Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm, SKKN - Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 dân tộc Bru - Vân Kiều học tốt phân môn Luyện từ và câu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.96 KB, 17 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Ngày nay giá trị con người ngày càng được nhận thức đúng đắn và đánh giá một
cách tồn diện, sâu sắc thì công tác dạy học càng mang một ý nghĩa nhân văn cụ thể,
càng trở thành một đạo lý của thế giới văn minh. Để thực hiện được điều này thì việc
giáo dục học sinh phát triển toàn diện là điều mà được tồn xã hội quan tâm.
Mơn Tiếng Việt ở các cấp học nói chung, ở tiểu học nói riêng (đặc biệt là đối với
học sinh dân tộc) phân môn Luyện từ và câu giúp cho học sinh hình thành và phát
triển các kỹ năng sử dụng tiếng Việt. Môn Tiếng Việt tập trung thể hiện ở bốn kỹ
năng (nghe – nói – đọc – viết). Đây là những kỹ năng quan trọng để học sinh học tập
và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Đồng thời là cơ sở để học
sinh tiếp thu và học tốt các môn học khác ở các lớp trên. Thông qua việc dạy và học,
tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy. Trong môn Tiếng Việt, phân
mơn Luyện từ và câu có nhiệm vụ góp phần cung cấp cho học sinh những kiến thức
sơ giản về tiếng Việt bằng con đường quy nạp và rèn luyện kỹ năng dùng từ đặt câu
(nói – viết), bên cạnh đó cịn cung cấp những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và
con người, văn hoá, văn học của Việt Nam và nước ngồi. Ngồi ra phân mơn Luyện
từ và câu cịn giúp học sinh bồi dưỡng tình u tiếng Việt và hình thành thói quen giữ
gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt và góp phần giúp học sinh hình thành nhân
cách và nếp sống văn hố của con người Việt Nam.
Các mơn học ở tiểu học có tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn diện
học sinh phải kể đến Luyện từ và câu, một phân môn chiếm thời lượng khá lớn trong
môn Tiếng Việt ở tiểu học. Nó tách thành một phân mơn độc lập, có vị trí ngang bằng
với phân mơn Tập đọc, Tập làm văn… song song tồn tại với các mơn học khác. Điều
đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang tính
chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành ngơn ngữ cho hoạt
động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong các môn học khác.
Trong bộ môn Tiếng Việt 5 phân môn Luyện từ và câu lớp 5 có nhiệm vụ cung cấp
kiến thức về từ và câu, làm giàu vốn từ cho học sinh và phát triển năng lực dùng từ
đặt câu của các em. Cụ thể là:
- Mở rộng hệ thống hoá vốn từ, trang bị cho học sinh một số hiểu biết về từ và


câu.
- Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng dùng từ đặt câu, sử dụng dấu câu, một số
phép nối, cách thay thế và liên kết câu.
- Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu, có ý
thức sử dụng tiếng Việt trong học tập và trong giao tiếp.
Được phân công dạy lớp 5, qua một thời gian giảng dạy tơi thấy học sinh của
mình rất cố gắng học tập tất cả các môn học đặc biệt là môn Tiếng Việt. Nhưng trong
1


thực tế, khi học sinh thực hành thì nhiều em còn lúng túng. Nhận thức rõ được tầm
quan trọng của phân môn, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài “làm thế nào để học sinh
dân tộc nắm chắc kiến thức phân môn luyện từ và câu và tự tin trong học
tập?”.Chính vì thế mà tơi chọn đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 dân tộc
Bru - Vân Kiều học tốt phân môn Luyện từ và câu” để viết sáng kiến kinh nghiệm.
1.2. Điểm mới của đề tài
Việc giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn Luyện từ và câu khơng phải là một
vấn đề gì mới mẻ. Đặc biệt trong những năm gần đây, nó đã được rất nhiều người
công tác trong lĩnh vực giáo dục nghiên cứu và quan tâm. Tuy nhiên, điểm mới và
khác biệt đề tài này là tìm hiểu những ưu điểm và hạn chế của học sinh Bru-Vân Kiều
khi tham gia học phân mơn Luyện từ và câu. Từ đó đúc rút kinh nghiệm, đề xuất một
số ý kiến góp phần nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 5 tại
trường.
Nội dung của đề tài đánh giá được một số mặt tác động tới việc học phân môn
Luyện từ và câu của học sinh lớp 5; đề xuất được cách tiếp cận mới trong giảng dạy,
giáo dục theo hướng khai thác nội dung môn học và sử dụng các phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học tích cực, khai thác nội dụng giáo dục của bài học… nhằm phát
triển năng lực cho học sinh giúp các em vận dụng tốt trong học tập và cuộc sống.
Đề tài nêu rõ từng giải pháp cụ thể nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức,
giá trị, thái độ, kỹ năng phù hợp. Tạo cơ hội thuận lợi để HS thực hiện tốt quyền, bổn

phận của mình và phát triển tồn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức góp
phần tạo một nền tảng vững chắc cho các em trong cuộc sống về sau này.
1.3. Phạm vi áp dụng:
Đề tài này được áp dụng trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5 ở trường Tiểu
học.
Nghiên cứu các vấn đề có liên quan và các giải pháp nhằm giúp học sinh lớp 5
Bru- Vân Kiều ở trường Tiểu học học tốt phân môn Luyện từ và câu. Đồng thời
những giải pháp này có thể làm tài liệu tham khảo cho các trường tiểu học trong việc
nâng cao chất lượng dạy học Luyện từ và câu nói riêng, dạy học mơn tiếng Việt nói
chung.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng của việc dạy phân môn Luyện từ và câu tại trường
2.1.1. Thuận lợi
* Đối với giáo viên:
- Phần lớn giáo viên được phân công phụ trách khối lớp 5 có kinh nghiệm cơng
tác nhiều năm và có vốn hiểu biết nhất định về kiến thức. Hiểu được đặc điểm tâm
sinh lý của học sinh dân tộc.

2


- Giáo viên nhiệt tình trong cơng tác, tận tụy với học sinh; ln tích cực tự học
và sáng tạo trong giảng dạy.
- Điều kiện giảng dạy của giáo viên đảm bảo tốt, các tài liệu tham khảo phục vụ
việc giảng dạy Luyện từ và câu cũng như tranh ảnh, và các đồ dùng dạy học khác đầy
đủ.
* Đối với học sinh:
- Hầu hết các em học sinh lớp 5 đã có những kiến thức sơ giản về ngữ âm và
ngữ pháp đã được làm quen ở các lớp dưới.
- Một số em đã có ý thức tự học và tự rèn luyện.

