Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Chính sách phát triển du lịch của một của Nhật Bản và một số gợi ý cho phát triển du lịch Việt Nam hiện nay: Đề tài nghiên cứu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.75 MB, 97 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>




<b>ĐỀ TÀI </b>



<b> CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU </b>



<b>LỊCH CỦA NHẬT BẢN VÀ MỘT SỐ </b>


<b>GỢI Ý CHO PHÁT TRIỂN DU LỊCH </b>



<b>VIỆT NAM HIỆN NAY </b>



<i><b> </b></i>



 Chủ nhiệm: TS. Nguyễn Thị Hồng Bích


 Thành viên: ThS. Lâm Ngọc Như Trúc



<b> </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2></div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>Trang </b>


<b>LỜI MỞ ĐẦU </b> <b>1 </b>


1. Đặt vấn đề 2


2. Giải quyết vấn đề 4


2.1 Mục tiêu của đề tài 4


2.2 Phương pháp nghiên cứu 4


2.3 Nội dung nghiên cứu 5



<b>CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH NHẬT BẢN </b>


<b>TRƯỚC NĂM 2012 </b> <b>6 </b>


1.1 Giới thiệu chung về Nhật Bản 7


1.2 Thực trạng phát triển du lịch Nhật Bản trước năm 2012 10


<b>CHƯƠNG II: CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỦA NHẬT BẢN </b>


<b>(2012 – NAY) </b> <b>30 </b>


2.1 Chính sách "Abenomics" 31


2.2 Các chiến lược và chính sách phụ trợ cho phát triển du lịch của Nhật 34


<b>CHƯƠNG III: MỘT SỐ GỢI Ý CHO PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT </b>


<b>NAM </b> <b>48 </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>KẾT LUẬN </b> <b>60 </b>


Thư mục tài liệu tham khảo 63


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>LỜI MỞ ĐẦU </b>



Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, mang nhiều nét đặc thù và có vai
trò quan trọng trong phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Theo Hội đồng Du
lịch và Lữ hành thế giới (WTTC), năm 2016, du lịch và lữ hành tồn cầu đóng


góp trực tiếp vào GDP hơn 2,3 nghìn tỷ USD (tương đương 3,1%), trực tiếp
tạo ra gần 109 triệu việc làm (chiếm 3,6% tổng việc làm trên toàn thế giới).
Dự báo của Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) cũng cho thấy du lịch sẽ tăng
trưởng trên phạm vi toàn cầu, lượng khách du lịch quốc tế đạt khoảng 1,8 tỷ
lượt người vào năm 2030, trong đó khi vực Đông Nam Á sẽ trở thành một
trong những khu vực thu hút lớn lượng khách du lịch quốc tế.


Tại Việt Nam, từ những năm 1960 ngành du lịch đã ra đời và ngày càng
có những bước phát triển đáng kể. Đặc biệt, năm 2016, du lịch Việt Nam đã
ghi dấu ấn khi lần đầu tiên đón hơn 10 triệu lượt khách quốc tế (tăng 26%).
Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 (Ban
hành theo Quyết định 2473/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ) cũng xác
định mục tiêu tổng quát của ngành du lịch Việt Nam là đến năm 2020 du lịch
cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, phấn đấu đến năm 2030 Việt Nam
trở thành quốc gia có ngành du lịch phát triển với tổng thu từ khách du lịch
tăng gấp 2 lần năm 2020.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>1. ĐẶT VẤN ĐỀ </b>


Trước và trong những năm đầu của thế kỉ XXI, du lịch chưa bao giờ
được đánh giá là một ngành kinh tế phát triển, có ảnh hưởng to lớn đến cán
cân thương mại và kinh tế của Nhật Bản. Tuy nhiên, từ sau năm 2012 đến nay
thì du lịch lại được xem là lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng thần kì khi lượng
khách du lịch quốc tế đến Nhật Bản ngày càng gia tăng, Nhật Bản trở thành
một trong những điểm đến hấp dẫn nhất ở khu vực Châu Á. Điều gì đã tạo
nên sự phát triển mạnh cho ngành du lịch Nhật Bản? Chúng ta có thể vận
dụng những kinh nghiệm nào của Nhật Bản để phát triển du lịch Việt Nam?


Các câu hỏi trên đã thôi thúc chúng tôi đến với đề tài này. Trong quá
trình xây dựng các giả thiết cho đề tài, chúng tôi thấy du lịch là một ngành


kinh tế tổng hợp và mang nhiều nét đặc thù. Đây là đề tài luôn thu hút sự quan
tâm nghiên cứu của các học giả, cơ quan và ban ngành liên quan.


Tại Việt Nam, trong nhiều năm qua Viện Nghiên cứu phát triển du lịch
đã liên tục công bố nhiều đề tài nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực này như
<i>“Nghiên cứu đề xuất tiêu chí khu du lịch sinh thái ở Việt Nam”, "Cơ sở khoa </i>


<i>học để phát triển các sản phẩm du lịch thể thao – mạo hiểm vùng núi phía </i>


<i>Bắc", "Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo an toàn cho khách </i>


<i>du lịch tại Việt Nam", "Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đầu tư phát triển </i>


<i>khu du lịch", "Nghiên cứu đề xuất giải pháp đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền </i>


<i>quảng bá du lịch Việt Nam tại một số thị trường du lịch quốc tế trọng </i>


<i>điểm", "Cơ sở khoa học xây dựng hệ thống tiêu chí mơi trường cho hoạt động </i>


<i>du lịch biển ở Việt Nam", "Hiện trạng và một số giải pháp bảo vệ môi trường </i>


<i>du lịch Việt Nam", "Cơ sở khoa học tổ chức các loại hình vui chơi giải trí </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

cứu khoa học cấp Bộ và hầu hết đề cập đến các giải pháp xây dựng khu du
lịch, phát triển sản phẩm du lịch, đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá du lịch.


Bên cạnh đó cịn có nhiều luận án, cơng trình nghiên cứu cá nhân phân
tích về du lịch quốc tế và du lịch Việt Nam trên nhiều bình diện khác nhau
<i>như: “Các giải pháp tài chính nhằm phát triển du lịch Việt Nam đến năm </i>
<i>2010” của Chu Văn Yêm – Học viện Tài Chính (2004) đã phân tích khách </i>



quan về du lịch Việt Nam và tập trung vào việc đề xuất các giải pháp về tài
chính nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả của hoạt động du lịch Việt Nam
<i>đến năm 2010 hoặc “Một số vấn đề về tổ chức và quản lý các hoạt động kinh </i>
<i>doanh du lịch quốc tế ở Việt Nam” của Trịnh Xuân Dũng – Đại học Kinh tế </i>


Quốc Dân (1989) trình bày một cách có hệ thống các nội dung, đặc điểm, vị
trí, vai trị của du lịch quốc tế, các yếu tố khách quan thúc đẩy sự phát triển du
lịch trên thế giới và khu vực, qua đó tác giả còn đưa ra những cơ sở khoa học
<i>về tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh du lịch quốc tế, hoặc “Hoàn thiện </i>
<i>quản lý Nhà nước đối với cơ sở hạ tầng đô thị du lịch ở Việt Nam” của Hồ </i>


Đức Phước – Đại học Kinh tế Quốc Dân (2009) đã đánh giá được thực trạng
quản lý Nhà nước trong lĩnh vực cở sở hạ tầng và sự phát triển cơ sở hạ tầng
tại các đơ thị du lịch Việt Nam từ đó đề xuất các giải pháp.


Riêng đề tài nghiên cứu liên quan đến du lịch Nhật Bản thì lại rất ít, có
<i>thể kể ra một vài ví dụ như "Nghiên cứu và đánh giá một số đặc điểm của thị </i>
<i>trường Nhật Bản và Trung Quốc nhằm phát triển nguồn khách của du lịch </i>


<i>Việt Nam" (Đề tài NCKH cấp Bộ), “Đẩy mạnh thu hút khách du lịch Nhật </i>


<i>Bản đến Việt Nam giai đoạn 2012 – 2015” (Đề án, Bộ Văn hóa, Thể thao và </i>


<i>Du lịch), “Kinh nghiệm phát triển du lịch bền vững ở Nhật Bản và một số gợi </i>
<i>ý cho ngành du lịch Việt Nam” (Nguyễn Thị Thúy Hạnh, Tạp chí Nghiên cứu </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Tại các quốc gia khác trên thế giới, du lịch Nhật Bản được nghiên cứu
<i>khá có hệ thống, có thể kể đến một số cơng trình sau: “Substainable tourism </i>
<i>development and Japan policies” (Khaled Alduais, Mejiro University, Tokyo, </i>



<i>Japan, August 2009), “Contemporary problems in Japan’s rural areas and </i>
<i>opportunities for developing rural tourism: a case of Yamashiro district in </i>


<i>Yamaguchi prefecture” (Ni Made Sofia Wijaya, Journal of East Asian Studies, </i>


<i>No. 11, March 2013), “New tourism strategy to invigorate the Japanese </i>
<i>economy” (Meeting of the Council for a tourism vision to support the future </i>


<i>of Japan, March 2016), “Japanese travel culture: an investigation of the links </i>
<i>between early Japanese pilgrimage and modern Japanese travel behavior” </i>


(Leah Watkins, New Zealand Journal of Asian Studies, No.10, December
2008).


Trên cơ sở kế thừa các cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước, chúng
tơi đã tiến hành nghiên cứu đề tài dựa trên các phương pháp nghiên cứu khoa
học cụ thể, với tư duy khoa học độc lập và tiếp cận vấn đề trên cách nhìn mới.


<b>2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ </b>


<b>2.1 Mục tiêu của đề tài </b>


Trong bối cảnh của Cách mạng Cơng nghiệp 4.0, nhiều quốc gia hướng
đến chính sách du lịch để bảo tồn tốt hơn môi trường tự nhiên - văn hố của
mình, và phân phối đồng đều hơn các lợi ích kinh tế xã hội cho cộng đồng địa
phương, trong đó có Nhật Bản. Mục tiêu của đề tài này là nghiên cứu thực
trạng và kinh nghiệm phát triển du lịch của Nhật Bản qua các chính sách cụ
thể, từ đó chọn lọc các chính sách phù hợp và rút ra bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam.



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>Về những vấn đề phương pháp nghiên cứu, tác giả vận dụng phương </i>
<i>pháp thu thập và xử lý số liệu kết hợp chặt chẽ với phương pháp so sánh tổng </i>


<i>hợp, thể hiện cụ thể ở các mặt sau đây: </i>


+ Phương pháp thu thập và xử lý số liệu: đây là phương pháp giúp nhận
rõ những thông tin cần thiết để thành lập ngân hàng dữ liệu cho đề tài. Tuy
nhiên, vì thơng tin về đối tượng nghiên cứu được thu thập từ nhiều nguồn
khác nhau nên chúng tôi phải phân loại, so sánh và chọn lọc những thơng tin
có giá trị nhất để sử dụng trong bài viết.


+ Phương pháp so sánh tổng hợp: đây là phương pháp giúp định hướng
được tính tương quan giữa các yếu tố, từ đó thấy được hiện trạng và sự ảnh
hưởng của các yếu tố tới việc phát triển du lịch tại nơi đang nghiên cứu - Nhật
Bản. Việc so sánh tổng hợp các thông tin và số liệu đã thu thập sẽ giúp chúng
tôi hệ thống được một cách khoa học những thông tin số liệu cũng như các
vấn đề thực tiễn. Đây là phương pháp giúp chúng tôi thực hiện được mục tiêu
nghiên cứu, đề xuất các định hướng phát triển cho du lịch Việt Nam.


<b>2.3 Nội dung nghiên cứu </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

CHƯƠNG I



<b>THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<b>1.1 Giới thiệu chung về Nhật Bản </b>


<b>1.1.1 Điều kiện tự nhiên </b>



<b> Vị trí địa lý- địa hình </b>


Nhật Bản là một đảo quốc nằm ở phía đơng của lục địa châu Á, gần với
lãnh thổ của nước Nga, Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên, được hình thành
từ 4 hịn đảo lớn theo trình tự nhỏ dần về quy mơ diện tích là Honshu,
Hokkaido, Kyushu, Shikoku và khoảng 4000 đảo nhỏ xếp thành hình cánh
cung, trải dài từ biển Okhotsk ở phía bắc đến biển đơng Trung Quốc ở phía
nam với tổng diện tích là 377.834km2. Ở phía cực nam của Nhật Bản cịn có
đảo Okinawa nằm giữa đường kéo dài từ mỏm phía cực tây của đảo Honshu
tới đảo Đài Loan. Hòn đảo Okinawa này tuy hiện nay thuộc chủ quyền của
Nhật Bản nhưng trong lịch sử đã từng là lãnh thổ tranh chấp của các quốc gia
cùng khu vực Đông Á. Do ở khá xa vùng trung tâm của Nhật Bản nên đảo
Okinawa đã phát triển được một kiểu văn hóa riêng và một số điểm khác biệt
với nếp sống của dân cư trên bốn hịn đảo lớn.


Địa hình Nhật Bản đa dạng, với diện tích đồi núi chiếm 72% tổng diện
tích lãnh thổ, trong đó ngọn núi cao nhất và chiếm vị trí quan trọng nhất trong
tâm thức người dân Nhật Bản là núi Phú Sỹ với chiều cao 3776m nằm trên
đảo Honshu. Núi lửa là một đặc điểm tự nhiên nổi bật ở đất nước này với tổng
số lượng khoảng 200 ngọn. Bản thân núi Phú Sỹ cũng là một núi lửa đã tắt mà
những nhà nghiên cứu gần đây cho rằng vẫn có khả năng hoạt động trở lại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

thường trồng lúa trên những sườn đồi bằng cách tạo ra những thửa ruộng bậc
thang. Sơng ít và ngắn cũng là một bất lợi cho kinh tế nơng nghiệp.


Do vị trí nằm trên vành đai lửa Thái Bình Dương nên Nhật Bản cũng là
nơi thường xuyên xảy ra động đất và sóng thần. Mỗi năm ở đất nước này có
hàng trăm dư chấn, và thỉnh thoảng lại có những trận động đất lớn gây tổn
thất nặng nề.



