Về quản lý rừng cộng đồng của tỉnh Gia Lai
Nguyễn Văn Phong
Phó Giám đốc Sở NN và PTNT Gia lai
Tỉnh Gia Lai hiện còn 728.372 ha rừng tự nhiên được giao cho các tổ chức và các cấp quản lý.
Tuy nhiên, vấn đề quản lý rừng hiện nay ở cấp xã đang bị ảnh hưởng trực tiếp từ các cộng đồng
dân cư sống gần rừng. Sức ép của các cộng đồng này đến nguồn tài nguyên rừng ngày một tăng
cao. Người dân có nhu cầu lấy đất để sản xuất nông nghiệp, lấy gỗ, củi để đáp ứng nhu cầu cuộc
sống hàng ngày, lấy các sản phẩm khác từ rừng... Chính vì vậy mà diện tích rừng ở những nơi này
đang dần dần bị thu hẹp. Đối với những khu rừng được khoán để bảo vệ theo chương trình dự án
327, 661 như hiện nay, người dân cũng chỉ được hưởng sự hỗ trợ của nhà nước bằng tiền khoán để
bảo vệ rừng. Nếu cứ hỗ trợ tiền cho dân để bảo vệ rừng mà không cho họ quyền được tự quản lý
và sử dụng khu rừng đó một cách bền vững thì chưa thể nói là quản lý rừng bền vững được. Vì
vậy, tỉnh Gia Lai phải xác định một hướng đi và các giải pháp cho quản lý rừng cộng đồng trong
thời gian tới.
I. Mục tiêu của quản lý rừng cộng đồng
Mục tiêu của QLRCĐ là nhằm tăng lợi ích của dân địa phương trong vùng rừng một cách bền
vững và duy trì tính bền vững của các nguồn tài nguyên rừng.
Việc duy trì nguồn tài nguyên rừng đòi hỏi những đặc điểm sử dụng và quản lý rừng tổng hợp và
bền vững, mà trong đó các cộng đồng địa phương giữ vai trò tiên phong. Hoạt động quản lý đất
rừng là trách nhiệm của cơ quan hành chính xã sao cho phù hợp với nguyên tắc: mọi nhiệm vụ của
chính quyền và các cơ quan hành chính cần phải được tiến hành bởi cấp chính quyền thấp nhất,
nhằm bảo đảm cung cấp dịch vụ trực tiếp và có hiệu quả cho công chúng. áp dụng được nguyên
tắc này là một bước quan trọng trong cải cách hành chính. Quyền và nghĩa vụ của các cộng đồng
địa phương trong việc sử dụng rừng được xác định rõ trong các quy định của xã và dựa trên tiềm
năng nguồn tài nguyên rừng, trên cơ sở tính toán khả thi về kinh tế và theo các quy định truyền
thống của cộng đồng địa phương.
Để đạt được mục tiêu này, lâm nghiệp cộng đồng sẽ bao gồm 6 hợp phần phát triển chính:
1. Tài nguyên thiên nhiên;
2. Nguồn nhân lực;
3. Các tổ chức cộng đồng địa phương;
4. Doanh nghiệp và thị trường;
5. Công nghệ;
6. Các hệ thống thông tin (phát triển chính sách và các quy định; quyền lợi và nghĩa vụ; phối
hợp và t vấn).
Nguồn tài nguyên do các cộng đồng địa phương sử dụng bao gồm:
a. Trong rừng tự nhiên
• Gỗ (là nguồn lợi mang lại thu nhập cao cho người dân)
• Lâm sản ngoài gỗ (dễ thu hái từ rừng)
b. Ngoài khu vực rừng tự nhiên, cộng đồng còn có:
• Nguồn thu nhập bổ sung từ sản xuất nông nghiệp, nông lâm kết hợp;
• Chế biến nông lâm sản sẽ làm tăng giá trị của sản phẩm.
Từ những nguồn lợi trên, sẽ góp phần củng cố cam kết của các cộng đồng địa phương để duy trì
rừng bằng cách tăng thu nhập từ rừng và giảm sức ép đối với nguồn tài nguyên rừng.