2.1.2 Khó khăn
* Đối với giáo viên:
- Phương pháp giảng dạy chưa phù hợp, năng lực tổ chức giờ học theo hướng đổi
mới còn hạn chế. Chưa quan tâm đến tất cả học sinh trong lớp, giáo viên chỉ chú
trọng vào các em học sinh hoàn thành tốt và coi đây là chất lượng chung của lớp.
- Trình độ giáo viên chưa đồng đều đơi lúc cịn giảng dạy theo phương pháp cũ,
chưa chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai thác kiến thức và tìm ra
phương pháp phù hợp với học sinh, cịn lệ thuộc vào đáp án, gợi ý dẫn đến học sinh
ngại học phân mơn này. Tâm lí giáo viên sợ hết giờ nên sử dụng phương pháp rèn
theo mẫu cho nhanh, học sinh chưa phát huy được tính tích cực.
- Bên cạnh đó, hình thức tổ chức dạy học của một số giáo viên cịn đơn điệu, hầu
như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh. Một số giáo viên chưa hiểu rõ đặc
điểm tâm lý của học sinh dân tộc nên cũng khó khăn trong việc nâng cao chất lượng.
* Đối với học sinh:
- 100% là học sinh dân tộc Bru - Vân Kiều nên vốn từ ngữ còn hạn chế, tư duy
chậm, còn rụt rè, thiếu mạnh dạn trong học tập.
- Khi học các em cịn có thói quen chờ thầy cơ làm rồi chép bài, khả năng nhớ,
hiểu và vận dụng kiến thức trong quá trình học tập còn yếu. Học sinh còn học vẹt,
nhớ máy móc khi học phân mơn này.
- Các từ cần giải nghĩa đa số là các từ Hán Việt (không phải là tiếng mẹ đẻ của
học sinh Bru-Vân Kiều) nên học sinh khó hiểu, khó giải thích. Diễn đạt thì lủng củng,
tâm lí sợ sai, khơng mạnh dạn.
- Các em ít sử dụng từ điển nên vốn từ còn hạn chế.
Bên cạnh đó một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em mình cũng
làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập bộ môn.
* Với năm học này, bản thân tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 5B
với 20 học sinh, đây là lớp "lỏi" của trường. Theo sự phản ánh của giáo viên cũ thì
trình độ tiếp thu của học sinh khơng đồng đều, vẫn cịn một số học sinh tiếp thu
chậm; một bộ phận học sinh rụt rè, giao tiếp chậm, kỹ năng diễn đạt hạn chế.


3


Qua khảo sát chất lượng đầu năm để nắm bắt thông tin, với đề ra thiết kế theo
dạng nắm kiến thức và vận dụng, kết quả như sau:
BẢNG KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU
VÀO ĐẦU NĂM HỌC
(Khảo sát trên 20 học sinh lớp 5)
TSHS
20

HTT
SL
3

HT
%
15

SL
13

CHT
%
70

SL
4

%

20

Sau khi kiểm tra khảo sát, tôi nhận thấy bài làm của học sinh còn mắc nhiều lỗi,
việc nắm từ của các em chưa chắc, phần vận dụng viết một đoạn văn còn thiếu mạch
lạc.
Cụ thể: HS cịn có một vài hạn chế trong phân môn Luyện từ và câu:
- Vốn từ của học sinh còn nghèo nàn, còn đơn điệu về phong cách và có tình
trạng hiểu sai về sắc thái ngữ nghĩa của từ.
- Khả năng hiểu nghĩa từ của học sinh cịn chậm. Có trường hợp học sinh hiểu
nghĩa gốc của từ nhưng kĩ năng sử dụng trong văn cảnh còn kém.
- Kiến thức Tiếng Việt còn hạn chế.
- Khả năng vận dụng trong giao tiếp nói và viết: Học sinh dân tộc găp nhiều hạn
chế về môi trường sử dụng tiếng Việt: những người xung quanh các em giao tiếp
bằng tiếng mẹ đẻ là chủ yếu. Tiếp xúc với việc đọc, viết, học sinh tiếp cận với một
phong cách ngôn ngữ mới – phong cách ngôn ngữ viết với những đặc điểm riêng và
yêu cầu riêng; cách bắt đầu tham gia vào phạm vi giao tiếp mới có tính xã hội khác
với giao tiếp gia đình. Do vậy, các em thường mắc lỗi trong sử dụng lời nói và viết.
2.1.3. Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém
- Phải nói rằng phân mơn Luyện từ và câu là mơn học khô khan nếu chúng ta
không biết tổ chức, thiết kế các hoạt động thích hợp để tạo hứng thú học tập cho học
sinh.
- Một bộ phận giáo viên nhận thức còn hạn chế, chưa hiểu hết được ý đồ của
sách giáo khoa nên chỉ giải quyết các bài tập một cách đơn thuần, không giúp học
sinh hiểu sâu vấn đề. Cũng khơng ít giáo viên dạy Luyện từ và câu mà khơng hướng
các em ứng dụng nó vào việc nói, viết, giao tiếp hằng ngày.
- 100% là học sinh dân tộc nên chưa mạnh dạn trong các hoạt động và chưa chịu
học hỏi, tìm tịi.
- Bên cạnh đó, tư duy ở lứa tuổi các em chưa bền vững, khả năng tập trung chưa
cao, hay nóng vội, khả năng ngơn ngữ cịn thấp cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng
mơn học.