Là một đất nước hải đảo nên Nhật Bản có đến gần 37000km bờ biển.
Biển được xem là sự nối dài cánh tay cho người Nhật về nhiều mặt hướng ra
thế giới. Lịch sử phát triển của đất nước này đã chứng minh khuynh hướng
tận dụng ưu thế biển của người Nhật.


<b> Khí hậu </b>


Vì là một quần đảo có dạng vịng cung hẹp và dài nên Nhật Bản cũng đa
dạng về khí hậu. Do địa thế và lãnh thổ trải dài 25 vĩ độ, Nhật Bản cũng có sự
khác nhau về đặc điểm khí hậu giữa các vùng miền trong nước. Tại miền bắc
của đảo Hokkaido, mùa hè ngắn nhất, mùa đông dài với tuyết rơi nhiều; trong
khi đó, đảo Okinawa có khí hậu bán nhiệt đới; và do ở gần lục địa châu Á,
Nhật Bản cũng chịu các ảnh hưởng thời tiết của lục địa này. Vào mùa đông từ
tháng 12 tới tháng 2, gió lạnh và khơ của miền Siberia thổi về hướng Nhật
Bản, đã gặp khơng khí ẩm và nóng của Thái Bình Dương, tạo ra các trận tuyết
lớn trên các phần đất phía tây. Miền đơng của Nhật Bản ít bị tuyết hơn nhưng
cũng rất lạnh. Sự đa dạng của các đới khí hậu trên đất nước Nhật Bản đã tạo
nên những sắc màu thiên nhiên phong phú và gợi cảm: màu trắng của tuyết,
màu đỏ và xanh của lá cây, màu hồng của hoa anh đào và rất nhiều màu hoa
khác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

nên mùa mưa đến sớm hơn, vào khoảng tháng 5.Do khí hậu nhiệt đới và diện
tích đồi núi chiếm phần lớn đất đai nên ở Nhật Bản phát triển nhiều hệ sinh
thái rừng như rừng mưa nhiệt đới, rừng hỗn hợp, rừng ôn đới lá rụng và rừng
ôn đới lá kim phân bố trên cả nước.


<b> Tài nguyên khoáng sản </b>


Nhật Bản lại là đất nước nghèo tài nguyên khoáng sản, nhiều nhất là than
nhưng chất lượng thấp, có trữ lượng khoảng 21 triệu tấn và tập trung nhiều ở


Hokkaido. Bên cạnh đó là một trữ lượng dầu mỏ nhỏ, nằm trên bờ biển tây
bắc đảo Honshu, Hokkaido và một số mỏ quặng sắt, phi kim loại nhưng trữ
lượng không đáng kể.


<b>1.1.2 Đặc điểm dân cư và kinh tế </b>


Từ thời kỳ đồ đá (khoảng 10 vạn năm đến 1 vạn năm cách ngày nay) đã
có con người xuất hiện trên quần đảo Nhật Bản. Trải qua quá trình hỗn huyết
lâu dài giữa người Ainu tiền trú và các sắc dân di cư đến quần đảo này từ
nhiều hướng khác nhau (Đông Á, Nam Đảo, Triều Tiên, …) đã hình thành
nên “người Nhật Bản” và ổn định cho đến ngày hôm nay.


Theo số liệu thống kê công bố ngày 12/8/2018, dân số của Nhật Bản có
khoảng 127,1 triệu người, đứng vị trí 11 trên thế giới.Hiện nay, Nhật Bản là
đất nước có tỷ lệ dân số già hóa cao trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng dân số
cũng ngày càng chậm lại, chính phủ Nhật Bản đang có những chính sách
khuyến khích nhằm gia tăng dân số để cải thiện cơ cấu dân số trong tương lai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

1% vào GDP), thì ngành sản xuất và xây dựng chiếm phần còn lại của GDP.
Thiết bị vận tải, thực phẩm và đồ uống là những ngành sản xuất chính của
Nhật Bản.Đặc biệt, du lịch được xem là một trong những điểm sáng của nền
kinh tế Nhật Bản trong những năm gần đây, có vai trị thúc đẩy nhiều hoạt
động kinh tế khác.


<b>1. 2 Thực trạng phát triển du lịch Nhật Bản trước năm 2012 </b>


<b>1.2.1Du lịch Nhật Bản trước thời Tokugawa </b>


Từ những ngày đầu lập quốc cho đến trước thời Tokugawa, du lịch ở
Nhật Bản được ghi nhận theo ba xu hướng chính: lưu trú, ăn uống và giao


thông.


Bên cạnh thể loại du lịch phát triển nhất là du lịch công vụ (dành cho các
tầng lớp q tộc, quan lại) thì cịn có một thể loại du lịch nữa được phát triển
rộng hơn cho các tầng lớp dân thường là du lịch tôn giáo. Đa số các chuyến đi
của người dân Nhật Bản trước thời Tokugawa đều liên quan đến “nghĩa vụ
tôn giáo” và các hoạt động tôn giáo.


Sau q trình va chạm với tơn giáo bản địa (Thần đạo1) trong thời kì đầu
du nhập ở thế kỉ VI, Phật giáo được chấp nhận ở Nhật Bản trong mối quan hệ
tương hỗ như sau: Nhà nước phong kiến Nhật Bản cần đến một triết lý có hệ
thống làm điểm tựa cho q trình thống nhất quốc gia và phát triển đất nước;
ngược lại Phật giáo cũng tiếp thu yếu tố bản địa, chẳng hạn như Đức Phật ở
Nhật Bản được thờ cúng như các vị thần linh vốn là đối tượng sùng bái của
Thần đạo. Do vậy, trong các thế kỉ VII và VIII, Phật giáo đã được lan truyền
tại Nhật Bản. Về phương diện liên quan đến phát triển du lịch, Phật giáo thời


1


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

bấy giờ được xem là “mục tiêu” và “phương tiện” cho những chuyến đi. Vào
thế kỉ X, các chùa chiền Phật giáo và đền thờ Thần đạo đều tổ chức những
chuyến “hành hương” cho các tín đồ của họ trong đó có 2 địa danh nổi bật
suốt thời kì Heian (794 – 1185) là Koyasan2 và Kumano3. Theo ước tính, mỗi
chuyến đi khứ hồi từ thủ đô Kyoto đến Kumano mất khoảng một tháng với
hơn 600 km và người ta thường tổ chức đoàn hành hương lên đến 1000 người
cho mỗi chuyến đi.


Bên cạnh các loại hình du lịch cơng vụ, du lịch tơn giáo, nhà nghiên cứu
Shuzo Ishimori cho rằng loại hình du lịch nghỉ ngơi giải trí và du lịch chữa


bệnh đã ra đời từ nửa sau thế kỉ thứ VII. Cũng giống như các dân tộc khác ở
Châu Á (Trung Quốc, Ấn Độ, Do Thái, ...), người Nhật Bản từ cổ xưa đã biết
sử dụng nước khoáng để chữa bệnh. Trong thời kì trị vì của mình, Thiên
hồng Jito4 tổ chức hơn 30 chuyến đi đến biệt thự nghỉ dưỡng của Hoàng gia
tại Yoshino và những chuyến đi khác đến các khu suối nước nóng như Arina
(Kobe)5 [7, 179 - 194].




2


Koyasan là khu vực nằm ở phía Nam tỉnh Wakayama, bao gồm thành phố Kusumoto và Ito-gun. Khu vực
này có các địa điểm tham quan nổi bật như: Chùa Sohonzan Kongobu-ji là ngôi chùa đứng đầu của đạo
Shingonshu vùng Koyasan, Chùa Danjo Garan là thánh địa của Mật tông Phật giáo Shingon. Ngồi ra, cịn
có Chùa KoyasanOkuno-in - tương truyền là nơi nhập quan tu hành của nhà sư Kuhai - người đã giảng đạo
Shingonshu ở Nhật Bản và lập ra tín ngưỡng thờ núi Koyasan.


3<sub> Kumano là địa danh chỉ vùng đất phía nam bán đảo Kii thuộc tỉnh Wakayama và tỉnh Mie hiện tại. Trong </sub>


đó, cổ đạo Kumano Kodo được xem là con đường hành hương nổi tiếng nhất Nhật Bản. Kumano Kodo được
hình thành từ năm 907 và trở thành con đường “hành hương” của người dân đến Đền Kumano-Hongu-taisha,
Đền Kumano-Nachi-taisha, và đền Kumano-Hayatama-taisha (3 đền thờ lớn nhất Kumano).


4


Thiên hoàng Jito (持統天皇645 - 702) là Thiên hồng đời thứ 41 của Nhật Bản trị vì từ năm 690 đến năm
697. Ngoài việc trị quốc, Thiên hồng Jito cịn nổi tiếng là một nữ thi sĩ. Một trong những bài thơ do bà viết
đã được nhà thơ, nhà phê bình Fujiwara No Teika (1162-1241) chọn để đưa vào tuyển tập rất phổ biến
“Hyakunin Isshu” (百人一首) của Nhật Bản. Đây là dạng tuyển tập “Thơ trăm nhà” (Một trăm bài thơ của
một trăm thi sĩ).



5


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Tóm lại, trước khi chế độ Mạc phủ Tokugawa ra đời, ở Nhật đã tồn tại
nhiều loại hình du lịch khác nhau để phục vụ cho các nhu cầu chính như nghỉ
ngơi, giải trí, tham quan, chữa bệnh và tôn giáo.


<b>1.2.2 Du lịch Nhật Bản thời kì Tokugawa (1600 – 1867) </b>


Thời kì Tokugawa là thời kì có những diễn trình lịch sử hết sức đa dạng
và phức tạp. Thể chế chính trị mà dòng họ Tokugawa xây dựng dựa trên nền
tảng là mối quan hệ giữa Bakufu (Mạc phủ) ở trung ương và khoảng hơn 250
lãnh chúa (daimyo) ở các phiên (các “han” - lãnh địa của daimyo) nên được
gọi là Bakuhan Taisei (幕藩体制) hay là Mạc phiên thể chế. Nó bao gồm hai
guồng máy chính là: chính quyền ở trung ương dưới sự điều hành trực triếp
của Tướng quân (shogun) và chính quyền tự trị của các lãnh chúa ở các phiên,
tuy nhiên Mạc phủ có quyền thủ tiêu, sáp nhập và chuyển đổi các phiên. Có
thể nói, đây là thời kỳ mà chính quyền trung ương đạt được sự quản chế
tương đối thống nhất bao trùm toàn bộ lãnh thổ, nhưng cũng là thời kỳ trỗi
dậy của các phiên (han) tập trung ở vùng tây nam; cơ sở kinh tế của thời kì
này chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, nhưng cũng chứa đựng nhiều
nhân tố phát triển của kinh tế hàng hoá với sự giao lưu giữa các trung tâm
thương mại trong nước và quốc tế; là thời kỳ mà chính quyền trung ương cố
gắng duy trì trật tự xã hội bằng hệ thống giáo lý Nho giáo, đề cao Shinto giáo,
và cũng là thời kỳ xuất hiện khuynh hướng tư tưởng và trường phái học thuật
mới như: Quốc học, Hà Lan học…


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

trị giữa chính quyền trung ương với các lãnh chúa địa phương để rồi từ đó xây
dựng nên mối quan hệ “tơn chủ – bồi thần” rất điển hình ở Nhật Bản. Theo
quy định của chính sách này, mỗi lãnh chúa phải sống ở cả các phiên của


mình lẫn hiện diện ở Edo theo niên lệ cứ cách một năm phải lưu lại kinh đô
Edo một năm và khi họ khơng có mặt ở Edo thì họ phải để lại gia đình mình
làm con tin cho đến khi trở về.


Về phương diện phát triển du lịch, chính sách “ln phiên trình diện” đã
tạo ra một dòng di chuyển lớn cho loại hình du lịch cơng vụ khi cứ mỗi năm
có khoảng 300 lãnh chúa và các đồn tùy tùng luân phiên đi – về giữa Edo và
các phiên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<b>Hình 1.1: Gokaido ở thời kì Tokugawa [15] </b>


Bên cạnh đó, để tiện việc đón tiếp khi các lãnh chúa về Edo, chính quyền
Tokugawa đã cho xây dựng các “quán sứ” trên các trục đường lớn dẫn đến
Edo như: Shinagawa trên đường Tokaido, Itabashi trên đường Nakasendo và
Senju trên đường Oshu dochu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

12km. Các trạm nghỉ này đều có chung chức năng là phục vụ nhu cầu của
người qua lại như nghỉ ngơi, giải trí, chữa bệnh, cung cấp dịch vụ đi lại, thông
tin, trạm ngựa, và buôn bán những vật phẩm thiết yếu cùng với các đặc sản
địa phương. Cấu trúc chung của các trạm nghỉ này thường có một nhà nghỉ
chính (honjin) để đón tiếp các lãnh chúa và võ sĩ cao cấp, một số nhà nghỉ
khác (waki-honjin) để đón tuỳ tùng, và lữ quán (hatagoya) chuyên phục vụ
khách vãng lai. Theo Constantine N. Vaporis thì 4 loại trạm nghỉ được xây
dựng vào thời kì này [4, 64]:


+ Trạm núi: chủ yếu là nơi dừng chân trên đỉnh đèo;


+ Trạm nông thôn: ở vùng đồng bằng nhưng tương đối xa vắng;
+ Trạm cảng thị: ở trong hay gần các bến cảng;



+ Trạm thị trấn, thành thị: là các trạm nằm ở trung tâm hành chính, dân
cư.


