Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm, SKKN - Một số giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học phần tác giả trong chương trình Ngữ văn THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.35 KB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẢNG TRỊ

TRƯỜNG THPT HƯỚNG HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC
PHẦN TÁC GIẢ TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN
TRUNG HỌC PHỔ THƠNG

1.

Lĩnh vực/Mơn:

Tên tác giả:

Lương Thị Kim Khánh

Chức vụ:

Tổ trưởng chuyên môn Ngữ văn

Đơn vị công tác:

Trường THPT Hướng Hóa

Năm học: 2019 - 2020

Ngữ văn


2


PHẦN MỞ ĐẦU

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
1. Cơ sở lí luận
Có nhiều cách thức, nhiều hướng để tiếp nhận tác phẩm văn học, trong đó
tiếp nhận từ góc độ tác giả là cơ sở không thể thiếu khi muốn khám phá một chỉnh
thể nghệ thuật. Đây là hướng tiếp nhận có lịch sử lâu đời và có ý nghĩa quan trọng
trong việc khám phá văn bản văn học.
Thứ nhất, trong hoạt động giao tiếp, người nói và người nghe; người viết và
người đọc là hai nhân tố đóng vài trị quan trọng liên quan đến hiệu quả giao tiếp.
Dưới góc độ nghiên cứu của lí luận văn học thì khi sáng tác, nhà văn bao giờ cũng
gửi gắm điều gì đó trong văn bản tác phẩm, cho nên tiếp nhận văn học là nổ lực đi
tìm dụng ý của nhà văn. Lí luận văn học cổ điển Trung Quốc quan niệm “Sáng tác
là giải tỏa những u uất trong lòng” (Tư Mã Thiên); là thể hiện sự quan tâm đến các
vấn đề chính trị, xã hội: “Văn chương nên vì thời thế mà viết, thơ ca nên vì hiện
thực mà sáng tác” (Bạch Cư Dị). Các nhà lí luận văn học và những người cầm bút
với sự trải nghiệm thấm thía của mình cũng đã khẳng định mối quan hệ khơng thể
tách rời giữa nhà văn với tác phẩm, giữa chủ thể sáng tạo với sản phẩm sáng tạo.
Cao Bá Quát trong trang cuối bài thơ “Rừng chuối” (trong Cao Chu Thần thi
tập) đã nói: “Thơ khơng có phẩm chất nhất định, phẩm chất của người là phẩm
chất của thơ. Phẩm chất của người cao thì phẩm chất của thơ cao”. Tác giả
Nguyễn Đức Đạt trong Nam Sơn tùng thoại (Tạp chi văn học số 1, 1979) cũng
khẳng định: “Văn thâm hậu thì con người của nó trầm và tĩnh, văn ơn nhu thì con
người của nó đạm và giản, văn hùng hồn thì con người của nó cương và nhanh,
văn un sâu thì con người của nó thuần túy mà đúng đắn”.
Thứ hai, tiếp nhận tác phẩm văn học dưới góc độ tác giả, bạn đọc sẽ có điều
kiện tiếp xúc với một tài năng, một nhân cách, một tư tưởng và tâm hồn lớn. Bởi vì
những tác phẩm văn học được đưa vào đọc hiểu trong chương trình THPT đều là
những tác giả lớn, có vị trí đặc biệt, tiêu biểu cho một giai đoạn, một thời kì, một

xu hướng; trào lưu vă học. Và ở đó, bạn đọc sẽ có sự tương tác, đối thoại và học
hỏi, góp phần hoàn thiện nhân cách, kĩ năng bản thân - điều đặc biệt quan trọng đối
với lứa tuổi học sinh ở chức năng giáo dục của văn học.
Thứ ba hoạt động dạy học cũng như việc tiếp nhận văn bản văn học là hoạt
động tiếp thu kiến thức của một trong số các mơn học ở trường THPT. Vì thế việc
thi cử vượt môn và tốt nghiệp THPT cũng như đại học là mục đích thực tế của học
sinh. Do vậy, việc nắm kĩ phần tác giả - chủ thể sáng tạo văn bả nghệ thuật, khơng
những giúp học sinh có cơ sở để giải mã văn bản mà còn đáp ứng yêu cầu đáp án
phần mở bài trong đề thi môn Ngữ văn phần làm văn (hiện chiếm 1/2 tổng số điểm
bài thi).
Có thể dẫn nhiều hơn nữa những cơ sở lí luận của vấn đề, nhưng dừng ở
đây cũng đủ để khẳng định một chân lí về mối quan hệ biện chứng giữa tư tưởng,


3

tâm hồn nhà văn với linh hồn tác phẩm. Vì thế yêu cầu của người đọc văn và người
dạy văn là phải làm thế nào để học sinh thấy được mối quan hệ đó, hay nói cách
khác học sinh muốn hiểu đúng, muốn cảm nhận được tư tưởng của tác phẩm cần
có sự liên hệ với tư tưởng tác giả, ngược lại từ sự tìm hiểu tác phẩm người đọc có
cái nhìn đầy đủ, đúng đắn hơn về nhà văn. Để giúp học sinh khám phá được thế
giới diệu kỳ của tác phẩm văn học, hiểu được những triết lí nhân sinh hay cảm
được những cung bậc cảm xúc tinh tế; những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc trong tác
phẩm văn học, bên cạnh việc khám phá nhiều tầng bậc, nhiều lớp lang của tác
phẩm từ góc độ văn bản, văn hóa,…với tư cách là một chỉnh thể cũng cần suy luận,
liên hệ từ cuộc đời, con người, tư tưởng của nhà văn. Tức là cần tìm hiểu nghiêm
túc những yếu tố “ngồi văn bản”. Ví dụ khi bàn luận về hình ảnh những kiếp ca kĩ
trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Du không thể không thấy một căn nguyên
sâu xa ám ảnh Nguyễn Du trong những năm tháng tuổi thơ đi nghe hát cùng người
anh Nguyễn Khản; bình giá hình ảnh “lị than rực hồng” trong bài thơ “ Mộ” của

Hồ Chí Minh người đọc cần nhận thấy mối liên hệ giữa ý nghĩa hình ảnh với tâm
thế của người chiến sĩ cộng sản lạc quan, luôn hướng về tương lai với một tinh
thần “thép”; vì sao đề tài người nơng dân, người trí thức cứ trở đi, trở lại trong
sáng tác của Nam Cao, vì sao Nam Cao lại dành cho Chí Phèo lịng tin tưởng về
phẩm giá con người hoặc những câu hỏi tương tự? người đọc có thể trả lời bằng
chính cuộc đời gắn bó u thương với người nơng dân, người trí thức của Nam
Cao.
Bởi vậy, dạy học bài về tác giả văn học hoặc hướng dẫn học sinh nắm được
những thông tin cơ bản về một tác giả văn học nào đó có vai trò rất quan trọng.
Trước hết hoạt động này sẽ giúp học sinh có được một lối nhỏ (dù khơng phải là
con đường chính thức) để đi vào thế giới nghệ thuật của một tác phẩm văn học.
Hơn nữa học sinh sẽ có cơ sở để đọc hiểu những tác phẩm khác của cùng nhà văn,
của một giai đoạn, một thời đại văn học. Văn chính là người, nói “qua văn phần
nào biết người” là vì vậy.
2. Cơ sở thực tiễn
Mặc dù kiến thức về tác giả văn học có ý nghĩa rất quan trọng trong dạy học
văn nói riêng và đời sống văn hóa, văn học nói chung nhưng trên thực tế việc dạy
học phần tác giả văn đang có nhiều vấn đề phải bàn luận. Do quy định của thời
lượng chương trình, có lúc người giáo viên phải cắt thời gian dành cho phần tiểu
dẫn, yêu cầu học sinh đọc tại nhà. Bài “Hai đứa trẻ”, “Chữ người tử tù”, “Hạnh
phúc của một tang gia” thuộc chương trình lớp 11 chuẩn, bài “Vợ chồng A Phủ”,
“Chiếc thuyền ngoài xa thuộc chương trình 12, mỗi bài được học 02 tiết trên lớp.
Trong khi ở chương trình nâng cao cũng những bài đó phân phối chương trình chỉ
cho thời lượng 02 tiết kèm theo một bài đọc thêm, có nghĩa nếu chỉ sơ lược bài đọc
thêm thì mỗi bài ở trên chỉ được dành thời lượng 1,5 tiết. Với thời lượng như vậy
để hướng dẫn học sinh đọc hiểu những tác phẩm xuất sắc đó thì bắt buộc người
giáo viên phải giản lược tới mức tối thiểu nội dung phần tiểu dẫn. Và như vậy kiến
thức về tác giả Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng (riêng Nguyễn Tuân, Nam Cao sẽ
được bổ sung bằng những bài học riêng sau này) đã bị giản hóa khá nhiều.



