. Chỉ có những thân cây bị tước khô
cháy. Những cây nhiều rễ nằm lăn lóc. Những tảng đá to. Một vài cái thùng xăng hoặc
thành ơ tơ méo mó, han gỉ nằm trong đất.
Trong đoạn văn, tác giả đã dùng nhiều câu đơn, có dùng một số câu đặc biệt nhằm miêu tả
cảnh chiến trường bị bom cày xới ác liệt. Nhiều câu ngắn nhưng khơng gây cảm giác nhàm chán
cho người đọc vì phù hợp với khơng khí khẩn trương trên chiến trường.


1.3.2. Đoạn văn tự sự :
Những vấn đề về đoạn văn trong ngữ pháp văn bản đã được giải quyết tương đối thỏa
đáng. Trong chương trình giáo dục phổ thơng môn Ngữ văn [9, tr.9], kiến thức đoạn văn được
quy định giảng dạy từ lớp 2 cho đến lớp 12 – nghĩa là xuyên suốt trong các cấp lớp. Khái niệm về
đoạn văn trong chương trình THCS được quan niệm như sau :
Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chữ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc
bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn có thể do
một hoặc nhiều câu tạo thành.
Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ ngữ được dùng
làm đề mục hoặc các từ ngữ được lặp lại nhiều lần (thường là chỉ từ, đại từ, các từ đồng nghĩa)
nhằm duy trì đối tượng được biểu đạt. Câu chủ đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn,
thường đủ hai thành phần chính và đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn.
Các câu trong đoạn văn có nhiệm vụ triển khai và làm sáng tỏ chủ đề của đoạn bằng các
phép diễn dịch, quy nạp,… [49, tr.36]
Đoạn văn tự sự là đoạn văn giới thiệu nhân vật, kể sự việc như đã trình bày. Nó mang đặc
điểm của đoạn văn. Đoạn văn tự sự có thể có câu chủ đề. Trong Cố hương [50, tr.212-213], Lỗ

Tấn đã giới thiệu về nhân vật Nhuận Thổ :
Người đi vào là NhuậnThổ. Tuy tôi nhận ra ngay là Nhuận Thổ, nhưng không phải là
Nhuận Thổ trong kí ức tơi. Anh cao gấp hai trước, khn mặt trịn trĩnh, nước da bánh mật trước
kia nay đổi thành vàng sậm, lại có thêm những nếp răn sâu hoắm. Cặp mắt giống hệt cặp mắt bố
anh ngày trước, mi mắt viền đỏ húp mọng lên. Tôi khơng lấy làm lạ, ở miền biển, gió thổi suốt
ngày, đại để ai cũng thế cả. Anh đội một cái mũ lông chiên rách tươm, mặc một chiếc áo bông
mỏng dính, người co ro, cúm rúm, tay cầm một bọc giấy và một tẩu thuốc lá dài. Bàn tay này
cũng khơng phải là bàn tay tơi cịn nhớ, hồng hào, lanh lẹn, mập mạp, cứng rắn, mà vừa thô kệch,
vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông.
Câu chủ đề của đoạn văn trên nằm ở vị trí đầu đoạn giới thiệu nhân vật Nhuận Thổ. Các câu
tiếp theo trong đoạn miêu tả chiều cao, gương mặt, cặp mắt, cách ăn mặc, điệu bộ, bàn tay,… của
nhân vật Nhuận Thổ. Cách miêu tả có đối chiếu với kí ức của người kể về sự đổi khác giữa hình
ảnh Nhuận Thổ ở hiện tại với quá khứ.
Nhưng thông thường, đoạn văn tự sự kể chuỗi sự việc kết nối theo một trình tự nhất định.
Ngồi ra, trong VBTS thường có những đoạn có lời đối thoại giữa các nhân vật. Đối thoại là lời
“nói chuyện qua lại giữa hai hay nhiều người với nhau” [71, tr.328]. “Về nguyên tắc ngôn ngữ
nhân vật trực tiếp thường mang dấu ấn cá nhân rất rõ nét. Nó thể hiện khá đầy đủ các đặc điểm
của chủ thể phát ngơn : từ giới tính, tuổi tác, q qn, cho đến trình độ, tính cách” [4,37]


Truyện ngắn Chiếc lược ngà – Nguyễn Quang Sáng [50] đã sử dụng nhiều đoạn đối thoại
:
Trong lúc đó, ngoại nó cho tơi biết, đêm qua, bà đã tìm hiểu được vì sao nó khơng
chịu nhận ba nó. Bà hỏi :
-

Ba con, sao con không nhận ?

-


Không phải. – Đang nằm mà nó cũng giẫy lên.

-

Sao con biết là khơng phải ? Ba con đi lâu, con quên rồi chứ gì !

-

Ba khơng giống cái hình ba chụp với má.

-

Sao không giống, đi lâu, ba con già hơn trước thôi.

-

Cũng khơng phải già, mặt ba con khơng có cái thẹo trên mặt như vậy.