Việc điều hành và quản lý các trạm là do chính quyền địa phương đảm
trách, đứng đầu mỗi trạm là trạm trưởng (ton ya-ba). Chính quyền Mạc phủ
giám sát chặt chẽ hoạt động của các trạm nghỉ thông qua các chế độ kiểm tra
thường xuyên hoạt động của các trạm, và chế độ theo dõi bí mật trên các
tuyến đường. Để bảo đảm hoạt động thơng suốt của các trạm và tồn bộ hệ
thống giao thông, trước mỗi đợt các lãnh chúa về Edo, Mạc phủ đều yêu cầu
chính quyền địa phương sửa sang đường và cầu. Theo điều 15 của Luật Vũ
<i>gia (ban hành năm 1635) thì: “Đường, ngựa trạm, cầu phà phải được quan </i>
<i>tâm và bảo đảm hoạt động thường xuyên. Luật nghiêm cấm bất cứ một hành </i>


<i>vi thiếu trách nhiệm hay cản trở nào” [5, 208]. Tuy nhiên, chính quyền Mạc </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Vì lí do an ninh và kinh tế, đối với các lãnh chúa sống tại những khu vực
tương đối tách biệt với Honshu, Mạc phủ cho phép các lãnh chúa đó có thể đi
theo những tuyến đường biển ngắn nhưng sau đó phải nhập vào hệ thống
đường bộ và tuân thủ nguyên tắc của hệ thống này. Mặt khác, tất cả các đoàn
sankin hay khách lữ hành đơn lẻ đều phải xuất trình giấy phép đi lại do chính
quyền Mạc phủ hoặc cơ sở quản lý cấp. Loại giấy phép này có tên là “sekisho
tegata”, được sử dụng khi đi qua các trạm kiểm soát lớn, trên mỗi giấy phép
đều ghi rõ tên người được phép đi lại (trong một số trường hợp là số người đi
theo) và thời hạn sử dụng. Ngồi ra, chính quyền các lãnh địa, chính quyền
cấp làng, đại diện trạm lưu trú, chủ nhà nghỉ và một số cơ sở tơn giáo cũng có
thẩm quyền cấp giấy phép có tên là “orai tegata”, nhưng loại giấy phép này
chỉ có thể sử dụng trong một phạm vi nhất định.


Các trạm dừng nghỉ trên đã tạo ra một khối lượng lớn việc làm cho
người dân như trên tuyến Tokaido, đặc biệt là các trạm lớn (Fuchu, Kuwana,


Okazaki, Hamamatsu, Odawara, Numazu, Yoshida, Kakegawa và
Kameyama…) - nơi dừng chân chủ yếu của các lãnh chúa thì mỗi trạm
thường có đội ngũ phục vụ và cung cấp dịch vụ khoảng 3.000-4.000 người.


Ngồi chính sách “ln phiên trình diện” của chính quyền Tokugawa thì
các cuộc hành hương tơn giáo thời kì này cũng góp phần đáng kể đến phát
triển du lịch:


+ Thần đạo: hành trình đi viếng Thần Cung Ise6 (Okage Mairi -お蔭参
り) được xem là lớn nhất và nổi tiếng nhất ở thời Tokugawa. Theo thống kê,
trong suốt thời kì Tokugawa, người ta đã tổ chức 3 cuộc hành hương viếng


6


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Thần cung Ise, cứ cách khoảng 60 năm một lần (1705, 1771 and 1830) và thu
hút hơn 2,5 triệu người cho mỗi cuộc hành trình. Đặc biệt, ở cuộc hành hương
đầu tiên được tổ chức vào năm 1705, người ta đã thống kê có hơn 33.000
khách lữ hành đi từ Edo qua trạm Hakone mỗi ngày [4, 64.], còn tổng số
lượng người tham gia cuộc hành hương lên đến con số 3,62 triệu người [6].


+ Phật giáo: có 3 loại hình hành hương chính là Honzon Junrei (Hành
hương về một ngôi chùa nhất định), Soshi junrei (Hành hương qua 88 ngôi
chùa linh thiêng ở vùng đất thánh Shikoku hoặc 33 ngôi chùa linh thiêng ở
khu vực Kinki)7 và Meiseki junrei (Hành hương về một địa danh nổi tiếng
như 7 ngôi chùa lớn ở Nara, 21 ngôi chùa của tơng phái Nichiren). Trong đó,
loại hình Meiseki junrei thu hút đơng đảo người tham gia vì gắn liền với các
yếu tố thế tục và mang tính chất du lịch nhiều hơn.


Để phục vụ cho các đoàn hành hương trên, nhiều khu phố “Monzen


machi” đã ra đời và tập trung ở khu vực xung quanh các đền thờ (Thần đạo)
hoặc các chùa (Phật giáo). Những khu phố này chuyên cung cấp các dịch vụ
lưu trú, ăn uống, quà tặng và dịch vụ geisha8


. Học giả Campbell và Noble đã
từng đánh giá vai trò của các “Monzenmachi” như là “phôi thai” cho nền
công nghiệp du lịch Nhật Bản sau này [3, 1003].


Bên cạnh những chuyến đi vì mục đích phục vụ cho chính sách “luân
phiên trình diện” và hành hương tơn giáo như đã đề cập bên trên, đông đảo
người dân Nhật Bản đã tổ chức nhiều chuyến đi với mục tiêu giải trí từ cuối
thời kì Tokugawa. Trong một số tác phẩm viết về cuộc sống của người Nhật
và du lịch Nhật Bản thời kì này, các học giả phương Tây cho rằng có rất nhiều
người, kể cả những người thuộc tầng lớp bình dân đã “phớt lờ” những quy


7<sub> Ngày nay, loại hình hành hương này được gọi là “Shikoku Ohenro” (Xem phần phụ lục) </sub>


8<sub> Geisha(芸者)là khái niệm dùng để chỉ những nghệ sĩ vừa có tài ca múa nhạc lại vừa có khả năng trò </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

định của chính quyền và tổ chức các chuyến đi chỉ với mục đích là “giải
trí/tiêu khiển” như: đắm mình bên những dịng suối nước nóng, lưu trú tại
những quán trọ nho nhỏ dọc theo tuyến đường Tokaido9


, và thưởng thức
những sản vật của địa phương. Học giả Vaporis đã sử dụng cụm từ “national
obsession”(tạm dịch là “nỗi ám ảnh quốc gia”) khi đề cập đến du lịch Nhật
Bản cuối thời kì Tokugawa [4, 259]. Và như để minh chứng cho điều này, học
giả Ishimori miêu tả về việc khi ơng Rutherford Alcock (Đại diện chính thức
của nước Anh tại Edo vào những năm cuối của thời kì Tokugawa) đặt vấn đề


với chính quyền Nhật Bản là ông dự định sẽ tổ chức một chuyến đi đến núi
<i>Phú Sỹ (Fuji) thì được khuyến cáo rằng “nó khơng phù hợp với địa vị của một </i>
<i>Daimyo, hoặc thậm chí là với bất kì một quan chức – dù ở đẳng cấp nào để </i>


<i>tiến hành một chuyến đi như thế - bởi lẽ sẽ có q nhiều cuộc tiếp xúc khơng </i>
<i>thể tránh khỏi với đám đơng thuộc tầng lớp bình dân bên dưới” (it was not </i>


consistent with the didnity of a Daimyo, or even an officer of any rank, to
make the pilgrimage – perhaps because too many of the greasy mob must
unavoidably come in close contact with them) [7, 185]. Bên cạnh đó, học giả
Kitamura Nobuyo đã từng viết về hiện tượng này trên ấn phẩm mang tên Kiyu
<i>Shoran (được xuất bản vào năm 1830) như sau: “Ngày nay, người dân sống </i>
<i>xung quanh Edo thích đi các tour Kyoto, Osaka và Nara, nhưng họ không bao </i>


<i>giờ đi đến đền Kashima10</i>


<i> (một trong những ngôi đền nổi tiếng nhất vùng lân </i>


<i>cận) để viếng bái. Họ cũng đi đến nhiều đền thờ và chùa chiền, nhưng với </i>
<i>mục đích chính là để du ngoạn. Dĩ nhiên, họ có viếng Thần cung Ise, như là </i>
<i>một điểm đến phổ biến thuộc hành trình tour Kyoto, Osaka và Nara” [8, 168]. </i>




9<sub> Tokaido là tuyến đường nối liền Kyoto và Tokyo – là tuyến đường quan trọng nhất trong 5 tuyến đường đã </sub>


đề cập ở phần trên.


10



</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Hoặc từ việc quan sát các chuyến đi đến núi Tateyama11


, nhà nghiên cứu
<i>Susanne Fromanek cũng đưa ra kết luận rằng: “cuối thời kì Edo, các chuyến </i>
<i>đi với mục đích ngắm cảnh và du ngoạn được xem như là quan trọng khơng </i>


<i>kém gì các chuyến đi vì mục đích tơn giáo” [8, 178]. </i>


Tóm lại, trong thời kì Tokugawa các loại hình du lịch tiếp tục được nâng
cấp và phát triển ngày càng hoàn thiện để phục vụ cho nhu cầu đa dạng của
tầng lớp lãnh chúa phong kiến, quý tộc và tầng lớp bình dân bên dưới. Dù
rằng chính quyền của Mạc phủ Tokugawa chưa có ý thức rõ ràng về khái
niệm “du lịch” theo đúng nghĩa của một ngành công nghiệp như hiện nay
nhưng một số chính sách của họ trong việc xây dựng hệ thống đường xá, cơ
sở lưu trú, nghiệp vụ phục vụ, … đã tạo ra những tiền đề cho ngành công
nghiệp mới này.


<b>1.2.3 Du lịch Nhật Bản thời hiện đại </b>


<b>1.2.3. 1. Sự ra đời của các chính sách và cơ quan quản lí du lịch Nhật </b>


<b>Bản </b>


Bước sang thời Minh Trị, Chính phủ Nhật Bản đã tập trung mọi nguồn lực
để tiến hành cơng cuộc duy tân, phát triển và hiện đại hóa đất nước. Tiếp sau
đó, hàng loạt chính sách liên quan đến xây dựng và phát triển du lịch ra đời
như: Chính sách bảo tồn di sản văn hóa (năm 1910), Luật Bảo tồn kho báu
quốc gia (năm 1929), Luật Bảo vệ di sản văn hóa (ban hành vào năm 1950 và
sửa đổi với năm 1975), Luật Du lịch quốc gia (năm 2006), Luật Quy hoạch thị
trấn lịch sử (năm 2008).



Tháng 4/1964 Tổ chức Du lịch quốc gia Nhật Bản (Japan National
Tourism Organization, JNTO) được thành lập, đặt dưới sự giám sát của Bộ


11


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Giao thông vận tải nhằm thực hiện việc quảng bá du lịch Nhật Bản đến với
khách du lịch thế giới và làm sâu sắc thêm sự hiểu biết của họ về lịch sử, văn
hóa, truyền thống, phong tục tập quán và con người Nhật Bản. Hướng đến
mục tiêu này, JNTO đã đưa ra hàng loạt các chương trình khuyến mãi và xúc
tiến du lịch quốc tế, tiếp thị và mở rộng trao đổi, hỗ trợ cho du khách nước
ngồi thơng qua các trung tâm cung cấp thơng tin du lịch.


Từ những năm đầu của thế kỉ XXI, Chính phủ Nhật Bản đã tiến hành một
số cải cách mạnh mẽ về cơ chế quản lí để phát triển du lịch. Trước hết phải kể
đến sự sáp nhập 2 cơ quan lớn – Bộ Giao thông vận tải và Bộ Xây dựng –
thành Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch Nhật Bản (国土交通
<i>省 Kokudo-kōtsū-shō, Ministry of Land, Infrastructure, Transport and </i>
Tourism) (Tháng 1/2001). Từ khi mới thành lập, cơ quan này đã đưa ra 5 mục
tiêu cụ thể liên quan đến các vấn đề sau:


 Nâng cao chất lượng cuộc sống


 Tăng cường khả năng cạnh tranh toàn cầu
 An ninh quốc gia


 Bảo tồn cảnh quan và môi trường
 Tăng cường đa dạng khu vực



Để thực hiện 5 mục tiêu trên, việc xúc tiến và phát triển du lịch được xem
là một trong những phương án có thể tạo ra sức mạnh tổng hợp vì có liên
quan chặt chẽ đến chính sách phát triển giao thông (đường bộ, đường hàng
không và đường biển), xây dựng cơ sở hạ tầng, chính sách phát triển vùng,
xây dựng và phát triển tính đa dạng của cộng đồng, nâng cao chất lượng cuộc
sống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

quản lí du lịch khác, trong đó có Ban Du lịch Nhật Bản (The Japan Tourism
Agency, 観 光 庁 <i>Kankō-chō) (viết tắt JTA) (được thành lập vào ngày </i>
01/10/2008) và các phòng trực thuộc khác (xem sơ đồ bên dưới).


<b>Hình 1.2: SƠ ĐỒ CÁC CƠ QUAN QUẢN LÍ DU LỊCH NHẬT BẢN [16] </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Sau khi hồn thiện bộ máy cơ quan quản lí về du lịch, và đặc biệt là sau
những thành công của Giải vô địch bóng đá thế giới - World Cup 200212


,
chính quyền của Thủ tướng Koizumi13 đã xác định du lịch là một trong những
công cụ quan trọng để phát triển kinh tế Nhật Bản, đặc biệt là trong vấn đề
kích cầu tiêu dùng của người dân trong bối cảnh kinh tế thế giới nói chung và
kinh tế Nhật Bản nói riêng đang tăng trưởng chậm. Do vậy, từ đầu năm 2003,
chính phủ Nhật Bản đã thơng qua nhiều chiến lược để thúc đẩy tăng trưởng du
lịch.


<b>Hình 1.3: Chiến lược thúc đẩy tăng trưởng du lịch Nhật Bản </b>


<b>[Nguồn: JATA] </b>





12


Giải vơ địch bóng đá thế giới 2002 (World Cup 2002) là giải vơ địch bóng đá thế giới lần thứ 17, được tổ
chức từ ngày 31 tháng 5 đến ngày 30 tháng 6 năm 2002 tại Hàn Quốc và Nhật Bản. Đây là lần đầu tiên, giải
vơ địch bóng đá thế giới được tổ chức tại châu Á và cũng là lần đầu tiên được tổ chức đồng thời ở hai quốc
gia.


13


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

 Chính sách inbound: tháng 2/2003, chính phủ Nhật Bản đã thông qua
chương trình xúc tiến du lịch mang tên “Visit Japan Campaign” (Chương
trình tới thăm Nhật Bản) với mục tiêu đến năm 2010, Nhật Bản sẽ thu hút 10
triệu khách du lịch quốc tế (gấp đôi so với lượng khách du lịch quốc tế đến
Nhật Bản năm 2003) và tăng số lượng hội nghị, hội thảo quốc tế được tổ chức
tại Nhật lên 50%. Chương trình được triển khai rộng rãi với khẩu hiệu “よう
こそ日本へ”(Yokoso Japan) và hướng đến 12 thị trường trọng điểm bao
gồm: Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông, Thái Lan, Singapore,
Hoa Kì, Canada, Anh, Đức, Pháp, Australia. Chính sách này vẫn được tiếp tục
được thực hiện và mở rộng trong những đời thủ tướng sau.