4

Bên cạnh đó có tác giả văn học được dạy (bài học riêng) cả trong chương
trình chuẩn và chương trình nâng cao, nhưng có nhiều tác giả chỉ được dạy trong
chương trình nâng cao mà khơng có trong chương trình chuẩn.
Thực tế như vậy buộc mỗi người giáo viên dạy văn cần có phương pháp,
cách thức tổ chức phù hợp để khơng phải tăng thời lượng chương trình mà học sinh
vẫn đảm bảo những yêu cầu cơ bản về kiến thức, có được lịng u q trân trọng
những nhân cách, tài năng văn học lớn.
II. Lí do chọn đề tài
Trong thời đại “kĩ trị”, một số mơn học trong đó có mơn Ngữ Văn có một vị
trí “rất khiêm tốn” trong nhận thức (chưa đúng) của xã hội; trong quan niệm của
học sinh, phụ huynh. Hay nói đúng hơn là nhiều đối tượng chưa hiểu hết vai trò
đặc thù, cốt yếu của mơn Ngữ văn. Điều đó dẫn đến thực trạng học bộ môn Ngữ
văn của học sinh ngày nay đáng quan ngại. Học sinh THPT không tiếp nhận tác
phẩm một cách có cơ sở lí luận, khoa học; khơng say mê hứng thú; khơng tích cực
chủ động mà “gỏ mạng” là cách đối phó phổ biến. Về mặt ngơn ngữ, chữ viết: rất
hạn chế như viết câu sai; phong cách ngôn ngữ không chuẩn; sai kiến thức cơ bản,
chữ viết cẩu thả … là những hiện tượng khơng khó gặp trong thực tế. Chép tài liệu
tham khảo, đọc thuộc bài giảng của thầy là những cách thức học sinh vận dụng
nhằm vượt qua trong các bài kiểm tra, bài thi mơn Ngữ văn. Rất nhiều học sinh và
có thể có cả những bậc phụ huynh mang tư tưởng học văn để đối phó, để đảm bảo
tiêu chí trong đánh giá xếp loại và để vượt qua kỳ thi tốt nghiệp. Nhiều giáo viên
dạy trăn trở khi nghĩ rằng nếu tất cả các môn thi tốt nghiệp đều tự chọn có lẽ mỗi
hội đồng thi chỉ có một vài học sinh chọn thi mơn văn.
Học văn nói chung là vậy, dạy học những bài về tác giả văn học hoặc các
thông tin về tác giả văn học trong phần tiểu dẫn cịn gặp nhiều khó khăn. Học sinh
chỉ chú ý phần nội dung về tác phẩm liên quan đến những đề văn cụ thể (bởi yêu
cầu chủ yếu của các bài kiểm tra là kiến thức về tác phẩm văn học) mà không chú

tâm đến kiến thức về tác giả từ đó thiếu một cứ liệu để hiểu đúng, hiểu đủ hơn tác
phẩm của nhà văn đó. Sự nhầm lẫn thông tin từ tác giả này đến tác giả khác, không
nhớ được những tác phẩm tiêu biểu của một tác giả, nhìn một bức chân dung học
sinh khơng biết là tác giả văn học nào, … thực sự là hiện tượng không hiếm gặp và
là vấn đề cần được báo động. Một học sinh phổ thông không thể giới thiệu về một
tác giả văn học, một tác phẩm văn học lớn của đất nước, có kiến thức nghèo nàn về
văn học dân tộc … vấn đề đó buộc những thầy giáo, cơ giáo dạy văn phải suy nghĩ.
Đã có nhiều nhà nghiên cứu, nhiều học giả, những người trực tiếp trong
nghề chỉ ra những nguyên nhân cơ bản tạo nên hiện tượng được trình bày ở trên.
Nhưng chung quy lại thực trạng trên xuất phát từ nguyên nhân cơ bản nhất là thiếu
niềm đam mê ở học sinh và thiếu một phương pháp dạy học sáng tạo, hiệu quả ở
người thầy.
Từ thực trạng trên, tơi suy nghĩ cần có cái nhìn đúng đắn về vai trị của
những bài học liên quan đến tác giả văn học, hơn nữa cần có phương pháp hiệu quả
nhằm khơi dậy lòng đam mê ở học sinh từ đó nâng cao chất lượng dạy học văn và
hướng tới mục tiêu xa hơn là tạo cho học sinh những hiểu biết và lòng yêu quý,


5

trân trọng nền hóa hóa, văn học của dân tộc. Vì lẽ đó tơi mạnh dạn trình bày báo
cáo Sáng kiến kinh nghiệm với đề tài “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả dạy
học phần tác giả trong chương trình Ngữ văn THPT”.
Trong khn khổ của một sáng kiến kinh nghiệm, đề tài khơng trình bày
nhiều về lí luận phương pháp dạy học văn nói chung mà từ kinh nghiệm cá nhân
khái quát một số giải pháp dạy học nhằm tổ chức học sinh tìm hiểu có chất lượng
các bài học về tác giả văn học Việt Nam và những thông tin cơ bản về tác giả văn
học Việt Nam được tóm lược trong phần tiểu dẫn ở các bài đọc văn trong chương
trình Ngữ văn THPT.
B. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

− Giúp giáo viên và học sinh nhận thức đúng hơn về vai trò của kiểu bài văn
học sử - tác giả văn học (bài riêng) và tác giả (trong phần tiểu dẫn) trong dạy học
Ngữ văn.
− Đưa ra một số kinh nghiệm về biện pháp dạy học kiểu bài tác giả văn cho
học sinh.
− Từ đó, nhằm nâng cao năng lực làm văn và chất lượng học tập bộ môn
Ngữ văn trong nhà trường THPT.
C. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Chương trình ngữ văn THPT- phần tác giả văn học
Đối tượng khảo sát, thực nghiệm: Học sinh khối 10,11
D. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích
E. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Phạm vi nghiên cứu: Học sinh khối10, 11 ở các lớp giáo viên giảng dạy ở
trường THPT Hướng Hóa – Quảng Trị.
- Thời gian nghiên cứu: Trong 2 năm học: 2017 - 2018, 2018 - 2019
PHẦN NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG VỀ VIỆC DẠY HỌC PHẦN TÁC GIẢ VĂN HỌC
TRONG CHƯƠNG TRÌNH THPT
1. Về hoạt động học tập của học sinh


6

Từ thực trạng quan niệm và việc học môn môn Ngữ văn nêu trên, dẫn đến
việc học sinh rất khó khăn trong việc tiếp nhận tác phẩm văn học. Hướng tiếp nhận

tác phẩm văn học từ góc độ tác giả là một trong những hướng nền tảng, quan trọng
nhưng học sinh lại khơng có kĩ năng, khơng hứng thú và rất thụ động. Đặc biệt,
trong quá trình học tập, việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp của các em đang rất sơ
sài và mang tính đối phó, các em thường chép ở các sách tham khảo, nhất là đối
với bài Tác giả văn học thì các em càng thờ ơ. Bên cạnh đó, đa số học sinh chỉ chú
ý phần nội dung về tác phẩm liên quan đến những đề văn cụ thể mà không chú tâm
đến kiến thức về tác giả với những thông tin cần nắm như tiểu sử, cuộc đời, con
người, quan điểm và phong cách nghệ thuật; sự nghiệp sáng tác,…Sự nhầm lẫn
thông tin từ tác giả này đến tác giả khác, không nhớ được những tác phẩm tiêu
biểu của một tác giả, nhìn một bức chân dung học sinh không biết là tác giả văn
học nào, … thực sự là hiện tượng không hiếm gặp và là vấn đề cần được báo động.
2. Về nội dung chương trình Ngữ văn THPT (ban cơ bản)
a. Những bài học hoàn chỉnh về tác giả văn học.
- Chương trình lớp 10.
Bài Tác giả Nguyễn Trãi – Chương trình chuẩn, nâng cao.
Bài Tác giả Nguyễn Du – Chương trình chuẩn, nâng cao.
- Chương trình lớp 11.
Bài Tác giả Nguyễn Đình Chiểu – Chương trình nâng cao.
Bài Tác giả Nguyễn Khuyến – Chương trình nâng cao.
Tác giả Nam Cao – Chương trình chuẩn, nâng cao.
Tác giả Xuân Diệu – Chương trình nâng cao.
- Chương trình lớp 12.
Tác giả Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh – Chương trình chuẩn, nâng cao.
Tác giả Tố Hữu – Chương trình chuẩn, nâng cao.
Tác giả Nguyễn Tuân – Chương trình chuẩn, nâng cao.
b. Về tác giả văn học được trình bày trong phần tiểu dẫn.
Bên cạnh những bài học riêng về một số tác giả xuất sắc, tất cả các bài đọc
văn trong chương trình đều có phần Tiểu dẫn, phần này sẽ giới thiệu những thơng
tin cơ bản về hồn cảnh sáng tác, thể loại có liên quan trực tiếp nhằm gợi ý học
sinh đọc hiểu văn bản. Đặc biệt trong phần tiểu dẫn ln có những thơng tin cơ

bản, cơ đọng nhất về tiểu sử, con người sự nghiệp… của một tác giả văn học.
Tuy nhiên, do thời lượng dạy học chỉ có 02 tiết, trong khi đó nhiều văn bản
rất dài về dung lượng và chứa đựng nhiều lớp lang cần giải mã. Trong khi đó, việc
tìm hiểu về tác giả - tác phẩm (những yếu tố ngoài văn bản) rất quan trọng. Do vậy
địi học giáo viên phải có một cách thức tổ chức tìm hiểu phù hợp, trọng tâm và
hứng thú.