4


- Một bộ phận học sinh do bị hỏng kiến thức từ lớp dưới, khả năng tiếp thu bài
hạn chế, nên khơng thể hồn thành hệ thống bài tập trên lớp.
- Địa phương là một vùng miền núi, có thu nhập thấp nên bố mẹ các em phải lo
chạy vạy cuộc sống. Chính vì thế, phụ huynh ít thời gian kèm cặp, tiếp cận việc học
của con, chưa điều chỉnh được hành vi, ngôn ngữ cho con em kịp thời.
2.2. Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 dân tộc Bru - Vân Kiều học tốt
phân môn Luyện từ và câu
Để giúp các đối tượng học sinh khắc phục và hoàn thiện những thực trạng nêu
trên là một vấn đề không đơn giản. Với thực tiễn đặt ra hiện nay, địi hỏi ngành giáo
dục nói chung, mỗi thầy cơ giáo chúng ta nói riêng, cần phải giúp học sinh học tập tốt
hơn phân môn luyện từ và câu. Để làm được điều đó tơi đề ra cho mình những giải
pháp sau:
Giải pháp 1: Giáo viên cần nghiên cứu kĩ cấu trúc, nội dung chương trình
phân mơn Luyện từ và câu ở lớp 5
Với mạch kiến thức được sắp xếp theo vòng tròn đồng tâm tuỳ theo ở mỗi lớp
mà có những yêu cầu khác nhau. Tuy nhiên nếu các em nắm chắc những kiến thức ở
lớp dưới thì lớp 5 các em sẽ nắm kiến thức dễ dàng hơn.
Mạch kiến thức của phân môn Luyện từ và câu trong chương trình lớp 5 gồm:
- Các lớp từ: Từ đồng nghĩa; Từ trái nghĩa; Từ đồng âm; Từ nhiều nghĩa
- Từ loại: Đại từ; Đại từ xưng hô; Quan hệ từ
- Kiểu câu: Ôn tập về câu; Câu ghép; Cách nối các vế câu ghép.
- Liên kết câu: Liên kết các câu trong bài bằng phép lặp từ ngữ; Liên kết các câu
trong bài bằng phép thay thế từ ngữ; Liên kết bằng phép nối.
- Dấu câu: Ôn tập về dấu câu
* Về nghĩa của từ (từ đồng âm, từ nhiều nghĩa)
Trong chương trình Tiếng Việt lớp 5, nội dung nghĩa của từ được tập trung biên
soạn có hệ thống trong phần Luyện từ và câu. Trong quá trình dạy học, tôi thường

nhận thấy các em học sinh sau khi học hai bài “Từ trái nghĩa”, “Từ đồng nghĩa” thì
các em dễ dàng tìm được các từ trái nghĩa, việc tìm các từ đồng nghĩa cũng khơng
mấy khó khăn. Song sau khi học hai bài “Từ đồng âm”, “Từ nhiều nghĩa” thì các em
bắt đầu có sự nhầm lẫn và khả năng phân biệt từ đồng nghĩa, từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa cũng không được như mong đợi của giáo viên, kể cả học sinh HTT đơi khi
cũng cịn thiếu chính xác. Vì vậy sau khi mở rộng cho học sinh một số khái niệm cơ
bản cần thiết về từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm tôi đã hướng dẫn học sinh
so sánh sự giống nhau và khác nhau giữa chúng.
* Mở rộng vốn từ
Đối với dạng bài mở rộng và hệ thống hóa vốn từ giáo viên nên vận dụng vốn
sống của học sinh và chủ động dẫn dắt, gợi ý, giải nghĩa từ ngữ bằng nhiều hình thức
khác nhau để bổ sung vốn tiếng Việt, giúp các em dễ thực hiện yêu cầu của bài tập.
5


Trong quá trình dạy luyện từ và câu: mở rộng vốn từ giáo viên phải thể hiện đầy
đủ về quan hệ biện chứng với nhau giữa các nội dung sau:
- Gia tăng vốn từ có hệ thống.
- Hiểu nghĩa của từ.
- Biết cách sử dụng từ ngữ.
Có thể tuần tự hoặc đan xen lồng ghép lẫn nhau giữa ba nội dung trên. Phát triển
vốn từ trước hết phải chú ý về số lượng càng nhiều từ ngữ càng tốt. Nhưng để vốn từ
đó tồn tại và đảm bảo chất lượng cần phải cho học sinh hiểu nghĩa của từ và biết cách
sử dụng.
Từ những yêu cầu trên khi dạy mở rộng vốn từ cần thưc hiện theo 3 bước sau:
- Giúp HS nắm vững khái niệm chủ đề.
- Lựa chọn sơ đồ để mở rộng vốn từ, kết hợp giải nghĩa từ.
- Giúp HS vận dụng từ ngữ vừa học trong việc luyện tập thực hành.
* Quan hệ từ – Nối câu ghép bằng quan hệ từ
Để dạy tốt quan hệ từ trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 5 thì người giáo

viên phải nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của quan hệ từ đó là giúp các em học
tốt hơn bộ môn Tiếng Việt cũng như các mơn học khác và cịn giúp cho các em biết
cách giao tiếp, cư xử với mọi người trong cuộc sống hàng ngày lịch sự nhã nhặn hơn.
Giáo viên cần nhận thức được quan hệ từ như là “chất keo dính” nối kết các từ ngữ,
câu văn, đoạn văn lại với nhau một cách chặt chẽ hơn có ý nghĩa hơn. Khi dạy quan
hệ từ tôi bám vào chuẩn kiến thức kĩ năng, mục tiêu của tiết học mà chủ động trong
việc lựa chọn ví dụ, lựa chọn nội dung các bài tập, phương pháp, hình thức tổ chức
sao cho phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình, giúp các em dễ tiếp thu kiến thức
của bài học. Phân ra từng dạng quan hệ từ để dạy và giúp học sinh biết tác dụng của
từng loại quan hệ từ
* Liên kết câu
Câu văn là một bộ phận của đoạn văn. Trong một đoạn văn, các câu văn phải
liên kết chặt chẽ với nhau cả về nội dung và hình thức Ngoài sự liên kết về nội dung,
giữa các câu trong đoạn phải được liên kết bằng những dấu hiệu hình thức nhất định.
Về hình thức, người ta thường liên kết các câu bằng các phép liên kết. Vì thế để giúp
học sinh diễn đạt câu văn mạch lạc trôi chảy tôi củng cố hệ thống lại các phép liên kết
đã học để học sinh dễ dàng ghi nhớ và vận dụng
* Dấu câu
Trong chương trình tiểu học đang hiện hành, nội dung về dấu câu được học từ
lớp 2. Có 10 dấu câu thường dùng và được học ở tiểu học là: dấu chấm, dấu chấm
hỏi, dấu chấm than, dấu phẩy, dấu hai chấm, dấu gạch ngang, dấu ngoặc đơn, dấu
ngoặc kép, dấu chấm phẩy và dấu ba chấm. Dấu câu là kí hiệu chữ viết để biểu thị
ngữ điệu khác nhau. Những ngữ điệu này lại biểu thị những quan hệ ngữ pháp khác
nhau và những mục đích nói khác nhau. Nếu sử dụng dấu câu sai dẫn đến việc người
6