 Chính sách outbound: Nhật Bản là một trong những quốc gia có lượng
khách outbound lớn nhất thế giới và liên tục tăng trưởng hàng năm do kinh tế
phát triển, người dân có thu nhập cao và chính sách khuyến khích của Chính
phủ. Từ năm 1992, Chính phủ Nhật Bản đã thành lập Quỹ khuyến khích du
lịch dài ngày tại nước ngồi (Japan Long-stay Foundation). Trong thời kì cầm
quyền của mình, Thủ tướng Koizumi vẫn tiếp tục duy trì nguồn quỹ này để hỗ
trợ người dân Nhật Bản, đặc biệt là những người cao tuổi đi du lịch dài ngày
ở nước ngồi. Trong bối cảnh đó, Cơ quan Du lịch Nhật Bản đẩy mạnh hơn
nữa chính sách outbound thơng qua “Chiến dịch đi thăm thế giới” - Visit
World Campaign - với mục tiêu đến năm 2010 sẽ có 20 triệu người Nhật Bản


đi du lịch nước ngoài và xây dựng mối quan hệ kinh doanh chặt chẽ hơn với
các đối tác nước ngoài).


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

liệu thống kê của JNTO14 và JATA15, lượng khách outbound liên tục tăng
trưởng từ các năm 2010, 2011, 2012, và tập trung chủ yếu ở các thị trường
Trung Quốc, Hàn Quốc, một số nước Đông Nam Á và Mỹ. Các thị trường
khác như Châu Âu, Châu Phi và Châu Đại Dương thì vẫn đang cịn ở dạng
tiềm năng (xem hình 1.4 và hình 1.5). Mặt khác, so với lượng khách outbound,
khách quốc tế đến Nhật Bản (inbound) thấp hơn và có mức tăng trưởng khơng
đồng đều (xem hình 1.5)


<b>Hình 1.4: Khách du lịch inbound & outbound, Giai đoạn 2008 – 2012 </b>


<b>[Nguồn: JNTO và JATA] </b>




</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

<b>Hình 1.5: Khách outbound phân theo thị trường, Giai đoạn 2009 – 2015 </b>


<b>[Nguồn: JNTO và JATA] </b>


<b>1.2.3.2 Sách trắng về du lịch và vấn đề phát triển du lịch bền vững </b>


<b>của Nhật Bản </b>


Năm 2008, Nhật Bản công bố Sách Trắng về du lịch, đưa ra những
chuẩn mực cụ thể về phát triển du lịch bền vững gắn với bảo vệ môi trường.
Theo đó "mơi trường" và "phát triển" cùng tồn tại trong sự hài hịa, chứ khơng
phải là loại trừ lẫn nhau, do đó, để "phát triển bền vững" thì cần phải bảo vệ
mơi trường. Đặc biệt trong các hoạt động thúc đẩy du lịch quốc gia cần phải


chú ý đến vấn đề bảo vệ môi trường và vẻ đẹp của các danh lam thắng cảnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

doanh nghiệp cho rằng họ gặp nhiều khó khăn khi thực hiện vì “Chi phí gia
tăng, khó thu hồi vốn đầu tư ","Bất tiện và giảm hiệu quả làm việc ", “Khó đạt
được nhận thức thống nhất của nhân viên liên quan đến những nỗ lực bảo vệ
mơi trường ”, “Khó truyền đạt ý định nỗ lực môi trường cho khách hàng”, …


<i>Sau khi phân tích thực trạng, Sách Trắng chỉ rõ “nỗ lực bảo vệ môi </i>
<i>trường không chỉ cần thiết cho sự tăng trưởng bền vững của du lịch, mà cịn </i>
<i>đóng vai trị quan trọng trong việc cải thiện sức hấp dẫn của các địa điểm du </i>


<i>lịch” và “du lịch lệ thuộc rất nhiều vào nguồn tài nguyên địa phương cho nên </i>


<i>chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa nhận thức về môi trường như một cơ hội </i>


<i>hoàn hảo để gia tăng giá trị, tăng cường hợp tác giữa các bên liên quan và </i>


<i>cố gắng tạo ra những địa điểm du lịch hấp dẫn, bền vững theo phương châm </i>


<i>“là nơi đáng để sống và đáng để tham quan”” [17]. </i>


Trên thực tế, Nhật Bản đã xây dựng được một số cơng cụ đóng góp cho
phát triển du lịch bền vững như: xây dựng chiến lược phát triển du lịch bền
vững bền vững ở khu vực Châu Á, chỉ đạo các Bộ, ngành hữu quan có sự liên
thơng và phối hợp chặt chẽ với ngành Du lịch để tổ chức và quản lý hiệu quả
các hoạt động du lịch (xem hình minh họa bên dưới).


<b>Hình 1.6: Chiến lược phát triển du lịch bền vững ở Châu Á </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

<b>Hình 1.7: Sự phối hợp trong vấn đề phát triển du lịch [Nguồn: JATA] </b>



Bên cạnh đó, việc tạo ra các mạng lưới sinh thái tự nhiên quốc gia, xây
dựng và bảo tồn các công viên quốc gia - nguồn tài nguyên chính cho ngành
du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái được xem là chính sách đúng đắn trong
vấn đề phát triển du lịch bền vững ở Nhật Bản. Theo thống kê, Nhật Bản có
28 cơng viên quốc gia với tổng diện tích hơn 2 triệu ha (chiếm 5,4% diện tích
cả nước) đảm bảo tiêu chí là nơi có giá trị cảnh quan và hệ sinh thái thiên
nhiên tuyệt đẹp, có giá trị vượt trội ở phạm vi quốc gia và 55 công viên quốc
gia với tổng diện tích khoảng 1,33 triệu ha (chiếm 3,5% diện tích cả nước)
đảm bảo tiêu chí là nơi có cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp ở cấp địa phương.
Ngoài ra, Nhật Bản cịn có khoảng 301 công viên cấp huyện với tổng diện
tích 1, 94 triệu ha (chiếm 5,1% tổng diện tích cả nước).


Ngồi việc thiết lập hệ thống cơng viên quốc gia, chính phủ Nhật cũng
đưa ra những biện pháp phát triển du lịch ở các khu vực này như:


 Điều chỉnh lưu lượng ô tô đến 25 khu vực,


 Bảo tồn những con đường đi bộ theo triền núi và phục hồi thảm
thực vật dọc theo chúng,


 Hỗ trợ cho việc xây dựng nhà vệ sinh ở vùng núi,


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

Cho đến thời điểm hiện tại, Nhật Bản vẫn đang trong q trình xây dựng
và hồn thiện chính sách phát triển du lịch bền vững, tập trung vào các vấn đề
sau:


 Sử dụng du lịch để nâng cao tỷ lệ việc làm;


 Tăng cường đào tạo để nâng cao kỹ năng trong ngành du lịch



 Khuyến khích tinh thần kinh doanh, khả năng cạnh tranh và đổi
mới trong ngành du lịch


 Thúc đẩy mạng lưới hỗ trợ du lịch


 Thúc đẩy đạo đức trong kinh doanh du lịch


 Thúc đẩy du lịch có trách nhiệm như một yếu tố để phát triển văn
hóa xã hội


 Hạn chế biến đổi khí hậu và tăng cường sử dụng năng lượng sạch


 Thúc đẩy sử dụng hiệu quả năng lượng và tiết kiệm trong ngành
du lịch


 Thúc đẩy chất lượng và văn hóa trong dịch vụ du lịch


 Phối hợp du lịch với bảo vệ thiên nhiên và đa dạng sinh học


 Sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên


 Giảm số lượng chất thải du lịch


 Bảo vệ cảnh quan du lịch


 Cải thiện hệ thống giao thông và quản lý sử dụng đất


 Kiểm soát sự phát triển của giao thông liên quan đến du lịch và
các tác động bất lợi của nó đối với môi trường



</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33></div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

CHƯƠNG II



<b>CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

<b>2.1 Chính sách "Abenomics" </b>


Sau khi quay lại cương vị thủ tướng Nhật Bản từ cuộc tổng tuyển cử năm
2012, Abe Shinzō ( 安 倍 晋 三 )16 đã ban hành Chiến lược Kinh tế mới
Abenomics17 hay còn gọi là Chiến lược “3 mũi tên” vào vào đầu năm 2013
với mục tiêu là thơng qua “chính sách nới lỏng tiền tệ” (mũi tên thứ nhất) để
xoay chuyển tình trạng giảm phát trong nền kinh tế Nhật Bản và thông qua
“Chính sách thúc đẩy chi tiêu cơng” (mũi tên thứ hai) để nâng cao nhu cầu
thực tế, xóa bỏ lỗ hổng cung cầu, thốt khỏi giảm phát, đồng thời thực hiện
“Chính sách tăng trưởng kinh tế sâu rộng” (mũi tên thứ 3) nhằm khơi dậy sức
sống cho nền kinh tế Nhật Bản.


- Chính sách nới lỏng tiền tệ: Đây là chính sách thực hiện giảm lãi suất
thực được Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) áp dụng nhằm nới lỏng tiền
tệ, hạ giá đồng Yên, cũng như thực hiện mục tiêu phát triển sản xuất, đẩy
mạnh xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh cho hàng hóa Nhật Bản trên thị
trường nước ngồi.


- Chính sách thúc đẩy chi tiêu cơng: từ năm 2013, Thủ tướng Nhật Bản
Shinzo Abe đã ban hành các gói kích thích kinh tế trị giá 20,2 nghìn tỷ Yên
(210 tỷ USD), trong đó có 10,3 nghìn tỷ Yên (116 tỷ USD) là chi tiêu trực
tiếp của Chính phủ tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng (cầu, đường
hầm và đường chống động đất). Tiếp theo đó, Nhật Bản công bố thêm gói
kích thích 5,5 nghìn tỷ Yên vào tháng 4/2014 và gói kích thích trị giá 3,5
nghìn tỷ Yên sau cuộc bầu cử tháng 12/2014. Giai đoạn 2015 - 2017, do kinh




16


Abe Shinzō (sinh ngày 21 tháng 9 năm 1954) là người nhậm chức lúc trẻ nhất trong các Thủ tướng Nhật
Bản từ sau Chiến tranh Thế giới II và là Thủ tướng đầu tiên sinh sau Chiến tranh. Ông từng là Thủ tướng
Nhật Bản từ ngày 26 tháng 9 năm 2006 đến ngày 26 tháng 9 năm 2007. Năm 2007, ông Abe từ chức Thủ
tướng và chức Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do sau thất bại thảm hại của đảng này khi bầu cử Thượng viện. 5
năm sau khi từ chức Thủ tướng và Chủ tịch Đảng, Abe lại tranh cử Chủ tịch Đảng và được bầu làm Chủ tịch
Đảng trở lại vào ngày 26/9/2012.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

tế phục hồi chưa được như kỳ vọng nên Nhật Bản tiếp tục thực hiện các gói
kích thích như ngày 02/08/2016, Chính phủ Nhật Bản thơng qua gói kích
thích trị giá 28.100 tỷ Yên (274 tỷ USD) tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng và
phúc lợi xã hội; Ngày 11/10/2016, Nhật Bản phê chuẩn gói kích thích thứ hai
trong năm 2016 trị giá hơn 4.000 tỷ Yên (40 tỷ USD) nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, kích cầu đầu tư và tiêu dùng; Ngày 27/3/2017, Thượng viện
Nhật Bản thông qua ngân sách cho năm tài khóa 2017 trị giá 97.400 nghìn tỷ
n (880 tỷ USD). Đây là quy mơ ngân sách lớn nhất từ trước đến nay, với
mục tiêu tiếp tục tăng chi tiêu cho an sinh xã hội, quốc phòng và những lĩnh
vực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.


- Chính sách tăng trưởng kinh tế sâu rộng: Đây là trụ cột mang tính dài
hạn nhằm tạo đà phát triển bền vững cho nền kinh tế Nhật Bản. Để tăng
trưởng kinh tế sâu rộng chính sách này đã hướng tới các mục tiêu như: giảm
tỷ lệ thất nghiệp khoảng 20%, thu hút lao động nữ để bù đắp cho sự thiếu hụt
về nguồn lao động, đứng thứ nhất thế giới về những đổi mới trong phát triển
kinh tế, đưa nông nghiệp trở thành “ngành Công nghiệp thứ 6”, thực hiện tự
do thương mại.



Về vai trị của chính sách “Abenomics” đối với du lịch Nhật Bản, trong
một bài viết ở tờ nhật báo The Japan Time (ngày 03/4/2018), Jesper Koll18
nhấn mạnh rằng, sự phát triển mạnh mẽ của ngành du lịch Nhật Bản trong
thời gian qua được cho là một trong những kết quả thành công nhất của chính
sách "Abenomics". Cụ thể, với những nỗ lực nhằm đơn giản hóa các quy định
về cấp thị thực, đặc biệt là việc cắt giảm mạnh mẽ các quy định về thị thực
đối với khách du lịch Trung Quốc và các nước thuộc Hiệp hội các Quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN) đã giúp số lượng khách du lịch đến quốc gia này tăng


18<sub> Jesper Koll là chuyên gia kinh tế của WisdomTree tại Tokyo, Nhật Bản. Với quá trình nghiên cứu và đầu </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

gần 4 lần, từ mức trung bình hằng tháng là 697.000 lượt (năm 2012) lên 2,6
triệu lượt khách trong thời gian gần đây [18]. Ngồi ra,chính phủ Nhật Bản
còn cho phép tăng số giờ cất/hạ cánh của máy bay tại các sân bay, tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho việc cấp phép xây dựng các khách sạn. Nhờ vậy, số
lượng khách du lịch quốc tế đến Nhật Bản không ngừng gia tăng (xem bảng
số liệu năm 2014 – 2015 bên dưới), đặc biệt năm 2017 số du khách nước
ngoài đến Nhật Bản đạt mức kỷ lục và ngành du lịch Nhật Bản được đánh giá
là có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong số các quốc gia ở khu vực châu Á19.