7

II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC PHẦN
TÁC GIẢ TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THPT
1. Đối với bài hoàn chỉnh về tác giả văn học
a) Xác định đúng trọng tâm bài học
Trước hết người giáo viên cần xác định nội dung trọng tâm, cơ bản nhất về
một tác giả văn học dù trong bài học riêng về tác giả hay trong phần tiểu dẫn. Theo
quan điểm của tôi cần đảm bảo ba nội dung sau:
Thứ nhất cần tìm hiểu về Cuộc đời của tác giả văn học
Trong phần Cuộc đời cần nêu lên thông tin về Tên, Hiệu, Bút danh, năm
sinh – năm mất. Trong một số trường hợp giáo viên nên lưu ý, cho học sinh phát
biểu cảm nhận về Hiệu, hoặc bút danh, hoặc có lúc là danh hiệu người đời khen
tặng của tác giả. Bởi Hiệu và bút danh nói lên hồi bão, lí tưởng, mơ ước … của
nhà văn. Ví dụ tìm hiểu về Nguyễn Bỉnh Khiêm cần cho học sinh thể hiện suy nghĩ
về hiệu của ông (Bạch Vân Cư Sĩ) và danh hiệu người đời sau suy tôn (Tuyết
Giang Phu Tử), hoặc khi tìm hiểu tác giả của văn bản “Chí Phèo” cần giải nghĩa
bút danh Nam Cao,…
Tiếp đó cũng trong phần Cuộc đời cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu về Quê
quán, Xuất thân, Thời đại, Những nét chính về đường đời của tác giả. Thực tế cuộc
đời của một tác giả có nhiều những biến cố, thăng trầm, do đó người dạy, người
học chỉ nên nêu lên những thơng tin nào có ảnh hưởng trực tiếp tới con người, tư

tưởng và tài năng của nhà văn. Như cuộc đời Nguyễn Trãi đã phản ánh cả thời kỳ
vừa đau thương vừa huy hoàng, oanh liệt của dân tộc, dạy học về tác giả Nguyễn
Trãi nếu nêu tất cả thông tin về ơng sẽ khơng có thời gian và q sức đối với học
sinh. Sau đó có thể dành thời gian để khái quát một số ý về Con người của nhà văn,
nhà thơ (Khái quát những điểm tiêu biểu, riêng biệt nhất về tâm hồn, cá tính … của
nhà văn)
Tất nhiên trên đây theo tôi chỉ là công thức chung nhất, nếu bài học nào, tác
giả nào cũng liệt kê tất cả những thông tin trên sẽ tạo áp lực kiến thức lớn có thể
gây ra sự căng thẳng cho học sinh. Do vậy tùy từng tác giả, thời lượng chương
trình giáo viên có thể lựa chọn và cho tìm hiểu tại lớp lượng thơng tin phù hợp, cịn
lại có thể hướng dẫn để học sinh u thích sẽ tiếp tục tìm hiểu ở nhà.
Thứ hai cần tìm hiểu về Sự nghiệp văn học.
Trong phần này cần xác định nội dung trọng tâm thứ nhất là Những tác
phẩm chính, cần phân loại các tác phẩm tiểu biểu của tác giả theo thể loại, giai
đoạn sáng tác. Giới thiệu về Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (là tác giả có sáng
tác trên nhiều lĩnh vực) cần phân loại (tương đối) các sáng tác thuộc văn chính
luận, văn chương nghệ thuật, văn thơ tuyên truyền …
Cần lí giải sâu sắc về Quan niệm văn chương của nhà văn, bởi nhiều lúc nó
giúp học sinh hiểu rõ hơn tư tưởng của tác phẩm văn học. Ở một khía cạnh khác nó
soi sáng vẻ đẹp tâm hồn của nhà văn. Về Thạch Lam, giáo viên có thể giới thiệu
với học sinh quan niệm “Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến


8

cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới
thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả
dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”. Từ đó
học sinh có thể thấy được một cây bút tiến bộ, vừa tinh tế trong cảm nhận về cuộc
sống, vừa thực tế trong cái nhìn cuộc đời…

Tiếp đó dưới sự hướng dẫn của giáo viên và đọc sách giáo khoa học sinh
khái quát về Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của các nhà
thơ, nhà văn.
Và thứ ba cần có sự đánh giá chung nhất về về vị trí của tác giả trong lịch
sử văn học qua phần Kết luận.
Trong các nội dung trên, có những nội dung được trình bày cụ thể, chi tiết
trong sách giáo khoa, giáo viên chỉ cần nhắc học sinh đọc và ghi nhớ, nhưng cũng
có những nội dung cần yêu cầu học sinh rèn luyện kỹ năng tổng hợp, suy luận.
Ví dụ phần tiểu sử, đường đời của Nguyễn Du trong bài học về tác giả này
(cả chương trình chuẩn và nâng cao) đã được sách giáo khoa trình bày rất cụ thể,
chi tiết nên giáo viên yêu cầu học sinh tóm lược nhanh trước lớp và ghi nhớ.
Nhưng từ những thơng tin đó giáo viên cần đặt vấn đề để học sinh thấy được điều
sâu sắc hơn ở nhà thơ. Có thể đặt vấn đề: Các yếu tố trên (quê quán, xuất thân, thời
đại, đường đời) đã ảnh hưởng tới con người Nguyễn Du như thế nào? Học sinh sẽ
từ những dữ liệu đã có khái qt được rằng: Xuất thân từ gia đình có truyền thống
văn học đã góp phần hình thành tài năng văn chương; xuất thân trong gia đình
nhiều đời làm quan (quan to) giúp Nguyễn Du hiểu sâu sắc bản chất của giới quan
lại đương thời; “mười năm gió bụi” giúp ơng hiểu cuộc sống người dân lao động
và hình thành ngơn ngữ bình dân trong sáng tác của ơng; …
Giáo viên định hướng ngay từ đầu năm học cho học sinh nhớ những nội
dung trọng tâm như trên và vận dụng vào mỗi tác giả, bài học cụ thể. Dựa vào dàn
ý này học sinh có thể dễ dàng điền các thông tin riêng của mỗi tác giả vào nội dung
tương ứng, nó vừa giúp học sinh ghi nhớ, vừa có thể giúp học sinh trình bày một
cách mạch lạc, có hệ thống thơng tin về tác giả.