đọc, người nghe hiểu sai nội dung diễn đạt. Vì thế, dạy cho học sinh sử dụng đúng
các loại dấu là yêu cầu quan trọng của giáo viên tiểu học.
Giải pháp 2: Coi trọng việc mở rộng vốn từ và chính xác hóa vốn từ cho học

sinh
Đây là nhiệm vụ cơ bản của phân môn Luyện từ và câu. Khi có vốn từ phong
phú, học sinh rất thuận lợi trong giao tiếp và tư duy.
Ở lớp 5, loại bài tập mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ được sử dụng khá nhiều
dưới các dạng khác nhau: Tìm từ ngữ cùng chủ đề, tìm từ có tiếng cho trước, tìm từ
cùng nghĩa, gần nghĩa, tìm từ có cùng yếu tố cấu tạo.
Có thể mở rộng vốn từ bằng nhiều cách:
+ Cách ghép từ: Xuất phát từ từ gốc, bằng phương pháp ghép từ sẽ cho ra các từ
mới.
* Ví dụ: Bài tập 3 - Tiết 3 (SGK - TV5 tập 1) u cầu học sinh tìm một số từ có
tiếng “đồng” (theo nghĩa là cùng).
Để học sinh có được vốn từ khá phong phú, tôi đã cho học sinh thi tìm từ điền
vào bài thơ sau:
...................tiến bước trước sau nhịp nhàng (đồng hành)
...................tay nắm chặt tay (đồng chí)
...................sum họp bốn phương một nhà (đồng bào)
..................quần áo quả là đẹp thay (đồng phục)
...................hội tụ một nơi (đồng qui)
..................cộng khổ ngọt bùi sẻ chia (đồng cam)
..................cộng tác cùng nghề (đồng nghiệp)
..................thống nhất xin mời giờ tay (đồng ý)
*Ví dụ: tìm một số từ có tiếng “cổ” (xưa, cũ).
Giáo viên nói: Người ta coi đồ cổ là vật quí, nhưng nhiều thứ cổ khác lại quí hơn
nhiều. Em đọc bài thơ sau và hãy tìm từ thích hợp điền vào chỗ trống để thấm thía
hơn về giá trị của những thứ “cổ” ấy.
Đầu xuân vui tết ____(cổ truyền).
Hội làng: vật võ, đu tiên, chọi gà.
Ngơi chùa___làng ta (cổ kính).
Mùa hè gió mát là đà bóng cây
Q mình đẹp nhất nơi đây

Cây đa ____hồ đầy nước trong (cổ thụ)
Câu chuyện ____ đêm đông (cổ tích).
Bà em đã kể đầy tình u thương
_____răn dạy bao lời (cổ nhân)
Chơi nhạc ____ hai ba chục người (cổ điển)
Lâu đài ____ vắng người (cổ kính)
7


Có cây ____ giữa trời mà reo (cổ thụ).
+ Phương pháp liên tưởng: Từ 1 từ cho trước sẽ cho ra 1 từ mới cùng nghĩa, gần
nghĩa, trái nghĩa với từ cho sẵn.
Loại bài tập này bao gồm một số dạng sau:
Dạng 1: Điền từ vào chỗ trống.
Sạch sẽ là khơng ..................
............là khơng lộn xộn
.............là khơng luộm thuộm.
Dạng 2: Tìm từ cùng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa được nêu trực tiếp.
Loại bài tập này giúp học sinh thu thập thêm những từ đồng nghĩa, trái nghĩa mà
trước nay bản thân chưa biết hoặc chưa nhận ra, đồng thời tạo cho học sinh một sự
nhạy cảm, để đến khi có nhu cầu giáo tiếp ngơn từ thì có thể dễ dàng huy động các từ
đồng nghĩa, trái nghĩa có như vậy vốn từ của học sinh mới ngày càng phong phú, mới
đáp ứng được nhu cầu sử dụng trong hoạt động nói - viết của học sinh.
+ Phương pháp láy: Tìm ra từ mới bằng cách lặp lại một bộ phận của từ, hoặc
láy lại từ đã cho.
*Ví dụ: Từ từ gốc “vàng” láy từ sẽ cho ra các từ:
Vàng vọt, vàng vàng.
Từ từ gốc “xinh” láy từ sẽ cho ra các từ:
Xinh xẻo, xinh xinh, xinh xắn.
Giải pháp 3: Đổi mới phương pháp và hình thức dạy học nâng cao hiệu

quả phân môn Luyện từ và câu
Đổi mới phương pháp dạy học là phải phát huy tính tích cực của học sinh giáo
viên cần chú ý đối với mọi đối tượng học sinh phân ra nhiều mức độ để có phương
pháp dạy thích hợp. Muốn phát huy được tính tích cực của học sinh người giáo viên
phải có hệ thống câu hỏi trong mỗi bài thật cụ thể phù hợp với mọi đối tượng học
sinh. Giáo viên vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học theo nhóm, dạy học
cá nhân,… Thường xuyên thay đổi các hình thức học tập cho học có thể tổ chức dạy
học dưới hình thức trị chơi để kích thích sự hứng thú học tập của học sinh, nhằm đạt
kết quả cao trong giờ học mà các em không nhàm chán.
Việc đổi mới phương pháp dạy học có thành cơng, hiệu quả hay khơng là một
phần phải có hình thức tổ chức học tập phong phú và đa dạng. Hình thức phải xây
dựng phù hợp với nội dung và đối tượng học sinh nhằm tạo nên tiết học sinh động,
đạt hiệu quả cao và phát huy được tính cực tự học, chủ động và tự sáng tạo của học
sinh.
Bên cạnh đó việc dạy học theo mơ hình VNEN thực hiện đổi mới phương pháp
dạy học theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, học tập mang tính tương tác và
phù hợp với từng cá nhân học sinh. Lớp học do học sinh tự quản và được tổ chức
theo các hình thức như: Làm việc theo cặp, làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm,
8