II. Phân tích, đánh giá kết quả khảo sát nghiên cứu tại các xã của tỉnh Gia Lai
1. Sự cần thiết về quản lý và bảo vệ rừng dựa vào cộng đồng tại địa phương
Tỉnh Gia Lai hiện có 14 huyện, thành phố, 183 xã/phờng, 1.816 thôn/làng/tổ dân phố, 78 xã đặc
biệt khó khăn; 39.450 hộ nghèo. Tổng dân số là 1.034.089 người (tính đến 31-12-2001), trong đó
người Jrai 314.749 người, Bahnar 128.954 người, Kinh 572.526 người, dân tộc khác 17.860 người.
Theo kết quả kiểm kê năm 1998, tổng diện tích rừng là 750.819 ha, trong đó rừng tự nhiên là
728.372 ha, rừng trồng là 22.447 ha. Tổng trữ lợng gỗ 75,6 triệu m3 và 97,9 triệu cây tre nứa.
Ngoài các diện tích rừng đã giao cho các chủ rừng quản lý, còn lại khoảng 300.000 ha rừng tự
nhiên do lực lượng kiểm lâm giúp chính quyền địa phương quản lý. Diện tích rừng này chưa có
chủ cụ thể, hiện do xã và huyện quản lý. Do vậy diện tích rừng này vẫn chưa được bảo vệ và sử
dụng một cách có hiệu quả và bền vững. Trước hết cần lựa chọn thống nhất việc ai sẽ là người
chịu trách nhiệm quản lý có hiệu quả rừng hiện có của tỉnh, đặc biệt là rừng chưa có chủ cụ thể nói
trên.
Xuất phát từ tình hình trên, sự cần thiết phải tiến hành quản lý rừng dựa vào cộng đồng bao gồm
các lý do sau đây:
• QLLNCĐ thích hợp với vùng sâu, vùng xa, nơi đời sống sinh hoạt và sản xuất của người
dân phụ thuộc nhiều vào rừng. Diện tích rừng và đất rừng ở tỉnh hiện chiếm gần 50% tổng
diện tích tự nhiên, phần lớn nằm gần các cộng đồng dân cư, đặc biệt là các cộng đồng
người dân tộc thiểu số. Cuộc sống của các cộng đồng này gắn liền với rừng và đất rừng.
QLLNCĐ cần thiết cho người dân ở địa phương bằng chính họ và vì lợi ích lâu dài của họ.
Quản lý rừng bền vững phải bảo đảm lợi ích lâu dài cho người dân (đặc biệt là người dân
địa phương gắn với rừng).
• QLLNCĐ phù hợp với điều kiện kinh tế tự cung tự cấp của người dân địa phương.
• Nhà nước không có điều kiện đầu tư một khoản kinh phí lớn để thuê người dân bảo vệ
rừng lâu dài, đồng thời nhà nước hiện đang gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý trực tiếp
những vùng sâu, vùng xa . Nếu tiếp tục tình trạng quản lý như hiện nay thì việc quản lý,
bảo vệ và sử dụng rừng sẽ không mang lại hiệu quả bền vững. Vì vậy phải tiến hành giao
rừng cho cộng đồng và hướng dẫn cho họ biết cách quản lý, bảo vệ và sử dụng khu rừng
của mình.
• Quản lý và phát triển tài nguyên rừng hiện tại chưa có sự chủ động tham gia của các cộng
đồng địa phương, chưa gắn với quyền lợi và nghĩa vụ của những người tham gia quản lý
và phát triển tài nguyên rừng. Do các chính sách hiện hành chưa được triển khai cụ thể
hoặc còn thiếu, chưa cổ vũ, động viên được các cộng đồng dân c tham gia vào bảo vệ và
phát triển tài nguyên rừng. Ngoài ra, luật tục của một số cộng đồng có nhiều điểm tích cực
nhưng chưa được nhân rộng.
• Quản lý lâm nghiệp cộng đồng đã được thực hiện tốt ở nhiều cộng đồng thôn, có tổ chức
cộng đồng rõ ràng, có hương ước nội bộ và người đứng đầu cộng đồng thờng được các
thành viên trong cộng đồng tôn trọng.
