Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Báo cáo biện pháp giáo dục thi giáo viên giỏi mon ngữ văn THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 29 trang )

BÁO CÁO MỘT BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HIỆU QUẢ (DÙNG THI
GIÁO VIÊN GIỎI) MÔN NGỮ VĂN
TÊN ĐỀ TÀI: “Một số biện pháp nhằm phát triển năng lực học sinh
trong giờ đọc – hiểu văn bản Ngữ văn ở trường Trung học cơ sở”.
Phần I. Thực trạng của những giờ đọc - hiểu môn Ngữ văn ở trường
Trung học cơ sở Đơng Cao
Q trình dạy học ngày nay là q trình tương tác tích cực nhiều chiều,
nhiều đối tượng: giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với học sinh, giữa
học sinh với các lực lượng tham gia giáo dục. Đó là q trình hợp tác thi đua
tương tác, tích cực hoá hoạt động học tập, tự khám phá, tự học, tự hình thành kĩ
năng, kĩ xảo. Phương pháp dạy học cũng từng bước có những thay đổi mang
tính cách mạng. Cách dạy, cách học cũng thay đổi theo chiều hướng chung, xu
thế chung của phương pháp học hiện đại, đa phương tiện. Người giáo viên khi
giảng dạy phải chú trọng phát triển năng lực người học, theo tình huống, gắn với
tài liệu chuẩn, theo đặc trưng bộ môn, hướng nghiệp, tích hợp, tích cực, gắn với
trang thiết bị hiện đại. Giúp học sinh thực sự tích cực học tập, hướng vào bài
học, hướng vào nhóm, hợp tác thi đua, học sinh có động cơ, hứng thú học tập
tốt. Giờ học theo quan niệm hiện đại phải là giờ học mở, dân chủ theo nhóm
nhỏ, nhóm lớn, coi trọng thực tiễn, thí nghiệm thực hành. Để đảm bảo chất
lượng giờ học, học sinh phải quan sát, biết: quan sát, nắm thơng tin, khái qt
hố, hệ thống hố, phán đốn, đánh giá và quan trọng nhất là phải biết vận dụng
được kiến thức để giải quyết vấn đề thực tiễn.
Hiện nay, trong việc dạy – học bộ mơn Ngữ văn nói chung, giờ đọc hiểu nói
riêng, người giáo viên đã tiếp cận và vận dụng được các phương pháp dạy học
tích cực. Kĩ năng sử dụng thiết bị dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông trong tổ chức hoạt động dạy học được nâng cao. Chúng ta có
nguồn tư liệu tham khảo vơ cùng phong phú từ sách giáo khoa, sách tham khảo,
nguồn internet. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy đã được hỗ trợ
tối đa, đi vào chiều sâu tại các nhà trường với hệ thống trang thiết bị hiện đại,
tiên tiến được lắp đặt trực tiếp tại các phòng học như: máy chiếu, loa đài…vv…



Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy của bản thân và qua các tiết dự giờ, thăm
lớp của các đồng nghiệp, tơi nhận thấy có cịn tồn tại trong việc dạy và học các
tiết đọc – hiểu như sau:
1. Về phía giáo viên
Việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực của học sinh
trong các tiết đọc – hiểu Ngữ văn thông qua việc áp dụng các phương pháp và kĩ
thuật dạy học tích cực ở một số giáo viên đứng lớp còn hạn chế. Vấn đề đổi mới
phương pháp dạy học chưa được giáo viên nhận thức thành một hệ thống, chưa
thường xuyên, chưa đi vào chiều sâu. Có khi chỉ tập trung trong các giờ lên lớp
công khai, dạy tốt hoặc thi giáo viên giỏi. Bởi vậy, một số giáo viên còn mơ hồ
trong quá trình đổi mới phương pháp dạy của mình, chưa thực sự phát triển được
các năng lực của học sinh.
Trong một bộ phận giáo viên còn tồn tại quan điểm sai lệch: Một người thầy
giỏi là phải nhồi nhét thật nhiều kiến thức cho học sinh; học sinh học và trả bài
như những gì giáo viên áp đặt mới được cho là học sinh giỏi. Bởi vậy, thực trạng
vẫn còn những giờ đọc – hiểu, học sinh chỉ cắm cúi vào việc ghi chép, thụ động
và máy móc trong việc tiếp nhận giá trị của tác phẩm văn học, không mấy hứng
thú.
Năng lực cảm thụ, bình luận, bình giảng của một số giáo viên dạy Ngữ văn
thực sự còn tồn tại khơng ít hạn chế. Hơn thế nữa, khả năng hướng dẫn cho học
sinh tự thẩm bình những giá trị của tác phẩm càng hạn chế hơn. Mà khả năng
tiếp nhận nội dung tác phẩm văn học của học sinh thực tế phụ thuộc khá nhiều
vào khả năng hiểu biết, cảm thụ tác phẩm và hướng dẫn của thầy, cô giáo. Chính
vì vậy dẫn đến tình trạng nhiều giờ đọc – hiểu trở nên nhàm chán, chưa thực sự
phát huy được đầy đủ trí lực và năng lực tiềm ẩn của học sinh.
Còn tồn tại quan niệm một giờ học tốt phải là giờ học trật tư. Nhiều giáo
viên ngại sáng tạo, ít đổi mới; khơng chấp nhận việc học sinh thoải mái bày tỏ
quan điểm, đặc biệt là quan điểm trái chiều, những cách hiểu riêng của học sinh
về tác phẩm.
2. Những khó khăn mà học sinh gặp phải trong quá trình tiếp nhận văn

bản trong tiết đọc – hiểu

2


Đối tượng của chúng ta là các em học sinh bậc trung học cơ sở với vốn
sống, vốn hiểu biết xã hội còn hạn hẹp nên các em sẽ gặp những khó khăn nhất
định trong q trình tiếp nhận văn bản. Những khó khăn thường thấy là:
- Khó khăn về ngôn ngữ: từ ngữ cổ, điển tích, điển cố văn học, nghĩa đen,
nghĩa bóng của từ, cấu trúc ngữ pháp của câu, hình ảnh ẩn dụ, hốn dụ…Học
sinh thường đặc biệt gặp khó khăn này khi tiếp cận các tác phẩm văn học nước
ngoài hoặc các tác phẩm văn học cổ.
- Những khác biệt về quan niệm văn học, quan niệm thẩm mĩ của con người
thời xưa được thể hiện trong tác phẩm văn học cổ là một trong những rào cản
đối với việc tìm hiểu và cảm thụ tác phẩm văn học của học sinh.
- Những khác biệt về văn hóa: lối sống, phong tục tập qn, tơn giáo, cách
đánh giá các giá trị xã hội, đánh giá con người, cách phản ứng với các hiện
tượng xã hội… cũng là một trở ngại trong quá trình tiếp cận tác phẩm của học
sinh.
- Những hạn chế trong kinh nghiệm sống của học sinh, hạn chế trong kinh
nghiệm thưởng thức nghệ thuật, đặc biệt trong các tác phẩm không được viết
theo bút pháp hiện thực.
- Các em học sinh sinh sống ở vùng nơng thơn, điều kiện kinh tế cịn khó
khăn, thời gian dành cho việc học chưa có nhiều, bố mẹ chưa dành nhiều thời
gian quan tâm đến việc học của con.
Những tồn tại trên dẫn đến kết quả đạt được trong từng tiết đọc – hiểu văn
bản chưa cao, cụ thể: học sinh còn thụ động trong việc lĩnh hội kiến thức, ít hoặc
khơng dám đưa ra các thắc mắc, những suy nghĩ cá nhân. Khơng khí lớp học
cịn trầm, học sinh nhiều lớp ít tham gia phát biểu, tranh luận hay trình bày ý
kiến… Chính vì vậy, người giáo viên đứng lớp nhiều khi còn bị rơi vào tình