trong đó hình thức học theo nhóm là chủ yếu. Học sinh được học trong môi trường
học tập thân thiện, thoải mái, khơng bị gị bó, ln được gần gũi với bạn bè, với thầy
cô, được sự giúp đỡ của bạn học trong lớp, trong nhóm và thầy cơ, phù hợp với tâm
sinh lý lứa tuổi các em. Vào mỗi giờ học, học sinh được trao đổi chia sẻ các kiến thức
của môn học được mở rộng vốn từ tăng khả năng giao tiếp. Học sinh thường được
phát huy hơn, tự thể hiện, tự khẳng định khả năng của mình nhiều hơn. Tạo được
khơng khí nhẹ nhàng, thoải mái; các em có điều kiện trao đổi với bạn, với GV những
điều mà mình chưa biết, chưa hiểu…điều đó có tác dụng khơi dậy niềm ham thích,
say mê tìm tịi khám phá lĩnh vực kiến thức của tiếng Việt. Với phương pháp tổ chức

này học sinh nắm kiến thức một cách sâu sắc có cơ sở, được đối chứng qua nhận xét
của bạn, của giáo viên.
Trong năm học này lớp tôi cũng đã áp dụng hình thức học theo nhóm và theo tôi
quan sát trong tiết luyện từ và câu các em tự tin trao đổi bài với nhau. Đây là hình ảnh
các em học tập theo nhóm. Các em học sinh đều rất hào hứng được chia sẻ bài với
bạn.
Ví dụ: Khi dạy tiết Luyện từ và câu: Mở rộng vốn từ : Nam và nữ.
Ở bài 1 các em được tự bày tỏ phẩm chất mà mình thích ở một bạn nam và ở
một bạn nữ. Và tôi thấy một học sinh rất nhút nhát ở lớp tôi mà em cũng đã chia sẻ
với các bạn: “Mình thích phẩm chất dũng cảm ở bạn nam, phẩm chất đó thể hiện một
bạn nam can đảm, không sợ nguy hiểm”. Mặc dù trả lời còn nhỏ chưa mạnh dạn lắm
nhưng các bạn trong nhóm đã thưởng cho em một tràng pháo tay lớn để động viên
bạn cố gắng hơn nữa.
Qua đây tơi thấy việc thay đổi hình thức dạy học đã góp một phần để giúp các
em tự tin học tập tốt hơn các mơn học nói chung và phân mơn luyện từ và câu nói
riêng.
Giải pháp 4: Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học trong tiết học
phân môn Luyện từ và câu
Để có thể học tốt phân mơn luyện từ và câu, tôi cho rằng, ngay từ đầu tiết học
giáo viên phải khơi sự tò mò, hứng thú cho học sinh. Khi hướng dẫn học sinh học
giáo viên có thể sử dụng linh hoạt nhiều phương pháp dạy học khác nhau (phương
pháp trò chơi, phương pháp sử dụng tình huống có vấn đề để tổ chức hoạt động,
phương pháp thực hành giao tiếp…) phù hợp với từng loại bài để cuốn hút các em
vào tiết học.
Phân môn Luyện từ và câu lớp 5 gồm 2 dạng bài: dạng bài lý thuyết (hình thành
kiến thức mới) và dạng bài thực hành.
* Hướng dẫn học sinh hình thành kiến thức mới (dạy dạng bài lí thuyết)
Các bài học Luyện từ và câu thuộc loại hình thành kiến thức mới đều gồm có ba
phần: Nhận xét, Ghi nhớ và Luyện tập.


9


- Nhận xét là phần cung cấp ngữ liệu có liên quan đến nội dung bài học và nêu
câu hỏi, bài tập gợi ý cho học sinh phân tích nhằm để các em tự hình thành kiến thức.
Giáo viên tổ chức khai thác ngữ liệu ở phần nhận xét theo các hình thức:
+ Trao đổi chung cả lớp
+ Trao đổi theo từng nhóm
+ Tự làm bài cá nhân.
Qua đó, học sinh tự rút ra kết luận theo các điểm cần ghi nhớ về kiến thức.
- Ghi nhớ là phần chốt lại những điểm cốt lõi về kiến thức được rút ra qua việc
phân tích ngữ liệu. Cần hướng dẫn học sinh ghi nhớ kiến thức như sau:
+ HS tự rút ra những điểm chính cần ghi nhớ qua phân tích ví dụ.
+ Đọc lại phần ghi nhớ trong SGK.
+ Nêu những điểm chính cần ghi nhớ (khơng nhìn SGK).
- Luyện tập là phần bài tập thực hành nhằm củng cố và vận dụng những kiến
thức đã học. Giáo viên tổ chức cho học sinh làm bài tập theo các hình thức cá nhân,
cặp đơi, nhóm, trị chơi học tập,… Lưu ý hướng dẫn học sinh làm các bài tập theo các
bước:
+ Hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ yêu cầu của bài tập.
+ Chữa mẫu một bài hoặc một phần của bài tập.
+ Hướng dẫn học sinh làm bài tập vào vở, bảng nhóm, giấy nháp, phiếu bài tập,

+ Hướng dẫn học sinhtự kiểm tra hoặc đổi bài cho bạn để tự kiểm tra.
* Hướng dẫn học sinh làm bài tập (dạy dạng bài thực hành).
- Giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập
- Hướng dẫn chữa một phần của bài tập để làm mẫu
- Hướng dẫn học sinh làm bài tập vào vở (vở nháp, vở bài tập,…) theo các hình
thức phù hợp: cá nhân, cặp đơi, nhóm, trị chơi,…
- Tổ chức cho học sinh trao đổi, nhận xét về kết quả, rút ra những điểm cần ghi

nhớ về tri thức.
Khi đã nắm vững được cấu trúc của một bài trong phân môn Luyện từ và câu thì
giáo viên có thể linh hoạt phối hợp các phương pháp dạy học khác nhau trong một
tiết dạy sao cho phù hợp. Phân môn Luyện từ và câu cung cấp những kiến thức sơ
giản về Tiếng Việt bằng con đường quy nạp và rèn luyện kĩ năng dùng từ, đặt câu, kĩ
năng nói và viết cho học sinh. Chính vì thế, trong quá trình dạy Luyện từ và câu việc
sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau sẽ giúp học sinh tích cực hóa hoạt
động học tập, hình thành kiến thức và kĩ năng mình. Tuy các phương pháp này khơng
mới mẻ nhưng phần ít giáo viên sử dụng chưa đúng lúc, chưa đúng bài, chưa đúng
hoạt động.
Một số phương pháp dạy học tôi thường sử dụng:
* Phương pháp thực hành:
10