9

b) Phát huy tinh thần chủ động, tích cực của mỗi học sinh nhằm tự
chiếm lĩnh lượng thông tin cần thiết

Có thể nói thời đại ngày nay là thời đại của thông tin, chỉ trong thời gian rất
ngắn với sự hỗ trợ của cơng nghệ người ta có thể có được thông tin về mọi tác
phẩm, mọi tác giả văn học lớn. Bên cạnh đó số lượng tài liệu tham khảo dưới các
hình thức rất đa dạng và phong phú như các tạp chí thường kỳ, các cuốn sách tham
khảo, blog, facebook cá nhân … cũng vô cùng lớn học sinh khơng khó để tra cứu
thơng tin q qn, xuất thân, con người, sáng tác, tư tưởng … của nhà văn. Ví dụ
khi ta gõ từ khóa Nam Cao trong trang tìm kiếm Google.com.vn ta sẽ tìm thấy
khoảng 1.320.000 kết quả trong 0.20 giây. Tất yếu bên cạnh những kết quả thiếu
giá trị vẫn có những trang Web có độ tin cậy cao làm cơ sở cho sự tìm hiểu của học
sinh.
Vì vậy trên tinh thần đổi mới, giáo viên cần chú ý phát huy tính chủ động
tích cực, sáng tạo của học sinh. Người giáo có lúc chỉ cần nêu các yêu cầu cơ bản
về nội dung trọng tâm cần đạt của mỗi bài học, gợi ý và yêu cầu học sinh tự đọc
sách giáo khoa, tham khảo thông tin trên mạng Internet và qua một số tài liệu khác
nếu có. Tất nhiên như quan điểm chung về nguyên tắc dạy học, các bài học về tác
giả văn học không nên yêu cầu lượng thông tin quá nhiều, không nên mang tính
hàn lâm, mà phải đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh, phù hợp với đặc thù học
sinh. Bên cạnh đó cũng cần có định hướng để học sinh biết lựa chọn đâu là thông
tin đúng hoặc đâu là thông tin cơ bản cần thiết đối với học sinh.
Và rõ ràng khi tự mình phát hiện, chiếm lĩnh lượng thông tin cần thiết học
sinh sẽ ghi nhớ rất lâu, sẽ tạo được hứng thú tìm hiểu tiếp những bài học tiếp theo.
c) Phát huy vai trò của phương pháp làm việc nhóm
Đổi mới phương pháp khơng chỉ là phát huy tính tích cực chủ động của cá
nhân học sinh mà bên cạnh đó cần làm cho từng cá nhân biết phối hợp với cá nhân
khác để giúp người khác đồng thời là giúp chính mình hồn thiện nhận thức. Vì
vậy giáo viên nên khuyến khích và tổ chức các hình thức làm việc nhóm cho học
sinh, thơng qua đó học sinh sẽ có điều kiện trình bày những kiến thức của mình về
tác giả văn học, những học sinh khác nghe và điều chỉnh. Có thể giao cho mỗi
nhóm tìm hiểu một phương diện nào đó về tác giả và trình bày trước lớp, các nhóm
khác góp ý, giáo viên là nhân tố xúc tác để tạo nên các cuộc tranh luận tích cực

trong giờ học. Có như vậy học sinh sẽ có điều kiện để kiểm nghiệm thơng tin mình
thu thập được có tính chính xác như thế nào, nếu cần sẽ điều chỉnh ra sao. Và tất
yếu được tranh luận học sinh sẽ ghi nhớ rất tốt thông tin.


10

d) Sử dụng đồ dùng, tư liệu học tập
Đổi mới phương pháp dạy học môn văn không thể không gắn với việc sử
dụng đồ dùng dạy học hiện đại. Dạy học các bài đọc văn có thể khó vận dụng các
trang thiết bị nghe nhìn hiện đại. Nhưng ngược lại, trang thiết bị hiện đại, các tư
liệu truyền hình như phóng sự, ký sự, phim tài liệu … lại là công cụ phục vụ đắc
lực cho việc dạy học một tác giả văn học. Chúng ta có hàng loạt tư liệu về Nguyễn
Ái Quốc – Hồ Chí Minh, về Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Xuân
Diệu, Nguyễn Tuân … lựa chọn nội dung, dung lượng hợp lý các tư liệu trên,
người thầy sẽ định hướng cho học sinh một hướng tiếp cận mới đối với tác giả văn
học bên cạnh việc học sinh đọc sách giáo khoa. Và tất yếu những tư liệu này giúp
học sinh dễ tiếp nhận và nhớ lâu hơn nội dung trọng tâm bài học.


11

e) Kể chuyện, kể giai thoại về tác giả văn học
Thực tế cho thấy, những thông tin khô khan không bao giờ làm học sinh
hứng thú. Học sinh có thể học thuộc, có thể trình bày chính xác những mốc thời
gian, những sự kiện hoặc những đánh giá về một tác giả văn học trong các bài
kiểm tra, nhưng nếu nó khơng xuất phát từ sự hứng thú, say mê lượng kiến thức đó
sẽ nhanh chóng bị các em lãng quên. Những giai thoại về Nguyễn Trãi, Nguyễn
Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Bính, Xn Diệu, Nguyễn Tn …
ln được học sinh đón nhận một cách hào hứng, bởi nó phù hợp với tâm lí học

sinh, nó giúp hình thành và tơ đậm thêm lịng u q của học sinh đối với nhà
văn, đối với môn văn học.
Giáo viên cần dành thời gian tìm đọc những giai thoại hay, có ý nghĩa về các
nhà văn, nhà thơ, chính những câu chuyện đó sẽ lơi cuốn học sinh, giúp các em
nhớ lâu hơn về tiểu sử, con người, tính cách… của nhà văn. Cũng từ đó khơng khí
giờ học sẽ nhẹ nhàng và cũng tự nhiên học sinh sẽ yêu thích giờ văn hơn.
f) Tích hợp nội dung dạy học giữa chương trình Ngữ văn các cấp học và
giữa tác phẩm với tư tưởng, tâm hồn của tác giả
Chương trình Ngữ văn THPT được xây dựng trên nguyên tắc đồng tâm, vì
vậy nhiều nội dung của THPT trong đó có nội dung về tác giả văn học đã được dạy
học trong chương trình THCS nay được nhắc lại và củng cố ở mức độ cao hơn.
Giáo viên có thể đặt những câu hỏi gợi mở giúp học sinh nhớ lại kiến thức về một
nhà văn nhà thơ nào đó đã được học trước đây, kết hợp với những thông tin bổ
sung trong bài học để khắc sâu kiến thức.
Cũng như đã nói ở trên tác phẩm và nhà văn có mối quan hệ khăng khít với
nhau, khi đánh giá về một tác giả văn học có lúc cần thiết phải từ nội dung tư
tưởng trong một tác phẩm hoặc một vài tác phẩm để đánh giá về tư tưởng nhà văn.
Ví dụ từ Bình Ngơ đại cáo và Lại dụ Vương Thơng (Thư dụ Vương thơng lẫn nừa)
có thể thấy ngịi bút viết văn chính luận kiệt xuất ở Nguyễn Trãi và tư tưởng Nhân
Nghĩa tiến bộ của ông; từ bài thơ Vội vàng nhắc lại tư tưởng thèm yêu, khát sống,
sống vội vàng, sống cuống quýt ở Xuân Diệu … Đặc biệt đối với những tác giả
khơng có bài học riêng, hoặc không đủ thời lượng dành cho phần tiểu dẫn thao tác
này càng có vai trị quan trọng. Qua tác phẩm Hai đứa trẻ học sinh phải thấy được
tấm lịng u thương, cảm thơng sâu sắc của Thạch Lam đối với những kiếp người
sống mòn mỏi tối tăm, thấy được tấm lịng trân trọng của ơng đối với tâm hồn trẻ
thơ … và cũng phải thấy được nét tinh tế của Thạch Lam trong nghệ thuật tả cảnh,
tả người. Như đã nói ở trên, thao tác này đặc biệt quan trọng đối với những bài học
không đủ thời lượng dành cho phần tiểu dẫn. Sự tích hợp này chính là việc người
thầy đã củng cố, khắc sâu kiến thức về một số đặc điểm quan trọng liên quan đến
nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của các nhà văn nhà thơ.

i) Chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp
Việc hướng dẫn HS chuẩn bị bài trước khi đến lớp đã chứng minh được ích
lợi trong dạy học hiện nay, giúp cho HS được làm việc nhiều hơn, tích cực chủ
động tìm ra kiến thức dưới sự hướng dẫn của GV hơn là thu nhận thông tin từ GV.


12

Trong chiến lược phát triển giáo dục (ban hành kèm theo quyết định 201 2001
QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của thủ tướng chính phủ) ghi rõ ―đổi mới và
hiện đại hoá PPGD dục chuyển tới việc truyền thụ tri thức thụ động thầy giảng trò
ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức.
Dạy cho người học PP tự thu nhận thơng tin một cách có hệ thống và có tư duy
phân tích, tổng hợp phát triển năng lực của mỗi cá nhân, tăng cường tính chủ động
tích cực, tự chủ của HS trong quá trình học tập. Như vậy mục đích của việc đổi
mới và hiện đại hố phương pháp giáo dục là phát huy được vai trò chủ thể, phát
huy được tính tích cực chủ động và khả năng tư duy sáng tạo của HS.
Các yêu cầu khi thực hiện giải pháp đạt hiệu quả trong việc dạy bài Tác giả
văn học, đòi hỏi giáo viên phải đảm bảo những yêu cầu sau: Trước hết: Người
giáo viên phải có niềm đam mê thực sự với mơn học của mình, có kiến thức phong
phú, nắm vững nội dung chương trình, vận dụng kiến thức liên môn… để sử dụng
phương pháp dạy học phù hợp cho từng bài, từng mục. Thứ hai: Giáo viên phải
có kiến thức tin học, sử dụng thành thạo các phần mềm hỗ trợ như phần mềm
Powerpoint. Thứ ba : Giáo viên phải đọc nhiều sách, xem nhiều tư liệu về các tác
giả, phải thường xuyên tích lũy hiểu biết về các tác giả văn học. Quá trình thực
hiện giải pháp cần thực hiện qua các bước:
Bước 1: Giáo viên tìm hiểu, sưu tầm, lựa chọn tư liệu về các tác giả: các yếu
tố về thời đại, quê hương, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác cho phù hợp với nội dụng
bài học. Yêu cầu cơ bản của bước này là: tư liệu phải đảm bào tính chân thực, tính
lịch sử và tính khách quan.