<b>Hình 2.1: Số lượng khách du lịch quốc tế đến Nhật Bản 2014 – 2015 [19] </b>




19


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

Nhìn lại quá trình phát triển của ngành du lịch Nhật Bản trước và trong
những năm đầu của thế kỉ XXI chúng ta có thể thấy rằng chưa bao giờ du lịch
được đánh giá là một ngành kinh tế phát triển, có ảnh hưởng to lớn đến cán


cân thương mại và kinh tế của Nhật Bản. Tuy nhiên, từ năm 2011 đến nay thì
du lịch lại được xem là lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng thần kì khi lượng khách
du lịch quốc tế đến Nhật Bản ngày càng gia tăng. Nhật Bản trở thành một
trong những điểm đến hấp dẫn nhất ở khu vực Châu Á.


Kết quả trên phần nào đã cho thấy sự thành công của việc xây dựng,
hoạch định chiến lược và các kế hoạch phát triển du lịch phù hợp của Chính
phủ Nhật Bản mà điểm nhấn là chính sách “Abenomics” với việc làm cho các
thủ tục tài chính được dễ dàng, thuận lợi, cũng như làm suy yếu đồng yên
Nhật để thuận lợi cho hoạt động giao thương - xuất khẩu hàng hóa Nhật Bản
ra nước ngồi như đã trình bày ở trên. Chính sách này ngay lập tức đã giúp
cho giá cả hàng hóa và dịch vụ du lịch ở Nhật Bản rẻ hơn, qua đó kích thích
du lịch trong nước phát triển và thu hút được nhiều khách du lịch quốc tế tới
thăm Nhật Bản, đặc biệt là khách du lịch quốc tế đến từ các thị trường Châu Á.


<b>2.2 Các chiến lược và chính sách phụ trợ cho phát triển du lịch của Nhật </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

<b>Hình 2.2: Các mục tiêu mới cho phát triển du lịch Nhật Bản [20] </b>


 Khách quốc tế đến Nhật Bản đạt con số 40 triệu người vào năm 2020,
và 60 triệu người vào năm 2030.


 Chi tiêu của khách quốc tế đến Nhật Bản: 8000 tỷ Yên (năm 2020) và
15.000 tỷ Yên (năm 2030).


 Chi tiêu của khách du lịch nội địa: 21.000 tỷ Yên (năm 2020) và
22.000 tỷ Yên (năm 2030).


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

<b>Hình 2.3: Chiến lược du lịch mới của Nhật Bản [20] </b>



 Tầm nhìn 1: Tối ưu hóa sức hấp dẫn của các nguồn lực du lịch thông
qua 4 cải cách sau:


- Cho phép khách du lịch quốc tế và nội địa tham quan các di sản văn
hóa đặc biệt như Akasaka State Guest House (赤坂離宮(迎賓館) )20


,
Kyoto State Guest House21, …




20<sub> Nơi ở của Hoàng Thái Tử, được xây dựng từ năm 1909 và trở thành một trong những cung điện hoàng gia </sub>


đẹp của Nhật Bản. Ngày nay, nơi này được dùng để tiếp đón các phái đoàn ngoại giao và các quan chức nhà
nước.


21<sub> Được xây dựng vào năm 2005 với mục đích tiếp đón và làm nơi lưu trú cho các nguyên thủ quốc gia của </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

<b>Hình 2.4: Akasaka State Guest House [21] </b>


<b>Hình 2.5: Kyoto State Guest House [22] </b>


- Chuyển từ chính sách cân bằng bảo tồn từ “chú trọng quá mức vào
việc bảo tồn” sang việc tạo ra hiểu biết sâu rộng về các di tích, thắng cảnh cho
khách tham quan. Ví dụ: thành lập các trung tâm thông tin về du lịch để hỗ
trợ du khách, sử dụng hệ thống chỉ dẫn đường xá/địa điểm du lịch dễ hiểu, …


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

- Quy hoạch một số công viên quốc gia hiện nay thành các công viên
quốc gia tầm cỡ của thế giới qua việc chú trọng thu hút đầu tư (kể cả đầu tư
của lĩnh vực tư nhân) để biến nó trở thành những điểm du lịch nổi tiếng thế


giới. Bộ Môi trường Nhật Bản (Ministry of the Environment, 環 境 省
Kankyo-shō) đã chọn ra 8 công viên để hiện thực hóa chính sách này, bao
gồm:


Akan-Mashu National Park


Towada-Hachimantai
<b>National Park </b>


<b>Nikko National Park </b>


Ise-Shima National Park


<b>Daisen-Oki National Park </b>


<b>Aso Kuju National Park </b>


Kirishima-Kinkowan
National Park


Kerama Shoto National
Park


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

- Mở rộng các cơ sở hạ tầng để phục vụ tốt hơn cho du lịch. Ví dụ: tối
đa hóa thời gian phục vụ khách tham quan tại các điểm du lịch (thời gian
đóng – mở cửa tham quan, ngày tham quan, …), thử nghiệm việc mở các tour
du lịch trọn gói ở các doanh nghiệp tư nhân, quan tâm đến loại hình du lịch
cơng nghiệp - loại hình du lịch sử dụng ngành cơng nghiệp truyền thống, các
di sản công nghiệp như nhà máy, cơng xưởng sản xuất, phịng trưng bày sản
phẩm của doanh nghiệp kết hợp với sản phẩm du lịch tạo nên những điểm du


lịch tổng hợp, hấp dẫn nhằm thoả mãn nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu và trải
nghiệm của du khách. Ví dụ: Cầu Mansei (Tokyo) - một vịm cầu đơn vượt
sơng Kanda (dịng sơng nhỏ chảy giữa thành phố Tokyo nhưng rất nổi tiếng
trong thi ca Nhật Bản).


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

<b>Hình 2.9: Cầu Mansei (Tokyo) hiện nay [25] </b>


- Tạo ra các điểm du lịch đường phố đặc sắc và đậm dấu ấn văn hóa để
kích thích tiêu dùng và mua sắm các mặt hàng thủ công truyền thống. Ví dụ:
tuyến phố mua sắm Harajuku và Daikanyama (Tokyo) – nơi có phong cách
đường phố đầy màu sắc nổi tiếng của Tokyo với các cửa hàng mang phong
cách Châu Âu như Visvim, Comme des Garỗons, Brooklyn hoc con ng
mua sm Asakusa Nakamise-dori (Tokyo) mang đậm phong cách truyền
thống Nhật Bản, …


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

- Tạo ra những điểm du lịch đặc sắc và mang dấu ấn của từng địa
phương như: những cánh đồng lúa “đẹp như tranh” ở Hirosaki (Aomori),
những cánh đồng hoa rực rỡ ở Furano (Hokkaido), vương quốc trái cây
Yamanashi, …


<b>Hình 2.11: Ruộng lúa ở Hirosaki </b>


<b>Hình 2.12: Vương quốc trái cây Yomanashi </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

 Tầm nhìn 2: Cải thiện các chính sách liên quan đến du lịch để tăng
cường khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế và biến du lịch trở thành
ngành cơng nghiệp chủ chốt thơng qua 3 chính sách cải cách:


- Xem xét lại các chính sách và nới lỏng các hạn định để tăng cường
sức hấp dẫn của ngành du lịch Nhật Bản: kéo dài giới hạn về thời gian hoạt


động lên 60 năm hoặc dài hơn cho một số lĩnh vực (giấy phép hành nghề của
hướng dẫn viên du lịch, các cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú, …), tạo điều
kiện thúc đẩy sự phát triển của các đại lý lữ hành hàng đầu, xây dựng các quy
định về việc cho thuê nhà ở ngắn hạn cho khách du lịch, …


- Phát triển thị trường khách du lịch có khả năng lưu trú dài ngày, trong
đó chú trọng đến lượng khách ở các quốc gia thuộc khu vực Châu Âu, Hoa Kì,
Australia và một số quốc gia có thu nhập cao khác qua các chính sách xúc tiến
du lịch, nới lỏng các quy định về cấp visa, nâng cấp cơ sở hạ tầng và mở các
đường bay riêng. Bên cạnh đó thị trường du lịch MICE cũng sẽ được chú
trọng đầu tư và phát triển để tạo khả năng cạnh tranh cho ngành du lịch Nhật
Bản.


- Tăng cường quản lí và có những chính sách để khơi phục và nâng cấp
các khu vực suối nước nóng và một số địa điểm tham quan cổ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

<b>Hình 2.15: Gero Onsen [28] </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

 Tầm nhìn 3: Thỏa mản các tiêu chí về sự thoải mái, giảm stress, an
toàn và thuận tiện cho tất cả khách tham quan đến Nhật Bản bằng cách thực
hiện 3 nhóm cải cách sau:


- Cải thiện cơ sở hạ tầng cứng và mềm22 để du khách có thể thối mái
tận hưởng kì nghỉ của mình. Cụ thể:


 Cải thiện cơ sở hạ tầng cứng: trước kia, Nhật Bản thường bị đánh giá là
điểm đến kém phổ biến với du khách vì một số lí do liên quan đến cơ
sở hạ tầng phục vụ du lịch, trước hết phải kể đến hệ thống hạ tầng
internet (tiếng Nhật không dùng hệ ký tự Latin, chính vì vậy du khách
gặp rất nhiều khó khăn khi muốn tra cứu thông tin, cịn wifi thì được


xem là một điều rất xa xỉ đối với khách du lịch ở Nhật), kế đến là hàng
loạt các tiện ích khơng "thân thiện" với người nước ngồi khi ngơn ngữ
sử dụng là tiếng Nhật (cửa hàng tiện lợi, giao thông công cộng, máy
ATM); dịch vụ thanh tốn khơng linh hoạt (nhiều nơi chỉ chấp nhận
hình thức thanh tốn bằng tiền mặt tại chỗ), các ryokan (nhà nghỉ
truyền thống của Nhật) không tiếp nhận dịch vụ đặt phòng qua mạng
internet, ít nơi phổ biến thơng tin bằng tiếng Anh, … Do vậy, chính phủ
và người dân Nhật Bản đã tìm mọi cách để xóa bỏ các rào cản trên,
không ngừng cải thiện cơ sở hạ tầng phục vụ cho du lịch và hỗ trợ du
khách tối đa. Hiện nay, các modem wifi bằng tiếng Anh và tiếng Nhật
được lắp đặt khắp nơi, trên các phương tiện giao thông công cộng (xe
bus, tàu điện) và các nhà ga đều sử dụng song ngữ Anh – Nhật. Từ
tháng 11-2017, hãng đường sắt JR Central và JR West đã ra mắt ứng
dụng di động (dùng giao diện tiếng Anh) để đặt vé tàu siêu tốc
Shinkansen. Cũng trong năm 2017, chính phủ đã thông qua luật cho




22<sub> Hạ tầng cứng bao gồm mặt bằng cơ sở sản xuất, giao thơng, điện nước…Hạ tầng mềm là cơ chế chính sách, </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

phép ứng dụng chia sẻ nơi ở Airbnb hoạt động ở Nhật, tạo điều kiện đa
dạng hóa các dịch vụ lưu trú dành cho du khách. Bên cạnh đó, việc
thanh tốn bằng thẻ tín dụng đã được áp dụng hầu hết tại các trung tâm
thương mại và cơ sở lưu trú, …


 Cải thiện cơ sở hạ tầng mềm: áp dụng công nghệ để hỗ trợ cho quá
trình tiếp nhận hồ sơ và cấp visa, thực hiện chính sách miễn visa cho 66
quốc gia và vùng lãnh thổ (xem lược đồ bên dưới), có những chính sách
thị thực đặc biệt cho một số quốc gia (công dân của các quốc gia CIS
(trừ Nga) và Gruzia, công dân của Trung Quốc và Philippines, …).



<b>Hình 2.17: Lược đồ chính sách thị thực của Nhật Bản [30] </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

thức ngay khi đặt chân đến Nhật và bắt đầu hành trình của mình một cách tiện
lợi.


<b>Hình 2.18: Phiếu chuyển đổi JRP (Mua tại nước sở tại) [31] </b>


<b>Hình 2.19: Quầy chuyển đối vé JRP tại sân bay của Nhật [31] </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

cuộc sống của mình cho cơng ty. Tuy nhiên, cùng với sự nhiệt huyết đó là sự
báo động của căn bệnh “kuroshi” (苦労死) khi cứ 5 người thì sẽ có 1 người
lao động chết vì “kuroshi”. Do vậy, các công ty cùng chính phủ Nhật Bản
khơng ngừng đưa ra các chính sách để hạn chế tăng ca (dù là tăng ca do tự
nguyện) và khuyến khích nhân viên đi du lịch:


 Cho nhân viên nghỉ sớm vào ngày thứ 6 của tuần cuối cùng trong tháng


 Tắt đèn văn phòng sau 7h tối


 Yêu cầu nhân viên phải dùng tối thiểu 5 ngày nghỉ phép/ 1 năm


 Có chính sách hỗ trợ du lịch đặc biệt cho người cao tuổi


Bên cạnh đó, từ tháng 3/2012 chính phủ Nhật Bản đã đưa ra hàng loạt
chính sách phụ trợ để “mở rộng các cơ sở hỗ trợ du lịch” và “nâng cao chất
lượng du lịch như: thiết lập mạng lưới rộng lớn các cửa hàng miễn thuế, chính
sách mở rộng và đa dạng các tuyến đường bay, chính sách giảm giá vé máy
bay, nới lỏng chính sách nhập cảnh và hàng loạt chính sách khác. Nhờ vào
những chính sách trên trên, trong thời gian ngắn Nhật Bản đã tạo ra được


những chiến lược và sản phẩm du lịch tốt, có chất lượng cao; khai thác hiệu
quả, đồng bộ tài nguyên du lịch, đem lại nguồn thu cho đất nước, và tạo một
vị thế du lịch nhất định với các nước…


Tóm lại, từ cuối năm 2012, với việc áp dụng hàng loạt chiến lược tăng
trưởng kinh tế (chính sách “Abenomics”), Nhật Bản đã tập trung và hướng
vào giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề trong phát triển du lịch, cả về cơ chế,
chính sách, ngân sách đầu tư đến phát triển cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ
thuật du lịch.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

CHƯƠNG III



<b>MỘT SỐ GỢI Ý CHO PHÁT TRIỂN </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

<b>3.1 Tổng quan về ngành du lịch và các chính sách phát triển du lịch Việt </b>


<b>Nam </b>


Từ những năm 1960, ngành du lịch Việt Nam đã ra đời để phục vụ cho
các đoàn khách của Đảng và Nhà nước, khách du lịch vào Việt Nam theo các
Nghị định thư. Cụ thể, vào ngày 9/7/1960 Hội đồng Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 26/CB thành lập Công ty du lịch Việt Nam trực thuộc Bộ Ngoại
Thương. Trong bối cảnh của cuộc chiến tranh khốc liệt, ngành du lịch Việt
Nam đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua thử thách và từng bước mở rộng nhiều cơ
sở du lịch ở khu vực phía Bắc như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hịa
Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, …


Từ sau năm 1975, hoạt động du lịch dần dần được mở rộng khắp cả
nước, ngành du lịch bước vào giai đoạn xây dựng bộ máy tổ chức và đội ngũ
lao động phục vụ cho ngành với sự ra đời của Tổng cục Du lịch Việt Nam


(trực thuộc Hội đồng Chính phủ) vào tháng 6 năm 1978. Trong giai đoạn này,
ngoài việc thực thi nghĩa vụ tiếp đón các phái đồn ngoại giao đến thăm và
làm việc, ngành du lịch cịn góp phần tích cực trong việc tuyên truyền, giới
thiệu về đất nước và con người Việt Nam với bạn bè thế giới, kết nối nhân
dân hai miền Nam – Bắc. Tuy nhiên, công tác quy hoạch du lịch chưa được
chú trọng và trên thực tế chưa có một quy hoạch tổng thể nào, hệ thống tổ
chức bộ máy ngành du lịch chưa hoàn thiện và thiếu tính thống nhất về mơ
hình tổ chức ở các địa phương.


