Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tuyển tập những bài văn mẫu hay nhất phân tích Người lái đò sông Đà ôn thi tốt nghiệp THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.33 KB, 26 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phân tích tác phẩm Người lái đị sơng đà</b>

<b>Ngữ văn 12</b>
<b>Dàn ý Phân tích tác phẩm Người lái đị sơng đà</b>


<b>I. Mở bài</b>


- Tác giả Nguyễn Tn: có phong cách nghệ thuật độc đáo, cái tơi đầy cá tính,
một nhà văn tài hoa un bác, ln khám phá thế giới ở bình diện văn hóa thẩm
mĩ.


- Tác phẩm được sáng tác trong gian đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, với nội dung ngợi ca vẻ đẹp của con người và thiên nhiên Tây Bắc.


<b>II. Thân bài</b>
<b>1. Lời đề từ</b>


- Lời đề từ “Đẹp vậy thay ...”: thể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của
dịng sơng và con người gắn bó với dịng sơng, thấy được cảm hứng chủ đạo là
ngợi ca.


- Lời đề từ tiếp: “Chúng thủy ...”: thể hiện cá tính độc đáo của của con sơng
Đà.


<b>2. Hình tượng dịng sơng Đà</b>
<b>a. Dịng sơng “hung bạo”</b>


- “Cảnh đá bờ sơng dựng vách thành”: lịng sơng hẹp, “bờ sơng dựng vách
thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá ... như một cái yết hầu”.


- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió” một cách hỗn
độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đó.



- Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”,
chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”.


- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:


+ Xa: từ xa âm thanh thác nước hiện lên với nhiều trạng thái: “ốn trách”, “van
xin”, “khiêu khích”, “chế nhạo”; “rống lên như một ngàn con trâu ... cháy bùng
bùng” (lấy lửa tả nước).


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

+ Sự biến hóa linh hoạt của 3 trùng vi thạch trận:


- Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng
thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người.


<b>b. Sơng Đà trữ tình</b>


- Từ trên cao nhìn xuống như “dây thừng ngoằn ngo”, “áng tóc trữ tình”,
mùa xn có màu xanh ngọc bích, thu lừ lừ chín đỏ.


- Khi đi rừng lâu ngày gặp lại con sơng: sơng Đà như một “cố nhân”, có ánh
sáng “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt”, như “nắng tháng ba
Đường thi”, ...


- Khi đi thả thuyền trên sông: “bờ sông như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như
một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”, thiên nhiên mơn mởn: lá ngơ non, “con hươu
thơ ngộ”, ...


<b>3. Hình tượng người lái đị sơng Đà</b>


- Có thể liên hệ đến hình ảnh Huấn Cao - người anh hùng trong quan niệm của


Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang hình tượng ơng lái đị.


- Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình: “tay lêu
nghêu ... chất mun” để ngợi ca những con người vơ danh âm thầm cống hiến.


- Cơng việc: lái đị trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung
bạo..


- Tài năng và tâm hồn:


+ Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà
ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ ... những luồng nước”, ...


+ Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ
“nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo ...”, “nắm chắc binh pháp của
thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng,
phóng thẳng thuyền vào giữa thác ...”


+ Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, khơng thích
lái đị trên khúc sơng bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là
chuyện thường.


- Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

- Tổng kết nghệ thuật đặc sắc: ngôn ngữ điêu luyện, tưởng tượng độc đáo, vận
dụng tri thức nhiều ngành nghệ thuật, xây dựng thành cơng hình tượng sơng Đà
và ơng lái đị.


- Khái qt nội dung: tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động, vẻ đẹp
thiên nhiên đất nước.



<b>Phân tích tác phẩm Người lái đị sơng đà mẫu 1</b>


Tác phẩm Người lái đị sơng Đà là bút ký đầy sáng tạo, tiêu biểu cho phong
cách độc đáo của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng tám: Uyên bác, tài hoa,
không quản gian lao vất vả đ có được những dịng bút ký, đậm cảm giác chân
thực, sức liên tưởng phong phú đem đến cho người đọc người nghe cảm nhận
về một tâm hồn khao khát hòa nhập với nhịp động phát triển của đất nước của
cuộc đời.


Tác phẩm là kết quả của cuộc hành trình ngược miền Tây Bắc giai đoạn năm
1958-1960 đầy trải nghiệm sâu sắc của tác giả, được in lần đầu trong tập Sông
Đà (1960). Sông Đà quanh co, uốn lượn dọc qua các triền núi, dòng nước chảy
xiết với độ dốc lớn. Chính đặc điểm đó đã tạo cho Đà giang một vẻ đẹp kỳ thú,
rất hoang sơ và kỳ vĩ. Hình ảnh con sơng Đà hung bạo mà trữ tình đã làm nổi
bật lên vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của ông lái đò ông lái đò trên dòng Đà giang.


Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ơng có những
thành tựu to lớn trong cả hai thời kỳ trước và sau năm 1945. Trước 1945, ơng
có tập “Vang bóng một thời” gồm mười một truyện rất đặc sắc, có giá trị vơ
cùng to lớn. Hồ chung với khơng khí thời đại trong cuộc kháng chiến chống
Pháp và Mỹ của dân tộc, phong cách Nguyễn Tn vẫn ln giữ được nét sáng
tạo, riêng biệt. Ơng là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, ln khám phá thế giới ở
bình diện văn hố và thẩm mỹ. Nguyễn Tuân miêu tả con người trong vẻ đẹp
tài hoa nghệ sĩ. Thiên nhiên hiện lên trong văn chương của ơng cũng trở thành
những cơng trình nghệ thuật kỳ vĩ, độc đáo. Người lái đị sơng Đà là đoạn trích
được rút ra từ tập tuỳ bút Sơng Đà được ông viết năm 1960, trong một chuyến
đi gian nan nhưng đầy hứng khởi về miền Tây Bắc hiểm trở. Chuyến đi thoả
mãn cái khát khao “xê dịch” của nhà văn, trong chuyến đi ấy ơng đã khơng
qn tìm kiếm “chất vàng” của cảnh sắc thiên nhiên nơi đây, rất hiểm trở nguy


hiểm nhưng cũng mang vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng say đắm lòng người. Vẻ đẹp
của con người nơi đây được ơng ví như “chất vàng mười đã qua thử lửa” họ là
người dân lao động có trí tuệ, có lịng dũng cảm và sức mạnh chế ngự thiên
nhiên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Nguyễn Tuân dẫn dụ người đọc cuốn theo cảm giác vừa sợ hãi tột cùng vừa
như đam mê, thích thú. Bằng sức tưởng tưởng phong phú của mình, lối hành
văn nhạy bén độc đáo của mình con sơng Đà hung bạo hiện lên trong lòng
người đọc với niềm đam mê hãi hùng và thích thú vơ cùng. Cái hung bạo được
nhà văn miêu tả mở đầu bằng cảnh “đá bờ sông dựng vách thành”, nghệ thuật
ẩn dụ những khối đá bờ sơng được Nguyễn Tn ví như những thành trì kiên
cố, vũng chãi và đầy rẫy sự nguy hiểm, bí ẩn, đe doạ trực chờ. Nhà văn miêu tả,
mặt sơng lúc ấy “đúng ngọ” mới có mặt trời, có vách đá “chẹt lịng sơng như
một cái yết hầu”, có quãng tưởng như con hươu, con nai nhảy từ bờ này qua bờ
kia. Các liên tưởng tưởng chừng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại chứa
đựng đầy dụng ý nghệ thuật của tác giả. Chỗ sông phải đến tận giữa trưa, khi
mặt trời lên cao nhất mới có ánh nắng chiếu vào, động từ mạnh “chẹt” rất biểu
cảm xen lẫn với nghệ thuật so sánh “như một cái yết hầu”, hai bên bờ con hươu
con nai có thể nhảy qua được. Những hình ảnh độc đáo được tác giả khéo léo
lồng vào, đã tạo cho người đọc được độ cao của vách đá, độ hẹp của lịng sơng.
Ngồi trong khoang thuyền đi qua khúc sông ấy “mùa hè cũng thấy lạnh”, tác
giả miêu tả thông qua cảm giác, mùa hè nóng nực oi bức nhưng khi qua đây,
chính cái khung cảnh choáng ngợp, kỳ vĩ, chật hẹp đã làm cho ta cảm thấy sợ
hãi và nhỏ bé giữa giữa thiên nhiên.


Cảnh hung bạo của sơng Đà cịn được thể hiện ở mặt ghềnh Hát Loóng. Hàng
ngàn cây số “nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió”. Một loạt thanh sắc xuất
hiện tạo cho ta cảm giác sóng gió ngày càng mạnh mẽ và cao dần. Nghệ thuật
điệp từ, điệp cấu trúc nối tiếp nhau, động từ mạnh “xô” được lặp lại nhiều lần.
Sức mạnh của thiên nhiên rất khủng khiếp, rất lạnh lùng, nó “gùn ghè”, hầm hè


như một con thú hoang hung dữ, lì lợm, sẵn sàng thách thức với con người nơi
đây.


Những cái “hút nước” khủng lồ trên qng sơng Tà Mường Vát. Xốy nước
“như những cái giếng bê-tơng” được thả xuống làm móng cầu, nước ở đây “thở
và kêu như một cái cống bị sặc”. Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh của
Nguyễn Tuân làm tạo cho câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bao giờ hết.
Khúc sông này nguy hiểm đến mức không một con thuyền nào dám tiến lại gần,
nếu khơng sẽ bị hút vào trong, bị dìm xuống lịng sơng và biến mất một cách
đáng sợ.