+ Cách tìm tư liệu: Tìm đọc những cuốn sách viết về các tác giả, giai đoạn
văn học mà tác giả đóng góp, khai thác các tư liệu trên các trang truyền hình, thư
viện tư liệu giáo dục trên mạng internet...
+ Xử lý tư liệu: chọn những nội dung phù hợp với nội dung bài dạy, dung
lượng đủ cả thông tin và thời gian.
Bước 2: Nghiên cứu các phương án phù hợp và xây dựng các câu hỏi để
giao cho HS ít nhất trước khi dạy 4 ngày (có thể giao theo nhóm hoặc theo từng cá
nhân, tùy vào nội dung mỗi bài dạy). Ví dụ về “ Hướng dẫn HS chuẩn bị bài trước
khi đến lớp” được tiến hành ở các tiết:
Tác giả Tố Hữu, lớp 12
Ở tiết học này, giáo viên chia lớp thành 2 nhóm và giao nhiệm vụ:
Nhóm 1: Tìm hiểu về các chặng đường thơ Tố Hữu và hệ thống lại kiến thức
đã tìm hiểu được bằng sơ đồ tư duy.
Nhóm 2: Tìm hiểu về phong cách nghệ thuật của nhà thơ và hệ thống lại
kiến thức đã tìm hiểu theo cách thức tùy chọn.
Ngoài ra, mỗi học sinh soạn thêm các câu hỏi trong sách giáo khoa và tìm
hiểu kĩ về các yếu tố thời đại và quê hương của nhà thơ Tố Hữu.
Yêu cầu đối với các nhóm: Các ví dụ minh họa khơng lấy trong sách giáo
khoa mà phải sưu tầm tư liệu ở ngoài.


13

Ví dụ 2: Hướng dẫn HS chuẩn bị bài trước khi đến lớp được tiến hành ở tiết
tác giả Nam Cao, Lớp 11 - Ban cơ bản.
Tác giả Nam Cao, lớp 11
Ở tiết học này, sách giáo khoa dành riêng một tiết học để nghiên cứu về tác
giả mà, giáo viên yêu cầu học sinh tìm hiểu các nội dung sau:
− Tiểu sử của tác giả: thời đại, quê hương, gia đình, cuộc đời riêng
− Sự nghiệp văn học của tác giả: các giai đoạn sáng tác, nội dung của từng

giai đoạn, các tác phẩm tiêu biểu.
− Ngoài ra, mỗi học sinh phải tóm tắt được một tác phẩm và khái quát giá trị
của các tác phẩm đó.
− Đặc điểm phong cách nghệ thuật Nam Cao.
Ví dụ 3: Tác giả Nguyễn Du, lớp 10
Ở tiết học này, sách giáo khoa không dành riêng một tiết học để nghiên cứu
về tác giả mà chỉ cung cấp những nét cơ bản nhất, vì vậy giáo viên yêu cầu học
sinh tìm hiểu các nội dung sau:
− Tiểu sử của tác giả: thời đại, quê hương, gia đình, cuộc đời riêng
− Sự nghiệp văn học của tác giả: các giai đoạn sáng tác, nội dung của t ng
giai đoạn, các tác phẩm tiêu biểu. Ngồi ra, giáo viên chia học sinh lớp thành 3
nhóm: mỗi nhóm chuẩn bị 10 câu hỏi:
− Nhóm 1: các câu hỏi liên quan đến cuộc đời của tác giả.
− Nhóm 2: các câu hỏi liên quan đến các giai đoạn sáng tác.
− Nhóm 3: các câu hỏi liên quan đến phong cách nghệ thuật tác giả.
2. Đối với tác giả văn học được trình bày trong phần tiểu dẫn.
Kiểu bài này chiếm đa số trong chương trình đọc hiểu văn bản văn học. Về cơ bản
chúng ta cũng vận dụng các giải pháp dạy học trong dạng bài hoàn chỉnh về tác
giả văn học đã trình bày ở trên. Tuy nhiên do lượng thời gian có hạn nên việc dạy
học về tác giả văn học nêu trong phần tiểu dẫn giáo viên cần chú ý tập trung các
giải pháp sau:
Thứ nhất, cần chú trọng hoạt động hướng dẫn chuẩn bị bài trước khi đến
lớp. Sau mỗi tiết học; trong giáo án, giáo viên cần làm tốt, làm kĩ khâu này. Đó là
việc hướng dẫn và giao nhiệm vụ cho cá nhân/ nhóm học sinh. Cụ thể là học sinh
phải đọc kĩ phần tiểu dẫn (sách giáo khoa đã trình bày khá ngắn gọn, cô đọng),
nắm các nội dung kiến thức trọng tâm bằng cách đánh dấu hoặc gạch chân các ý
chính liên quan đến thơng tin nhận định về con người, các yếu tố ảnh hưởng đến
sáng tác của nhà văn; đặc điểm phong cách nghệ thuật và vị trí văn học của họ
trong nền văn học dân tộc. Khi lên lớp, ở khâu này, giáo viên sẽ có các phương
pháp dạy học như nêu câu hỏi tái hiện và hỏi học sinh rút ra dấu ấn của tác giả

hoặc rút ra bài học liên hệ, so sánh (tích hợp) đến sáng tác cùng tác giả và tác giả
khác cùng đề tài, trào lưu, xu hướng,...


14

Thứ hai, cần giúp học sinh có kinh nghiệm, kĩ năng giới thiệu tác giả, tác
phẩm và dẫn dắt vào vấn đề cho đề văn nghị luận văn học trong hoạt động kiểm tra
và làm bài thi tốt nghiệp môn Ngữ văn theo yêu cầu "cần đảm bảo" trong đáp án
bài thi của bộ giáo dục (thường đạt tối đa là 0,5 điểm)
Thứ 3: giáo viên phải biết phân bố thời gian hợp lí. Tránh sa đà vào phần tác
giả mà rút ngắn thời gian tiếp nhận từ góc độ tác phẩm. Do vậy việc chú trọng hoạt
động chuẩn bị bài và hoạt động chiếm lĩnh trọng tâm kiến thức về tác giả như đã
nêu trên sẽ là cơ sở thực thi cho việc phân bố thời gian.
III. Kết quả thực hiện
1. Đo lường và thu thập dữ liệu

− Bài kiểm tra trước tác động, giáo viên ra một đề cho hai lớp 11 cùng làm.
− Bài kiểm tra sau tác động, giáo viên ra một đề cho hai lớp 11 cùng làm
− Bài kiểm tra trước tác động, giáo viên ra một đề cho hai lớp 10 cùng làm.
− Bài kiểm tra sau tác động, giáo viên ra một đề cho hai lớp 10 cùng làm
− Tiến hành kiểm tra và chấm bài
− Thời gian tiến hành thực nghiệm theo kế hoạch bộ môn và tăng thêm hai
buổi phụ đạo nhằm đảm bảo độ tin cậy của dữ liệu thu thập và đánh giá có cơ sở
thực tiễn.
2. Phân tích dữ liệu và thảo luận kết quả

* Kết quả bài kiểm tra
Lớp 11:
Điểm trung bình

Giá trị p của Ttest
Mức độ ảnh
hưởng (SMD)

Trước tác động
TN(11A1)
ĐC(11A2)
6.4
6.1
0.183

Sau tác động
TN(11A1) ĐC(11A2)
7.3
6.7
0.0014
0.95


15

Nhận xét:
− Qua kết quả thực nghiệm cho thấy sự tiến bộ của học sinh trước và sau tác
động. Kết quả ở lớp thực nghiệm (TN) đạt kết quả cao hơn kết quả ở lớp đối chứng
(ĐC).
− Việc sử dụng các giải pháp như đã nêu trên để dạy học bài/ phần tác giả
văn học cho học sinh mang lại kết quả bước đầu đáng khích lệ.
Lớp 10
Có thể thấy phần nào hiệu quả của việc vận dụng đề tài qua bảng số liệu
thống kê kết quả khảo sát (Bài kiểm tra 15 phút số 5 – Học kỳ 2 lớp 10.