trạng nói, giảng, phân tích, bình nhiều. Thậm chí, có giờ dạy, giáo viên cịn “nói
thay” hết cho học sinh. Các em học sinh chỉ có một việc là chăm chú ngồi nghe
và ghi chép những điều giáo viên nói, giáo viên bình, giáo viên giảng…..
Phần II: Giải pháp phát triển năng lực học sinh trong giờ đọc – hiểu
Ngữ văn ở trường Trung học cơ sở Đông Cao
Trong nhà trường phổ thơng, mơn Ngữ văn có nhiệm vụ đặc biệt. Đây vừa
là bộ môn công cụ lại vừa là mơn học có tính nghệ tḥt thẩm mĩ. Nhiệm vụ
3


quan trọng của môn Ngữ văn là cung cấp cho học sinh những hiểu biết, những
tri thức về xã hội và con người trên một phạm vi rộng. Trên cơ sở những kiến
thức được cung cấp học sinh sẽ tự tìm hiểu về mình; chuyển quá trình nhận thức
sang quá trình tự nhận thức. Do vậy, nhiệm vụ đặt ra cho môn Ngữ văn không
hề đơn giản. Người giáo viên dạy Ngữ văn muốn hoàn thành nhiệm vụ phải nắm
vững quan điểm: Con người chỉ chiếm lĩnh được đối tượng nào đó khi họ thực
sự tham gia vào q trình học tập, lao động. Trong mỗi giờ học Ngữ văn, nếu
người học không được biết đến, không được người giáo viên kích thích cho bộ
óc làm việc, con tim khơng thực sự rung động thì những gì mà giáo viên truyền
dạy sẽ mãi mãi là của riêng thầy cô. Bởi vậy, dạy Ngữ văn đồng nghĩa với việc
phát triển năng lực, phẩm chất, bồi đắp tình cảm cho người học. Nói cách khác,
là người giáo viên, chúng ta phải có giải pháp khơi nguồn cảm hứng vô tận cho
sáng tạo của học sinh.
Từ năm học 2017 – 2018 đến nay, tôi đã áp dụng một số phương pháp, kĩ
thuật dạy học tích cực, mạnh dạn đổi mới cách dạy, hướng dẫn học sinh thay đổi
cách học…hướng tới phát huy những năng lực thực sự cho học sinh thông qua
giờ đọc - hiểu. Cụ thể như sau:
1. Đổi mới trong việc chuẩn bị của giáo viên và học sinh
GIÁO VIÊN
HỌC SINH

- Đây là khâu trước khi soạn giáo án, - Đây là bước chuẩn bị bài, tự học,
người giáo viên cần nắm vững nội dung tiếp cận văn bản của học sinh.
bài học, nghiên cứu chuẩn kiến thức, kĩ Không nên coi nhẹ khâu này vì
năng, từ đó xây dựng được mục tiêu của việc chuẩn bị, tự học sẽ giúp học
bài học một cách đầy đủ, có hệ thống (về sinh chủ động học tập và có
kiến thức, kĩ năng, phẩm chất, các năng những sáng tạo riêng trong việc
lực cần phát triển).
tiếp cận bài học mới.
- Phát hiện vấn đề cốt lõi của văn bản, - Đối với các thơng tin về tác giả,
chú ý nội dung tích hợp lồng ghép. Từ tác phẩm, học sinh sẽ tự thu thập,
đó, chọn những phương pháp, kĩ thuật, ghi chép.
tìm điểm nhấn để sáng tạo cho bài học. - Đối với việc tiếp cận văn bản,
Phối hợp linh hoạt giữa hệ thống câu hỏi, học sinh có thể trả lời các câu hỏi
giao nhiệm vụ cho học sinh...

trong sách giáo khoa. Tuy nhiên,

- Giao việc cho học sinh chuẩn bị ở nhà: từ định hướng giao việc của giáo
4


theo câu hỏi, theo vấn đề..vv...

viên, học sinh có thể tiếp cận bằng
câu hỏi hoặc vấn đề giáo viên giao

cho.
- Tôi thường hướng dẫn cho học sinh - Thực hiện theo định hướng
cách chuẩn bị các kiểu bài đọc hiểu khác chuẩn bị bài của cơ giáo. Từ đó,
nhau (theo phương thức biểu đạt) thành các em tạo thành một phương

một hệ thống từ lớp 6. Học đến kiểu bài pháp tự học theo đúng đặc trưng
nào, hướng dẫn chuẩn bị kiểu bài đó. kiểu bài.
Chú trọng việc làm mẫu, sau đó hướng
dẫn học sinh tự hồn thành, có kiểm tra
đánh giá.
* Cụ thể hóa hướng dẫn việc chuẩn bị của học sinh theo kiểu bài như sau:
1.1. Kiểu bài tự tự
1.1.1. Các thông tin về tác giả, tác phẩm
a. Tác giả
- Bút danh, họ tên khai sinh, năm sinh, năm mất.
- Quê quán
- Quá trình sáng tác
- Phong cách sáng tác
- Sở trường sáng tác
- Giải thưởng văn học
- Tác phẩm tiêu biểu
b. Tác phẩm
- Năm sáng tác
- Hoàn cảnh sáng tác
- Hoàn cảnh lịch sử xã hội tại thời điểm sáng tác
- In trong tập truyện nào?
1.1.2. Chuẩn bị tiếp cận nội dung văn bản
- Tóm tắt truyện
- Xác định hệ thống các nhân vật, nhân vật chính
- Lập bảng để bước đầu tìm hiểu về nhân vật
Hồn cảnh
Hành động, lời nói