Hình tượng hung bạo, dữ dội của con sông được tác giả khắc hoạ rõ nét nhất
chính là ở khúc thác sơng Đà. Tác giả miêu tả con sơng bằng những hình ảnh
hết sức biểu cảm, bằng những âm thanh dữ dội nhiều sắc thái, còn xa lắm mới
tới thác mà đã nghe thấy tiếng “réo gần mãi lên, réo to mãi lên”, tiếng nước
nghe như “oán trách”, như “van xin”, như là “khiêu khích”, nó rống lên từng
hồi ghê rợn như tiếng của “một ngàn con trâu mộng” gầm thét, vật lộn trong
lúc rừng cháy, ngọn lửa đỏ rực bốc lên ngùn ngụt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

nấy mặt trông cũng rất “ngỗ nghịch”, “nhăn nhúm”, “méo mó”, ở đây tác giả
dùng nhiều tính từ chỉ con người để miêu tả qua đó người đọc cảm nhận được
sự dữ tợn, sự bất cần, bướng bỉnh của hòn đá, chúng như những vật thể sống và
là đứa con của mẹ thiên nhiên tạo ra. Sông Đà dường như đã giao nhiệm vụ cho
từng hòn đá để bày ra “thạch trận” tuyên chiến, thách thức với con người. Vịng
thứ nhất “thạch trận” có năm cửa trận, có “bốn cửa tử”, “một cửa sinh” nằm lập
lờ nơi tả ngạn con sơng. Vịng thứ hai, thác sơng Đà đã bộc lộ vẻ gian manh cái
sự háo thắng của nó, lần này có bày ra nhiều cửa tử hơn để đánh lạc hướng con
thuyền đi vào chỗ chết, một cửa sinh được bố trí lệch về phía hữa ngạn. Vịng
thứ ba, vịng quyết định thắng thua cuối cùng, thác sơng Đà bày ít cửa hơn
nhưng trái phải đều là “luồng chết”, cửa sống duy nhất lại nằm ngay giữa bọn


đá hậu vệ đang canh gác. Qua phong cách miêu tả độc đáo, sinh động, giàu
tưởng tượng của Nguyễn Tuân con sơng Đà hiện lên thật hung bão, dữ tợn, nó
như một “loài thuỷ quái khổng lồ” tâm địa vừa độc ác, vừa nguy hiểm, là kẻ
thù số một của con người trong cuộc chiến khơng cân sức.


Tuy nhiên cũng có lúc con sông Đà trở về với vẻ dịu dàng, trữ tình thơ mộng
của nó. Vẻ đẹp Đà giang được miêu tả qua nhiều điểm nhìn, nhiều góc cạnh,
khơng gian và thời gian khác nhau. Từ trên cao nhìn xuống, con sơng Đà uốn
lượn, mềm mại như áng tóc của người con gái Tây Bắc kiều diễm, xinh đẹp.
Dịng sơng Đà được nhà văn bằng những hình ảnh rất biểu cảm, gây ấn tượng
sâu sắc, “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây
trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo
đốt nương xuân”. Màu nước sông Đà biến đổi theo từng mùa khác nhau, mỗi
mùa mang một vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt: Mùa xn dịng sơng “xanh ngọc
bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Con sông như người thiếu nữ xinh đẹp, mơ
mộng đang tuổi xuân thì tràn đầy niềm kiêu hãnh nên tính cách đơi phần khó
hiểu, thay đổi thất thường.


Sơng Đà dịu dàng “như một cố nhân”, cảnh sắc bên bờ thật êm đềm tươi đẹp.
Sau chuyến đi dài ngày, ông nhìn ngắm sơng Đà thật gợi cảm, thơ mộng như
“màu nắng tháng ba Đường thi”, bờ sông đầy những chuồn chuồn bươm bướm.
Người cố nhân ấy giờ đây yên ả lạ thường như đang lặng nghe âm thanh của
thời gian, thưởng thức cảnh sắc hai bên bờ sông. Bờ sông Đà hoang sơ như
nhuộm màu cổ tích vừa trù phú tràn trề nhựa sống của phù sa bồi đắp. Những
nương ngô “nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, ngọn cỏ “đang ra những nõn
búp”, xa xa là vài con hươu nhai cỏ. Sông Đà lúc này như bờ tiền sử mang bên
mình những nỗi niềm cổ tích xa xưa, hoài niệm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Trong tác phẩm của Nguyễn Tuân làm sao có thể thiếu đi bóng dáng con người.
Thiên nhiên càng rộng lớn, hùng vĩ, dữ dội bao nhiêu thì càng làm nổi bật lên


vẻ đẹp trí tuệ tài hoa của con người lao động. Trong bài văn, tác giả đã sáng tạo
ra hình tượng “ơng lái đị” đây là hình ảnh biểu trưng cho người lao động cần
cù chăm chỉ nhưng cũng không kém phần mạnh mẽ, cam đảm khi sẵn sàng đối
đầu với thiên nhiên hung tợn trong một cuộc chiến không cân sức. Con sông
Đà bỗng chốc trở thành kẻ thù số một, người lái đò thật nhỏ bé giữa thiên nhiên.
Tuy nhiên họ vẫn bộc lộ được sự mưu trí, tài hoa nghệ sĩ của mình.


Phẩm chất anh dũng, tài hoa, trí tuệ của người lái đị được thể hiện qua cảnh
vượt thác sơng đà. Tại đây, con sông mưu mô, xảo quyệt bày ra một “thạch
trận” với ba vòng thách đấu như muốn tiêu diệt những con thuyền đi qua.
Những người anh hùng vẫn khơng chút sợ hãi, vẫn rất điềm tĩnh bằng trí tuệ
của mình ơng lái đị đã lần lượt chinh phục từng cửa ải. Vòng thứ nhất, với năm
cửa trận, bốn cửa từ, chỉ có một cửa sinh duy nhất nằm lập lờ bên bờ tả ngạn.
Thuyền vừa tới, “phối hợp với đá, nước reo hò làm thanh viện cho đá” những
hịn đá ngỗ nghịch, bệ vệ. Có hịn đá nhìn nghiêng thì như “hất hàm” địi cái
thuyền phải “xưng tên tuổi trước khi giao chiến”, có hịn thì như thách thức ơng
đị “có giỏi thì tiến vào đây”. Ơng đị không chút nao núng tay vẫn “giữ lấy mái
chèo cho khỏi bị hất lên”. Mặt nước hò reo vang dội, ùa vào như bẻ gãy cán
thuyền, sóng nước như “quân liều mạng” lao vào “đá trái thúc gối vào bụng và
hông thuyền”. Nước bám lấy như “đô vật” muốn vật ngửa người lái đị ra. Sóng
nước đánh đến món địn “hiểm độc nhất”, luồng nước ấy bóp chặt lấy hạ bộ
ơng đị. Ơng đị đã bị thương “mặt méo bệch đi” nhưng không hề đầu hàng
trước kẻ thù, ông “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt buồng lái”, tiếng
chỉ huy của ông vẫn vang lên ngắn gọn, tỉnh táo. Vậy là phá xong cái “trùng vi
thạch trận thứ nhất”.


Không cần nghỉ tay, nghỉ mắt một phút giây nào phải phá ln vịng vây thứ
hai, lần này ơng đị đã đổi chiến thuật. Ơng đị đã nắm chắc “binh phát của thần
sơng Đà”, “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Con
sông Đà đã lộc rõ sự gian trá, độc ác của mình khi lần này nó bày ra nhiều cửa


tử hơn, cửa sinh nằm lệch sang một phía hữu ngạn con sơng. Tác giả sử dụng
nghệ thuật so sánh cưỡi lên con sông Đà phải “cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”.
Nắm được cái bờm sóng đúng luồn rồi, khơng phút nao núng, ơng đị “ghì cặt
cương lái”, bám chặt lấy luồng nước cố sức phóng nhanh vào phía cửa sinh,
“lái miết một đường chéo về phía cửa ấy”, bỏ lại sau lưng những cửa tử và
những hịn đá vẫn “khơng ngừng khiêu khích”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

bằng sự gan dạ, tài trí, kinh nghiệm của mình ơng đị đã vượt hết dịng thác một
cách an toàn, giành chiến thắng trong cuộc chiến không khoan nhượng với kẻ
thù hung bạo.


Nguyễn Tuân xây dựng hình tượng nhân vật người lái đị sơng Đà bằng nhiều
nghệ thuật đặc sắc. Tác giả sử dụng từ ngữ của nhiều lĩnh vực: Binh pháp, võ
thuật, thể thao, âm nhạc…, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá cùng với nhịp
điệu câu văn hài hồ sinh động. Ơng đã khắc hoạ thành cơng hình ảnh người lái
đị sơng Đà trí tuệ, tài hoa và bản lĩnh, qua đó ca ngợi con người lao động Tây
Bắc mang vẻ đẹp và những phẩm chất cao q.


Đoạn trích người lái đị Sông Đà của Nguyên Tuân là một bài tuỳ bút có giá trị
vơ cùng to lớn, tác giả đã thành cơng trong nghệ thuật xây dựng hình tượng,
khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên cùng với con người miền Tây bắc
xa xơi. Đồng thời thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng, sự gắn bó tha thiết,
sâu nặng của Nguyễn Tuân đối với quê hương, đất nước, con người Việt Nam.