- Dùng phương pháp thực hành để dạy tri thức, để rèn luyện khả năng cho học
sinh. Hình thức phổ biến để hình thành kiến thức cho học sinh tiểu học là thơng qua
thực hành, có nghĩa là việc cung cấp kiến thức mới không phải là trực tiếp, mà được
hình thành dần dần, tự nhiên cho học sinh qua các bài tập cụ thể. Phương pháp này
thường được dùng với các dạng bài thực hành.
Ví dụ: Khi dạy Luyện từ và câu Tuần 20 bài: “Mở rộng vốn từ: Cơng dân” trang
18
Bài tập 3: u cầu tìm các từ đồng nghĩa với từ công dân.
Như trong bài tập 1 học sinh đã hiểu được nghĩa của từ công dân: Người dân của
một nước, có quyền lợi và nghĩa vụ với đất nước. Nên từ đó học sinh dễ dàng vận
dụng để tìm được từ đồng nghĩa là: nhân dân, dân chúng, dân.
* Phương pháp sử dụng tình huống có vấn đề:
- Dạy học nêu vấn đề là đòi hỏi học sinh tham gia giải quyết các vấn đề do tình
huống đặt ra. Tình huống có vấn đề đóng vai trị quan trọng trong dạy học nêu vấn đề.
Phải có tình huống có vấn đề mới thực hiện được phương pháp dạy học nêu vấn đề.

Thông qua việc giải quyết vấn đề trong tình huống cụ thể, học sinh vừa nắm tri thức,
vừa phát triển tư duy sáng tạo. Phương pháp sử dụng tình huống có vấn đề có nhiều
khả năng phát huy tính độc lập suy nghĩ và tính sáng tạo của học sinh. Phương pháp
này thường được sử dụng nhiều với dạng bài hình thành kiến thức mới.
* Phương pháp đàm thoại:
- Phương pháp đàm thoại nhằm gợi mở để học sinh làm sáng tỏ những vấn đề
mới, rút ra những kết luận cần thiết từ những tài liệu đã học cũng như từ kinh nghiệm
sống đã tích lũy. Tạo điều kiện để các em phát triển và củng cố khả năng giao tiếp với
giáo viên và với bạn cùng học; gây hứng thú học tập, hình thành tính độc lập, óc phê
phán, phát huy tính tích cực và tương tác trong học tập. Để đảm bảo kết quả việc tiến
hành đàm thoại cần chú ý hai khâu quan trọng: thiết kế hệ thống câu hỏi và tổ chức
việc đàm thoại ở lớp. Phương pháp này được sử dụng thường xuyên trong cả tiết học.
* Phương pháp thảo luận nhóm:
- Thảo luận là một cách học tạo được cho học sinh luyện tập kĩ năng giao tiếp,
khả năng hợp tác và khả năng thích ứng với hồn cảnh xung quanh. Thông qua thảo
luận ngôn ngữ và tư duy của học sinh trở nên linh hoạt và sinh động hơn.
- Điều kiện đảm bảo thành công cho việc thảo luận là:
+ Các đề tài đưa ra thảo luận vừa sức, mới mẻ để kích thích được sự hứng thú
suy nghĩ của học sinh.
+ Khơng lạm dụng q nhiều hình thức thảo luận nhóm.
+ Có nhóm trưởng điều khiển hoạt động nhóm.
+ Kết quả làm việc nhóm cịn được có ý kiến góp ý của nhóm khác.
Phương pháp này cũng được tơi sử dụng nhiều vì rất phù hợp với các bài tập cần
có sự chia sẻ hợp tác với nhau giữa học sinh.
11


* Phương pháp sử dụng trò chơi học tập:
- Trò chơi học tập thơng qua trị chơi. Trị chơi học tập khơng chỉ nhằm vui chơi
giải trí mà cịn nhằm góp phần củng cố tri thức, kĩ năng học tập cho học sinh.

- Việc sử dụng trò chơi học tập nhằm làm cho việc hình thành kiến thức và rèn
luyện kĩ năng cho học sinh bớt đi vẻ khô khan, tăng thêm phần sinh động hấp dẫn.
- Điều kiện đảm bảo cho sự thành cơng của việc sử dụng trị chơi trong học tập
là:
+ Nội dung trò chơi phải gắn với mục tiêu của bài học.
+ Luật chơi rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện.
+ Điều kiện và phương tiện tổ chức trò chơi phong phú, hấp dẫn.
+ Sử dụng trò chơi đúng lúc, đúng chỗ.
+ Số lượng học sinh tham gia: Vừa phải, khơng q ít.
+ Kích thích sự thi đua giành phần thắng giữa các bên tham gia.
Ví dụ: Khi dạy bài Mở rộng vốn từ: Trẻ em - Sách tiếng việt 5,tập 2 – trang 148)
ở bài tập 2: Tìm các từ đồng nghĩa với từ trẻ em.
Tôi cho các em tham gia chơi tiếp sức giữa 2 đội, thi xem đội nào tìm được
nhiều từ đồng nghĩa với từ trẻ em và nhanh nhất thì là đội dành chiến thắng. Các em
tham gia rất sơi nổi và tìm được rất nhiều từ và khơng khí lớp học cũng sơi nổi hẳn
lên.
- Việc lựa chọn, phối hợp, vận dụng hợp lí các phương pháp dạy học ở từng tiết
dạy Luyện từ và câu đều có những đặc điểm riêng, không thể áp dụng một cách máy
móc, đồng loạt. Khơng có phương pháp nào là “vạn năng” là “tuyệt đối”, là có thể
phù hợp với mọi khâu của tiết dạy Luyện từ và câu. Chỉ có sự tìm tịi sáng tạo, sử
dụng linh hoạt các phương pháp dạy học mới phát huy được tính tích cực của học
sinh trong mỗi tiết dạy Luyện từ và câu và đạt được thành công trong mỗi bài dạy.
Vốn từ các em trở nên đa dạng, phong phú khi các em chủ động phát huy tính tích
cực, độc lập sáng tạo, tinh thần hợp tác làm việc, cùng với sự chỉ đạo sáng suốt của
người giáo viên sẽ đem lại một kết quả tốt nhất.
Giải pháp 5: Phối hợp các hoạt động ngồi giờ lên lớp để tích luỹ vốn hiểu
biết, vốn từ ngữ cho học sinh
Ngoài việc dạy học ở trên lớp nên tổ chức cho học sinh những giờ học ngoại
khóa thật bổ ích như tổ chức các trị chơi đố vui để học, các hội thi tìm từ nhanh, đặt
câu đúng… để các em tăng thêm vốn hiểu biết tạo ra sự thi đua, hứng khởi trong học

tập tiếng Việt và phân môn Luyện từ và câu nói riêng. Thơng qua các hoạt động ngồi
giờ lên lớp như các giờ chơi, chào cờ, các cuộc toạ đàm trao đổi học sinh sẽ tích luỹ
được vốn từ cho mình. Phối kết hợp hoạt động ngồi giờ nhằm bồi dưỡng cho học
sinh ý thức và thói quen sử dụng tiếng việt văn hoá trong giao tiếp.