Lớp 10A8 – Không vận dụng
Điểm 5

Điểm 6

Điểm 7

Điểm 8

TỔNG

47

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

9


19.1

11

23.4

17

40.4

8

17.0

Lớp 10A9 – Có vận dụng
TỔN
G

45

Điểm 5

Điểm 6

Điểm 7

Điểm 8

SL


TL%

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

0

0.0

8

17.8

24

48.9

15

33.3


Nhận xét


16

- Theo thống kê trên lớp 10A9 mặc dù không phải là lớp nâng cao mơn Ngữ
văn nhưng có áp dụng một số cách thức mới trong việc dạy học phần tác giả đã có
kết quả đánh giá tốt hơn lớp 10A8 (hai lớp này sử dụng cùng một đề kiểm tra).
- Nhìn chung việc vận dụng một số cách thức, kỹ thật dạy học như trên đã
mang lại hiệu quả nhất định. Học sinh có chú ý nhiều hơn tới giờ học văn và bài
học về tác giả văn học. Học sinh cũng đã đảm bảo những kiến thức cơ bản nhất
định và có kỹ năng thuyết minh về tác giả đó.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

I. Kết luận
1. Qua nghiên cứu chúng ta thấy, việc thực hiện phối kết hợp các cách thức,
phương pháp dạy học bài kiểu bài về tác giả văn học như trên là điều rất cần thiết.
Đây là các phương pháp dạy học tiên tiến, phù hợp với nhà trường hiện đại và chủ
trương tích cực hoá hoạt động của học sinh trong học tập, làm cho các em u
thích mơn Ngữ văn, chăm học và từ đó nâng cao kết quả học tập. Đây là những
giải pháp phù hợp với xu thế giáo dục của thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng là học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để sống với chất
lượng cao.
2. Các giải pháp trên về cơ bản đem lại một số ý nghĩa như:
Thứ nhất: Góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học.
Thứ hai: Rèn luyện cho các em kỹ năng tìm hiểu, phân tích, đánh giá, xử lí
các thơng tin hợp lí, sáng tạo.
Thứ ba: Tạo điều kiện để các em nêu lên những suy nghĩ, những cảm nhận

của mình về các tác giả, tác phẩm, nhân vật hoặc bàn luận vấn đề văn học để t đó
các em tự tin hơn trong q trình lĩnh hội tri thức.
3. Nhìn chung, khơng khí học tập rất sơi nổi, hào hứng. Các em cho rằng với
hình thức dạy học này không những được quan sát mà cịn được nói lên những suy
nghĩ, những nhận xét của chính mình... Vì thế, giờ học Ngữ văn nói chung và bài
tác giả văn học nói riêng khơng cịn nhàm chán, tẻ nhạt. Sau những giờ học như
thế, có nhiều em đã gặp tôi để tâm sự: Chúng em rất thích học những bài học Ngữ
văn bằng hình thức này. Các em đã chủ động, tham gia tích cực hơn vào quá trình
dạy - học. Nhiều em hăng say xây dựng bài, thảo luận sôi nổi những vấn đề mà
giáo viên đưa ra.
4. Cách đây khoảng 6 thế kỷ, Hoàng Đức Lương trong bài “Tựa Trích diễm
thi tập” đã đau xót về một thực trạng thơ văn khơng lưu truyền hết ở trên đời. Thế
kỷ XVIII Nguyễn Du cũng nêu lên câu hỏi đau đớn “Bất tri tam bách du niên hậu –
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”. Nhưng lúc bấy giờ do chiến tranh, loạn lạc, do
chính sách khắt khe của triều đình, do định kiến của xã hội phong kiến. Ngày nay,
cả dân tộc đang trên con đường đổi mới, trong đó có đổi mới căn bản và toàn diện
nền giáo dục. Chúng ta mong rằng trong thời gian không xa, môn Ngữ văn (một


17

thành tố quan trọng của văn hóa nước nhà) lại được các thế hệ học sinh trân trọng
như trước. Chúng ta không phải lo lắng về một người học sinh THPT nào đó khơng
thể giới thiệu được một tác giả, một tác phẩm văn học tiêu biểu của nước nhà.
5. Mặc dù có thể cịn một số hạn chế, nhưng tôi đã mạnh dạn thử nghiệm đề
tài này ở một số lớp của ba khối trong các năm học từ 2017- 2019 và bước đầu
thấy được hiệu quả tích cực.
Trong thời gian tới tôi sẽ tiếp tục tham khảo ở đồng nghiệp, ở các nhà
nghiên cứu có uy tín để hồn thiện hơn nữa đề tài, góp phần vào việc đổi mới
phương pháp, nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT nói

chung trong đó có kiểu bài dạy học về tác giả.
II. Kiến nghị:
1. Đối vối giáo viên
− Cần hiểu lứa tuổi học sinh bậc THPT tuy đã có vốn kiến thức văn học và
đời sống nhất định nhưng các em vẫn chịu ảnh hưởng về kiến thức và kĩ năng của
giáo viên sâu sắc; các em hồn nhiên và hăng hái tham gia vào giải quyết vấn đề
giáo viên đặt ra và dễ dàng tin vào những kết quả đạt được dưới sự hướng dẫn của
giáo viên. Vì thế giáo viên phải hết sức thận trọng khi chọn vấn đề, nêu vấn đề sao
cho vừa sức với tất cả học sinh trong lớp từ yếu – trung bình – khá - giỏi để các
em khơng chán nản và ỉ lại vào bạn khác, có hứng thú, tinh thần trách nhiệm trong
học tập. Bởi vậy phải đặt vấn đề từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp
đến cao. Muốn làm được điều đó địi hỏi người giáo viên phải am hiểu tác giả, tác
phẩm, am hiểu tâm lí lứa tuổi, am hiểu khả năng của học sinh mình.
− Trong quá trình dạy bài Tác giả văn học giáo viên cần soạn bài chi tiết và
hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài trước khi đến lớp, kết hợp với các phương pháp
dạy học khác để giờ học đạt hiệu quả cao.
2. Đối với học sinh:
− Soạn bài chi tiết. Trong giờ học cần chú ý, hăng hái tích cực tham gia giải
quyết vấn đề giáo viên đặt ra.
3 . Đối với tổ, nhóm chuyên môn: Đề nghị xây dựng các chuyên đề áp dụng
hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài trước khi đến lớp học bài Tác giả văn học để rút
kinh nghiệm làm cho giờ dạy đạt kết quả cao.
4. Đề nghị Sở Giáo dục và Đào tạo Quảng Trị nghiên cứu lại phân phối
chương trình Ngữ văn lớp 11, tập 1,2 điều chỉnh lại thời lượng cho các bài
học "Hai đứa trẻ", "Chữ người tử tù", "Hạnh phúc của một tang gia", và một số bài
thơ trong phong trào thơ mới (1932 - 1945); một số văn bản lớp 12 như "Vơ chồng
A Phủ", "Rừng xà nu", "Chiếc thuyền ngoài xa" để giáo viên và học sinh có thêm
thời gian trao đổi một số vấn đề về bài học nói chung và có phần thời lượng nhất
định trao đổi thêm về tác giả, những cây bút tiêu biểu của văn học hiện đại Việt
Nam.



18

PHẦN PHỤ LỤC
GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM
Tiết:

(Theo PPCT)
TRUYỆN KIỀU
(Phần 1 Tác giả Nguyễn Du)
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức: Học sinh nắm được một số phương diện về tiểu sử tác giả (hoàn
cảnh xã hội, những nhân tố đời tư) góp phần lí giải sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du;
những điểm chính yếu trong sự nghiệp sáng tác và một số đặc điểm cơ bản về nội dung
nghệ thuật Truyện Kiều của Nguyễn Du.
2. Kỹ năng: Tổng hợp, khái quát thông tin về tác giả văn học.
3. Thái độ: Trân trọng tài năng, nhân cách của Nguyễn Du

II. PHƯƠNG PHÁP & KTDH
1. Phương pháp: Phân tích, nêu vấn đề, bình giảng, câu hỏi truy vấn, …
2. Kĩ thuật dạy học: Khăn trải bàn, đóng vai, thuyết minh,…
III. CHUẨN BỊ CỦA GV & HS
1. Giáo viên: Sgk, sgv, thiết kế bài dạy học, hình ảnh về: tác giả, về quê
Nghi Xuân – Hà Tỉnh, về nhà lưu niệm Nguyễn Du; máy vi tính, …
2. Học sinh: Soạn và chuẩn bị bài theo phân công và theo “Hướng dẫn học
bài”
IV. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Hoạt động khởi động

- Học sinh: Thực hiện trị chơi ơ chữ để tìm ra từ khóa, tên tác giả Nguyễn Du
- Giáo viên: Dẫn vào bài học bằng một đoạn thơ trong bài “ Kính gửi cụ Nguyễn
Du” của Tố Hữu.