Nhân vật A
Tâm trạng


Nhận xét, đánh
5


giá
1.2. Kiểu bài trữ tình (thơ)
1.2.1. Các thơng tin về tác giả, tác phẩm
a. Tác giả
- Bút danh, họ tên khai sinh, năm sinh, năm mất.
- Quê quán
- Quá trình sáng tác
- Phong cách sáng tác
- Sở trường sáng tác
- Giải thưởng văn học
- Tác phẩm tiêu biểu
b. Tác phẩm
- Năm sáng tác
- Hoàn cảnh sáng tác
- Hoàn cảnh lịch sử xã hội tại thời điểm sáng tác
- In trong tập thơ nào?
1.2.2. Chuẩn bị tiếp cận nội dung văn bản
- Xác định mạch cảm xúc chủ đạo của tác phẩm:
+ Bài thơ viết về điều gì?
+ Cảm xúc của nhà thơ được triển khai theo trình tự nào?
- Xác định bố cục của tác phẩm theo mạch cảm xúc.
- Lập bảng để bước đầu tìm hiểu về nội dung và nghệ thuật:
Cảm nhận
Khổ thơ


Hình ảnh, ngơn từ

Phép tu từ

(về cảnh, người, tâm
trạng cảm xúc...)

1.3. Kiểu bài Nghị luận
1.3.1. Các thông tin về tác giả, tác phẩm
a. Tác giả:
- Bút danh, họ tên khai sinh, năm sinh, năm mất.
- Quê quán
- Quá trình sáng tác
6


- Phong cách sáng tác
- Sở trường sáng tác
- Giải thưởng văn học
- Tác phẩm tiêu biểu
b. Tác phẩm
- Năm sáng tác
- Hoàn cảnh sáng tác
- Hoàn cảnh lịch sử xã hội tại thời điểm sáng tác
- In trong tập nào?
1.3.2. Chuẩn bị tiếp cận nội dung văn bản (theo bảng)
- Vấn đề nghị luận
- Các luận điểm chính, chia bố cục theo luận điểm
- Câu nêu luận điểm trong đoạn?
- Hệ thống các luận cứ (dẫn chứng và lí lẽ) trong từng luận điểm

- Về nghệ thuật lập luận
+ Xác định rõ trong luận điểm, tác giả chủ yếu sử dụng dẫn chứng hay lí
lẽ? Từ đó xác định chính xác phương pháp lập luận.
+ Tìm các nét nghệ thuật đặc sắc trong luận điểm (cách sử dụng từ ngữ,
kiểu câu, phép tu từ....) và nêu tác dụng của nét nghệ thuật đó.
Vấn đề nghị luận
Luận điểm 1

Câu nêu
luận điểm

Hệ thống luận cứ

Nghệ thuật

Thái độ

lập luận

của tác giả

Luận điểm 2
2. Đổi mới trong việc thực hiện giờ học trên lớp
2. 1. Đổi mới trong hoạt động khởi động
GIÁO VIÊN
- Để giờ học có sự hấp dẫn, người giáo viên cần đổi

HỌC SINH

mới ngay từ phút đầu khởi động. Đơn giản, gây ấn

tượng, phù hợp, hấp dẫn chính là tiêu chí mà tơi
ln hướng tới.
- Thay vì một vài lời thuyết trình một chiều của giáo
viên, tơi thường sử dụng một số hình thức khởi
động khác như: trị chơi, biểu diễn văn nghệ, kể
7


chuyện, xem video nội dung liên quan đến bài
học..vv...
- Ví dụ:

- Học sinh thực hiện

+ Dạy văn bản Làng – Kim Lân, Quê hương – Tế theo yêu cầu của cô
Hanh, Hồi hương ngẫu thư – Hạ Tri Chương, giáo ngay tại lớp. Từ
Thiên Trường vãn vọng – Trần Nhân Tơng..., giáo đó, có hứng thú học
viên cho học sinh hát một bài hát về quê hương, sau tập.
đó, các em chia sẻ cảm xúc khi nghe bài hát, vào bài
học một cách tự nhiên nhất...
+ Dạy văn bản Lão Hạc – Nam Cao, giáo viên cho
học sinh xem một trích đoạn phim Làng Vũ Đại
ngày ấy.
+ Dạy văn bản Đêm nay Bác không ngủ - Minh
Huệ, giáo viên cho học sinh lắng nghe bài hát: Bác
Hồ một tình yêu bao la. Sau đó giáo viên hỏi nêu
cảm nhận về nội dung bài hát. Từ đó hiểu gì về tình
cảm của tác giả dành cho Bác. Sau đó giáo viên dẫn
vào bài mới.
+ Dạy văn bản Cảnh khuya - Hồ Chí Minh, giáo

viên cho học sinh xem một thước phim tư liệu về
Bác khi ở chiến khu Việt Bắc.
+ Dạy văn bản Đồng chí – Chính Hữu, Bài thơ về
tiểu đội xe khơng kính – Phạm Tiến Ḍt, Những
ngơi sao xa xơi – Lê Minh Kh...giáo viên có thể
cho học sinh xem video về cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mĩ của dân tộc với sự hi sinh anh dũng
của những người chiến sĩ, những thanh niên xung
phong....từ đó gợi dẫn vào nội dung của bài học.
+ Đôi khi chỉ cần cho học sinh hát một bài, giải
một câu đố, hay mặc một bộ quần áo của phụ nữ
xưa... để chuẩn bị tâm thế thoải mái cho học sinh
khi vào bài học đã là một phần khởi động mới mẻ,
tránh nhàm chán.
8


- Trong q trình thực hiện, tơi nhận thấy rõ, cách
khởi động sáng tạo sẽ giúp học sinh có hứng thú
học tập. Hơn nữa cịn góp phần phát triển ở các em
những năng lực như: sử dụng ngôn ngữ, giao tiếp,
tự học...
2. 2. Đổi mới trong hoạt động tìm hiểu tác giả, tác phẩm
Hoạt động tiếp theo trong tiÕn tr×nh đọc hiểu văn bản mà
giáo viên cần tác động để phát triển năng lực của học sinh
chính là tỡm hiểu tác giả, tác phẩm. Thay vì đặt những câu hỏi thông
thường, tôi áp dụng những phương pháp, kĩ thuật sau:
GIÁO VIÊN
HỌC SINH
- Phương pháp dạy học theo dự án:

+ Học sinh báo cáo
Thơng thường thì trong phần tìm hiểu về tác bằng nội dung đã tìm
giả, tác phẩm thì giáo viên đặt câu hỏi sau đó học hiểu, ghi chép.
sinh trả lời. Tuy nhiên để không nhàm chán và để + Báo cáo bằng các
phát huy được khả năng, tính sáng tạo của học sinh slide powerpoint hoặc
thì phần này giáo viên chia lớp thành các nhóm và trưng bày và trình bày
sau đó giao nhiệm vụ về nhà hồn thiện các thơng sản phẩm trên bảng.
tin về tác giả, tác phẩm bằng các slide powerpoint,
vào giấy Ao.
+ Yêu cầu học sinh đại diện nhóm báo cáo nội dung
tự học.
Một số sản phẩm của học sinh sau khi thực hiện dự án tự tìm hiểu về
tác giả:

Sản phẩm của học sinh trong tiết dạy văn bản
Đêm nay Bác không ngủ
9


Sản phẩm của học sinh trong tiết dạy
văn bản Cảnh khuya

Sản phẩm của học sinh trong tiết dạy
văn bản Chiếc lược ngà

Sản phẩm của học sinh trong tiết dạy
văn bản Mùa xuân nho nhỏ

Sản phẩm của học sinh trong tiết dạy
văn bản Những ngôi sao xa xôi


10


- Sử dụng trị chơi powerpoint. Thơng qua web Sen - Chuẩn bị các nội
đá Studio, tơi mua các trị chơi powerpoint. Các trò dung theo hướng dẫn
chơi này được thiết kế đồ họa đẹp mắt, sinh động, có ý soạn bài của giáo viên.
nghĩa giáo dục như: Khỉ con qua sơng, khỉ con tranh Tham gia trị chơi, trả
tài, bay lên nào, giải cứu đại dương, No-bi-ta dọn lời các câu hỏi liên
nhà..vvv.

quan đến tác giả, tác

+ Thiết kế các câu hỏi liên quan đến tác giả, tác phẩm, phẩm, từ khó...
từ khó...Tổ chức trị chơi để kiểm tra việc chuẩn bị, tự
học của học sinh. Thưởng để khích lệ học sinh.
- Hướng dẫn học sinh tự ghi chép

- Các nội dung cần ghi
chép dưới sự hướng
dẫn của giáo viên học
sinh tiến hành tự ghi

- Phương pháp phỏng vấn chuyên gia:

vào vở.
- Häc

sinh


chñ

Giáo viên cần đặt ra yêu cầu tỡm hiu thông tin về động tìm kiếm
tác giả cho học sinh.

tất

cả

những

Sau phn tng tỏc trao i gia cỏc hc sinh, giỏo thông tin về tác
viờn s yờu cu cỏc em nhận xét và cho điểm học sinh gi¶, tác phm trong
lm chuyờn gia. Cuối cùng, giáo viên nhận xét, sách
cho điểm và chốt kiến thức cơ bản.

giáo

khoa,

sách tham khảo,
mạng Internet. Khi
bắt

đầu

vào

khâu


tìm

hiểu

thích,

học

chú

sinh xung phong
và chọn cử một
em

làm

chuyên

gia, các học sinh
trong lớp sẽ có thời
gian 1-2 để đặt
11


câu

hỏi

phỏng


vấn chuyên gia.
- Giáo viên nên sử dụng kĩ thuật KWL kết - Thc hin theo yờu
hợp với hoạt động nhãm nhá th«ng qua cầu của giáo viên.
PhiÕu häc tËp:
K
ĐIÊU ĐÃ BIÊT
Tác

-Bút danh, họ tên

giả

khai sinh, năm sinh,

W
ĐIÊU
MUÔN
BIÊT

L
ĐIÊU
HỌC
ĐƯƠC

năm mất.
-Quê quán
- Quá trình sáng tác
- Phong cách sáng tác
- Sở trường sỏng tỏc
- Gii thng vn

hc
Tác

- Tỏc phm tiờu biu
- Hoàn cảnh sáng

phẩ

tác:

m

- Xuất xứ:
- Thể loại:
-Phng thc biu
t:

- Bố cục:
* Cách thức tiến hành trên lớp:
Bc 1: Yêu cầu HS trao đổi trong nhóm
bàn (2 phút) về kiến thức trong cột (K) trên
cơ sở Phiếu học tập mà các em đà hoàn
thành ở nhà. Sau đó yêu cầu đại diện hai
nhóm báo cáo kết quả thống nhất; các
nhóm khác nhận xét, bổ sung; giáo viên sẽ
nhận xét và chốt kiến thức cơ bản để học
12


sinh tự sửa chữa và điều chỉnh vào phiếu

học tập cđa m×nh nÕu cã sai sãt.
Ví dụ về phiếu học tập khi sử dụng kĩ thuật KWL khi
học văn bản Đêm nay Bác không ngủ - Minh Huệ:
MẪU PHIẾU HỌC TẬP
(Học sinh hoàn thiện phiếu ở nhà)
1. Tác giả:
- Bút danh, họ tên khai sinh, năm sinh, năm mất:
- Quê quán:
- Quá trình sáng tác:
- Phong cách sáng tác:
- Sở trường sáng tác:
- Giải thưởng văn học:
- Tác phẩm tiêu biu:
2. Tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác:
- Xuất xứ:
- Thể loại:
- Phng thc biu t:
- Bố cục:
Bc 2: Yêu cầu 1-2 học sinh nêu những
điều các em muốn biết về tác phẩm. Giáo
viên sẽ bắt đầu ngay từ những băn khoăn,
thắc mắc đó của các em để dẫn dắt
khơi gợi c¸c em høng thó bước vào nội dung
tiÕp theo cđa tiết học.
- Tuy nhiên, có một điều lu ý khi thực hiện
kĩ thuật dạy học KWL cho khâu tìm hiểu
chú thích về tác phẩm là: Kĩ thuật này
chỉ hoàn thành và thực sự có giá trị nếu
cuối tiết học, sau khi đà dẫn dắt học sinh

tìm hiểu, khám phá, cảm nhËn được những
13


giỏ trị nghệ thuật và nội dung của văn bản,
giáo viên yêu cầu học sinh hoàn thành cột
thứ ba (cột L - ®iỊu häc được) cđa phiÕu
häc tËp.
=> Như vậy, với việc thực hiện phương pháp phỏng
vấn chuyên gia và kĩ thuật KWL cho phần tìm hiểu tác
giả, tác phẩm, giáo viên đã giúp học sinh phát triển
được các năng lực tự học và hợp tác, năng lực sử dụng
công nghệ thông tin và truyền thông, năng lực giao
tiếp và sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt, năng lực sáng tạo.
2. 3. Đổi mới trong hoạt động đọc văn bản
Đổi mới và sáng tạo trong việc đọc văn bản không hề đơn giản. Bấy lâu,
người giáo viên Ngữ văn chủ yếu áp dụng hình thức đọc diễn cảm. Tuy nhiên,
tơi nhận thấy cịn nhiều cách đọc sáng tạo khác. Tơi quan niệm, đọc văn bản cho
hay cho tốt cũng chính là học sinh và giáo viên đến gần với cái hồn cốt của tác
phẩm. Tôi thường áp dụng một số phương pháp đọc văn bản như sau:
GIÁO VIÊN
HỌC SINH
- Đọc diễn cảm. Gọi một số em đọc - Học sinh thực hiện theo yêu cầu của
diễn cảm theo đoạn hoặc cả văn bản cô giáo tại lớp.
tùy theo dung lượng của văn bản đó.
- Đọc phân vai. Áp dụng với văn
bản tự sự. Học sinh đọc nhập vai
theo nhân vật trong tác phẩm.
- Kết hợp đọc và kể. Đối với văn
bản tự sự dài, tôi thường chia đoạn