Bước sang thập niên 1990, Đảng và Nhà nước đã xác định du lịch là
ngành kinh tế tổng hợp, có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế
<i>- xã hội của đất nước: “Du lịch là một ngành kinh tế quan trọng trong chiến </i>
<i>lược phát triển kinh tế - xã hội và xác định mục tiêu đến năm 2000 là tập </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

<i>trung tâm du lịch với những sản phẩm đặc sắc, hấp dẫn,thu hút vốn đầu tư </i>
<i>trong nước và nước ngoài để xây dựng mới, cải tạo và nâng cấp cơ sở vật </i>


<i>chất kỹ thuật hiện có…” (Nghị quyết 45/CP ngày 22/6/1993 về việc “Đổi mới </i>


<i>quản lí và phát triển du lịch”) và “Phát triển du lịch là một hướng chiến lược </i>


<i>quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp phần thực </i>


<i>hiện cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước” (Chỉ thị 46/CT – TƯ của Ban </i>
Bí thư Trung ương Đảng khóa VII, tháng 10/1994). Trên cơ sở đó, Quy hoạch
tổng thể phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 1995 – 2010 đã được Thủ
tướng chính phủ phê duyệt ngày 24/4/1995 với mục tiêu tối ưu hóa sự đóng
góp của ngành du lịch vào thu nhập quốc dân, góp phần vào việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, tạo việc làm để bước vào thập kỉ đầu của thế kỉ XXI, du lịch
trở thành một ngành công nghiệp tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của


đất nước. Tuy nhiên, trên thực tế chủ trương trên chưa được quán triệt và thực
hiện đầy đủ trong phối hợp liên ngành, và ở các địa phương - nhiều nơi chưa
coi du lịch là ngành kinh tế đặc thù có tác dụng và hiệu quả nhiều mặt, vì vậy,
chưa quan tâm thích đáng tạo môi trường thuận lợi cho du lịch phát triển,
chưa khơi dậy được tiềm năng và chưa huy động được các thành phần kinh tế
tham gia phát triển du lịch.


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

<i>cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tạo động lực thúc đẩy phát triển </i>
<i>kinh tế - xã hội; có tính chun nghiệp, có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật </i>
<i>tương đối đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du lịch có chất lượng cao, đa dạng, có </i>
<i>thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, cạnh tranh được với các </i>
<i>nước trong khu vực. Thu hút được 17 - 20 triệu lượt khách du lịch quốc tế, 82 </i>
<i>triệu lượt khách du lịch nội địa; đóng góp trên 10% GDP, tổng thu từ khách </i>
<i>du lịch đạt 35 tỉ USD; giá trị xuất khẩu thông qua du lịch đạt 20 tỉ USD; tạo </i>
<i>ra 4 triệu việc làm, trong đó có 1,6 triệu việc làm trực tiếp”, và phấn đấu đến </i>
<i>năm 2030 “du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn, thúc đẩy mạnh mẽ </i>
<i>sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác. Việt Nam thuộc nhóm các nước có </i>
<i>ngành Du lịch phát triển hàng đầu khu vực Đông Nam Á”. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

Theo đánh giá của Bộ Chính trị trong Nghị quyết về phát triển du lịch
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn (Nghị quyết số: 08-NQ/TW, ngày
<i>16/01/2017) thì “Sự phát triển của ngành Du lịch đã và đang góp phần thúc </i>
<i>đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu tại chỗ; bảo tồn và phát huy giá </i>
<i>trị di sản văn hóa, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời </i>
<i>sống nhân dân; đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất </i>
<i>nước, con người Việt Nam. Tuy nhiên, ngành Du lịch còn một số hạn chế, yếu </i>
<i>kém. Du lịch phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và kỳ vọng </i>
<i>của xã hội. Sản phẩm du lịch chưa thực sự hấp dẫn và có sự khác biệt, khả </i>
<i>năng cạnh tranh chưa cao. Chất lượng dịch vụ du lịch chưa đáp ứng yêu cầu. </i>
<i>Hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch chưa cao. Mơi trường du </i>


<i>lịch, an tồn thực phẩm và an tồn giao thơng cịn nhiều bất cập. Cơng tác </i>
<i>xúc tiến quảng bá du lịch còn nhiều hạn chế về nguồn lực, sự phối hợp và tính </i>
<i>chuyên nghiệp, hiệu quả chưa cao. Nguồn nhân lực du lịch vừa thiếu vừa yếu. </i>
<i>Doanh nghiệp du lịch chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa; vốn, nhân lực </i>
<i>và kinh nghiệm quản lý còn hạn chế. Vai trò của cộng đồng trong phát triển </i>
<i>du lịch chưa được phát huy”. </i>


Do vậy, để thực hiện được mục tiêu đề ra, ngành Du lịch Việt Nam cần
phải nắm bắt được các xu hướng du lịch mới của thế giới và đưa ra các chiến
lược phát triển du lịch phù hợp. Nhật Bản được xem là một trong những quốc
gia có sự phát triển ngoạn mục về du lịch bằng những chính sách độc đáo của
mình nên việc học hỏi và vận dụng vào những điểm tương đồng với Việt Nam
là điều nên làm.


<b>3.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ việc nghiên cứu chính sách </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

<b>3.2.1 Tầm quan trọng của quy hoạch phát triển và tính liên kết trong </b>


<b>quản lý du lịch </b>


Trong nội dung của công tác quản lý kinh tế vĩ mô thì vấn đề quy hoạch
phát triển ln đóng một vai trị hết sức quan trọng, đặc biệt là đối với lĩnh
vực du lịch – một ngành kinh tế mang tính tổng hợp cao. Bên cạnh những
thành công trong việc xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển du lịch và
cụ thể hóa thơng qua các chương trình hành động cụ thể, chính phủ Nhật Bản
cịn thể hiện vai trị quan trọng khi có những cơ chế tạo ra tính liên kết giữa
các cấp, các bộ, ngành trung ương với địa phương trong vấn đề quy hoạch,
quản lý và phát triển du lịch. Ban Du lịch Nhật Bản luôn phối hợp với các bộ,
ngành có liên quan đến du lịch để chỉ đạo các địa phương triển khai các hoạt
động du lịch trong phạm vi thẩm quyền của mình, qua đó đề xuất, trình Chính


phủ phê duyệt từ các chính sách, chiến lược cho đến các chiến dịch, chương
trình xúc tiến quảng bá đối với từng thị trường trong từng giai đoạn nhất định,
đảm bảo cho ngành du lịch Nhật Bản hoạt động xuyên suốt và hiệu quả, phù
hợp với mục tiêu phát triển chung của đất nước. Bên cạnh đó, những tổ chức
ở Nhật Bản như Ủy ban Môi trường, Hiệp hội Bảo vệ di sản thiên nhiên Nhật
Bản, Hội đồng Xúc tiến du lịch sinh thái Nhật Bản, những hiệp hội du lịch
sinh thái tại các địa phương… đều có sự gắn kết chặt chẽ với cộng đồng dân
cư trong việc bảo tồn và phát triển bền vững các nguồn tài nguyên tự nhiên,
lịch sử, và văn hóa của địa phương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

trong phát triển du lịch giữa các địa phương nhằm khai thác tối đa lợi thế của
du lịch trong cả một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm nhiều tỉnh, thành phố,
hoặc tăng cường kết nối và khuyến khích các tập đồn kinh tế tư nhân trong
và ngoài nước bỏ vốn đầu tư nhằm phát triển du lịch, qua đó phát huy mạnh
mẽ nguồn lực của thành phần kinh tế tư nhân nhằm gia tăng khả năng cạnh
tranh cho du lịch Việt Nam.


Ngoài ra, việc khuyến khích cơng dân tham gia vào các chương trình
giáo dục văn hóa và các hoạt động để thúc đẩy chất lượng của những trải
nghiệm văn hóa thơng qua du lịch là việc nên làm. Chính phủ Nhật Bản đã có
những hỗ trợ về mặt tài chính nhằm đảm bảo những chính sách đưa ra có tác
động hiệu quả đến ngành du lịch và đã thu hút được một bộ phận người dân
Nhật sẵn sàng chi tiêu nhiều hơn cho du lịch. Tất cả những yếu tố trên đã góp
phần khơng nhỏ vào việc xác lập định hướng và hỗ trợ cho ngành du lịch tại
Nhật Bản phát triển mạnh.


<b>3.2.2 Phát huy sức mạnh của cộng đồng trong phát triển du lịch </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

chiếm 1% GDP nhưng khi khai thác tốt giá trị của nó kết hợp với phát triển
du lịch sẽ biến thành một trong những ngành đặc trưng và mang lại hiệu quả


kinh tế cao – không chỉ cung cấp đầy đủ cái ăn chất lượng cho hơn 127 triệu
dân (dù nhân lực hoạt động trong lĩnh vực này chỉ chiếm 3% dân số) mà còn
tạo ra nhiều sản phẩm du lịch độc đáo.Từ cái gốc của ngành nơng nghiệp vốn
có, cộng đồng người Nhật đã tạo ra những sản phẩm du lịch ấn tượng và đầy
tính nghệ thuật bằng cách áp dụng các kĩ thuật của thời đại cách mạng công
nghiệp 4.0 vào nông nghiệp như: để tạo ra những cánh đồng lúa/cánh đồng
hoa đẹp như tranh vẽ, người Nhật đã sử dụng các phần mềm thiết kế trên máy
tính để vẽ và tính tốn hình ảnh để làm sao có thể nhìn thấy từ xa (kể cả trên
máy bay) nhằm mục đích tăng tính quảng cáo thương mại, sau đó khi thời vụ
đến người ta chọn ra các giống lúa/giống hoa/giống trái cây (loại chuyển đổi
gen) để tạo ra nhiều gam màu khác lạ như đỏ đậm, vàng và trắng, và pha trộn
với các giống cây truyền thống để làm ra các thiết kế như đã vẽ trên máy vi
tính, biến những ruộng lúa/vườn cây thành những bức tranh đẹp, trở thành
<b>điểm du lịch hấp dẫn không thể bỏ qua. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực ẩm thực, </b>
kể từ sau khi được UNESCO chính thức cơng nhận là di sản văn hóa phi vật
thể thế giới (tháng 12/2013), Washoku23 đã được JNTO sử dụng như là một
công cụ hữu hiệu để quảng bá và phát triển du lịch Nhật Bản thông qua các
chương trình xúc tiến du lịch. Sau quá trình lựa chọn các món ăn tiêu biểu đại
diện cho từng vùng miền, họ tổ chức các hoạt động tuần lễ văn hóa du lịch tại
nước ngồi – trong đó chú trọng các hoạt động biểu diễn chế biến món ăn đặc
trưng và có sự trải nghiệm của khách hàng, giới thiệu về văn hóa ẩm thực




<i><b>23</b><b><sub> Ẩm thực truyền thống Nhật Bản (和食 - Washoku) vốn nổi tiếng bậc nhất thế giới bởi sự cầu kỳ trong cách chế biến lẫn bài trí </sub></b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

truyền thống Nhật Bản qua việc trình chiếu các phim phóng sự, băng hình và
sử dụng các hình ảnh tĩnh về văn hóa ẩm thực.


Từ các ví dụ trên, ta có thể thấy rằng Việt Nam hồn tồn có thể học hỏi


những kinh nghiệm q báu của Nhật Bản trong việc phát huy sức mạnh của
cộng đồng để phát triển du lịch, qua đó chia sẻ lợi ích hoạt động du lịch với
cộng đồng và tận dụng sự sáng tạo của cộng đồng để “thương hiệu hóa” các
điểm đến cho du lịch Việt Nam. Việc nâng cao ý thức, vai trò của người dân
địa phương và mạnh dạn áp dụng mơ hình trao quyền cho cộng đồng địa
phương trong phát triển du lịch là cần thiết và chúng ta nên có một kế hoạch
cụ thể và phù hợp với mỗi địa phương/vùng miền trong cả nước.


<b>3.2.3 Tăng cường đầu tư, phát triển hạ tầng du lịch </b>


Nhật Bản là quốc gia châu Á rất coi trọng đầu tư vào cơ sở hạ tầng phục
vụ đời sống và du lịch với những chính sách qui hoạch và phát triển hệ thống
giao thông tiện lợi và hiện đại, chính sác đầu tư mở rộng cơ sở lưu trú và vui
chơi giải trí, các chính sách phát triển nguồn nhân lực du lịch và “cơ sở hạ
tầng mềm” phục vụ cho du lịch như đã phân tích ở chương 2.