Trong q trình kể chuyện, ngơn ngữ nhân vật còn là lời độc thoại và độc thoại nội tâm
bằng một số đoạn văn. Lời độc thoại và độc thoại nội tâm là lời của nhân vật nói với chính mình
và cả những suy nghĩ nội tâm của nhân vật,… nhằm hướng đến một nội dung nào đó trong tồn
bộ câu chuyện.
Kể về tâm trạng ơng Hai (Làng – Kim Lân) [50] khi hay tin làng ông theo giặc, tác giả
không chỉ kể việc mà đã chú ý miêu tả, tâm trạng, hành động và lời độc thoại, độc thoại nội tâm
của nhân vật ông Hai :
Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy bố hơm may có vẻ khác, len lét
đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm sụi với nhau. (Đoạn 1)
Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian
đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư ? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu… Ơng
lão nắm chặt tay mà rít lên :

Chúng bay ăn cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục
nhã thế này.” (Đoạn 2)
Đoạn văn (1) kể việc ông Hai về đến nhà với vẻ khác lạ khiến các con ông sợ. Đoạn văn
khơng có câu chủ đề. Đoạn (2) diễn tả nỗi tủi thân cũng như giận dữ của ông Hai khi nghĩ con
ơng sẽ bị rẻ rúng, hắt hủi vì là Việt gian. Lời độc thoại nội tâm “Chúng nó cũng là trẻ con làng
Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư ? Khốn nạn, bằng ấy tuổi
đầu…”. Và cao điểm của trạng thái tình cảm của nhân vật thể hiện sự bất bình đến căm tức
những người của làng mình theo giặc là lời độc thoại “ - Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì
vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này.”.


1.3.3. Ngơi kể
“Ngơi kể là vị trí giao tiếp mà người kể sử dụng khi kể chuyện.” [47, tr.89]. Ngôi là “phạm
trù ngữ pháp của động từ biểu thị mối quan hệ của hành động (quá trình) và chủ thể hành động
với người nói. Ví dụ : Ngơi thứ nhất, ngôi thứ ba”.
Khi kể chuyện, bắt buộc phải xác định mối quan hệ giữa người kể với sự việc được kể, chỗ
đứng để quan sát và để gọi tên sự vật, nhân vật và miêu tả chúng. Kể theo ngôi thứ ba là cách kể
gọi tên các nhân vật. Ngôi thứ ba là “Hình thái phạm trù ngơi chỉ người khơng tham gia hoạt
động nói năng của cuộc thoại, ở ngồi cuộc thoại và hình thái tương ứng của động từ chỉ định
rằng chủ thể hành động là nhân vật hoặc sự vật khơng tham gia trong cảnh huống nói năng.
Trong thực tế, ngơi thứ ba là hình thái khơng có ngơi đối lập với các hình thái có ngơi trong cả
hai cách thể hiện của ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai. “ [70, tr.151 – 152 ]
Ngôi thứ ba trong cách kể cổ xưa được hiểu như là “người ta kể”, ví dụ như cách kể trong
thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, v.v… Ở đó người ta kể theo kí ức và kiến thức
cộng đồng, chứ không phải theo quan sát, nhận xét của bản thân người kể. Trong đó, người ta
gọi các nhân vật, sự vật theo tên gọi của chúng. Ở đây người kể chưa có nhu cầu giấu mình, vì
họ chỉ kể như “người ta kể” là được, nhưng cũng có lúc bộc lộ thái độ chủ quan của người kể,
nếu như họ muốn nói thêm.
Về sau “ngơi thứ ba” trở thành hình thức “giấu mình” của người kể biết hết - biết từ bề
ngồi cho đến ý nghĩ thầm kín của nhân vật. Trong yêu cầu kể chuyện đời thường, kể chuyện

tưởng tượng, HS không chỉ kể lại theo kiểu “người ta kể” của cổ tích và truyền thuyết, vì như thế
hạn chế việc thể hiện vai trị chủ thể của ngơi kể. Do đó, cách kể theo “ngơi thứ ba” là người kể
giấu mình, kín đáo gọi sự vật theo ngơi thứ ba – nó, chúng nó, tên gọi sự vật, nhân vật theo nhận
xét của mình và kể sao cho sự vật tự nó diễn ra. Hiểu như vậy, HS có thể kể tự do, linh hoạt
theo trí tưởng tượng của các em.
Gọi kể theo ngôi thứ ba là cách kể mà người kể “giấu mình” là vì tuy người kể không lộ
diện, nhưng vẫn thể hiện sự quan sát, nhận xét của mình. Do đó kể theo cách này, HS vẫn có thể
và bộc lộ sự nhận xét, quan sát của mình.
Kể theo “ngơi thứ nhất” là hình thức ra đời khá muộn.
Ngôi thứ nhất được định nghĩa là hình thái phạm trù ngơi biểu thị tác giả của lời nói (người
đang nói) và hình thái tương ứng của động từ chỉ chủ thể hành động chính là người đang nói, tức
là hình thái ngơi đồng nhất chủ thể hành động với người đang nói.
Ngơi thứ nhất là vị trí của người kể cho phép kể những gì mình biết, mình thấy, mình chịu
trách nhiệm một cách cơng khai. Về lí, “tơi” khơng thể kể những gì mà tơi khơng biết và khơng
nhìn thấy. Do đó, kể theo ngơi thứ nhất là một sự hạn chế trong tầm nhìn và hiểu biết của một


×