<b>Phân tích tác phẩm Người lái đị sơng đà mẫu 2</b>


Tây Bắc là một mảnh đất có nhiều duyên nợ với nhiều nhà văn, nhà thơ. Mỗi
nhà văn, nhà thơ lại tái hiện và khắc họa hình ảnh Tây Bắc ở những góc độ
khác nhau. Trong đó, Nguyễn Tuân đã khám phá được vẻ đẹp thiên nhiên nơi
đây, nhận thấy được “chất vàng 10” trong tâm hồn con người nơi đây. Tùy bút


“Người lái đị sơng Đà” chính là món q đầy ý nghĩa mà ơng dành cho mảnh
đất Tây Bắc.


Qua tài năng của Nguyễn Tuân, con sơng Đà hiện lên khơng cịn là một con
sơng vơ tri vô giác nữa mà trở thành một sinh thể có hồn, một nhân vật có tính
cách, tâm trạng và là tuyệt mĩ của tạo hóa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Sự hung bạo của sơng Đà cịn được thể hiện ở thác nước và trận địa danh của
Đà giang. Thác nước ở đây nó thật khủng khiếp “nó rống lên như tiếng một
ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa…. da
cháy bùng bùng”. Câu vă của Nguyễn Tuân đã tác động mạnh mẽ vào thị giác
và thính giác của người đọc, lột tả sự giận dữ, ghê gớm của những con thác ở
sông Đà. Tác giả tiếp tục chi tiết của những trận địa con sơng Đà. Đặc biệt là
cuộc chiến với ơng lái đị. Đà giang hiện lên khơng khác gì một con thủy quái
dữ tợn và khát máu. Nó đưa ra mọi thủ đoạn sử dụng mọi chiêu thức sử dụng
mọi đòn đánh để hạ gục ơng lái đị. Thơng qua sự khắc họa của Nguyễn Tuân,
người đọc có dịp chứng kiến được sự hung bạo, nghỗ nghịch bất trị của bà mẹ
thiên nhiên.


Trái với vẻ hung bạo và dữ tợn thì cũng có lúc con sơng sơng Đà hiện lên thật
trữ tình. Con thủy quái ấy đã rũ mình và vứt bỏ sự gớm ghiếc để trở thành một
thiếu nữ kiều diễm. Nét trữ tình của con sơng Đà được thể hiện ở hình dáng
con sơng. Dịng sơng Đà mềm mại “từng nét trải ra trên đại dương đá lờ đờ
bóng mây”. Dịng sơng Đà được Nguyễn Tn ví với mái tóc thướt tha của
người con gái đang độ thanh xuân. “Con sơng Đa tn dài, tn dài…đốt
nương xn”. Đó là một vẻ đẹp đầy sức sống và mang nét nên thơ, mờ ảo giữ
mây trời khói núi. Màu sắc sơng Đà thay đổi theo mùa và mỗi mùa mang một
vẻ đẹp riêng.


Vẻ đẹp con sơng Đà cịn được tơ điểm bởi cảnh ven sông và cảnh trên sông.


Khung cảnh thiên nhiên ven sông Đà thật giàu chất thơ. “Cảnh ven sông ở đây
lặng tờ”, “một lương ngô…”, Thật là một bức tranh dạt dào nguồn nhựa sống,
lam mê đắm hồn người.” Bờ sơng hoang dại…cỏ tích tuổi xưa”. Với hình ảnh
so sánh tài hoa, độc đáo của Nguyễn Tuân đã kéo người đọc trở về thuở bình
n của sơng Đà từ ngàn năm trước.


Nói tóm lại, Nguyễn Tuân đã khắc họa rất thành cơng hình tượng con sơng Đà
với hai tính cách: hung bạo đến đáng sợ và trữ tình đến tuyệt mĩ. Nhà văn đã
cho chúng ta thấy được sự tài hoa trong trí tưởng tượng phong phú, trong
những liên tưởng táo bạo, bất ngờ, những so sánh mang dấu ấn cá nhân của
Nguyễn Tuân trên những trang văn.


<b>Phân tích tác phẩm Người lái đị sơng đà mẫu 3</b>


Đến với tác phẩm của Nguyễn Tuân mỗi người sẽ tìm cho bản thân mình
những xúc cảm riêng, là sự ngưỡng mộ, khám phá chờ mong. Dường như dưới
đôi bàn tay tài hoa nghệ sĩ, ơng đã khiến người đọc như chìm đắm, như được
sống những phút giây thực sự với thiên nhiên khung cảnh nơi đó. Đây chính là
cái tài sử dụng ngơn ngữ của ơng. Đặc biệt qua đoạn trích “Người lái đị sơng
Đà” tài năng đó càng được bộc lộ rõ nét hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

phải là có một khơng hai. Dưới bút lực dồi dào của mình Nguyễn Tn đã phơ
diễn cho bạn đọc thấy hình ảnh của một dịng sơng Đà vừa hung bạo, nhưng
cũng rất đỗi trữ tình. Bên cạnh đó là vẻ đẹp nổi bật của người lao động, chinh
phục và làm chủ thiên nhiên.


Trước hết cái độc đáo của sông Đà được Nguyễn Tuân khai thác trên hai
phương diện: hung bạo và trữ tình. Chất hung bạo chính là điểm nổi bật đầu
tiên của Nguyễn Tuân đề cập đến. Vẻ đẹp hung dữ, bạo tàn của con sông ở
những đoạn thác dốc như một sức mạnh vơ hình thu hút ơng. Đây cũng là lãnh


địa tạo cho ơng cơ hội thỏa sức tung hồnh trí tưởng tượng của bản thân. Ơng
cực kì phấn khích khi chuẩn bị đến thác cuối, khi chuẩn bị được tận mắt chứng
kiến sự hung bạo của sông Đà: “… Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng
đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại ró to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là
ốn trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế
nhạo. Thể rồi nó giống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đáng phá tuông rừng mửa, rừng lửa cùng
gầm thét với đàn trâu da đen cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi”. Có thể thấy
trong đoạn văn giọng điệu hào hứng, hồ hởi cũng như giác quan vơ cùng thính
nhạy của Nguyễn Tn. Ơng nắm bắt từng chuyển động của thiên nhiên để có
thể cảm nhận được vẻ đẹp hung bạo của nó từ phía xa. Đặc biệt hình ảnh so
sánh thác nước như những con trâu lồng lộn, rống lên cũng cực kì đặc sắc, diễn
tả tiếng thác nước ầm ào chảy, vừa hứng thú, kích thích nhưng cũng đầy lo lắng,
sợ hãi.


Và đến đoạn thác nước, bút lực của ông mới thực sự được phát lộ hết. Bao
nhiêu hào hứng ông dồn cả vào đoạn văn miêu tả sự hung bạo của sông Đà.
Những thạch trận liên tiếp được bày ra, dụ con thuyền đến để nuốt gọn vào
lòng: “Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá,
nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt.
Mỗi hòn ấy trơng nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng
tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái
thuyền có giỏi thì tiến gán vào”. Với thủ pháp nhân hóa, cùng trí tưởng tượng
phong phú Nguyễn Tn đã khiến cho những hịn đá vơ tri có gương mặt, tâm
trạng và thân phận riêng. Nhưng tựu chung lại có thể thấy ở chúng sự ngông
ngạo, tự phụ, ỷ thế mà chèn ép người khác, đặc biệt là ỷ vào thế hiểm của thằng
đá tướng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

lơi vào tập đồn cửa tử. Ơng đị vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ơng tránh mà rảo
bởi chèo lên, đứa thì ơng đè sấn lên mà chặt đôi mở đường tiến. Những luồng


tử đã bỏ hết lại sâu thuyền”. Những câu văn kia miêu tả ơng lái đị mới sảng
khối và sung sướng biết bao khi con người đã vươn lên làm chủ thiên nhiên.
Đồng thời những lời miêu tả chân thực, sinh động đó cũng cho thấy tài nghệ lái
thuyền tài ba, sự dày dặn kinh nghiệm, và dũng cảm là những yếu tố giúp ơng
lái đị của thể vượt qua mọi cửa tử để đi đến được một cửa sinh duy nhất.


Khơng chỉ có niềm say mê, hứng thú đặc biệt với những nơi đầy nguy hiểm mà
đôi mắt tinh tế của Nguyễn Tuần cịn đầy tình tứ, phát hiện vẻ đẹp mơ mộng,
trữ tình của con sơng Đà. Vẻ đẹp trữ tình của sơng Đà quả như là đối cực với
sự hung bạo của chúng. Nếu như bên trên con sơng Đà bạo liệt, hung hãn bao
nhiêu, thì đến đây lại mơ mộng, hiền hòa bấy nhiều. Đoạn văn thấm đẫm màu
sắc văn chương và hội họa.


Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân hay qua thực cảnh sắc sông Đà, chẳng ai có
thể biết được, nhưng nó tốt lên vẻ đẹp của sự trữ tình, mơ mộng q đỗi. Sơng
Đà giờ đây khơng cịn hoang dại, mà tựa như một cô gái sơn cước miền Tây
Bắc vô cùng yểu điệu, thục nữ, lại có đơi nét mờ màng: “Con sơng Đà tn dài
tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc và chân tóc ẩn hiện trong mây trời
Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói mèo đất
nương xuân”. Đọc câu văn mà ngỡ như ta đang đọc một câu thơ của Nguyễn
Tuân vậy. Chất trữ tình thẫm trong cảnh vật, ngập đầy trong từng câu chữ. Chỉ
trong một đoạn văn không quá dài, nhưng trước vẻ đẹp trữ tình của con sông
mà Nguyễn Tuân đã hai lần phải thốt lên “chao ôi”. Vì được chiêm ngưỡng
cảnh đẹp, vì được gặp lại người bạn có nhân bao ngày xa cách. Đó là sự vui
mừng, cuống quýt thấp thỏm, đầy hạnh phúc. Sông Đà chính là cố nhân của
Nguyễn Tuần. Chính tâm trạng vui sướng đó đã khiến cơng có một đoạn văn
đầy xúc cảm: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sống
Đà. Chao ôi trông con sông, vui như thấy nắng giịn tan sau kì mưa dầm, vui
như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra sơng Đà, đúng
thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”. Không chỉ cảm nhận sông Đà là


người bạn, người cố nhận gặp lại sau nhiều ngày xa cách mà ơng cịn cảm nhận
được cái khơng khí cổ xưa, như bờ tiền sử hoang dại ở sơng Đà. Quả thực, có
lẽ chỉ có Nguyễn Tuân với những xúc cảm tinh tế của mình mới có thể cảm
nhận trọn vẹn được vẻ đẹp của sơng Đà ở mọi chiều kích khơng gian và thời
gian như vậy.


Với bài bút kí Sơng Đà nói chung và Người lái đị sơng Đà nói riêng ta khơng
chỉ thấy được vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài năng, với bút lực dồi dào. Mà
bên cạnh đó cịn thấy được tấm long của một con người yêu nước, dành trọn
cuộc đời mình khám phá, tơn vinh vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp của con người lao
động trong cuộc sống mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Người lái đị sơng Đà của Nguyễn Tn là bút ký đặc sắc, là kết quả của
chuyến thâm nhập thực tế vùng sông Đà 1958 - 1960 của nhà văn, in trong tập
bút ký Sông Đà. Cảm hứng gắn bó với mảnh đất và con người Tây Bắc đã in
đậm trong hình ảnh người lái đị nghệ sĩ và con sơng Đà vừa hùng vĩ vừa nên
thơ.


<i>Khi lịng ta đã hóa những con tàu</i>
<i>Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát</i>
<i>Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.”</i>


<i>(Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên)</i>


Trong những ngày tháng cả nước rộn rang lên đường theo tiếng gọi của “tâm
hồn Tây Bắc” để xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc, có biết bao nhà văn,
nhà thơ đã thực hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng. Một trong những
nhà nghệ sĩ yêu nước ấy là Nguyễn Tuân - cây độc huyền cầm của nền văn học
Việt Nam, người đã mang lại những tờ hoa thơm thảo cho đời. Nguyễn Tuân
đến với Tây Bắc qua tùy bút Người lái đị sơng Đà - một tác phẩm thể hiện rõ


nét và sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.


Đến với nghệ thuật, đối với Nguyễn Tn là đến với sự tìm tịi và sáng tạo, bởi
vì “nhà văn là người sáng tạo lại thế giới”. Nguyễn Tn sợ mình của ngày
hơm nay giống với mình của ngày hơm qua, sợ sự trùng lặp tầm thường. Chính
vì thế, ơng đã lấy “chủ nghĩa” xê dịch “làm đề tài cho tác phẩm, làm mục đích
cho cuộc đời mình. Sống là để đi, để tìm hiểu những điều mới lạ.


Trước cách mạng, một mình với chiếc vali, Nguyễn Tuân đã bôn ba trên nhiều
miền quê đất nước nhưng với tâm trạng của kẻ “thiếu quê hương”, bất mãn với
cuộc đời. Đó cũng là tâm trạng chung của thời đại. Sau cách mạng, ông cũng
xuôi ngược nhiều nơi nhưng với tinh thần của người yêu quê hương xứ sở,
muốn góp phần vào cơng cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính nhà văn đã từng nói
đến Tây Bắc là để “đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc sơng núi Tây Bắc, và
nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày
nay đang nhiệt tình gắn bó với cơng cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa
tươi vui và bền vững”. Với tình yêu quê hương sâu nặng và bầu nhiệt huyết sôi
nổi ấy, Nguyễn Tuân đã sử dụng uyển chuyển, tinh vi vốn ngơn ngữ phong phú
của mình để viết nên những tờ hoa thơm thảo về con người và thiên nhiên của
miền sông núi này…


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được nét trữ tình ở sơng Đà. Miêu tả
con sơng ở những đoạn xi dịng, ngịi bút Nguyễn Tn bỗng trở nên mềm
mại, uyển chuyển, mang đậm chất thơ. “Con sông Đà tn dài như một áng tóc
trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa
gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xn”…


Trên con sơng ấy, ơng lái đị xuất hiện, dữ dội và phi thường. Trong cuộc chiến
đấu “một mất, một còn” với thác nước, tác giả cho ta thấy được cái tài hoa, trí
dũng tuyệt vời của ông lái. Người lái đò sông Đà là hiện thân của tác giả, chỉ


thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm với thác nước dữ dội mà không
ưa xuôi thuyền trên dịng sơng êm ả…


Giọng văn Nguyễn Tn thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái
đối lập của cùng một sự vật. Sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, vừa là “kẻ thù,
vừa là “cố nhân”. Dưới ngịi bút tác giả, con sơng khơng chết cứng mà vận
động một cách mạnh mẽ, sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tác động
mạnh vào giác quan người đọc. Ơng lái đị cũng thế cũng xuất hiện một cách
sinh động, rõ nét và sắc sảo… Đối với Nguyễn Tuân, “đã là văn thì trước hết
phải là văn”. Văn phải đẹp, phải trau chuốt. Cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn
của tác giả trên tồn bộ tác phẩm. Con người và sự vật, qua ngòi bút Nguyễn
Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ.


Nét đẹp sông Đà là một cơng trình dày cơng sáng tạo của tạo hóa. Nó vừa hùng
vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp từ dáng dấp đến màu sắc. Cái áng tóc trữ tình của người
thiếu nữ ấy là nguồn cảm hứng cho biết bao nhà thơ, nhà văn. Nước sông Đà
cũng thế. “Mùa xuân dịng xanh ngọc bích”, “Mùa thu nước sơng Đà lừ lừ chín
đỏ như da mặt người bầm đi vì rượi bữa”. Con sông ấy đối với tác giả không
chỉ đơn thuần là một cảnh đẹp thiên nhiên mà nó thật gợi cảm. Nó gây nên nỗi
nhớ da diết cho những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi lại đi xa. Gặp lại sông Đà,
tác giả cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố nhân. “Chao ôi,
trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại
chiêm bao đứt quãng”.


<b>Phân tích tác phẩm Người lái đị sơng đà mẫu 5</b>


Nguyễn Tuân - người được mệnh danh là “Người đi tìm cái đẹp, cái thật trong
đời” khơng chỉ là một trí thức u nước mà ơng cịn là một nhà văn tài hoa,
uyên bác. Ông đã để lại nhiều tác phẩm lớn, nổi bật hơn cả là tùy bút “ Người
lái đị sơng Đà” (1960). Tác phẩm là thành quả của nhà văn trong chuyến ơng


đi tới Tây Bắc tìm kiếm chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc. Tác phẩm
tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn sau cách mạng tháng 8.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Trước hết, Nguyễn Tuân khắc họa vẻ đẹp của con sông Đà được nhân hóa như
con người, nó mang linh hồn độc đáo vừa có nguồn gốc, lai lịch rõ ràng, lại vừa
mang tính cách hung bạo, trữ tình. Con sơng được giới thiệu:


<i>“Chúng thủy giai đơng tẩu</i>


<i>Đà giang độc Bắc lưu”</i>


Ý nói mọi con sơng đều chảy theo hướng Đơng, chỉ có sông Đà chảy theo
hướng Bắc. Đây là một cách giới thiệu ấn tượng, đập thẳng vào nhãn quan
người đọc sông Đà hiện lên như một cá thể rất có hồn. Sông Đà khai sinh ở
huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam. Nó mang hai tính cách. Đầu tiên là tính cách
hung bạo và trữ tình, được thể hiện ở khía cạnh: Nguyễn Tuân miêu tả cảnh đá
ở bờ sông “đá dựng vách thành lịng sơng hẹp, có qng con hươu con nai còn
nhảy vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia, nhìn từ dưới lên như nhìn lên cái tịa
nhà cao vừa tắt phụt đèn điện”. Đặc biệt ở đọan mặt ghềnh dài hàng ngàn cây
số thì “nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt
năm như đòi nợ suýt bất cứ ai đi qua quãng ấy”. Thật nguy hiểm, rung rợn. Đâu
chỉ có vậy, Cái hút nước giống như cái giếng bê tông, nước thở và kêu như cái
cống cái bị sặc, tưởng tượng một anh quay phim táo bạo ngồi thuyền thúng mà
cầm máy quay cùng chìm xuống cái xốy ấy”. Hay đến thác nước với những
âm thanh dữ dội như càng xóay vào lịng người nhiều hiểm ngay đang rình rập
chỉ chờ chực sẵn con mồi “tiếng nước “ réo”, “tiếng nước thác nghe như là oán
trách… van xin … khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… nó rống lên như
tiếng một ngàn con trâu mộng…”. Nước như một đội quân hùng mạnh, dữ tợn.
Đáng sợ hơn tất cả hình ảnh đá ở lòng như như đang bày binh bố trận địa thác
đá với 3 trùng vi. Trùng vi thạch trận thứ 1: “mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử


một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn”. Sang đến trùng vi thách trân
thứ 2 đã tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố
trí qua phía bờ hữu ngạn. Và trùng vi trạch trận thứ 3 cả bên trái lẫn bên phải
đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ngay giữa bọn đá hậu
vệ.. Việc bày binh bố trận vừa theo một quy luật trật tự nhất định để ngăn cản
những ứng viên rắn chắc chèo chống về phía đích. Họ như những cầu thủ
chuyên nghiệp trên sân cỏ đang lao mình ra để bảo vệ cầu môn, không cho
quân địch hay kẻ ngồi này le lói gần khung thành. Bằng lối viết tài hoa, một
kiến thức sâu rộng uyên bác, Nguyễn Tuân đã viết nên những câu văn theo kiểu
móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, sử dụng xen kẽ biện pháp tư từ nhân hóa, so
sánh rõ rệt để làm nổi bật hình ảnh con sơng Đà cuồng nộ, như muốn mình là
vua của cả thế giới. Con sơng ấy hung bạo, hiểm trở, là kẻ thù số 1 của con
người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

sông Đà cũng thay đổi theo mùa rất đẹp và quyến rũ, mùa xn, dịng xanh
ngọc bích, mùa thu nước sơng Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì
rượu bữa. Sự thay đổi sắc màu tạo cho sông Đà mang một vẻ đẹp huyền bí, q
phái. Nhà văn cịn miêu tả hai bên bờ sông Đà cũng tươi mới không kém. “Bờ
sông hoang dại như một bờ tiền sử”. Sông Đà, con sông chứng kiến biết bao
nhiêu thăng trầm của lịch sử, nó là chứng nhân lịch sử vĩ đại cũng là một con
sông đẹp kiều diễm mà nên thơ. Con sông ấy gợi trong lòng nhà văn nhiều cảm
xúc, như một “cố nhân”.


Bằng tài năng của mình, Nguyễn Tuân đưa người đọc khám phá một con sông
Đà mang nhiều trạng thái cung bậc, khi thì dữ dội, khi lại nên thơ trữ tình. Con
sơng ấy dưới ngịi bút điêu luyện của ơng được coi như là một khám phá lớn,
một cơng trình nghệ thuật vĩ đại mà tạo hóa ban tặng cho Tây Bắc.


Song song với hình tượng con sơng Đà là hình ảnh người lái đị sơng Đà - một
tay lái ra hoa với trí dũng song tồn. Nguyễn Tn đã miêu tả ngoại hình của


ơng rất độc đáo: “tay lêu nghêu như cái sào, chân khùynh khùynh”. Ông quê ở
ngã tư sơng, là người từng trải, ơng làm nghề lái đị đã được mười năm liền.
Ơng với con sơng Đà gắn bó mật thiết với nhau, như người bạn tri kỉ của mình.
Với kinh nghiệm chinh chiến trên con sơng ấy đã nhiều năm, ông nắm chắc
từng luông lạch, từng ngọn thác và đặc biệt, ông nắm rất vững quy luật của
“thần sơng thần đá” trên con sơng Đà. Vì ơng am hiểu con sông ấy một cách
tường tận, thấu đáo nên ơng rất thích vượt thác, đối mặt với con sông ấy. Chỉ
với vài nét khắc họa đơn giản, Nguyễn Tuân đã phác họa được một người lái
đò yêu nghề, u thiên nhiên, thích hịa mình rượt đuổi cùng thiên nhiên.


Vẻ đẹp của ơng lái đị được nhà văn miêu tả rất chi tiết qua những lần ông vượt
thác. Tay lái ra hoa ấy càng khiến người đọc thêm khâm phục phần nào về tài
năng, bản lĩnh dám đương đầu với thử thách. Trên con sông hùng vĩ nguy hiểm
ấy, ông lái đò hiện lên với tư thế hiên ngang của một dũng tướng chỉ huy chiến
trận. Ông chỉ huy con thuyền mình luồn lách tới đích vượt qua các chướng ngại
vật với phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Ở vịng vây thứ nhất, ơng hai tay
giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Hai
chân ơng vẫn kẹp chặt lấy cuống lái. Đến vịng vây thứ hai, khơng một phút
nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá ln vịng vây thứ hai và đổi ln chiến thuật. Ơng
cưỡi lên thác sơng Đà, nắm bờm sóng, ghì cương lái, bám lấy luồng nước đúng
mà phịng nhanh vào cửa sinh. Và ở vịng cuối, ơng phóng thẳng thuyền, chọc
thủng cửa giữa. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vừa tự động lái được lượn được. Cuộc vượt thác thành công. Mặc dù có
lúc ơng gặp khó khăn bị thương nhưng ông vẫn bình tình, dũng cảm đối mặt
sau cùng nếm vị ngọt thành quả: “đốt lửa trong hang đá, bàn tán về cá anh vũ”.
Cuộc chiến khốc liệt kết thúc thắng lợi vẻ vang.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

tới - một bức chân dung người lao động vừa hiên ngang, khí phách, ngang tàng
lại rất giản dị.



Tóm lại, “Người lái đị sơng Đà” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách
nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Bằng tài năng, ngòi bút uyên thâm cùng kiến
thức tổng hợp phong phú, ông đã rất thành cơng khi xây dựng được nhân vật
người lái đị hùng dũng, hiên ngang và hình ảnh con sơng Đà với hai tính cách
trái ngược nhưng rất đỗi đẹp đẽ. Tùy bút” Người lái đị sơng Đà” ln sống mãi
trong lịng người đọc và trường tồn theo thời gian.


<b>Phân tích tác phẩm Người lái đị sơng đà mẫu 6</b>


Nguyễn Tn người nghệ sĩ suốt một đời đi tìm cái đẹp và trăn trở về cái đẹp.
Nếu như trước cách mạng ơng thốt li thực tại, tìm cái đẹp ở thời cịn vang
bóng, thì sau cách mạng cốt cách ấy vẫn duy trì nhưng ơng tìm thấy cái đẹp
trong cuộc sống này, ở những con người lao động hết sức bình dị. Người lái đị
sơng Đà được trích từ tập bút kí Sơng Đà là những nét vẽ chân thực về vẻ đẹp
hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc, và vẻ đẹp hào hùng của con người trong lao
động.


Tập tùy bút Sơng Đà nói chung là kết quả chuyến đi thực tế của nhà văn
Nguyễn Tuân lên mảnh đất Tây Bắc vào những năm 1958-1960. Đây là thời kỳ
miền Bắc sau ngày giải phóng đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo tiếng gọi
của Đảng miền Bắc đang đấy lên phong trào tình nguyện đến những vùng xa
xơi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.


Như chúng ta biết rằng, mỗi lời đề từ xuất hiện, thường sẽ tập trung tư tưởng
của tác phẩm, là chìa khóa mở cánh cửa vào tác phẩm, hé lộ tư tưởng, chủ đề,
cảm hứng chủ đạo. Người lái đị sơng Đà sử dụng hai lời đề từ: Lời đề từ thứ
nhất: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”, đây là câu thơ nổi tiếng của nhà
thơ cách mạng Ba Lan mang cấu trúc cảm thán. Câu thơ có thể là câu hát của
những người chèo đị, kéo thuyền vượt thác với tâm hồn lạc quan, yêu thiên
nhiên, yêu lao động, cũng có thể là sự ngơi ca của chính nhà văn trước tư thế


làm chủ thiên nhiên của con người trong cuộc sống mới. Câu thơ thứ hai,
Nguyễn Tuân mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích: “Chúng thủy giai đông
tẩu/ Đà giang độc bắc lưu”. Câu thơ đã hé mở cho người đọc thấy, mọi dịng
sơng đều chảy về hướng đơng, duy có sơng Đà chảy theo hướng Bắc. Câu thơ
đã khẳng định sự độc đáo của Đà giang đồng thời hé lộ cá tính nghệ thuật của
Nguyễn Tuân - nhà văn của những phong cảnh tuyệt mĩ, cảm giác mãnh liệt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

đã diễn tả sự nhỏ hẹp của dòng chảy gợi ra lưu tốc rất lớn nhất là vào mùa nước
lũ với bao nhiêu nguy hiểm rình rập. Với trường liên tưởng độc đáo, Nguyễn
Tuân tiếp tục khắc họa đậm nét hơn nữa về những vách đá lạnh lẽo, tăm tối, ở
khúc sông nhỏ và hẹp: “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà
cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên
một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.


Không chỉ vậy sự hung bạo cịn thể hiện ở “qng mặt ghềnh Hát Lng”, ở
đoạn này, Nguyễn Tn đã nhân hóa dịng sơng như một sinh thể người, đó là
kẻ đi địi nợ th, với gương mặt dữ dằn, tàn bạo. Câu văn với nhịp điệu dồn
dập, điệp từ, điệp cấu trúc được vận dụng liên tiếp (nước xơ đá, đá xơ sóng,
sóng xơ gió) kết hợp với các thanh trắc liên tiếp đã tạo nên âm hưởng dữ dội,
nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa xơ đẩy, vừa hợp sức của sóng, gió và
đá khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dằn, tạo nên một mối đe
dọa thực sự đối với bất kì người lái đị nào “qng này mà khinh suất tay lái thì
cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.