12


Trong năm học vừa qua các em học sinh lớp tơi cũng được tham gia các hoạt
động ngồi giờ lên lớp rất bổ ích. Như hình ảnh tham gia cuộc thi “Phát triển năng
lực học sinh tiểu học” do nhà trường tổ chức.
Tôi thấy các em rất tự tin, giới thiệu, giao lưu với các bạn khán giả, các câu trả
lời, ứng xử rất rõ ràng mạch lạc. Thông qua các buổi thi giao lưu phát triển năng lực
học sinh các em biết đặt câu hỏi một cách lịch sự, tránh hỏi trống khơng hoặc những
câu hỏi tị mị thiếu tế nhị. Biết giữ phép lịch sự khi bày tỏ yêu cầu, đề nghị.
Như vậy ngay trong cuộc sống hằng ngày các em thường giao tiếp với thầy cô,
bạn bè, cha mẹ giáo viên cần phải bồi dưỡng ý thức và thói quen sử dụng tiếng Việt
văn hố, phát triển năng lực dùng từ đặt câu của các em để điều chỉnh cho học sinh
trong hoạt động giao tiếp.
Với các phân môn khác của môn Tiếng Việt như Tập đọc, Chính tả, Tập làm
văn, Kể chuyện, giúp học sinh rất nhiều trong việc mở rộng vốn từ, cách dùng từ để
đặt câu khác nhau, từ phải gắn với câu, sắp xếp từ, ý sao cho đúng văn cảnh cụ thể.
Ví dụ: Khi đọc bài “Lập làng giữ biển” có các câu hỏi: “Thế là thế nào?”
‘‘Đất của nước mình, mình khơng đến ở thì để cho ai?”; “Thế nào con, đi với bố
chứ?”
Các em thấy ngay, ngoài sự nhận biết về câu hỏi qua dấu câu các em còn nhận
biết câu hỏi qua cách đọc câu. Từ đó có thể giáo dục học sinh ý thức bảo vệ và gìn
giữ quê hương đất nước.
Tóm lại: Việc tổ chức các hoạt động ngồi giờ lên lớp có tác dụng rất lớn đến
việc dạy phân môn Luyện từ và câu giúp các em có thói quen dùng từ đúng, nói viết

thành câu, biết quý trọng, biết giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Với sáng kiến này tôi đã áp dụng tại trường học mà tôi đang dạy và đã đạt được
kết quả rất khả quan:
- Qua việc giảng dạy theo dõi kết quả của học sinh tôi thấy các em đã có sự tiến
bộ rõ rệt. Trong bài kiểm tra định kì mơn tiếng Việt thì 100 % học sinh đều hoàn
thành. Cụ thể.
BẢNG KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG PHÂN MƠN LUYỆN TỪ VÀ CÂU
VÀO CUỐI HỌC KÌ 1
(Khảo sát trên 20 học sinh lớp 5)
TSHS
20

HTT
SL
10

HT
%
50

SL
10

CHT
%
50

SL
0


%
0

- Vốn từ đã tiến bộ và phong phú hơn

13


- Khả năng hiểu nghĩa của từ đã được cải thiện nhiều, học sinh hiểu và phân biệt
nghĩa của từ chắc chắn hơn.
- Kiến thức Tiếng Việt đã thay đổi đáng kể
- Học sinh biết vận dụng tốt vốn từ vào giao tiếp hàng ngày, sử dụng câu nói
mạch lạc và rõ ràng về nghĩa. Học sinh biết vận dụng câu từ để viết văn trơi chảy và
có hình ảnh.
- Điều đáng nói là học sinh tiếp thu kiến thức một cách hồn tồn thoải mái. Các
em có được niềm vui khi học phân môn Luyện từ và câu, những kiến thức các em học
được dễ dàng ứng dụng vào bất cứ lúc nào. Các em được chơi, được nói, được thể
hiện nhận xét của mình, được trao đổi với thầy cơ, với bạn bè trong tiết học. Có thể
thấy rõ sự chuyển biến của các em từng ngày qua việc giao tiếp với thầy cô, bạn bè.
Nhiều em lúc đầu rất sợ những bài tập trong phân môn luyện từ và câu nhưng sau
từng ngày, từng tuần, từng tháng được rèn luyện kĩ năng và phương pháp học các em
tiến bộ dần và vì bản thân các em đã hứng thú học tập, các em biết đưa ra những cảm
nhận và những câu văn hay, sinh động. Nhờ được luyện tập thực hành như vậy nên
khái niệm về lý thuyết các em nắm rất vững. Bản thân các em cũng thu lượm được
một số lý luận nho nhỏ, biết phân tích một cách rạch rịi cái đúng, cái sai trong bài
làm của bạn và của mình.
- Ngồi ra qua việc nghiên cứu đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 dân
tộc Bru - Vân Kiều học tốt phân mơn luyện từ và câu này đã góp phần khắc phục
được một số sai lầm cho chính bản thân người nghiên cứu và đối tượng học sinh được

thực nghiệm như sau:
+ Đối với bản thân: việc nghiên cứu đề tài khoa học này đã giúp tôi nắm vững
hơn kiến thức về luyện từ và câu, nhằm phục vụ tốt hơn cho công tác giảng dạy sau
này tránh được những sai lầm khơng đáng có. Địi hỏi cá nhân phải tự học để đáp ứng
sự đòi hỏi của học sinh và lựa chọn phương pháp hợp lý cho từng hoạt động, từng nội
dung bài, từng đối tượng học sinh. Giúp tôi luôn nghiên cứu kỹ các bài tập sách giáo
khoa để giảng dạy cho phù hợp với trình độ học sinh lớp mình giảng dạy và phát huy
tính tích cực của học sinh.
+ Đối với học sinh: các em khắc phục được những sai lầm dù là rất nhỏ, giúp
các em có tính tỉ mỉ, nghiêm túc, có tính kỷ luật cao trong học tập. Hình thành nhân
cách, góp phần đào tạo con người Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hố – hiện đại
hố đất nước tự chủ, năng động, sáng tạo, tự giải quyết các vấn đề mà cuộc sống đặt
ra.
- Tuy kết quả tôi nêu trên hết sức sơ lược và ở phạm vi nhỏ, song nó cũng góp
phần động viên tơi trong cơng tác giảng dạy học sinh. Bé nhỏ như vậy nhưng vô cùng
quan trọng đối với một giáo viên còn non nớt kinh nghiệm như tơi trong việc tháo gỡ
khó khăn, trong việc tìm ra các biện pháp giúp cho học sinh của mình học tốt phân
mơn Luyện từ và câu.
14