để học sinh đọc, kể kết hợp. Phần đã
học tiến hành kể, phần chưa học thì
cho học sinh đọc.
- Kể chuyện theo tranh:

- Học sinh vẽ tranh theo nội dung tác

ví dụ khi dạy văn bản: Thạch Sanh, phẩm. Lên lớp kể theo tranh vẽ.
Thầy bói xem voi, Êch ngồi đáy
giếng.
14


- Ngâm thơ: Sưu tầm các clip nghệ - Học sinh nghe nghệ sĩ ngâm thơ, cô
sĩ ngâm thơ hoặc sử dụng nhạc nền giáo ngâm thơ...
có sẵn, giáo viên tự ngâm thơ.
ví dụ khi dạy văn bản Cảnh khuya – - Thơng qua hoạt động đọc sáng tạo
Hồ Chí Minh giáo viên cho học sinh với những hình thức đa dạng, phong
nghe vi deo ngâm thơ.

phú, học sinh được sống cùng với
nhân vật, với cảm xúc của nhà
thơ...Đồng thời các em cũng có những
cảm nhận ban đầu về ngơn ngữ, thái
độ, cá tính....của nhân vật. Những
cảm xúc ban đầu được hình thành
chính từ hoạt động này. Từ sự xúc
động trước cảnh ngộ éo le của con
người, đến những


vui, buồn, u,

ghét....Đó chính là những giá trị thẩm
mĩ và tình cảm mà học sinh có được,
là năng lực cảm thụ thẩm mĩ, cảm thụ
văn học mà các em được phát triển
thông qua cách tổ chức dạy học sinh
động, hữu ích.
2. 4. Đổi mới trong hoạt động tìm hiểu văn bản
Trọng tâm của hoạt động hình thành kiến thức là phần Tìm hiu vn bn.
õy l quá trình phân tích, cắt nghĩa giá trị nghệ thuật và
nội dung của văn bản. i mới hoạt động tìm hiểu văn bản, người giáo
viên càng đa dạng hình thức học tập càng tạo được hứng thú học tập cho học
sinh.
2.4.1. Phương pháp dạy học gi¶i qut vÊn ®Ị
Khi ®øng trước một tình huống cã vÊn đề. Học sinh sẽ c tớch
cực trong quá trình học, tự mình khám phá, nghiên cứu vấn
đề và qua đó, các em sẽ thảo luận về hành động, suy nghĩ
của nh©n vËt trước tình huống của cuộc đời, tìm được nhng v p về
nội dung, về giá trị nghệ thuật của tác phẩm, có c những
rung cảm thẩm mĩ đích thực cho tâm hồn mình. Đồng thời
15


cũng từ đó, các em phát triển c nhng nng lùc chung: tự học,
hợp tác, giao tiếp, sử dụng ngôn ng v cỏc năng lực đặc thù của môn
Ngữ văn: giải quyết vấn đề, giao tiếp tiếng Việt, cảm thụ v thng thc cỏi
p.
- Chẳng hạn, khi dạy văn bản Bố của Xi-mông - Mô-pát-xăng,
khi cho học sinh phân tích nhân vật Xi-mông đến đoạn cậu

bé tìm đến bờ sông định nhảy xuống cho chết đuối, giáo
viên có thể nêu câu hỏi có vấn đề: Theo em, cách giải quyết
của Xi-mông là tìm đến cái chết có đúng không? Với c©u hái
này, líp häc sÏ cã rÊt nhiỊu ý kiÕn sôi nổi và hào hứng khác
nhau để biện giải về hành động của Xi-mông.
+ Các em có thể không đồng tình với hành động của Ximông vì đó là một việc làm rất tiêu cực. Bởi tuy Xi-mông
không có bố nhng em còn có một ngi mẹ rất mực yêu thơng
em, em là chỗ da tinh thần lớn nhất của mẹ. Nếu em chết đi,
mẹ em sẽ ra sao? Hơn nữa, không có bố không phải là một cái
tội, rồi bạn bè sẽ hiểu ra và sẽ yêu thng v có cái nhìn cảm thơng với
em…
+ Nhưng cịng cã thĨ, sẽ có học sinh đồng tình với hành
động của Xi-mông vì các em cho rằng Xi-mông không có bố đÃ
là một điều hết sức đau đớn cho bản thân em råi. Bëi em
kh«ng cã bè sÏ kh«ng ai chë che, bảo vệ cho em. Vn thiếu thốn
tình thng. Vậy mà đến trng, bạn bè lại giễu cợt, hành hạ em.
Em chết là một sự giải thoát
+ Không những thế, có học sinh sẽ đa ra cách giải quyết:
Xi-mông không cần tìm đến cái chết, thay vào đó, em sẽ phải
dũng cảm đối đầu với những ngi bạn không tốt trong líp…
- Bản thân tơi trong q trình dạy văn bản này thường hướng học sinh đến
ý kiến khơng đồng tình với cách lựa chọn của Xi-mông và cách giải quyết
khác.
- Đối với những ý kiến đồng tình, tơi thường định hướng cho học sinh đó
là cách giải quyết tiêu cực. Trên cơ sở các ý kiến phát biểu, tranh
luận của học sinh, giáo viên sẽ dẫn dắt để các em thấy đợc
việc tìm đến cái chết của cậu bé Xi-mông khi bị bạn bè trêu
16