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

lưu lại lâu hơn, tăng nguồn thu và tăng khả năng hấp dẫn khách đến nhiều lần.
Kinh nghiệm từ Nhật Bản cho thấy, cơ sở hạ tầng du lịch hiện đại với những
khu vui chơi giải trí nổi tiếng (cơng viên chủ đề Hello Kitty, Tokyo
<b>DisneySea, Tokyo Disneyland, Universal Studios Japan,…), những khách sạn </b>
theo chủ đề độc đáo là một trong những yếu tố rất quan trọng giữ chân khách
du lịch quốc tế.


Bên cạnh đó, để có thể để lại ấn tượng tốt đẹp với khách du lịch quốc tế,
bên cạnh yếu tố “cơ sở hạ tầng cứng” thì nguồn nhân lực du lịch (hướng dẫn
viên du lịch) thông thạo ngoại ngữ, giỏi chuyên môn và phục vụ tốt là yếu tố
rất quan trọng. Nhật Bản đã rất thành công trong việc đào tạo nghiệp vụ và kỹ
năng cho hướng dẫn viên du lịch theo phương châm của “tinh thần
omotenashi24” – tinh thần phục vụ bằng cả tấm lòng của người Nhật Bản.
Trong lĩnh vực du lịch, omotenashi được xem là sự tiếp đón, chăm sóc khách


hàng với tất cả những hành vi tận tụy và tinh tế nhất. Nó tạo ra bầu khơng khí
n bình và thư giãn, nơi khách hàng sẽ có được những trải nghiệm khó quên.


<b>3.2.4 Tăng cường marketing trong phát triển du lịch </b>


Bên cạnh việc áp dụng nhiều biện pháp để cải tiến thủ tục (thủ tục
visa), xây dựng hệ thống cửa hàng miễn thuế, tăng cường các chuyến bay và
gia tăng các loại hình dịch vụ đặc sắc, Nhật Bản đã rất nỗ lực trong vấn đề
marketing để phát triển du lịch. Nhiều chương trình xúc tiến du lịch liên tục
được triển khai để đưa ngành du lịch trở thành một trong những ngành kinh tế
mũi nhọn, các ứng dụng internet marketing khơng ngừng phát triển để tăng
tính hiệu quả cho các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch. Ví


24<sub> Trong tiếng Nhật, " おもてなし" – Omotenashi là một danh từ có nghĩa là "sự phục vụ khách hàng </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

dụ: JNTO đã thiết lập 15 văn phòng đại diện của Nhật Bản ở nước ngooài để
tiến hành hoạt động quảng bá du lịch và tham gia hầu hết các hội chợ quốc tế
về du lịch như: ITE Hồng Kông, ITE Đài Loan, KOTFA (Hàn Quốc),
NASTAS Travel (Singapore). WTM (Anh),… Ngoài ra, người Nhật cũng đã
khai thác triệt để yếu tố công nghệ thông tin - mạng internet để hỗ trợ quảng
cáo du lịch Nhật Bản. Ví dụ: JNTO đưa lên trang web những món ăn tiêu biểu
của mỗi địa phương, giới thiệu về nguồn gốc, xuất xứ, ý nghĩa, cách thức tiêu
dung, đồng thời cho ra mắt nhiều ấn phẩm giới thiệu về Nhật Bản (như Your
Guide to Japan, Japan Images & Reflections, Your Traveling Companion).
Bên cạnh đó, Nhật Bản cịn nỗ lực thu hút khách du lịch thông qua các trang
mạng xã hội như Facebook, Twitter... Đặc biệt, từ năm 2015 đến năm 2017,
Bộ Kinh tế - Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản đã công bố một website
() để truyền tải những giá trị văn hóa vật thể và phi vật
thể (ẩm thực, quà đặc sản, lễ hội, danh lam thắng cảnh, …) phục vụ cho du


lịch Nhật Bản đến cộng đồng thế giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63></div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64></div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

Thông qua việc phân tích chính sách phát triển du lịch của Nhật Bản có
thể thấy, xuất phát từ nhận thức du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên
ngành, liên vùng và mang tính xã hội hóa, tồn cầu hóa cao, chính phủ Nhật
Bản đã ln có những cơ chế và chính sách phát triển du lịch phù hợp với
từng giai đoạn và đưa du lịch trở thành một ngành kinh tế hàng đầu bằng cách
đặt nó trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, thông qua một
hệ thống cơ chế chính sách đồng bộ nhằm huy động các nguồn lực để thực
hiện và phát triển du lịch với tốc độ cao, bền vững.


Trên cơ sở coi du lịch là định hướng chiến lược, chính phủ Nhật Bản đã
chỉ đạo các Bộ, ngành và các địa phương phối hợp chặt chẽ với nhau để tổ
chức và quản lí các hoạt động du lịch, tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo,
chất lượng cao và khai thác hiệu quả các nguồn tài nguyên du lịch. Bên cạnh
đó là các hoạt động quảng bá du lịch một cách sáng tạo và chuyên nghiệp.
Nhật Bản đã tận dụng được lợi thế từ việc marketing sản phẩm nhờ những
chiến lược quảng bá của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66></div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

<b>THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>







<b>I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT </b>


<i>1. Phạm Trung Lương. (2015), Phát triển du lịch VN trong bối cảnh hội </i>
<i>nhập, Viện Nghiên cứu phát triển du lịch, Hà Nội. </i>


<i>2. Tổng cục du lịch. (2013), Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch VN đến </i>
<i>năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, NXB Lao động và Xã hội, Hà Nội. </i>



<b>II. TÀI LIỆU TIẾNG ANH </b>


<i>3. Campbell, A. and D. Noble, Eds. (1993), Japan: Anillustrated </i>
<i>encyclopedia, Kodansha, Tokyo, Japan, p.1003 </i>


<i>4. Constantine N. Vaporis (1994), Breaking Barriers – Travel and the State </i>
<i>in Early Modern Japan, Council on East Asian Studies – Harvard </i>


University Press, London


<i>5. David J.Lu(1997), Japan, A Documentary History, An East Gate Book, </i>
United States of America


<i>6. Davis, W. (1992), Japanese Religion and Society: Paradigms of structure </i>
<i>and change, State University of New York Press Embree </i>


<i>7. Ishimori Shuzo (1989), Population and commercialization of tourism in </i>
<i>early modern Japan, Senri Ethnological Studies, No. 26 </i>


<i>8. Fromanek, S. (1998), Pilgrimage in the Edo period – The culture of Japan </i>
<i>as seen through its leisure, State University of New York Press </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

<i>Alternative Tourism An International Conference Yangshuo (Guilin), </i>


China - 11 to 13 July 2009


<i>10. Tetsuhiko Takai (2005), Tourism Approaches and the Japanese </i>
<i>Experience, Graduate School of Economics and Business Administration, </i>



Hokkaido University


<i>11. Akayuki I. and Xiaojing S. (2007), A Study on the Actual Developing </i>
<i>State and Future Development Possibilities of Green Tourism in Okinawa, </i>


Journal of Asian Architecture and Building Engineering, vol.6 no.1


<b>III. TÀI LIỆU INTERNET </b>


<i>12. Ministry of the Environment (2009), “Best Practices of Sustainable </i>
<i>Tourism in Japan”, Submitted to the Ministerial Consultations of the 9th </i>


Special Session of the Governing Council / Global Ministerial
Environment Forum,




<i>13. Ministry of Land, Infrastructure, Transport and Tourism (2007), White </i>
<i>Paper on Land, Infrastructure, Transport and Tourism. </i>




14. Organization for the Revitalization of Urban-Rural Interchange (2009),
<i>Journey to the countryside and nature of Japan: Green Tourism, </i>



15.


16.



</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

18.

19.
20.
21.


22.
23.


24.


25.

26.


<b>27. </b>
28.
29.


30. />8B_th%E1%BB%B1c_c%E1%BB%A7a_Nh%E1%BA%ADt_B%E1%B
A%A3n


31.


<i>32. </i>




33.




</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

<b>PHỤ LỤC </b>







<b>1. Giới thiệu những cơng viên giải trí hàng đầu Nhật Bản [32] </b>


<b>1.1 Tokyo DisneySea </b>


Tokyo DisneySea là một công viên chủ đề ở Tokyo Disney Resort đó là
cơng viên giả tưởng duy nhất ở Nhật Bản. Lấy cảm hứng từ những huyền
thoại và truyền thuyết của biển, Tokyo DisneySea được tạo thành bảy khu vực
theo chủ đề khác nhau với tên gọi: Cảng Địa Trung Hải, Đảo Huyền bí, Hồ
Mỹ nhân ngư, Bờ biển Ả Rập, Sông Delta mất tích, Cảng khám phá và Bờ
sông Mỹ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

<b>1.2 Tokyo Disneyland </b>


Tokyo Disneyland là công viên chủ đề dựa trên những bộ phim được sản
xuất bởi hãng Walt Disney. Công viên được khai trương vào năm 1983 như là
một công viên đầu tiên bên ngoài nước Mỹ thuộc chuỗi công viên chủ đề
Disney. Theo mơ hình Disneyland ở California và Magic Kingdom ở
Florida, Tokyo Disneyland được tạo thành bảy vùng đất theo chủ đề và các
tính năng trang trí theo mùa và diễu hành hàng ngày của các nhân vật hoạt
hình và huyền thoại.


<b>1.3 Universal Studios Japan </b>


Universal Studios Japan (USJ) là công viên chủ đề đầu tiên dưới thương


hiệu Universal Studios được xây dựng ở châu Á. Khai trương tháng 3/2001 tại
khu vực vịnh Osaka, các công viên chủ đề chiếm một diện tích 39 ha và là
công viên vui chơi giải trí thứ hai được ghé thăm nhiều nhất tại Nhật Bản sau
Tokyo Disney Resort.


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

Universal Wonderland và thế giới phù thủy Harry Potter. Du khách có thể
thưởng thức một số trị chơi giải trí, tàu lượn ly kỳ và mơ phỏng dựa trên bộ
phim nổi tiếng như Spiderman, Back to the Future, Terminator 2 và Jurassic
Park.


Ngoài ra công viên chủ đề cung cấp nhiều cơ hội để chụp ảnh với những
nhân vật hoạt hình nổi tiếng như Snoopy, Hello Kitty và những con rối của
Sesame Street. Ngồi ra cịn có các chương trình khác nhau diễn ra mỗi ngày,
bao gồm một cuộc diễu hành đêm với đèn chiếu sáng rực rỡ.


Ngay bên ngồi cổng của cơng viên là Thú tiêu khiển Osaka, một trung
tâm mua sắm với nhiều khách sạn chính thức Universal, nhiều nhà hàng và
cửa hàng, bao gồm cả các cửa hàng bán quà lưu niệm Osaka.


<b>1.4 Nikko Edomura (Edo wonderland) </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

cũng mặc những bộ trang phục trong thời kỳ này. Công viên chủ đề này
thường được sử dụng làm bối cảnh cho các bộ phim truyền hình, phim lịch sử.
Du khách đến với công viên khách có thể thuê trang phục để mặc và tham
quan các cửa hàng cũng như các viện bảo tàng lịch sử, tham gia trò chơi và
xem các chương trình biểu diễn và sân khấu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

<b>2. Giới thiệu các địa danh du lịchnổi tiếng Nhật Bản [33] </b>


<b>2.1. Đền Kinkaku-ji ở Kyoto </b>





Kinkaku-ji cịn gọi là ngơi đền vàng thuộc phái Shokoku-ji, có tên chính
thức là Rokuon-ji nằm ở Kyoto, Nhật Bản. Đền Kinkaku-ji được công nhận là
di sản văn hóa thế giới và được cho là xây dựng vào năm 1379 dưới thới Mạc
phủ Muromachi




</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

cung điện, tầng 2 là phong cách nhà samurai, tầng 3 thiền tông Phật điện,
trong đó tầng 2 và 3 đã được dát vàng.


Ngồi ngơi đền có kiến trúc độc đáo, sân chùa có phịng trà Sekkatei
(Tịch Giai Đình), ao Anmintaku, và bức tượng mà mọi người ném đồng xu
vào để có được sự may mắn.


<b>2.2. Tháp Tokyo </b>




Tháp Tokyo được coi là tháp truyền hình cao thứ 2 Nhật Bản được xây
dựng vào năm 1958, tọa lạc tại khu vực Shiba-koen thuộc quận Minato,
Tokyo. Tháp tokyo được cho là có thiết kế gần giống tháp Eiffel của Pháp đây
được coi là địa điểm du lịch nổi tiếng Nhật Bản.




Ở tháp Tokyo có 3 đài quan sát: Đài quan sát lớn ở tầng 1 nằm ở độ cao
145m, đài quan sát lớn ở tầng 2 cao 150m, đài quan sát riêng cao 250m nằm ở


vị trí cao nhất với giá vé tầng 1 là 900 yên, tầng 2 là 1600 yên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

- Tọa độ: 35°39′31″B 139°44′44″ĐTọa độ: 35°39′31″B 139°44′44″Đ
- Chủ đầu tư: Nihon Denpatō


- Kiến trúc sư Tachu Naito
- Số tầng: 16


- Số thang máy: 4





<b>2. 3. Cổng nổi ở miếu Itsukushima </b>




Đền thờ Itsukushima-jinja được xây dựng vào thế kỷ 12 bởi Taira no
Kiyomori thuộc Miyajima tỉnh Hiroshima. Itsukushima-jinja được biết đến
với kiến trúc độc đáo xây theo phong cách Shinden-zukuri, tự hào sở hữu
cảnh sắc đẹp hiếm có của Nhật Bản.


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

- Năm được UNESCO công nhận là Di sản thế giới: 1996





<b>2. 4. Chùa Kiyomizu-dera (Kyoto) </b>


Kiyomizu Dera là ngôi chùa cổ nổi tiếng nhất Kyoto được xây dựng vào


năm 587 bởi thánh nhân Sonryu.


