Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Sử dụng và khai thác kênh hình trong SGK đ63 dạy kiểu bài Địa lý tự nhiên ở môn Địa lý 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.83 KB, 6 trang )


PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI LỘC
TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN
-----------------***------------------
CHUYÊN ĐỀ
SỬ DỤNG VÀ KHAI THÁC KÊNH HÌNH
TRONG SÁCH GIÁO KHOA ĐỂ DẠY
KIỂU BÀI ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN
Ở MÔN ĐỊA LÍ 7
TỔ: SỬ - ĐỊA – ANH
Tháng 01 năm 2010
SỬ DỤNG VÀ KHAI THÁC KÊNH HÌNH
TRONG SÁCH GIÁO KHOA ĐỂ DẠY KIỂU BÀI
ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN Ở MÔN ĐỊA LÍ 7
I/ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong dạy học địa lí, kênh hình có chức năng vừa là phương tiện trực
quan, vừa là nguồn tri thức địa lí quan trọng đối với học sinh. Kênh hình không
chỉ giúp học sinh nhận thức các sự vật, hiện tượng địa lí một cách thuận lợi hơn,
sinh động hơn mà còn là nguồn tri thức để HS khai thác, tìm tòi phát hiện ra
những kiến thức địa lí mới ẩn trong kênh hình. Những kiến thức này chỉ có được
khi học sinh biết kết hợp những kiến thức địa lí đã có với kĩ năng khai thác kênh
hình.
Qua thực tế cho thấy, HS nếu chỉ có nghe thôi thì lưu giữ được 20% kiến
thức , viết chép thì nhớ được 30%, còn kết hợp cả nghe lẫn nhìn thì mức độ nhớ
tăng lên đến 50%. Nếu HS tự trình bày được thì lưu giữ được 80% kiến thức.
Bởi vì các giác quan có vai trò quan trọng trong việc học và lưu giữ kiến thức:
Tôi nghe - tôi quên.
Tôi nhìn - tôi nhớ.
Tôi làm - tôi hiểu.
Việc sử dụng và khai thác kênh hình trong dạy học địa lí không những có
vai trò quan trọng trong việc khai thác kiến thức ở các bài học lí thuyết mà nó


còn đặc biệt quan trọng hơn đối với những bài học thực hành. Qua những bài
thực hành đã tăng cường tính thực tiễn và kĩ năng thực hành, khắc phục được
khuynh hướng “hàn lâm hoá” trong việc học địa lí trước đây.
Trên cơ sở lí luận và thực tiễn đã nêu, nhóm Sử- Địa trường THCS Lê
Quý Đôn chúng tôi đã chọn chuyên đề này.
II/VAI TRÒ CỦA KÊNH HÌNH TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ:
Kênh hình là trợ thủ đắc lực giúp GV thực hiện tốt nguyên tắc thống nhất
giữa tính cụ thể và trừu tượng trong quá trình dạy học. Nó tạo khả năng cung cấp
cho HS thông tin đầy đủ hơn và chính xác hơn, đặc biệt là mang tính trực quan
về hiện tượng cần nghiên cứu.
Việc sử dụng kênh hình góp phần tích cực trước tiên là làm cho HS dễ tiếp
thu trong quá trình nhận thức, sau đó là giáo dục thẩm mĩ cho các em. Một hình
vẽ đẹp, một mô hình cân đối, gam màu hợp lí...đều tạo nên những rung cảm đa
dạng trong tâm hồn trẻ thơ. Kênh hình giúp cho nhận thức cảm tính được nhanh
chóng, đúng bản chất ở nhiều góc cạnh khác nhau. Thông qua các kênh hình và
nghệ thuât biểu diễn của giáo viên sẽ góp phần nâng cao hứng thú trong học tập,
tập trung mạnh mẽ chú ý vào bài học của học sinh.
Ngoài việc thể hiện tính cụ thể, tính trừu tượng các kênh hình còn góp
phần mạnh mẽ vào việc cải tiến phương pháp dạy học truyền thống thông qua sử
dụng chúng đúng lúc, đúng cách, xen kẽ vào bài giảng.
Như vậy, kênh hình trong sách giáo khoa có vai trò quan trọng trong việc
nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học. Ngạn ngữ có câu: “Trăm nghe không
bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm.”
III/ NGUYÊN TẮC TRONG SỬ DỤNG VÀ KHAI THÁC KÊNH HÌNH:
1/ Sử dụng đúng lúc:
-Sử dụng kênh hình vào lúc cần thiết, lúc HS mong muốn được quan sát,
trong trạng thái tâm lí thuận lợi nhất.
-Kênh hình xuất hiện đúng lúc nội dung và phương pháp dạy học cần đến
nó.
-Tránh đưa một lúc nhiều kênh hình.