chọc vì không có bố là một việc làm không nên. Bởi vì Ximông còn có mẹ, có rất nhiều những ngời khác yêu thng và
sẵn sàng giúp đỡ em bất cứ lúc nào (sau này bác Phi-líp đôn
hậu đà đem đến cho em một ngi bố đáng tự hào). Em
không hề có lỗi trong việc em không có bố. Em hÃy trở về
nhà, tìm chỗ nng nỏu nơi những ngi thc sự yêu thng em
Từ đó, giáo viên sẽ giáo dục cho các em kĩ năng sống, phát
triển ở các em năng lực giải quyết những khó khăn trong cc
sèng. Hồn tồn khơng nên lựa chọn cách giải quyết tiêu cực, nhất là trong
cuộc sống hơm nay. Vì chúng ta sẽ có thể phải gặp rất nhiều thử thách trở ngại
thậm chí là sự bất hạnh trong cuộc đời. Chúng ta cần mạnh mẽ để vượt qua,
không được gục ngó, hÃy tìm đến sẻ chia với những ngi thân, các
em sẽ c giúp đỡ, sẽ tìm thấy đợc cách giải quyết tốt đẹp!
Tụi cho rng, dy hc hc sinh bày tỏ quan điểm là quan trọng nhưng vẫn cần
những định hướng mang ý nghĩa giáo dục của người giỏo viờn.
2.4.2. Phng pháp đồng sáng tạo
Cũng là một phng pháp mà giáo viên nên và cần sử dụng
khi gặp một tình huống truyện mà nhà văn xây dựng khụng
nh mong mun ca ngi c.
- Ví dụ, khi dạy văn bản Chic lc ng Nguyn Quang Sỏng, dẫn
dắt học sinh tìm hiểu đến đoạn truyện ông Sáu hi sinh, giáo
viên có thể đặt câu hỏi: Em có đồng tình với nhà văn
Nguyễn Quang Sáng khi ông xây dựng tình huống nhân
vật ông Sáu hi sinh mà không kịp trao cây lc cho con
không? Tại sao?
- Với vấn đề ny, học sinh sẽ có những lựa chọn cho riêng
mình. Các em có thể không đồng tình với nhà văn vì cho
rằng nh vậy thì cha con ông Sáu tội nghiệp quá và câu
chuyện vô hình chung kết thúc không có hậu, đi ngc li vi
m c ca ngi c. Các em có thể đồng tình với cách xây
dựng của nhà văn bởi tỡnh hung truyn ó phn ỏnh rừ nột tính chất khốc

liệt của chiến tranh. Chỉ như vậy người đọc mới cảm nhận được, thấu hiểu được
những đau thương mất mát mà chiến tranh gây ra cho con người. Vả lại, tình
huống này cũng khắc họa đậm nét tình yêu con và phẩm chất kiên trung của một
17


người chiến sĩ cách mạng. Ông Sáu hi sinh nhưng cây lược – kỉ vật ông để lại sẽ
là một cây cầu kết nối cha và con, hiện tại và tng lai.
- Và dù các em có suy nghĩ, quan điểm nh thế nào, giáo
viên cũng cần trân trọng. Giáo viên cng cú th đặt câu hỏi
ngợc lại cho các em: Nếu ông Sáu không hi sinh, kết thúc chiến
tranh ông trở về đem theo cõy lc ngà tặng cho con gái thì
câu chuyện sẽ nh thế nào? Học sinh tự trả lời câu hỏi đó và
các em sẽ nhận ra cách xây dựng tình huống truyện của
Nguyễn Quang Sáng nh vậy là rất hợp lí. Bởi thông qua đó, nhà
văn đà khắc họa nhng au thng mt mỏt và cả những hi sinh cao
đẹp của con ngi trong chiến tranh. Đó chính là giá trị hiện
thực của văn bản. Qua đây, giáo viên cũng dẫn dắt, khơi gợi
để học sinh liên hệ, tích hợp với cách xây dựng tình huống
truyện độc đáo trong một số tác phẩm khác: truyện ngắn
Làng (Kim Lân) với tình huống ông Hai nghe tin làng chợ Dầu
theo giặc; tình huống éo le, bất hạnh của nhân vật Nhĩ trong
truyện ngắn Bến quê (Nguyễn Minh Châu)...
- Với phng pháp đồng sáng tạo, giáo viên đà phát huy đợc
sự say mê, sáng tạo, năng lực cảm nhận văn học, suy luận lô-gic
của học sinh. Đồng thời, giúp các em hiểu sâu sắc hơn về
nghệ thuật xây dựng tình huống truyện của nhà văn, giá trị
nội dung (hiện thực) của văn bản. Và cũng thông qua đó tích
hợp giáo dục cho các em kĩ năng tạo lập văn bản tự sự, đặc
biệt trong việc xây dựng các tình huống truyện.

2.4.3. Phng pháp đóng vai
Trong giảng dạy Ngữ văn cũng là một phơng pháp dạy học
mà giáo viên cần sử dụng để phát triển năng lực của học sinh.
Giáo viên nên sử dụng phng pháp này khi gặp một tình huống
trong văn bản mà nhân vật đà có cách xử lí bất ngờ hay đó
chỉ là một tình huống giả định do giáo viên đặt ra.
- Ví dụ với văn bản Chic lc ng Nguyn Quang Sỏng, khi hớng
dẫn các em tìm hiu đoạn truyện bé Thu kiên quyết không
nhận cha trong 3 ngày ông Sáu nghi phộp, giáo viên nờu gi nh:
Nếu là bé Thu, em có c x với ông Sáu nh vậy không? Tại sao?
18


- Hay khi dạy đến đoạn cuối văn bản, giáo viên lại tiếp tục
giả định : Nếu là bé Thu, khi nhËn chiếc lược, món q của cha tõ
tay «ng Ba, em có suy nghĩ, cảm xúc gì?... Vµ sau khi học sinh nờu
cách ứng xử trong tình huống đóng vai đó, giáo viên sẽ
phỏng vấn: Ti sao?. Rồi từ những nhận xét, góp ý, đánh giá của
chính các học sinh trong lớp về cách ứng xử của bạn bè m×nh,
người giáo viên sẽ có thể đưa ra kÕt ln về cách ứng xử cần thiết
trong tình huống đó.
- Phng pháp này không chỉ giúp học sinh hiểu tác phẩm
sâu sắc hơn, phát huy khả năng cảm nhận, thẩm bình của
các em qua việc hóa thân vào nhân vật, kích thích sự tìm
tòi, óc phán đoán sáng tạo của học sinh mà còn góp phần giáo
dục kĩ năng sống, giáo dục và bồi đắp cho các em những
tình cảm đẹp, có tính nhân văn. Và đặc biệt, sẽ giúp phát
triển ở các em năng lực: tự học và hợp tác, giao tiếp và sử dụng
ngôn ngữ, cảm thụ vn hc và năng lực sáng tạo.
2.4.4. Tho lun v tranh lun

Thụng thường đối với phương pháp thảo luận, người giáo viên vẫn chia lớp
thành các nhóm, tiến hành trao đổi một vấn đề, ghi chép trên phiếu học tập, cử
đại diện nhóm báo cáo, trình bày trước lớp, sau đó các nhóm nhận xét, đánh giá,
hồn thiện ý kiến. Để tránh nhàm chán, tôi áp dụng một số cách thảo luận như
sau:
- Giáo viên nêu một vấn đề cần thảo luận, học sinh cả lớp nêu ý kiến, một
đại diện ghi chép, kết thúc phần thảo luận, người ghi chép sẽ tổng hợp tất cả các
ý kiến đã được đưa ra, cả lớp cùng thống nhất lựa chọn những ý kiến hợp lý.
Hoặc chia lớp thành các nhóm có thể nhóm cặp đơi, nhóm 4, nhóm 6 thảo luận
sau đó gọi đại diện nhóm báo cáo kết quả và các nhóm khác nhận xét, bổ sung,
giáo viên kết luận, có thể đánh giá cho điểm.
+ Ví dụ 1: Dạy văn bản Chuyện người con gái Nam Xương – Nguyễn
Dữ. Vấn đề nêu ra: Kết thúc Chuyện người con gái Nam Xương, Vũ Nương
cịn sống hay đã chết? Học sinh có quyền lựa chọn cịn sống hoặc đã chết và có
sự lý giải phù hợp. Học sinh được phân công ghi chép lại các ý kiến của lớp.
Tổng hợp lại, cả lớp sẽ chọn ý kiến hợp lý nhất.