Sự hung bạo còn được thể hiện ở những cái hút nước tàn độc, được giăng mắc
trên khắp khúc sông, như trực lấy mạng của con người bất cứ lúc nào. Để tái
hiện sự khủng khiếp của những cái hút nước, Nguyễn Tuân đã lia máy quay ở
nhiều chiều kích khác nhau, cho người đọc một cái nhìn tồn diện, đầy đủ nhất.
Khi nhìn từ trên xuống mặt nước sông “giống như cái giếng bê tông thả xuống
sông để chuẩn bị làm móng cầu”; từ dưới lịng sơng nhìn ngược lên “thành


giếng xây tồn bằng nước sơng xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối
pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào…”. Và để giúp người đọc cảm nhận được rõ
hơn, tác giả còn đưa ra những vị thế cảm nhận khác nhau, với người quay phim
thì như “ngồi vào một cái thuyền thúng trịn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả
máy quay xuống đáy cái hút sông Đà…” ; với người xem phim lại thấy “thấy
mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt
vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn…”. Với
những trải nghiệm và góc nhìn phong phú Nguyễn Tuân đã cho người đọc cảm
nhận đầy đủ mức độ nguy hiểm tột cùng của dịng sơng Đà mà ở đây là những
cái hút nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Bên cạnh vẻ đẹp hung bạo, sông Đà lại hiện lên một vẻ đẹp rất khác, hồn tồn
đối lập, đó chính là vẻ đẹp trữ tình. Từ trên cao nhìn xuống, dịng chảy uốn
lượn của con sơng giống như “cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình”,
đặc biệt là giống như mái tóc của người thiếu nữ “con sơng Đà tn dài tn
dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương
xn”. Dịng sơng như một người thiếu nữ, với mái tóc tn dài, tn dài, tha
thướt, uyển chuyển khơng ngờ. Vẻ đẹp của dịng sơng hài hòa với núi rừng Tây
Bắc, được núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc mĩ miều. Không chỉ vậy ở
những thời điểm khác nhau sông Đà cũng mang vẻ đẹp riêng: Mùa xuân, nước
Sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, tươi sáng, trong trẻo, lấp lánh; Mùa thu,
nước Sơng Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ
lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Không
chỉ vậy, vẻ đẹp sông Đà con như được bước ra từ miền cổ tích xa xôi, với
những bãi bờ hoang dại như thời tiền sử: “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn
chuồn bươm bướm trên sông Đà”. Nhà văn đã cảm nhận được cái chất “đằm
đằm ấm ấm” thân thuộc khi gặp lại sau một thời gian “ở rừng đi núi đã hơi
lâu”.



Người lái đò sơng Đà khơng chỉ nổi bật ở hình tượng con sơng Đà, mà để điểm
tơ, hồn thiện vẻ đẹp sơng Đà cần có sự xuất hiện của con người, và thật đẹp đẽ,
chân dung người lái đò đã được Nguyễn Tn thể hiện tài tình, rõ nét. Người
lái đị khơng có một tên gọi cụ thể, mà chỉ được gọi tên là người lái đò Lai
Châu. Để làm bật vẻ đẹp người lái đị, chân dung ơng ln được tái hiện tương
quan với dịng sơng Đà. Nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật một cuộc chiến
không cân sức: một bên là thiên nhiên bạo liệt, hung tàn, sức mạnh vơ song với
sóng nước, với thạch tinh nham hiểm, một bên là con người bé nhỏ trên chiếc
thuyền con én đơn độc và vũ khí trong tay chỉ là những chiếc cán chèo. Nhưng
dù sông Đà gian ngoan, xảo quyệt bao nhiêu thì người lái đị lại kiên cường
bám trụ bấy nhiêu “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa
phóng thẳng vào mình”. Đặc biệt trong lần vượt trùng vi thạch trận thứ ba, ông
lái đị đã thể hiện rõ tài nghệ của mình. Ơng cứ “phóng thẳng thuyền, chọc
thủng cửa giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa
trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên
vừa tự động lái được lượn được”… để rồi chiến thắng vinh quang. Câu văn
“thế là hết thác” như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đã bỏ lại hết
những thác ghềnh ở phía sau lưng. Chiến thắng của ông trước hết xuất phát từ
sự ngoan cường, lịng dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách
khốc liệt của cuộc sống. Đây đông thời cũng là chiến thắng của tài trí con
người, của sự am hiểu đến tường tận tính nết của sơng Đà.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

ung dung, bình tĩnh, tự tại trong cuộc chiến đầy cam go nhưng cũng thật hào
hùng. Và phong thái nghệ sĩ của ơng lái đị thể hiện trong cách ơng nhìn nhận
về cơng việc của mình, bình thản đến độ lạ lùng. Khi dịng sơng vặn mình hết
thác cũng là khoảnh khắc “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Những nhà đị
dừng chèo, đốt lửa nướng ống cơm lam, bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, “về
những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá
túa ra tràn đầy ruộng”.



Bằng ngịi bút vơ cùng tài hoa, tinh tế, Nguyễn Tuân đã tạo nên những trang
văn đẹp cả về hình thức và tư tưởng. Tác phẩm được tạo nên từ tình yêu quê
hương đất nước sâu nặng, tha thiết. Không chỉ ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ của quê
hương đất nước mà còn khẳng định sự lớn lao, sức mạnh phi thường của những
con người bình thường trong hành trình chinh phục thiên nhiên.


<b>Bài văn mẫu 7</b>


Nguyễn Tuân sinh năm 1910, mất năm 1987 là một nhà nghệ sĩ lớn của dân tộc
Việt Nam. Vốn là một người tri thức giàu lòng yêu nước lại am hiểu sâu rộng
nền văn hố dân tộc, ơng viết nên những tác phẩm rất mực uyên bác và giàu giá
trị. Nếu như trước cách mạng, văn học của Nguyễn Tuân chạm đến lòng người
bởi vẻ đẹp tài hoa của những con người "một thời vang bóng" như Huấn Cao
thì sau cách mạng, Nguyễn Tuân khiến người đọc rung cảm bởi sự tinh tế và tài
năng trong việc vẽ nên những nét đẹp gân guốc nhưng gần gũi, bình dị với
thiên nhiên và đời sống con người. Tuỳ bút "Người lái đị sơng Đà" là một
thành công tiêu biểu cho phong cách văn học ấy.


Trong tuỳ bút, Sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, kiêu sa, dữ dội lại vừa xinh đẹp,
dịu dàng, thơ mộng. Nguyễn Tn đã miêu tả dịng sơng trên nhiều góc độ,
nhiều phương diện mà nhìn trên phương diện nào cũng thấy thấy đẹp, thấy u.
Khơng tĩnh lặng soi bóng hàng tre mỗi trưa hè, cũng không mang nét tư lự
trong từng hơi thể khi màn đêm buông xuống mà sông Đà hiện lên vô cùng
sống động, dữ dội và mãnh liệt. Nó như được xem là "kẻ thù số một của con
người".


Những con thác lớn dữ dội, những gạn nước từ Vạn Yên về xuôi thật mênh
mang. Hai bờ sông dựng đá thành những vách hiểm trở khôn cùng. Nước và
sóng xơ chồng lên nhau như đang thi nhau phơ bày tất cả vẻ dữ tợn, oai hùng
của mình: "Có vách đá thành chẹt lịng Sơng Đà như một cái yết hầu. Đứng bên


này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có
lần vọt từ bờ này sang bờ kia”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

của mình sẵn sàng nhấn chìm bất kể ai không vững vàng tay lái trước từng con
con sông, khơng làm chủ trên chiến trận chinh phục dịng sơng.


Bởi vậy mà nó khiến bao con thuyền đi qua phải dè chừng, hoảng sợ, cố tránh
né những cạm bẫy mà sơng Đà bố trí sẵn: “Khơng thuyền nào dám men gần
những cái hút nước ấy, thuyền nào cũng chèo nhanh để lướt quãng sông”, biết
bao nhiêu bè gỗ đã phải chịu trận trước những hút sâu khổng lồ, biết bao nhiêu
con thuyền nghênh ngác phải tan xác dưới lịng sơng.


Vốn am hiểu sâu sắc cùng sự trải nghiệm của mình Nguyễn Tuân dùng những
ngôn từ mới lạ, lĩnh hoạt, độc đáo để miêu tả một dịng sơng Đà. Sơng Đà cũng
mang dáng dấp đẹp đẽ, dịu dàng và thơ mộng, uyển chuyển như vẻ đẹp của
người thiếu nữ chốn núi rừng Tây Bắc vậy. Sông Đà lúc này thật thơ và mơ
mộng, tình yêu như đang tràn với bao cảm xúc nồng nàn khó tả: “Con sơng Đà
tn dài, tn dài như một áng tóc trữ tình...cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt
nương xn".


Vẻ đẹp của dịng sơng thật n bình, khơi gợi sự u thương, đưa lịng người
đến với những rung cảm trong tâm hồn mình, một sức hấp dẫn tuyệt vời q
đỗi. Đơi lúc, sơng Đà cũng có những cảm xúc, cũng nhớ, cũng thương như bao
người vậy. Vẻ đẹp trữ tình của dịng sơng cịn được thể hiện giữa thiên nhiên,
mây trời tạo nên nét riêng biệt không trộn lẫn, bởi vậy dù bất cứ lúc nào nó
cũng khiến người thưởng thức bị thu hút: "Tơi đã nhìn say sưa làn mây mùa
xn bay trên sơng Đà, tơi đã xun qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống
dịng nước sơng Đà”.


Khơng chỉ vậy, sơng Đà cịn khiến người ta thích thú bởi sắc nước đổi thay


theo mùa: “Mùa xn dịng xanh ngọc bích, chứ nước Sơng Đà không xanh
màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sơng Đà lừ lừ chín
đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một
người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về".