2/ Sử dụng đúng chỗ:
-Tìm vị trí để giới thiệu kênh hình trên lớp hợp lí nhất, giúp HS có thể sử
dụng nhiều giác quan nhất, tiếp xúc với phương tiện một cách đồng đều ở mọi vị
trí trong lớp.
-Đảm bảo cho toàn lớp có thể quan sát kênh hình một cách rõ ràng.
-Đảm bảo không làm phân tán tư tưởng của HS khi tiến hành các hoạt
động học tập tiếp theo.
3/ Sử dụng đủ cường độ:
-Mỗi loại kênh hình có mức độ sử dụng tại lớp khác nhau.Nếu kéo dài việc
sử dụng một loại hoặc lặp đi lặp lại nhiều lần trong một tiết học, hiệu quả của
chúng sẽ giảm sút.
-Tránh sử dụng nhiều loại phương tiện khác nhau trong một tiết học.
IV/ YÊU CẦU CỦA VIỆC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH:
-Kênh hình phải được sử dụng có hiệu quả cao, tập trung vào viêc sử dụng
các kênh hình như một nguồn kiến thức, hạn chế dùng chúng theo cách minh hoạ
cho kiến thức.
-Giáo viên cần có kế hoạch chuẩn bị trước các kênh hình. Nghiên cứu kĩ
các kênh hình để hiểu rõ nội dung, tác dụng của từng loại kênh hình, tránh tình
trạng khi lên lớp mới cùng HS tiếp xúc với kênh hình.
-Cần lựa chọn các nội dung mang tính thiết thực đối với nội dung bài học,
đồng thời sử dụng tối đa các nội dung đã được thể hiện trên mỗi kênh hình.
-Khi soạn bài cũng như khi lên lớp GV cần phải xây dựng được hệ thống
câu hỏi, bài tập tương đối chuẩn xác rõ ràng để HS làm việc với các loại kênh
hình nhằm lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng địa lí.
-GV cần giúp HS nắm được trình tự các bước làm việc với từng loại
phương tiện để tìm kiến thức, rèn luyện kĩ năng, phát triển tư duy.
V/ PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC HỌC SINH KHAI THÁC KÊNH HÌNH
TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ:
1/Vai trò, ý nghĩa của bản đồ,lược đồ:
-Bản đồ, lược đồ là phương tiện trực quan, một nguồn kiến thức địa lí