2. Khả năng và năng lực quản lý của xã và các nhóm cộng đồng để tiến hành các nhiệm vụ tổ
chức và kỹ thuật liên quan đến quản lý rừng bền vững thông qua việc sử dụng, bảo vệ và bố trí lại
rừng dựa vào cộng đồng.
a. Khả năng và năng lực quản lý của xã:
• Uỷ ban nhân dân xã: Thực hiện chức năng quản lý nhà nước cấp cơ sở. Tổ chức, chỉ đạo
thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã. Lập quy hoạch sử dụng đất nông lâm
nghiệp, xây dựng quy chế phối hợp trong công tác quản lý và bảo vệ rừng với các đơn vị
lâm nghiệp trên địa bàn, chỉ đạo các thôn xây dựng và thực hiện quy ước bảo vệ rừng, phối
hợp với cán bộ kiểm lâm địa bàn để thực hiện công tác bảo vệ rừng, phòng chống cháy
rừng. Chỉ đạo các thôn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ rừng trên diện tích rừng được giao
khoán hàng năm.
• Cán bộ địa chính, chánh văn phòng hội đồng nhân dân và UBND xã, Ban Công an, Đội Du
kích, Ban Lâm nghiệp xã, Ban Tài chính, Trạm Y tế, Trường học, Hội Phụ nữ, Hội Nông
dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên, UB Mặt trận tổ quốc xã: giúp UBND xã thực
hiện việc lập kế hoạch quản lý rừng và đất rừng, tuyên truyền, vận động quần chúng nhân
dân trong việc tham gia bảo vệ và phát triển rừng, ổn định đời sống, tổ chức sản xuất nông
lâm kết hợp, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.
Về khả năng và năng lực của chính quyền cấp xã tại những điểm nghiên cứu, nhận thấy:
• Xã là đơn vị hành chính có chức năng quản lý về chính quyền và quản lý các hoạt động về
hành chính trong xã. Lập quy hoạch và kế hoạch quản lý và sử dụng đất nông lâm nghiệp
trên địa bàn.
• Ban lâm nghiệp xã chủ yếu còn mang tính hình thức, việc triển khai quyết định 245/CP
phân cấp quản lý rừng của cấp huyện và xã hiện chưa triển khai triệt để và cụ thể trên địa
bàn tỉnh. Cán bộ lâm nghiệp xã chưa được bố trí biến chế và quỹ lơng. Hoạt động của Ban
Lâm nghiệp xã chủ yếu do kiêm nhiệm, chưa được hướng dẫn, đào tạo và tập huấn về
chuyên môn lâm nghiệp.
Nghị định 77/CP về xử phạt hành chính và Nghị định 17/CP về bổ sung, sửa đổi Nghị định 77/CP:
Trong quá trình thực hiện, cộng đồng xử lý theo quy ớc nội bộ của thôn. Trường hợp vi phạm lớn
thì mới chuyển cho các cơ quan chức năng và cấp trên xử lý. Nhưng cũng có trường hợp được xử
lý chậm và xử lý không hợp lý, không theo đúng quy định.
Nghị định 163: Tiếp tục giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng quản lý sử
dụng. Nhằm tăng ý thức cho người dân về quản lý, sử dụng rừng và đất lâm nghiệp ; Từ đó nó góp
phần hạn chế việc khai thác lâm sản trái phép trong rừng và phát nơng làm rẫy.Xong vấn đề khó
khăn đặt ra cần phải được nghiên cứu và giải quyết đó là:
• Đối với những cộng đồng nhận rừng nghèo kiệt trớc mắt trong những năm đầu chưa có thu
nhập từ rừng cộng đồng lấy gì để sản xuất và sinh sống nhằm mục đích duy trì ,phát triển
rừng.
• Hiện nay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp chưa được ngân hàng chấp nhận
thế chấp để vay vốn sản xuất.
b. Khả năng và năng lực quản lý của thôn:
• Ban nhân dân thôn: gồm trưởng thôn, phó thôn và thư ký. Quản lý mọi hoạt động sản xuất
và hành chính của thôn.