Chùa Kiyomizu-dera hiện trở thành ngôi chùa có tịa tháp 3 tầng duy
nhất ở khu vực Sanin với khuôn viên chùa có trồng nhiều hoa anh đào
Somei-Yoshino, do đó mùa xuân được coi là mùa cao điểm tham quan của ngôi chùa
này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78></div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

<b>2.5. Lâu đài Himeji (Hyogo) </b>




Lâu đài Himeji có tên là “White Heron” - Diệc trắng nằm trong trung
tâm thành phố Himeji tỉnh Hyogo, cách thủ đơ Tokyo 650km về phía Tây.
Thành Himeji được xem là 1 trong 3 thành quý nhất Nhật Bản cùng
Matsumoto và Kumamoto.




Lâu đài Himeji xây dựng từ năm 1333 bở lãnh chúa Norimura Akamatsu
và được UNESCO công nhận là Di sản Quốc gia năm 1931. Tọa lạc trên đỉnh
đồi Himeyama, lâu đài Himeji cao 45,6m so với mực nước biển, ngồi tháp
chính cịn có 83 tịa nhà với các hệ thống phòng thủ kiên cố từ thời phong
kiến, phức tạp giống như một mê cung.


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>



<b>2.6. Phố Dotonbori </b>





Dotonbori nằm dọc theo sông Dotonbori ở thành phố Osaka, dây được
coi là trái tim của thành phố Osaka nơi tập trung nhiều quán ăn, cửa hàng nổi
tiếng và biển hiệu đặc trưng như Gurikoneon, Kani Doraku Dotonbori Honten,
Tsubaraya.


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81></div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

Đặc biệt tại Dotonbori cũng có rất nhiều quán rượu, club nên bạn có thể
thoải mái vui chơi đến tận đêm khuya.




<b>2. 7. Núi Phú Sỹ nhìn từ hồ Kawaguchi </b>


Núi Phú Sĩ được xem là ngọn núi cao nhất Nhật Bản, và là một danh lam
thắng cảnh, đây là điạ điểm mà nhiều người đến Nhật ước mơ được một lần
đặt chân tới.


Núi Phú Sĩ thuộc địa phận tỉnh Shizuoka và tỉnh Yamanashi cách Tokyo
100 km về phía tây nam.


Hồ Kawaguchi được xem là địa điểm ngắm núi phú sĩ đẹp nhất tại Nhật
Bản, hồ Kawaguchi nằm trong quần thể Phú Sỹ ngũ hồ, một trong những
danh thắng tuyệt sắc của nước Nhật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>



</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

- Độ cao: 3.776 m
- Chỗ nhô lên: 3.776 m


- Phun lần cuối: 16 tháng 12, 1707



- Năm được UNESCO công nhận là Di sản thế giới: 2013


<b>2. 8. Khu Harajuku </b>




Harajuku thuộc thành phố Tokyo, trải dài từ ga Harajuku Omotesando
tới phường Shibuya. Harajuku nổi tiếng trên toàn thế giới là trung tâm văn
hóa và thời trang của giới trẻ Nhật Bản


Harajuku nổi tiếng vớicác cửa hàng thời trang từ bình dân tới cao cấp
nhưng chủ yếu là phục vụ giới trẻ. Một nét đặc trưng không thể không kể đến
của khu phố này là vào cuối tuần, các thanh niên Nhật sẽ ăn mặc những bộ
quần áo đẹp và đậm chất quái dị, lang thang trên khu Harajuku, tạo nên cảnh
tượng rộn ràng, bắt mắt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

Đến với Harajiuku bạn còn khám phá nhiều điểm tham quan hấp dẫn như
Yoyogi Park, Meiji Jingu, Togo Shrine , Bảo tàng Nezu, NHK Studio Park,
Sân vận động quốc gia Yoyogi,..







<b>2. 9. Miếu Fushimi Inari-taisha ở Kyoto </b>


Fushimi Inari-taisha là ngơi đền nghìn cột tại Nhật Bản, đứng đầu trong
số 3 vạn đền thờ Inari-jinja trên toàn quốc.



</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86></div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

Ngôi đền thờ thần Inari-Daimyojin, nơi nổi tiếng linh ứng với những lời
cầu nguyện về kinh doanh thịnh vượng, mùa màng bội thu. Ngơi đền cịn có
viên đá Omokaru-ishi, tương truyền rằng nếu nhấc viên đá lên cảm thấy nhẹ
thì sẽ đạt được điều ước. Đây được coi là địa điểm văn hóa tâm linh nổi tiếng
Nhật Bản.





<b>3. Giới thiệu về hành hương Shikoku Ohenro [34]</b>


<i><b>3.1 Ý nghĩa gốc của Ohenro </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

đã tổ chức "khải trướng", công khai các ẩn đường, ẩn phật mà thông thường
không thể thấy được.


<i><b>3.2 Mục đích của Ohenro </b></i>


Hành trình Ohenro có rất nhiều mục đích ứng với từng nơi mà các tín đồ
đi qua như nguyện cầu sức khoẻ, tìm lại chính mình, khai vận, kết dun...
Trên chiếc nón người hành hương mang theo có ghi chữ "同行二人"(đồng
hành nhị nhân), có nghĩa là có 2 người đồng hành cùng nhau, trong đó 1
người là bản thân người hành hương và người còn lại là Hoằng Pháp Đại Sư.
Tức là, trong hành trình hành hương này, bạn khơng đi một mình mà sẽ đồng
hành cùng Hoằng Pháp Đại Sư, đây chính là ý nghĩa của Ohenro.


<b>3.3 Quy tắc khi hành hương </b>


Con đường hành hương Ohenro có điểm đặc biệt là dù bắt đầu từ đâu
cũng được. Nếu đi từ điểm hành hương được đánh số thứ tự 1, tức là bạn đang


"hành hương thuận chiều" và đây là cách được nhiều người chọn nhất. Nếu
xuất phát từ điểm hành hương số 88, tức là bạn đang đi theo con đường "hành
hương nghịch chiều" và được cho là sự linh nghiệm sẽ tăng gấp 3 lần đi theo
đường thuận chiều. Ngồi ra cịn có "hành hương xun suốt" - tức là đi hết
toàn bộ 88 điểm hành hương theo trình tự; hoặc "hành hương ngẫu nhiên"
tức là đi theo sở thích; hay "hành hương theo vùng" - tức là đi hết các điểm
hành hương trong một tỉnh nên khách hàng hương có thể chọn cho mình hành
trình phù hợp với sức khoẻ và mục đích.


<i><b>3.4 Phương tiện di chuyển </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(89)</span><div class='page_container' data-page=89>

<b>3.5 Ohenro thoải mái chấp nhận nhiều phong cách thời trang </b>


Con đường hành hương Ohenro ngày nay trở nên phong phú với nhiều
phong cách thời trang của các cô gái trẻ, tuy nhiên phục trang Ohenro truyền
thống vẫn được rất nhiều người yêu thích, đó là gậy Kongo (kim cương), nón
lá, y phục trắng.Trong chuyến hành trình này, bạn có thể ăn mặc theo phong
cách riêng của mình (Ohenro Girl) hoặc mặc trang phục truyền thống và giao
lưu với người dân địa phương. Nếu đi bộ hành hương, hãy trang bị giày dễ đi
và khơng gây đau chân vì sẽ có những đoạn đường núi gập ghềnh. Hãy chọn
cho mình một phong cách hành hương phù hợp và lên đường khám phá 88 địa
điểm linh thiêng ngay bây giờ nào!


<b>3.6 Các hành trang cần thiết </b>


Không cần thiết phải trang bị tất cả ngay từ đầu, nhưng có rất nhiều
người mặc y phục trắng, mang nón lá và gậy. Khi nhìn vào sẽ nhận ra ngay
đây là những người hành hương Ohenro nên sẽ được người dân địa phương
chỉ đường hoặc bắt chuyện. Ở những địa điểm ngoài điểm hành hương đầu
tiên cũng có bán các vật dụng cần thiết cho hành trình Ohenro nên nếu có nhu


cầu có thể mua được một cách đơn giản.


<i><b>Nón lá Sugegasa </b></i>


Đây là chiếc nón là dùng để tránh nắng,
mưa, thường được các nhà sư và người


<i><b>Wagesa </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(90)</span><div class='page_container' data-page=90>

hành hương sử dụng. Tuy nhiên, phải cởi
bỏ nón ở nơi cởi giày. Trên nón có ghi ký
tự tiếng Phạn hàm ý chỉ Di Lặc Bồ Tát; ký
tự 同行二人 (đồng hành nhị nhân) và dịng
chữ mang ý nghĩa "Con người ln lạc lối
trong mối do dự và vòng tròn lẩn quẩn của
bản thân, nhưng nếu được khai sáng giác
ngộ, thập phương rộng mở, con người được
giải phóng khỏi bức tường ràng buộc bản
thân. Vốn khơng có đơng, tây. Và cũng
khơng có khái niệm nam, bắc."


nếu để có thể sử dụng ở nhiều hành trình
hành hương khác ngồi Shikoku Ohenro,
nên sử dụng khơng có chữ. Khi chiêm bái,
sau khi rửa tay thanh tẩy, sẽ mang Wagesa
vào và khi đi toilet phải tháo ra.


<i><b>Xâu chuỗi Juzu </b></i>


Đây là xâu chuỗi thường được dùng trong


tông phái Shingon với 108 hạt. Xâu chuỗi
này có thể dùng cho những tơng phái tu tại
gia.


<i><b>Gậy Kongo (kim cương) </b></i>


Ở phần trên cây gậy có khắc ngũ luân tháp
và 5 ký tự tiến phạn chỉ Khơng (bầu trời),
Phong (gió), Hoả (lửa), Thuỷ (nước), Thổ
(đất). Cây gậy này được cho là hố thân của
Hoằng Pháp Đại Sư nên khơng được mang
đến những nơi ô uế, không thanh sạch.
Ngay cả lúc nghỉ ngơi cũng phải rửa và lau
sạch đầu gậy, chắp tay cầu nguyện; khi tiếp
tục hành trình cũng chắp tay cầu vái trước
khi mang gậy đi. Ngồi ra, có truyền thuyết
là khi đi qua cầu, do ngài Đại Sư đã nghỉ
ngơi dưới cầu nên kiêng không được chống
gậy trên cầu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(91)</span><div class='page_container' data-page=91>

Đây là tay nải mang một bên vai dung để
chứa "nạp kinh trướng", "nạp trát", xâu
chuỗi Juzu, "kinh bản", nhang hương, nến,
bật lửa… Túi làm bằng vải và cũng có
nhiều kiểu dáng, có cái có đính kèm túi
đựng chai nước.


Để chứng nhận là khách hành hương đã nộp
kinh chép và tụng kinh sẽ nạp 2 thẻ này tại
chính điện và đại sư đồng. Ở mỗi thẻ có ghi


địa chỉ (ghi giản lược cỡ thành phố) và tên,
ngày viếng vào mặt trước. Ở mặt sau có ghi
sẵn điều ước. Khi được tiếp đãi, sẽ trao đổi
thẻ này thay cho danh thiếp.


<i><b>Ngự ảnh nhập "Omie-ire" </b></i>


Ở "nạp kinh sở", khách hành hương sẽ được
nhận "ngự ảnh" – tranh ảnh, phù điêu của vị
phật được thờ ở ngơi chùa đó, vào "Châu ấn
trướng" (Go-shuin). Đây chính là quyển sổ
lưu giữa bức ảnh đó. Sau khi đi hết một
vòng, "ngự ảnh nhập" sẽ được lắp thành
một bức tranh treo tường.


<i><b>Kinh bản (sách kinh) </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(92)</span><div class='page_container' data-page=92>

<b>3.7 Trình tự tuần bái </b>


Quầy tiếp tân của "nạp kinh sở" hoạt động từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều.
Trong năm thường khơng có ngày nghỉ. Tuy nhiên, đối với những ngôi chùa
nằm giữa các ngọn núi, trời tối nhanh hơn nên tuỳ theo mùa, cũng có những
lúc đóng cửa sớm, do đó cần lưu ý. Hơn nữa, vào mùa xuân và mùa thu hay
các ngày chủ nhật, ngày lễ, số lượng khách hành hương tăng đột biến nên
quầy tiếp tân cũng sẽ rất bận rộn. Ngoài ra, đừng quên nhận "ngự ảnh" ở "nạp
kinh sở" nhé. Đặc biệt là ở những nơi có thể tự do ra về thì rất dễ quên nên
càng phải chú ý.


<b> Nghi lễ chào - Nhất lễ </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(93)</span><div class='page_container' data-page=93>

<b> Thanh tẩy </b>


Tiếp theo, tại Chozuya (nơi rửa tay), khách viếng sẽ múc 1 gáo nước, rửa
tay trái trước, tay phải sau, sau đó, dùng tay trái vốc nước súc miệng, nước
còn lại sẽ để ngược gáo nước lên cho nước chảy xuống cán gáo. Dù rửa nhiều
đến đâu thì sự linh nghiệm cũng không tăng hay giảm nên điều quan trọng là
hãy trân trọng từng giọt nước, đừng qn tinh thần tiết kiệm.


<b> Gióng chng </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(94)</span><div class='page_container' data-page=94>

<b> Nạp lễ, Tả kinh </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(95)</span><div class='page_container' data-page=95>

<i><b> Thắp nến, đốt hương,ném đồng xu O-saisen </b></i>


Tiếp theo, sẽ thực hiện thủ tục thắp nến, đốt hướng, ném đồng xu. Thắp
nến là để nhận được trí tuệ của Phật, đốt hương là để nhận được ân đức của
Phật. Thông thường sẽ đốt 1 ngọn nến và 3 cây hương. Hãy cắm hương ở
trung tâm để những người đến sau cịn chỗ để cắm; cịn nến thì đặt vào bên
trong hoặc ở tầng trên. Dù ném với tư thế như thế nào thì cơng đức nhận được
cũng không thay đổi nên hãy nhẹ nhàng bỏ O-saisen vào là được.


<b> Tụng kinh, chắp tay cần khấn </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(96)</span><div class='page_container' data-page=96>

<b> Tham bái </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(97)</span><div class='page_container' data-page=97>

<b> Tiếp nhận nạp kinh </b>


</div>

<!--links-->
Đề tài Đánh giá việc đảm bảo các nhu cầu cơ bản của Việt Nam thời gian qua ( từ 1993 đến nay ) theo các chí HDI qua đó đánh giá trình độ phát triển con người Việt Nam hiện nay.doc
  • 28
  • 1
  • 4
  • ×