quan trọng, nó giống như một khung cốt mà tất cả các kiến thức địa lí đều đưa
vào đấy. Nhiều nhà khoa học và giảng dạy địa lí đã coi bản đồ giáo khoa là
“cuốn sách thứ hai”. Do đặc điểm của các đối tượng, sự vật địa lí được trải rộng
trong không gian. Giáo viên không thể dẫn HS đến trực tiếp quan sát được, vì
vậy phải quan sát trên bản đồ,lược đồ.
-Dựa vào bản đồ,lược đồ, GV có thể nêu ra những vấn đề cho HS suy nghĩ
nhận thức, phát triển tư duy địa lí và khai thác đặc trưng quan trọng của địa lí, tư
duy gắn liền với lãnh thổ xét đoán dựa trên cơ sở bản đồ.
2/ Các bước thực hiện:
- Bước 1: Đọc tên bản đồ, lược đồ để biết được nội dung:
Ví dụ: Trong tiết 29, bài 26 “Thiên nhiên châu Phi” GV giới thiệu lược đồ
H.26.1: “Lược đồ tự nhiên châu Phi”.
-Bước 2: Đọc bảng chú giải để biết cách thể hiện nội dung của bản
đồ,lược đồ.
Ví dụ: Trong tiết 29, bài 26 “Thiên nhiên châu Phi” GV hướng dẫn HS
đọc bảng chú giải để biết trên lược đồ những mũi tên màu đỏ và những mũi tên
màu xanh thể hiện trên lược đồ là các dòng biển nóng và các dòng biển lạnh.
Hoặc đọc bảng thang màu về độ cao và biết được trên lược có biểu hiện
độ cao của địa hình.
Hoặc đọc các kí hiệu khoáng sản, để biết được trên lược đồ có biểu hiện
các khoáng sản chính của châu Phi
-Bước 3: Căn cứ vào bảng chú giải để xác định các đối tượng địa lí trên
bản đồ.
Ví dụ: Trong tiết 29, bài 26: “Thiên nhiên châu Phi” GV hướng dẫn HS
căn cứ vào bảng chú giải để xác định các dòng biển nóng và các dòng biển lạnh
chảy ven bờ biển châu Phi.
Hoặc căn cứ vào từng bậc màu HS biết được ở châu Phi có những dạng
địa hình nào, dạng địa hình nào là chủ yếu.
Hoặc căn cứ vào kí hiệu các khoáng sản, HS biết được ở châu Phi có
những loại khoáng sản chính nào.

-Bước 4: Liên kết các kí hiệu, xác lập mối quan hệ địa lí để nêu đặc điểm
của đối tượng, giải thích đặc điểm và sự phân bố.
Ví dụ: Trong tiết 29 bài 26: “Thiên nhiên châu Phi” GV cho HS quan sát
hình 26.1 và thấy được đường Xích đạo chạy ngang qua gần giữa châu lục, chí
tuyến Bắc chạy qua phần phía bắc, chí tuyến Nam chạy qua phần phía nam của
châu lục, từ đó làm cho đại bộ phận diện tích châu Phi nằm giữa 2 chí tuyến nên
phần lớn lãnh thổ châu Phi thuộc môi trường đới nóng. Vì thế châu Phi có khí
hậu nóng quanh năm.
Hoặc HS dựa vào lược đồ nhận thấy rằng đường bờ biển châu Phi ít bị
chia cắt, nên rất ít các vịnh biển, bán đảo và đảo. Đặc điểm đó làm cho ảnh
hưởng của biển ít lấn sâu vào đất liền. Thêm vào đó ven bờ biển châu Phi có các
dòng biển lạnh như dòng biển lạnh Ca-na-ri, dòng biển lạnh Ben-ghê-la, dòng
biển lạnh Xô-ma-li, vì thế khí hậu châu Phi có tính chất khô.
Hoặc HS dựa vào các bậc thang màu biểu hiện trên lược đồ có thể biết
được các vùng địa hình thấp hơn (được biểu hiện bằng màu nhạt hơn) nằm lọt
giữa các vùng địa hình cao hơn (được biểu hiện bằng màu đậm hơn) tạo thành
các bồn địa.
Hoặc HS dựa vào màu sắc biểu hiện độ cao trên lược đồ biêt được hướng
nghiêng chính của địa hình là cao ở phía đông nam, thấp dần về phía tây và bắc.
Sở dĩ có đặc điểm đó là do phần phía đông của lục địa được nâng lên mạnh, phần
phía tây được nâng lên với cường độ yếu hơn làm cho nền đá bị nứt vỡ và sụp
đổ, tạo thành nhiều thung lũng sâu, nhiều hồ hẹp và dài.

×