• Hội già làng: có già làng và phó già làng, làm công tác mặt trận của thôn.
• Công an thôn: giữ gìn an ninh trật tự, giải quyết sự vụ hành chính.
• Du kích thôn: Bảo vệ an ninh quốc phòng thôn
• Mặt trận thôn: phổ biến, vận động thực hiện các chủ trơng, chính sách của Đảng và pháp
luật nhà nước, đoàn kết giúp đỡ nhau.
• Chi đoàn Thanh niên: giáo dục tập hợp thanh niên, nâng cao đời sống văn hoá, giúp đỡ sản
xuất.
• Hội phụ nữ: giúp chị em vay vốn sản xuất, vận động phong trào.
• Tôn giáo: giáo dục về lối sống, đạo đức trong cộng đồng.
III. Các đề xuất đối với Trung ương và lãnh đạo tỉnh và huyện
1. Tính thích hợp của kết quả nghiên cứu: phù hợp với mục tiêu và yêu cầu của việc nghiên cứu tại
các địa điểm được chọn lựa. Các địa điểm này đều là những xã có rừng, có thành phần chủ yếu là
đồng bào dân tộc thiểu số tham gia bảo vệ rừng.
2. Tính thực tiễn của kết quả nghiên cứu: các thông tin thu thập được phản ánh khá đầy đủ và thực
tế các hoạt động đang diễn ra tại các điểm nghiên cứu.
3. Các đề xuất:
a. Đối với trung ương:
• Đề nghị sửa đổi, bổ sung các luật: Luật Dân sự, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật
khuyến khích đầu tư trong nước, Luật đất đai, Luật tổ chức HĐND và UBND các cấp, nội
dung như sau: xác định vị trí, vai trò của thôn (về t cách pháp nhân); xác định vai trò của
thôn trưởng (trách nhiệm, quyền hạn và quyền lợi); cộng đồng thôn là một đối tượng được
giao rừng và đất lâm nghiệp.
• Về các văn bản dới luật: Nghị định 163/CP, Nghị định 01/CP, Nghi định 43/CP về u đãi
đầu tư, Nghị định 29/CP về quy chế dân chủ ở cấp xã, Nghị định 04/CP về hướng dẫn luật
đất đai sửa đổi, Nghị định 17/HĐBT hướng dẫn Luật BV và PT rừng, quyết định 245/TTg,
nội dung như sau: cộng đồng là đối tượng được ưu đãi đầu tư, bổ sung chính sách hưởng
lợi đối với cộng đồng tham gia quản lý rừng; xác định vai trò, trách nhiệm của thôn
trưởng.
Nhà nước cần khẳng định vị trí pháp lý của cộng đồng dân cư thôn/làng và thừa nhận các hình
thức QLLNCĐ là một hình thức quản lý tồn tại song song với các hình thức quản lý rừng khác.
b. Đề xuất đối với Tỉnh:
• Rừng phòng hộ nằm trong phạm vi một xã, thôn hoặc nhiều xã nhưng không đủ lớn để
hình thành các Ban QLRPH (diện tích dới 1000 ha), thì giao cho cộng đồng quản lý theo
quy chế quản lý rừng phòng hộ;
• Rừng sản xuất chưa giao cho chủ rừng hoặc rừng sản xuất phân tán gần cộng đồng dân c
thuộc các Ban QLRPH, các lâm trường, giao cho cộng đồng quản lý theo quy chế quản lý
rừng sản xuất;
• Tiến hành thử nghiệm mô hình quản lý lâm nghiệp cộng đồng ở tỉnh Gia Lai.