Bờ sơng Đà cũng thật đẹp, thật ngọt ngào bởi hương vị của hoa, của bướm, của
chuồn chuồn, của những bãi ngô non đầu mùa hay những cơ giành vàng nõn
búp. Đó đây những đàn hươu đang thong thả gặm những bãi cỏ non tơ ướt đẫm
sương đêm, mọi vật như đang hồ mình trong nét tuyệt diệu của dịng sơng, tơ
điểm nên một vẻ đẹp gọi mời khiến lòng người thổn thức: "Con hươu thơ ngộ
ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tơi lừ lừ trơi trên một
mũi đị. Hươu vểnh tai, nhìn tơi khơng chớp mắt mà như hỏi tơi bằng cái nói
riêng của con vật lành: “Hỡi ơng khách Sơng Đà, có phải ơng cũng vừa nghe
thấy một tiếng cịi sương?”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Cùng với hình tượng sơng Đà cá tính, đến với tác phẩm ta cịn cảm nhận được
hình ảnh người lái đị tài hoa, nghệ sĩ, điêu luyện trên dịng sơng. Người lái đị
ấy khơng phải là một chàng thanh niên trai tráng với thân hình vạm vỡ mà là
một ông già đã gần bảy mươi tuổi: “Trên dịng sơng Đà ơng xi, ơng ngược
hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái độ sáu chục lần". Phải chăng những kinh
nghiệm qua bao cuộc hành trình suốt mười năm làm việc đã giúp ông trở nên
thuần thục, bản lĩnh và kiên trường đến như vậy: "Ông nhớ tỉ mỉ như đóng
đanh vào lịng đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở".


Người lái đò như một thứ "vàng mười" đã qua thử lửa: Cái đầu bạc quắc thước
ấy đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mùn", con
người ông là con người của chốn sông nước hùng vĩ, trên ngực ông là những
"củ khoai nâu" in dấu những trận chiến vật vã với con sông Đà dữ dội, với tác
giả dường như đó là những tấm huy chương cao quý mình chứng cho sức lao
động của con người trong cơng việc của mình.



Đứng trước những đợt sóng kinh hồng, những thạch trận hiểm nguy, ơng
khơng hề sợ sệt mà trái lại càng bản lĩnh thích thú hơn: "Ngoặt khúc sơng lượn,
thấy sóng bọt đã trắng xố cả một chân trời đá...Và một mình một thuyền ơng
đã giao chiến như một vị dũng sĩ đầy tài ba. Trải qua ba thạch trận bằng dũng
cảm, mưu trí cả mình, người lái đị đã chiến thắng , trở về với cảnh lao động và
cuộc sống bình yên: "Thế là hết thác...Sơng nước lại thành bình. Đêm ấy nhà
đị đốt lửa trong hàng đá, nướng ống cơm lam..." .


Nguyễn Tuân đã mang đến cho nền văn học nước nhà một kiệt tác vô cùng độc
đáo, một phong cách nghệ thuật riêng biệt, uyên bác, tài hoa. Khép lại những
trang văn của tùy bút “Người lái đị sơng Đà”, em vẫn khơng ngi cảm xúc
lâng lâng trong tâm hồn mình, có chăng, đó là những điều đẹp đẽ nhất mà văn
học đã mang lại, khơi gợi trong lịng mình những cảm xúc thẩm mỹ vô cùng
lớn. Thật cảm ơn Nguyễn Tuân, một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp để
nâng niu những giá trị vững bền của đời sống lao động và của dân tộc.


<b>Bài văn mẫu 8</b>


Nói đến Nguyễn Tuân là người ta nghĩ ngay đến một nhà văn suốt đời đi tìm
cái đẹp. Cái đẹp trong các tác phẩm của ông phải là cái đẹp đạt đến độ hoàn
thiện, hoàn mỹ. Sự nghiệp cầm bút của Nguyễn Tuân đạt được rất nhiều thành
tựu kể cả trước và sau cách mạng. “Người lái đị sơng Đà” trích từ tập tuỳ bút
“Sông Đà” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách
mạng tháng Tám.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Ngay ở những câu văn đầu tiên, Nguyễn Tuân đã thể hiện rất rõ sự hung bạo
của sông Đà. Dịng sơng khơng trơi giữa đơi bờ “cát trắng phẳng lì” thơ mộng
mà bờ sơng “dựng vách thành”, cao vút, dựng đứng. Qng sơng thì hẹp đến
nỗi “con nai, con hổ có lần vọt từ bờ sơng này sang bờ kia”. “Mặt sơng chỗ ấy


chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, “đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm
thấy lạnh”, cái lạnh của từng lớp da thịt, của sự sợ hãi trước thiên nhiên nơi đây.
Khi đi qua quãng này, người ta cảm tưởng như mình “đang đứng ở một cái ngõ
nào mà ngóng vọng lên cái cửa sổ trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt
đèn điện”. Bằng một loạt hình ảnh miêu tả, Nguyễn Tuân đã đẩy người đọc từ
phố xá đô thị về khung cảnh hoang sơ đến đáng sợ của thiên nhiên sông nước.
Người ta thấy hiện ra trước mắt là một khúc sông Đà vừa sâu, vừa hẹp, vừa tối,
vừa lạnh đủ để bất kỳ ai đến đây cũng phải rùng mình sợ hãi.


Đi qua bảy mươi ba cái ghềnh, có thể kể tên đến năm mươi cái ghềnh nhưng sợ
hãi nhất là ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ
gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”. Kết cấu trùng điệp, nhịp văn
nhanh mạnh khiến người đọc không khỏi hãi hùng trước những âm thanh của
sóng, gió, nước, đá. Các từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa hợi âm thanh ghê
rợn vừa gợi những hình ảnh khủng khiếp của nơi đây. Sơng Đà được miêu tả
như những kẻ sẵn sàng “đòi nợ xt” những người trên sơng. Nó có thể gây ra
rất nhiều nguy hiểm mà con người không thể nào lường trước được.


Nhiêu đó vẫn chưa kể hết những sự đáng sợ của sông Đà. Nguyễn Tuân đã sử
dụng một loạt thủ pháp nghệ thuật khác nhau để lột tả hết cái vẻ hung bạo của
hút nước sơng Đà. Nhìn từ xa những cái xốy nước trên sơng giống như cái
lúm đồng tiền trên má cơ gái nhưng nó lại khơng hề duyên dáng, dễ thương,
thay vào đó nó có thể lôi tuột một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan
xác. Khơng chỉ vậy, Nguyễn Tn cịn so sánh những cái hút nước với những
cái giếng bê tông thả xuống sơng để chuẩn bị làm móng cầu. Hình ảnh so sánh
này vừa gợi độ sâu hun hút của những cái xốy nước vừa khiến người đọc
khiếp sợ khi hình dung ra nó. Càng sợ hãi hơn khi đọc những câu văn miêu tả
âm thanh của những cái hút nước. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị
sặc”. Nước không chỉ dồn về nhiều và nhanh mà cịn ặc ặc lên như mới rót dầu
sơi vào. Từ láy “ặc ặc” gợi cảm giác sông Đà giống như một lồi thuỷ qi bị


bóp chặt yết hầu đang quằn quại giãy giụa. Sự hung bạo này khiến nhà văn liên
tưởng đến hình ảnh một anh quay phim táo tợn nào đó mang máy quay ngồi
trên thuyền thúng xuống tận cái hút sơng Đà rồi từ đó lia ngược ống kính để
ghi lại cảnh tượng ghê sợ: một cái giếng như xanh toàn bằng thuỷ tinh như sắp
vỡ tan đổ ụp xuống cả người, cả máy quay phim. Con thuyền xốy tít, những
thước phim màu cũng quay tít. Ngịi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người
đọc cảm giác như đang được xem một bộ phim hành động hấp dẫn nhưng cũng
vô cùng đáng sợ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

thứ “kẻ thù số một của con người” đã dần hiện ra. Chúng vẳng tới bằng âm
thanh “réo gần mãi lại réo to mãi lên”. Tiếng thác nghe như là “oán trách”,
nghe như là “van xin”, “khiêu khích”, giọng gằn mà “chế nhạo”. Cách kết hợp
khéo léo giữa so sánh và nhân hoá này đã khiến sông Đà hiện lên với một tâm
địa phức tạp. “Thế rồi nó rống lên”, âm thanh được phóng to hết cỡ giống như
đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích man dại. Nguyễn Tn cịn so sánh
tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.


Và để tăng thêm sự hung dữ của sơng Đà, Nguyễn Tn cịn hướng ngịi bút
của mình vào miêu tả đá sơng. Hình ảnh ẩn dụ “cả một chân trời đá” gợi cảm
giác đá sông Đà nhiều vô kể. Những tảng Đá sông Đà đã được Nguyễn Tn
thổi hồn vào đó với từng tảng đá mặt hịn nào trơng cũng “ngỗ ngược”, “nhăn
nhúm”, “méo mó”. Rồi chúng còn vây thành một thạch trận giống như một trận
đồ bát qi trên sơng Đà.


Qua ngịi bút của Nguyễn Tn, con sơng hung bạo này chẳng khác gì kẻ thù
số một của con người. Thế nhưng ngay sau đó, khi sự hung bạo trơi qua, nó lại
hiện lên với cả vẽ trữ tình, thơ mộng đến khó tin.


Từ trên máy bay nhìn xuống “con sơng Đà tn dài tn dài như một áng tóc


trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa
gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”. Với việc so
sánh sông Đà “như một áng tóc trữ tình”, nhà văn đã khiến dịng sơng hiện lên
với cái vẻ kiều diễm của một người phụ nữ. Thông thường người ta sẽ thấy chữ
“áng” hay được dùng để chỉ những tác phẩm nghệ thuật, vậy mà ở đây Nguyễn
Tn đã dùng để chỉ sơng Đà. Có thể thấy trong suy nghĩ của tác giả, sông Đà
giống như một tác phẩm nghệ thuật mà tạo hoá đã tạo ra.