19


+ Ví dụ 2: Dạy văn bản Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới – Vũ Khoan.
Tôi đưa ra vấn đề: Trong văn bản, tác giả Vũ Khoan nêu rõ: cần vứt bỏ điểm
yếu, phát huy điểm mạnh để bước vào thế kỉ mới. Có các hành trang tri thức,
đạo đức, kĩ năng, tiền bạc, sức khỏe mỗi người chỉ được chọn 01 hành trang
để bước vào thế kỉ mới. Các em hãy lựa chọn và lý giải tại sao em chọn hành
trang ấy? Học sinh cả lớp rất hào hứng lựa chọn và lý giải. Phần lớn các em
chọn tri thức, đạo đức, kĩ năng, sức khỏe. Sau khi học sinh tổng hợp ý kiến, tôi
bất ngờ chọn tiền bạc. Lúc này các em ngỡ ngàng với lựa chọn của cô giáo. Tôi
lý giải: Rất đơn giản, chúng ta cùng bước vào thế kỉ mới, các em đã mang theo
tri thức, đạo đức, kĩ năng, sức khỏe đương nhiên cô không cần mang theo nữa,

cô chỉ cần mang tiền bạc theo là được rồi. Học sinh tỏ ra vơ cùng thích thú, tiết
học thực sự gây cho các em những ấn tượng khó qn.
+ Ví dụ 3: Khi dạy văn bản Thông tin về ngày trái đất năm 2000, tôi cho
học sinh 02 lựa chọn: Bênh vực hoặc Phản đối việc sử dụng bao bì ni-lon. Các
em chia lớp thành 02 phe để tranh luận rất sôi nổi. Mỗi nhóm đều đưa ra những
lý do thuyết phục. Cuối cùng các em đều rút ra được những bài học quý báu về
bảo vệ môi trường sống, bảo vệ sức khỏe bản thân và mọi người. Nội dung lồng
ghép bảo vệ mơi trường được chính các em tìm ra sau khi thảo luận theo kiểu
tranh luận.
- Một trong những cách áp dụng phương pháp thảo luận thành công, để lại
dấu ấn sáng tạo của người định hướng là tìm ra những vấn đề cho học sinh tranh
luận, bàn bạc, thảo luận. Ví dụ khi dạy văn bản Cố hương – Lỗ Tấn, tôi chỉ nêu
03 vấn đề để học sinh cùng trao đổi ý kiến:
+ Vấn đề 1: Số phận của người dân Trung Quốc?
+ Vấn đề 2: Tương lai nào cho họ?
+ Vấn đề 3: Cái nhìn và quan điểm của nhà văn?
- Đối với từng vấn đề, học sinh sẽ có cách phân tích và lý giải riêng.
+ Vấn đề 1: các em dựa vào nhân vật Nhuận Thổ, Hai Dương, phân tích
các chi tiết về hành động, ngôn ngữ, cử chỉ...của nhân vật trong quá khứ, trong
hiện tại. Từ đó có những đánh giá về số phận con người. Phân tích được nguyên
nhân khiến họ trở nên đần độn, mụ mẫm hay xấu xa...
+ Vấn đề 2: Dựa vào phần cuối của văn bản, học sinh tìm ra những ý kiến
mà nhà văn đặt ra cho tương lai của người dân Trung Quốc. Lý giải ý hiểu của
mình về con đường đó.
20


+ Vấn đề 3: Từ vấn đề 1 và 2, học sinh đánh giá được cái nhìn, quan điểm
vừa hiện thực vừa rất nhân văn, nhân đạo và tiến bộ của nhà văn Lỗ Tấn.
- Thông thường, khi áp dụng cách thảo luận này, tôi nhận được sự phản hồi

rất tích cực của học sinh, tất cả các em đều mong muốn bày tỏ được ý kiến của
cá nhân mình. Các năng lực: sử dụng ngôn ngữ, giao tiếp, sáng tạo được phát
triển thực sự.
2.4.5. Nhập vai - Phỏng vấn
Đây là cách dạy học tôi áp dụng khi dạy văn bản Lặng lẽ Sa Pa – Nguyễn
Thành Long. Trên cơ sở học sinh chuẩn bị bài ở nhà, khi tiến hành hoạt động
tìm hiểu văn bản trên lớp, tơi áp dụng phương pháp nhập vai - phỏng vấn.
Cách thức tiến hành như sau:
+ Cử một số học sinh đóng vai phóng viên, quay phim, hỗ trợ ánh
sáng...đóng vai các nhân vật trong truyện
+ Các học sinh cịn lại đóng vai người xem trong trường quay.
+ Phóng viên lần lượt đặt câu hỏi cho các nhân vật, nhân vật trả lời. Nội
dung câu hỏi, câu trả lời phải gắn với văn bản.
+ Ví dụ câu hỏi dành cho anh thanh niên về: quê quán, nơi làm việc, công
việc, điều kiện làm việc, những quan niệm về công việc, thành tích anh đạt
được, suy nghĩ về những người xung quanh anh?..vv....
+ Khán giả trường quay cũng có quyền đặt câu hỏi cho các nhân vật hoặc
phản đối câu hỏi nào đó của phóng viên.
- Phương pháp này nên áp dụng cho một nhân vật trong tác phẩm để tạo
điểm nhấn cho bài học. Phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ, giao tiếp, sáng tạo
giải quyết vấn đề của học sinh.
2.4.6. Sơ t duy
Khi kết thúc hoạt động tỡm hiu vn bn, trong khâu đánh
giá, khái quát để rút ra ghi nhớ, giáo viên nên sử dụng kĩ thuật
sơ đồ t duy ®Ĩ gióp học sinh ghi nhí kiÕn thøc mét cách dễ
dàng và sâu sắc hơn. Giáo viên có thể tiến hành theo hai
cách:
Cách 1: Giáo viên đa mt s t duy với một từ chìa khóa là
tên văn bản và hai nhánh (nghệ thuật và nội dung), các nhánh
còn lại để trống và yêu cầu học sinh hoàn thµnh.