2. Hoạt động hình thành kiến thức
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO
VIÊN VÀ HỌC SINH
Thao tác 1: HS xem tư liệu (Giáo
viên giới thiệu băng hình tư liệu
về quê quán, xuất thân, cuộc đời
Nguyễn Du – nội dung tương tự
sách giáo khoa nhưng đã được
điện ảnh hóa)
Thao tác 2: Học sinh kết hợp

YÊU CẦU CẦN ĐẠT

I. Cuộc đời
1. Tiểu sử
Nguyễn Du (23/11/1765 – 16/9/1820); tên chữ là
Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.
- Quê quán: Làng Tiên Điền, Nghi Xn, Hà
Tĩnh; ngồi ra trong ơng có dấu ấn văn hóa của
nhiều vùng đất khác (Bắc Ninh q mẹ, Thái
Bình quê vợ …)


19

thơng tin trong SGK phát biểu.

Trình bày những nét tiêu biểu về
tiểu sử của Nguyễn Du?
Giáo viên có thể giới thiệu:
Bao giờ ngàn Hống hết cây –
Sông Rum hết nước, họ này kết
quan.
Giới thiệu tên một số người trong
gia tộc Nguyễn Du có tài năng
văn chương.
Nêu một số sự kiện tiêu biểu
trong đường đời ảnh hưởng tới tư
tưởng, con người và tài năng văn
chương ở Nguyễn Du?

HĐ 3: Giáo viên nêu vấn đề, các
nhóm thảo luận phát biểu
Các yếu tố trên đã ảnh hưởng tới
con người Nguyễn Du như thế
nào?
Giáo viên nếu có thời gian kể
một số giai thoại về Nguyễn Du
(Thời trẻ tuổi, khi qua đời…)
Hoạt động 4:
Trình bày một số sáng tác chữ
Hán tiêu biểu của Nguyễn Du?
- học sinh trình bày sơ đồ
Trên cơ sở chuẩn bị của học sinh,
giáo viên nêu vấn đề bàn luận
Trong các tác phẩm đó, Bắc hành
tạp lục được xem là đặc sắc nhất,

trình bày nội dung của tập thơ,
lấy dẫn chứng minh họa?

- Xuất thân: trong một gia đình đại quý tộc,
nhiều đời làm quan và nhiều người sáng tác văn
chương.
- Thời đại: Biến động của xã hội đưa Nguyễn Du
từ chỗ con em đại gia đình đại quý tộc phong
kiến đến chỗ chấp nhận cuộc sống của anh đồ
nghèo.
- Đường đời: Thời thơ ấu và thanh niên: sống
sung túc và hào hoa ở Thăng Long trong nhà anh
trai Nguyễn Khản. Từng đỗ Tam trường.
Mười năm gió bụi: lang thang ở quê vợ, rồi quê
hương trong nghèo túng.
Làm quan bất đắc dĩ: dưới triều Nguyễn Gia
Long (Tham tri bộ Lễ, Cai bạ Quảng Bình,
Chánh sứ sang Trung Quốc), ốm và mất ở Huế
ngày 10/8/1820.
2. Con người
Kết tinh tinh hoa văn hóa của nhiều vùng đất.
Có cái nhìn sâu sắc về bản chất của giới quan lại
quý tộc và đời sống nhân dân lao động.
Mang trong mình nhiều suy ngẫm về xã hội, thân
phận con người.
Có sự kết hợp hài hịa giữa vốn văn hóa, ngơn
ngữ bác học với văn hóa, ngơn ngữ dân gian.
II Sự nghiệp sáng tác
1. Các sáng tác chính
Phong phú và đồ sộ gồm: văn thơ chữ Hán và

chữ Nôm
a) Sáng tác bằng chữ Hán: 249 bài, ba tập
- Thanh Hiên thi tập (78 bài) – trước thời làm
quan
- Nam trung tạp ngâm (40bài) – làm quan ở Huế,
Quảng Bình.
-Bắc hành tạp lục (131 bài) – trong thời gian đi
sứ Trung Quốc
*Nội dung của Bắc hành tạp lục
+Phê phán chế độ Phong kiến Trung Hoa chà đạp
lên quyền sống của con người.


20

Những sáng tác tiêu biểu bằng
chữ Nôm?
Nhớ lại kiến thức đã học trong
chương trình THCS về tác giả
Nguyễn Du và Truyện Kiều trình
bày:
+ Nguồn gốc và sự sáng tạo của
Nguyễn Du trong Truyện Kiều
+ Giá trị nhân đạo của tác phẩm
xuất phát từ đâu ?
+ Tại sao nói tác phẩm mang tính
chất tố cáo sâu sắc về xã hội lú
bấy giờ ?

Khái quát một số giá trị của văn

chiêu hồn?

Hoạt động 5:
Đặc điểm chính về nội dung
trong thơ văn Nguyễn Du?
Em hiểu sao với nhận định nội
dung sáng tác của Nguyễn Du đề
cao xúc cảm, đề cao chữ tình?

Thơ Nguyễn Du thường có tính
chất triết lí, chỉ ra tính triết lí
trong thơ Nguyễn Du về con
người và xã hội?
Giáo viên có thể nêu ví dụ:

+Ca ngợi, đồng cảm với những anh hùng nghệ sĩ
tài hoa, cao thượng Trung Hoa (Đỗ Phủ, Nhạc
Phi).
+Cảm động với những thân phận nghèo khổ,
người phụ nữ tài hoa bạc mệnh (Độc Tiểu Thanh
kí, Sở kiến hành).
b) Sáng tác bằng chữ Nôm:
*Truyện Kiều
Nguồn gốc:
Dựa vào Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm
Tài Nhân – (Đoạn trường tân thanh, 3254 câu thơ
lục bát) từ tiểu thuyết chương hồi bằng văn xuôi
c.Hán
Nguyễn Du sáng tạo lại mang những điều day
dứt trăn trở mà ông đã được chứng kiến của xã

hội và con người
Nội dung
+ Vận mệnh con người trong xã hội phong kiến
bất công, tàn bạo
+ Khát vọng tình u đơi lứa.
+ Bản cáo trạng đanh thép xã hội phong kiến đã
chà đạp lên quyền sống, tự do hạnh phúc của con
người đặcbiệt là người phụ nữ.
+ Nguyễn Du đã tái hiện sâu sắc hiện thực cuộc
sống.
*Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh)
Viết bằng thể thơ song thất lục bát
Thể hiện tấm lòng nhân ái mênh mông của nhà
thơ hướng tới những linh hồn bơ vơ, không nơi
tựa nương, nhất là phụ nữ và trẻ em trong ngày lễ
Vu Lan (rằm tháng bảy hằng năm ở Việt Nam)
2. Một vài đặc điểm về nội dung và nghệ thuật
thơ văn Nguyễn Du.
a. Nội dung
– Thơ văn Nguyễn Du coi trọng Chữ tình. Đó là:
+ Tình đời, tình người tha thiết.
+ Tấm lịng cảm thơng sâu sắc của tác giả đối với
cuộc sống và con người (những con người nhỏ
bé, những số phận bất hạnh, những phụ nữ tài


21

VD: Số phận của người phụ nữ
“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời
chung”
(Đạm Tiên, Thuý Kiều, là Tiểu
Thanh, là những người mù hát
rong, những ca nhi, kĩ nữ…)
(Phản chiêu hồn, Sở kiến hành,
Truyện Kiều…).