• Thí điểm giao khoán rừng cho hộ và cộng đồng hưởng lợi theo Quyết định 178.
c. Xác định các bước đi cần thiết để thực hiện quản lý rừng bền vững dựa vào cộng đồng ở tỉnh
Gia Lai
• Rà soát lại diện tích đất lâm nghiệp chưa có chủ cụ thể;
• Xác định các điều kiện giao đất lâm nghiệp cho cộng đồng:
o Có trưởng thôn được dân bầu một cách hợp pháp hoặc có người đại diện cho thôn
được dân bầu và UBND xã công nhận;
o Cộng đồng có nhu cầu quản lý rừng và những khu rừng được giao phục vụ trực
tiếp cho lợi ích của cộng đồng;
o Cộng đồng phải có phương án quản lý, sử dụng rừng được cộng đồng, UBND xã
thông qua và được UBND huyện phê duyệt;
o Cộng đồng phải có quy ớc quản lý, bảo vệ rừng do cộng đồng xây dựng và được
UBND xã thông qua và UBND huyện phê duyệt
• Tập huấn, đào tạo, tham quan học hỏi về QLLNCĐ và các chủ đề chuyên môn khác có liên
quan, kỹ thuật khuyến nông lâm
• Sử dụng phương pháp phát triển kỹ thuật lâm nghiệp có sự tham gia (PTD) sau khi giao
đất, giao rừng cho cộng đồng
• Xây dựng chính sách hưởng lợi và phân chia lợi ích cho cộng đồng
• Xây dựng quy chế quản lý rừng dựa vào cộng đồng. Xây dựng hệ thống các biện pháp kỹ
thuật lâm sinh
• Phát triển thị trường lâm sản tại địa phương
• Xây dựng quỹ bảo vệ và tái tạo rừng của thôn
o Quỹ này được hình thành từ các nguồn sau: tiền bán lâm sản khai thác được từ
rừng của cộng đồng, tiền hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, tiền
phạt do vi phạm quy ớc bảo vệ rừng của thôn.
o Quỹ bảo vệ rừng được chi cho các hoạt động sau: trả thù lao cho người trực tiếp
quản lý bảo vệ rừng, chi cho công tác phòng chống cháy rừng và phòng trừ sâu
bệnh hại rừng, chi để trồng mới, trồng bổ sung, làm giàu và nuôi dỡng rừng.
d. Xác định phương hướng cho quản lý lâm nghiệp cộng đồng ở tỉnh Gia Lai. Hướng đi của nhà
nước, địa phương (tỉnh, huyện, xã) và của dự án ADB.
• Hiện tại theo dự án 661, rừng được khoán cho hộ gia đình bảo vệ. Tiền công bảo vệ rừng
được trả theo mức 35.000-50.000 đồng/ha/năm. Rừng giao khoán bảo vệ được thể hiện qua
một hợp đồng ký kết giữa Ban QLRPH hoặc lâm trường có sự chứng kiến của UBND xã.
Theo cách giao khoán này, người dân chỉ nhận được tiền công khoán, được thu hái các lâm
sản ngoài gỗ trong rừng với quy mô nhỏ và được thừa hưởng tác dụng về môi trường do
kết quả bảo vệ rừng mang lại (bảo vệ đất, bảo vệ nước, chống xói mòn, chắn gió,...). Nếu
giả sử nhà nước không còn kinh phí để cung cấp cho việc khoán bảo vệ rừng mà không có
một giải pháp nào khác, thì có lẽ người dân không nhận rừng để bảo vệ nữa. Lúc đó có thể
một số người quay lại phá rừng, sử dụng rừng một cách trái phép để mang lại lợi ích cho
cuộc sống của họ.
• Theo dự án xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn Sông Ba đang được thực hiện ở 6 huyện
và 15 xã trên địa bàn tỉnh Gia Lai: tiến hành giao khoán theo nhóm hộ gia đình, nhà nước
cấp quyền sử dụng đất cho từng hộ gia đình. Thời gian thực hiện đến năm 2003. Tiền
khoán bảo vệ rừng được cấp 50.000 đ/ha/năm.
Từ bối cảnh trên, chúng ta phải xác định một phương hướng mới cho việc giao rừng cộng đồng để
quản lý và sử dụng lâu dài, theo hướng:
• Tiến hành thử nghiệm về giao rừng cho cộng đồng thôn quản lý;
• Đối tượng rừng giao: rừng sản xuất và rừng phòng hộ hiện chưa có chủ quản lý;
• Thời gian tối đa giao rừng: 50 năm