Sơng Đà khơng chỉ đẹp ở dáng hình mà còn đẹp ở màu nước. Tác giả đã quan
sát dòng sông ở những không gian và thời gian khác nhau. Mùa xn dịng
xanh ngọc bích, vừa trong xanh vừa óng ánh. Thu sang nước sơng chín đỏ như
da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Bằng việc miêu tả chi tiết, cụ thể cùng những
so sánh độc đáo sông Đà hiện lên vừa đẹp, vừa đa dạng và qua đây ta cũng thấy
được sự hiểu biết sâu rộng cũng như khả năng quan sát tinh tế của nhà văn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

và sự thanh thản trong tâm hồn con người. Giữa cái khung cảnh thơ mộng ấy
nhà văn nghe thấy một tiếng còi sương - tiếng còi xúp lê của một chuyến tàu
đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu, đó là âm thanh của một cuộc sống
hiện đại, đủ đầy.


Có thể thấy những câu văn miêu tả vẻ trữ tình, thơ mộng của sơng Đà đã tạo
nên một đoạn văn giàu chất thơ. Chất thơ ở cảnh sắc sông Đà, chất thơ của tâm
hồn con người.


Bằng vốn hiểu biết sâu rộng cùng tài năng miêu tả sắc sảo của mình, Nguyễn
Tuân đã đưa người đọc đi hết từ sợ hãi này đến bất ngờ khác khi miêu tả hai vẻ
đẹp hung bạo và trữ tình của sơng Đà.


Đọc “Người lái đị sơng Đà” người ta càng hiểu hơn lý do vì sao cái đẹp trong
văn của Nguyễn Tuân được gọi là cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Tác


phẩm một lần nữa khẳng định tài năng bậc thầy của Nguyễn Tuân trong việc sử
dụng ngôn từ vừa giúp người đọc thấy được tình yêu quê hương, đất nước mà
ông gửi gắm trong các tác phẩm của mình.


<b>Bài văn mẫu 9</b>


“Người lái đị sơng Đà” là thiên tùy bút rút trong tập “Sông Đà” (1960) của
Nguyễn Tuân. Đây là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu
hoạch được trong chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958. Trong chuyến đi
này, tác giả đã có cơ hội sống với những khoảnh khắc thân thuộc nhất, hào
hứng nhất của người nghệ sỹ trong ông. Ông cảm nhận được “thứ vàng mười
đã qua thử lửa” của những người lao động bình dị trên miền sơng nước hùng vĩ
và thơ mộng. Thật đúng khi cho rằng “thiên tùy bút là bài ca về vẻ đẹp của
người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”, mà điển hình,
dưới ngịi bút tài hoa của Nguyễn Tn, là hình tượng người lái đó vừa là
người anh hùng, vừa là người nghệ sỹ tài ba trong nghề của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

đó. Chỉ có u q nghề, gắn bó sâu đậm với nghề, nhiều năm một nắng hai
sương dong duổi chở khách trên con sông Đà hùng vĩ thì ngoại hình mới mang
đậm dấu ấn nghề nghiệp như vậy. Đây chính là phong cách viết độc đáo của
Nguyễn Tn, ơng ln nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói, “Hàm
lượng thơng tin” ở đó khơng bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn, chỉ khi chuyên
chú đọc ta mới khám phá ra được nhiều tầng ẩn ngôn hàm chứa trong từng câu
văn của tác giả.


Nhưng chỉ những nét miêu tả ngoại hình thơi thì chưa đủ. Trong ơng lái
đị cịn ẩn chứa rất nhiều điều tuyệt vời đặc biệt của một người từng trải thạo
nghề. Ông là một linh hồn muôn thuở của sông nước này. “Trên sông Đà, ông
xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái đị sáu mươi lần cho
những chuyến thuyền then đuôi én sau chèo”. Sự từng trải ấy cịn được thể hiện


qua trí nhớ siêu phàm của ông. Trí nhớ ấy được rèn luyện cao độ bằng cách lấy
mắt mà nhớ tỷ mỉ 73 con thác, như đóng đanh vào lịng tất cả những luồng
nước của con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò như một
bản trường thiên anh hùng ca mà ơng thuộc lịng đến cả những cái dấu chấm
than chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Khi được tác giả hỏi chuyện,
người lái đò đã bảy mươi tuổi, làm nghề đó dọc mười năm liền và đã nghỉ làm
nghề đôi chục năm nhưng trong ông, bản lĩnh kiên cường dường như khơng hề
suy chuyển. Ơng vẫn rất tự tin mà rằng: “Tôi bỏ nghề đã lâu rồi nhưng nay cho
lên thác xuống ghềnh tôi dám thi đua với bạn đị ở khắp mấy châu có địa giới
loang ra bờ sơng Đà, cũng cịn cái linh lợi để trở mừng một phái đoàn trung
ương vừa lên vừa xuống thăm dị khảo sát tồn bộ sơng Đà cho đến biên giới
Trung Quốc”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn chúng giăng sẵn trận đồ bát quái với ba
trùng vi. Trùng vi một có 4 cửa tử và 1 cửa sinh. Sóng trận địa phóng thẳng,
mặt nước hị la vang dậy mà vào bẻ gãy cán chèo vũ khí của ơng lái đị nhưng
ơng vẫn hai tay giữ chắc mái chèo khỏi bị hất lên. Vì thế sóng nước lại càng
dọa dẫm, sấn sổ, hiếu chiến như thể quân liều mạng. Nước bám lấy thuyền như
đồ vật túm lấy thắt lưng ơng lái đị lật ngửa mình giữa trận nước. Khi sơng Đà
tung ra miếng địn hiểm độc nhất nốc ao đối phương, ơng lái đị cũng chẳng run
tay, cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt móc bệch. Ơng
chỉ huy hết sức ngắn gọn và tỉnh táo, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con
thuyền vượt qua trùng vi một hiểm trở. Phá xong trùng vi thạch trận thứ nhất
ông lái đị phá ln vịng vây thứ hai. Trùng vi hai tăng thêm nhiều cửa tử để
đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại được bố trí lệch qua bờ hữu ngạn thật
nham hiểm và xảo quyệt, thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ.


Bốn, năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định nhử
thuyền vào tập đồn cửa tử. Nhưng ơng lái đị đã nắm chắc được binh pháp của
thần sông, thần đá, không một chút nghỉ tay nghỉ mắt, ơng lái đị nắm chặt lấy


cái bờm sóng đúng luồng, ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà
phóng nhanh vào cửa sinh lái miết một đường chéo về phía cửa đá. Thật điêu
luyện. Đến vịng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả,
luồng sông nằm ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Một ơng lái đị và sáu tay trèo,
tưởng chừng như con người hết sức nhỏ bé, ít ỏi, cạn kiệt sức lực giữa một
thiên nhiên hung dữ. Nhưng không, như một vị tướng lão luyện dày dặn kinh
nghiệm, trận mạc, ơng lão phóng thẳng thuyền trọc thủng cửa giữa. Thuyền vụt
qua cổng đá, cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong
cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh cho qua hơi nước, vừa xuyên,
vừa tự động lái được. Thế là kết thúc.


Tác giả đã rất dày công khi miêu tả trận thủy chiến với con sông Đà của
ông lão lái đị. Một loại những hành động nhanh mạnh: Phóng nhanh, phóng
thẳng, lái miết một đường, chọc thủng, xuyên nhanh,… Kết hợp với nhịp văn
gấp gáp, hơi văn căng thẳng, câu văn dồn dập gợi nên một cuộc giao tranh giáp
lá cà một sống, một chết. Hơn nữa thư pháp nghệ thuật tương phản được sử
dụng triệt để và rất độc đáo trong tác phẩm đã xây dựng lên hai phe đối lập:
một bên là thiên nhiên hung tàn, bạo liệt với một bên là con người nhỏ bé
nhưng đầy bản lĩnh, sự quả cảm và khả năng chinh phục thiên nhiên kỳ diệu.
Ơng lái đị trong tay chỉ có một mái chèo “Như cái que giữa bạt ngàn sóng
thác” như một vị tướng bách chiến bách thắng, phá thành vượt ải.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

dựng nông thôn mới, không chỉ là tầng lớp thanh niên “Tuổi hai mươi khi
hướng đời đã thấy/ Là xa xôi biết mấy cũng lên đường”, mà cùng với họ, ơng
lái đị sơng Đà đã góp phần làm nổi bật, tôn lên vẻ đẹp, phẩm chất của người
lao động trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 55 – 60.


Quả thật, vẻ đẹp "chất vàng mười đã qua thử lửa" trong tâm hồn của con
người Tây Bắc đã được Nguyễn Tuân dày công khám phá trên dòng Đà giang
khuất nẻo. Nếu như thiên sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “Kẻ thù


số một của con người”, thì cũng chính thiên nhiên qua ngịi bút của nhà văn là
nơi đã tơn vinh giá trị con người lao động. Quả thật sâu sắc khi nói “Thiên tùy
bút là bài ca về vẻ đẹp của con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội”. Tác phẩm sẽ mãi là bản trường ca hào hùng đi cùng năm tháng.


</div>

<!--links-->
<a href=' /> Tuyển tập những bài văn Phân tích thơ hiện đại lớp 9 hay đặc sắc nhất
  • 69
  • 19
  • 34
  • ×