VÝ dơ 1:
21


Sau khi học xong văn bản Chic lc ng Nguyn Quang Sỏng,
giáo viên đa s t duy và yêu cầu học sinh hoàn thành:
Học sinh sẽ suy nghĩ cá nhân hoc nhúm trong vòng 1-2 phút
và hoàn thành các nhánh trống trong sơ đồ.

Ví dụ 2
Sau khi học xong văn bản ờm nay Bỏc khụng ng- Minh Huờ,
giáo viên đa s t duy và yêu cầu học sinh hoµn thµnh:

22


Sử dụng kĩ thuật sơ đồ t duy nhng với cách làm này, giáo
viên sẽ tiết kiệm c khá nhiều thời gian trên lớp của thầy và
trò.
Cách 2: Giáo viên cho các em một từ chìa khóa là tên văn
bản, các em sẽ phải tự hoàn thành sơ đồ t duy để khái quát lại
các giá trị nghệ thuật và nội dung của văn bản. (giỏo viờn cú th
cho hc sinh làm việc cá nhân hoặc nhóm)
Víi c¸ch thø hai, sẽ mất thời gian hơn nhng u im l các em
c phát huy khả năng sáng tạo và hơn hết, các em sẽ ghi nhớ
kiến thức lâu hơn so với c¸ch thø nhÊt. Bëi víi c¸ch thø hai, c¸c
em sÏ phải đào sâu suy nghĩ để khái quát kiến thức, vận
dụng t duy sáng tạo để thể hiện kiến thức đó trên sơ đồ sao
cho không chỉ khoa học, dễ nhớ mà còn phải đẹp nữa. Vì
thế, tùy thuộc vào thời gian trên lớp, trong những hoàn cảnh cụ

thể mà giáo viên lựa chọn cách sử dụng Sơ đồ t duy cho phï
hỵp.
2. 5. Đổi mới trong hoạt động luyện tập, vận dụng

23


- Hoạt động luyện tập, vận dụng là hoạt động đánh giá được khả năng hiểu,
nắm kiến thức của học sinh. Trong hoạt động này, tôi thường áp dụng các
phương pháp, kĩ thuật dạy học sau:
+ Trình bày 1 phút
+ Viết sáng tạo
+ Trò chơi
+ Vẽ tranh, kể chuyện, ngâm thơ....
+ Thảo luận nhóm
- Chủ trương tổ chức hoạt động luyên tập, vận dụng vừa nhẹ nhàng, vừa
hiệu quả, kích thích khả năng thực hành và sáng tạo của học sinh.
Để mỗi giờ đọc hiểu thực sự phát triển được cỏc nng lc ca hc sinh,
các phng pháp và kĩ thuật dạy học thực sự phát huy hiệu quả
cao nhất trong các tiết ọc - hiểu văn bản, ngi giáo viên cần thực
sự tìm tịi, khơng ngại khó, sáng tạo những cách thức thực hiện dạy học hiệu quả
nhất, phù hợp nhất với đối tượng học sinh mình phụ trách giảng dạy. Đổi mới từ
kĩ thuật đặt câu hỏi, phương pháp tổ chức các hoạt động đến việc đổi mới những
phương pháp, kĩ thuật dạy học vẫn đang được áp dụng. Đổi mới trong từng
khâu, từng hoạt động của gi c hiu vn bn. Bờn cnh ú, giáo viên cần
chuẩn bị đầy đủ các phng tiện dạy học cần thiết để hỗ trợ
cho việc giảng dạy nh: Máy tính xách tay, máy chiếu Projector,
các bảng nhóm, hệ thống loa...
3. Đánh giá tính mới, tính sáng tạo
Giáo dục phổ thơng nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình

giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ
quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng
được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện
thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều”
sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng
lực và phẩm chất; đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng
về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải
quyết vấn đề, coi trọng cả kiểm tra, đánh giá kết quả học tập với kiểm tra, đánh
giá trong quá trình học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng
của các hoạt động dạy học và giáo dục.

24


Quá trình từ năm học 2010 - 2011 đến nay, ngành Giáo dục - đào tạo tỉnh
Thái Nguyên đã thực hiện đẩy mạnh việc áp dụng các phương pháp và kĩ thuật
tổ chức dạy học tích cực vào tất cả các mơn học nhằm tích cực hóa hoạt động
của học sinh. Năm học 2019 - 2020, các giải pháp dạy học nhằm phát triển năng
lực của học sinh càng được quan tâm và chú trọng hơn bao giờ hết. Và môn Ngữ
văn cũng không phải là ngoại lệ.
Qua thời gian thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy theo định hướng
phát triển năng lực của học sinh, nhiều hình thức tổ chức hoạt động hay, mang
tính nghệ thuật trong giảng dạy đã được giáo viên nhiều trường làm tốt, trở
thành những kinh nghiệm quý báu như: Tăng cường các hoạt động thí nghiệm,
thực hành, trải nghiệm sáng tạo, dạy học giáo dục địa phương, dạy học gắn liền
với các di sản và các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp trên địa bàn. Đa dạng hóa
các hình thức và khơng gian dạy học. Đổi mới phương pháp học tập của học
sinh… Thì việc phát triển năng lực học sinh thơng qua việc áp dụng một số
phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực trong tiết đọc – hiểu văn bản là một
lựa chọn hữu hiệu và có tính khả thi.

IV.Về khả năng áp dụng của sáng kiến
Từ khi tích cực áp dụng các giải pháp giáo dục trên trong giờ đọc – hiểu
môn Ngữ văn, kết quả môn văn của học sinh trong nhà trường nói chung, từng
lớp nói riêng đã dần dần cải thiện. Một số học sinh có biểu hiện chán nản, khơng
thích học, thường xun gây mất trật tự trong lớp đã biết nghe lời thầy cô, các
em đã hứng thú hơn trong các giờ học văn.
Sáng kiến đã được tôi áp dụng, trải nghiệm trong quá trình giảng dạy và
được chia sẻ cùng đồng nghiệp áp dụng trong trường Trung học cơ sở Đông
Cao. Trong thực tế, các đồng nghiệp cũng đã thực hiện tích cực các nội dung nói
trên để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục học sinh trong nhà trường. Song
với những nội dung nghiên cứu cụ thể và hiệu quả ban đầu của sáng kiến, tôi tin
tưởng rằng sáng kiến sẽ được áp dụng rộng rãi trong các trường Trung học cơ sở
thị xã Phổ Yên.
V. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
Để có thể áp dụng sáng kiến rộng rãi, điều tiên quyết chính là lịng yêu
nghề, trách nhiệm nghề nghiệp của bản thân người giáo viên. Người giáo viên
tâm huyết luôn mong muốn cho ra đời những thế hệ học trò đều là những con
người có tài, có đức.
25


×