3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của đề tài
Phân môn Luyện từ và câu có vai trị rất quan trọng trong dạy học Tiếng Việt bởi
vị trí đặc biệt quan trọng của từ và câu trong hệ thống ngôn ngữ. Nhiệm vụ của dạy
Luyện từ và câu ở Tiểu học là làm giàu vốn từ và phát triển năng lực sử dụng từ, câu
của học sinh. Chính vì thế, đây là một việc làm không đơn giản chút nào. Vậy, để
thực hiện thành cơng cơng việc này địi hỏi phải phải kết hợp nhiều yếu tố. Qua một
thời gian áp dụng các giải pháp vào thực tiễn giảng dạy lớp 5 ở trường tơi, bản thân
nhận thấy có hiệu quả rõ rệt, học sinh đã tiến bộ nhanh chóng trong việc nắm bắt kiến

thức và vận dụng nhanh trong học tập, đã hình thành và phát triển ở học sinh năng lực
cá nhân, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác, tinh thần trách nhiệm...
Sáng kiến đã đưa ra được năm giải pháp nhằm giúp học sinh lớp 5 Bru - Vân
Kiều học tốt hơn phân môn Luyện từ và câu. Đó là:
- Giáo viên cần nghiên cứu kĩ cấu trúc, nội dung chương trình phân mơn Luyện
từ và câu ở lớp 5.
- Coi trọng việc mở rộng vốn từ và chính xác hóa vốn từ cho học sinh.
- Đổi mới phương pháp và hình thức dạy học nâng cao hiệu quả phân môn
Luyện từ và câu.
- Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học trong tiết học phân mơn Luyện
từ và câu.
- Phối hợp các hoạt động ngồi giờ lên lớp để tích luỹ vốn hiểu biết, vốn từ ngữ
cho học sinh.
* Một số lưu ý khi dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp 5
- Trước hết giáo viên phải là người nắm vững chương trình, kiến thức, kĩ năng
tiếng Việt, có vốn sống phong phú.
- Thường xuyên học hỏi trau dồi kiến thức, nghiên cứu tài liệu, sách báo... giao
lưu học hỏi đồng nghiệp có nhiều kinh nghiệm đề ngày càng làm phong phú thêm
vốn kiến thức, kĩ năng cho mình.
- Có phương pháp nghiên cứu bài, soạn bài, thiết kế bài học một cách khoa học,
sáng tạo, linh hoạt.
- Tạo sự giao tiếp cởi mở, thân thiện với học sinh, mẫu mực trong lời nói, việc
làm, thái độ, cử chỉ; Có tâm hồn trong sáng lành mạnh để học sinh noi theo.
- Luôn phối hợp với gia đình, tổ chức chức Đội để tạo điều kiện tốt nhất cho
các em tham gia trải nghiệm.
3.2. Kiến nghị đề xuất
Là một người giáo viên, hiểu rõ tầm quan trọng trong cơng tác trồng người. Vì
thế, bản thân tôi luôn cố gắng trau dồi sách vở, học hỏi từ đồng nghiệp cũng như đúc
kết kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, nâng cao đạo đức và chuyên môn. Hưởng
ứng cuộc vận động về chủ đề năm học, bản thân đã cố gắng áp dụng những kinh

15


nghiệm, sáng tạo thêm những phương pháp mới nhằm hình thành và phát triển kiến
thức, kĩ năng, năng lực cho học sinh từ môi trường giáo dục ở nhà trường; giáo dục
và xây dựng cho các em có năng lực tốt, lối sống lành mạnh để các em có thể tự lập,
tự tin hơn trong cuộc sống. Đồng thời, để việc dạy học phân mơn Luyện từ và câu có
hiệu quả hơn, hình thành và phát triển tốt hơn kiến thức, kĩ năng cho học sinh lớp 5
Bru - Vân Kiều tại đơn vị, tôi mạnh dạn đề xuất:
*Đối với nhà trường: Trong các buổi thao giảng chuyên đề do trường tổ chức
hoặc trong các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ, khối chúng ta cần tăng cường
nghiên cứu những giải pháp trên để có thể áp dụng rộng rãi trong tồn trường khi dạy
phân mơn Luyện từ và câu.
*Đối với giáo viên: Giáo viên phải nắm được những nội dung kiến thức của
phân môn luyện từ và câu, nắm chắc nội dung chương trình và những yêu cầu cần đạt
của chương trình mình đang dạy.
- Giáo viên cần linh hoạt trong việc sử dụng các phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học. Phải có lịng nhiệt tình, tâm huyết với công tác chuyên môn. Phải
thường xuyên học tập, học hỏi kinh nghiệm, tìm tịi các giải pháp mới để công tác
giảng dạy đạt hiệu quả cao hơn.
*Đối với phụ huynh:
- Các bậc cha mẹ cần có hành vi chuẩn mực, nêu gương tốt khi giao tiếp, ứng xử.
- Phối kết hợp với nhà trường trong việc giáo dục và rèn luyện của con em mình
- Phụ huynh quan tâm nhiều hơn đến việc học tập của các em: sắm đầy đủ dụng
cụ học tập, động viên, khuyến khích các em tham gia học tập.
Trên đây là những suy nghĩ của bản thân về việc nghiên cứu Một số biện pháp
giúp học sinh lớp 5 dân tộc Bru - Vân Kiều học tốt phân môn Luyện từ và câu. Tuy
vậy do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên chắc chắn khơng tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý bổ sung của Ban Giám hiệu
nhà trường, các cấp quản lý giáo dục và đồng nghiệp để bản sáng kiến của bản thân

có được những kinh nghiệm bổ ích có thể áp dụng cho các năm học sau.
Xin chân thành cảm ơn!

16


Error! Bookmark not defined.

17



×