Đặc điểm chính về nghệ thuật
trong thơ văn Nguyễn Du?
Học sinh trình bày và chứng
minh qua TK

Hoạt động 6:
Giáo viên nêu vấn đề, hs đánh
giá về vị trí của Nguyễn Du
trong lịch sử văn học dân tộc?

hoa bạc mệnh).
– Nguyễn Du thường triết lí về số phận con
người trong đó nổi bật thân phận người phụ nữ
– Khái quát bản chất tàn bạo của chế độ phong
kiến, bọn vua chúa tàn bạo, bất công chà đạp
quyền sống con người, dù là ở Việt Nam hay
Trung Quốc.
– Là người đầu tiên đặt vấn đề về những người
phụ nữ hồng nhan đa truân, tài hoa bạc mệnh với
tấm lịng và cái nhìn nhân đạo sâu sắc.
– Đề cao quyền sống con người, đồng cảm và
ngợi ca tình u lứa đơi tự do,

– Khát vọng tự do và hạnh phúc của con người
(mối tình Kiều – Kim, về nhân vật Từ Hải).
b. Nghệ thuật:
- Học vấn uyên bác, thành công trong nhiều thể
loại thơ ca: ngữ ngôn, thất ngôn, ca, hành.
- Thơ lục bát, song thất lục bát chữ Nôm lên đến
tuyệt đỉnh thi ca cổ trung đại.
- Tinh hoa ngơn ngữ bình dân và bác học đã kết
tụ nơi thiên tài Nguyễn Du – nhà phân tích tâm lí
bậc nhất.
III. Kết luận
Là nhà thơ nhân đạo tiêu biểu (có con mắt nhìn
thấu sáu cõi…)
Đóng góp to lớn cho văn học trên nhiều phương
diện, đặc biệt đưa thơ ca tiếng Việt phát triển đến
đỉnh cao.
Xứng đáng là thiên tài văn học, danh nhân văn
hóa thế giới.

3. Hoạt động tổng kết, luyện tập.
– Kiến thức cơ bản cần đạt: tiểu sử, con người và sự nghiệp văn học của
Nguyễn Du.
– Viết đoạn văn khoảng 15 dòng thể hiện cảm nhận của bản thân về tác giả
Nguyễn Du; Rèn cách tiếp cận một Danh nhân văn hóa- một nhà thơ lớn của dân
tộc bằng 1 đề cương:
+ Những yếu tố làm nên một thiên tài.
+ Sự nghiệp sáng tác.

+ Vị trí trong nền văn hóa, văn học dân tộc và nhân loại.



22

4. Hoạt động hướng dẫn tự học và chuẩn bị bài.
- hdth: Sưu tầm về tranh ảnh Nguyễn Du và Truyện Kiều; kể lại TK; sưu
tầm những giai thoại về ND và TK.
- hdcbb: Giao việc nhóm.
ĐỀ KIỂM TRA 15 PHÚT, LỚP 10
1. Nguyễn Du đã dựa vào những yếu tố nào trong Kim Vân Kiều truyện
của Thanh Tâm Tài Nhân để sáng tạo nên Truyện Kiều?
A. Cốt truyện và nhân vật.
B. Nguyên tắc xây dựng nhân vật.
C. Thể loại.
D. Nội dung.
2. Dịng nào nói khơng đúng về tác giả Nguyễn Du?
A. Từ năm 1789, Nguyễn Du rơi vào cuộc sống khó khăn gian khổ hơn chục
năm trước khi ra làm quan cho nhà Nguyễn.
B. Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài) và được tập ấm
nhận một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên.
C. Năm 1813, Nguyễn Du được thăng làm Học sĩ điện Cần Chánh và được
cử làm chánh sứ đi tuế cống Trung Quốc.
D. Thời thơ ấu và niên thiếu, Nguyễn Du sống tại Thăng Long trong một gia
đình nhà nho nghèo.
3. Câu nào nói khơng đúng về ảnh hưởng của hồn cảnh xã hội và các
nhân tố thuộc cuộc đời riêng đối với sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du?
A. Sinh ra trong một thời đại lịch sử đầy biến động, cùng với những thăng
trầm trong cuộc sống cá nhân, Nguyễn Du đã sớm thể hiện chí khí, hồi bão của
mình về một sự nghiệp anh hùng và điều đó đã ghi dấu ấn đậm nét trong các sáng
tác của ông.
B. Nguyễn Du từng được may mắn tiếp nhận truyền thống văn hóa của nhiều

vùng quê, đất nước khác nhau.
C. Nguyễn Du từng có nhiều điều kiện thuận lợi để dùi mài kinh sử, trải
nghiệm trong mơi trường q tộc, hiểu biết cuộc sống phong lưu.
D. Nguyễn Du từng trải nghiệm cuộc sống đầy khó khăn, gian khổ hàng
chục năm trước khi làm quan với nhà Nguyễn.
4. Dòng nào dưới đây nhận xét chưa đúng về những sáng tạo của
Nguyễn Du trong Truyện Kiều?
A. Ngôn ngữ trong sáng, giàu sức biểu cảm.
B. Khả năng vận dụng thể thơ lục bát một cách rất điêu luyện.


23

C. Sáng tạo cốt truyện li kì, hấp dẫn.
D. Nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả nhân vật tài tình.
5. Dịng nào khái qt khơng đúng về nội dung, chủ đề các bài thơ
Nguyễn Du viết khi đi sứ Trung Quốc?
A. Cảm thông với những thân phận bé nhỏ dưới đáy xã hội bị đọa đày, hắt hủi.
B. Thể hiện lòng tự hào về truyền thống dân tộc đồng thời khẳng định vị thế
của dân tộc ta trước triều đình phong kiến phương Bắc.
C. Phê phán xã hội phong kiến chà đạp lên con người qua "những điều trông
thấy".
D. Ca ngợi, đồng cảm với các nhân cách cao thượng và phê phán những
nhân vật phản diện khi "vịnh sử".
6. Sự đánh giá nào không phù hợp với sự nghiệp văn học của Nguyễn Du?
A. Nguyễn Du là một bậc thầy về ngôn từ và là người đã sáng tạo ra nhiều
thể thơ độc đáo.
B. Nguyễn Du là nhà thơ có vị trí hàng đầu trong văn học dân tộc.
C. Nguyễn Du là nhà thơ có khuynh hướng hiện thực sâu sắc.
D. Nguyễn Du là nhà thơ nhân đạo lỗi lạc có tấm lịng thương người sâu sắc,

bao dung.
7. Dịng nào sau đây khơng nói về giá trị tư tưởng của tác phẩm Truyện
Kiều?
A. Truyện Kiều là bài ca về tình u tự do và ước mơ cơng lí.
B. Truyện Kiều là bản cáo trạng đanh thép đối với các thế lực đen tối.
C. Truyện Kiều là tiếng khóc cho số phận con người.
D. Truyện Kiều thể hiện tình yêu thiên nhiên và niềm niềm say mê với
những phong cảnh của non sông, đất nước của tác giả.
8. Tên chữ của Nguyễn Du là
A. Bạch Vân.
B. Thanh Hiên.
C. Ức Trai.
D. Tố Như.
9. Truyện Kiều giống tác phẩm nào dưới đây về mặt văn tự?
A. Độc Tiểu Thanh kí.
B. Phản chiêu hồn.
C. Văn tế thập loại chúng sinh.
D. Long thành cầm giả ca.


24

10. Đâu là biểu hiện mới mẻ, là đóng góp đặc sắc của Nguyễn Du cho
chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại Việt Nam?
A. Có tấm lịng nhân ái bao la, u thương cả mn lồi khơng kể địa vị,
đẳng cấp, dân tộc.
B. Có thái độ trân trọng, đề cao những giá trị tinh thần và những chủ thể
sáng tạo nên những giá trị tinh thần ấy.
C. Thể hiện lịng thương cảm, xót xa cho những số phận bất hạnh trong xã
hội, nhất là những con người nhỏ bé bị trà đạp, vùi dập tàn nhẫn.

D. Ngợi ca hạnh phúc lứa đơi, tình u tự do vượt qua những rào cản của lễ
giáo phong kiến.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hướng Hóa, ngày 05 tháng 7 năm 2020
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.

Lương Thị Kim Khánh

TÀI LIỆU THAM KHẢO


25
1. Sách giáo khoa - Sách giáo viên Ngữ Văn 10 - NXB Giáo dục
2. Sách giáo khoa – Sách giáo viên Ngữ văn 11 – NXB Giáo dục

3. Tài liệu tập huấn Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định
hướng phát triển năng lực học sinh, môn Ngữ Văn (2014), Hà Nội.
4. Tài liệu tập huấn về Nghiên cứu KHSPUD
5. Nhà văn Việt Nam hiện đại – Chân dung phong cách, Nguyễn Đăng Mạnh, NXB
văn học, 2003
6. Dovanhieu. bài viết “Một số hướng tiếp nhận
tác phẩm văn học trong dạy học văn”
7. Sách giáo khoa Ngữ văn tập 1 và tập 2 của các lớp 10,11 và 12 (cơ bản và nâng
cao)

MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU......................................................... Error: Reference source not found
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................2


×