Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Chương 7. Thiên tai khí tượng nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.81 KB, 14 trang )

Chương VII. THIÊN TAI KHÍ TƯỢNG NƠNG NGHIỆP
Thiên tai là những thảm hoạ bất ngờ do thiên nhiên gây ra cho con người ở mỗi địa phương,
mỗi vùng hoặc cả đất nước. Các loại thiên tai như bão, lụt, hạn hán, sương giá, gió khơ nóng…
đều gây ra những thiệt hại rất lớn cho các ngành kinh tế quốc dân. Đối với sản xuất nông
nghiệp, thiên tai thường mang lại nhiều tổn thất đối với năng suất, sản lượng cây trồng, vật
ni, có khi làm thất thu hồn tồn. Có nhiều loại thiên tai. Trong chương này chúng ta đi sâu nghiên
cứu một số loại thiên tai ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất nông nghiệp ở nước ta như giá
lạnh, gió khơ, nóng, hạn hán, lũ lụt, bão…

1. SƯƠNG MUỐI
1.1. Điều kiện hình thành.
Sương muối là loại thiên tai thường xảy ra trong mùa đông ở các tỉnh miền Bắc nước ta. Sương
muói là những hạt băng nhỏ, xốp, nhẹ, đọng trên mặt đất, lá cây hay các vật gần mặt đất khi nhiệt
độ hạ xuống dưới 0oC. Sương muối cũng có thể xuất hiện khi nhiệt độ khơng khí trên dưới 5 oC,
nhưng nhiệt độ mặt đất và lá cây có thể xuống thấp hơn khơng khí khá nhiều.
Sương muối thường xuất hiện vào ban đêm khoảng gần sáng, khi mà mặt đất bức xạ và nguội
lạnh đi nhiều nhất. Do nhiệt độ quá thấp, hơi nước chứa trong khơng khí tiếp giáp với bề mặt lạnh
sẽ ngưng kết lại ở trạng thái băng, dưới dạng những hạt nhỏ như những tinh thể muối.. Sương muối
cũng có thể hình thành do hơi nóng, ẩm từ các lớp đất sâu bốc lên. Do đó mà sương muối có thể
thấy cả ở mặt trên lẫn mặt dưới lớp lá khô hoặc các vật khác.
Điều kiện thích hợp nhất cho sự hình thành sương muối là những đêm có gió mùa Đơng Bắc,
trời quang mây, gió nhẹ. Do trời quang mây, bức xạ hữu hiệu của mặt đất và các vật trên mặt đất
được tăng cường, khơng khí ln ln được thay thế và hơi ẩm được bổ sung liên tục khi có gió
nhẹ. Sương muối hình thành nhiều nhất ở những nơi có độ ẩm vừa phải. Trong các thung lũng, bồn
địa... nhiệt độ hạ thấp hơn các nơi khác nên sương muối dễ xuất hiện hơn so với sườn núi hoặc
đỉnh đồi. Sương muối thường xuất hiện với tần suất cao ở những nơi trơ trọc, khơng có thảm thực
vật và các sườn phía Bắc đón gió mùa Đơng Bắc.
Dựa vào ngun nhân hình thành mà người ta có thể chia sương muối ra làm 3 loại:
- Sương muối bức xạ: Hình thành do mặt đất bức xạ quá mạnh làm cho nhiệt độ mặt đất giảm
xuống đột ngột, nhiệt độ hạ xuống dưới 0oC. Loại này thường được hình thành khi trời quang mây,
gió nhẹ, độ ẩm khơng khí khơng cao lắm.


- Sương muối bình lưu: Là loại sương muối được hình thành khi có bình lưu lạnh tràn về làm
cho nhiệt độ khơng khí và mặt đất hạ xuống nhanh chóng, phạm vi phân bố loại sương muối này
rất rộng.
- Sương muối hỗn hợp: Là sương muối được hình thành khơng chỉ do sự xâm nhập của khơng
khí lạnh mà cịn do sự lạnh đi vì bức xạ của mặt đất. Sau những đợt gió lạnh tràn về độ 1 – 2 ngày,
nếu trời quang mây, gió nhẹ, nhiệt độ khơng khí tiếp tục giảm thấp, thì rất dễ xuất hiện sương
muối.
Ở miền Bắc nước ta sương muối xảy ra nhiều nhất vào khoảng tháng 12, tháng 1 là những
tháng thời tiết lạnh và khô, thuận lợi cho sự bức xạ mất nhiệt của mặt đất. Khu vực có tần suất

120


sương muối cao là vùng núi Đông Bắc và Tây Bắc. Ở các vùng này, có những nơi sương muối xuất
hiện vài đợt trong một năm. Ngoài ra, một số nơi khác như vùng núi Việt Bắc, Thanh Hóa, Nghệ
An cũng có sương muối với tần suất thấp.
Bảng 7.1. Tần số sương muối trung bình ở một số vùng .
Ðơn vị: ngày/năm
Tên vùng
Tháng
Cả năm
X
XI
XII
I
II
III
1. Sìn Hồ
0.04
1.6

4.8
4.4
1.0
0.04
11.9
2. Tủa Chùa
1.0
0.3
1.3
3. Điện Biên
0.1
0.3
0.4
4. Cị Nịi
0.4
1.5
1.0
2.9
5. Mộc Châu
0.6
2.3
2.0
0.2
5.1
6. Sơn La
0.3
1.1
1.2
2.6
7. Bắc Hà

0.1
0.4
1.3
1.6
0.1
3.5
8. Hồng Liên Sơn
2.0
4.4
2.3
0.2
0.04
5.4
9. Hồ Bình
0.4
0.5
0.9
10. Phó Bảng
1.3
2.3
2.3
0.6
0.1
6.6
11. Trùng Khánh
0.04
0.8
2.2
2.5
0.3

5.8
12. Ðình Lập
0.4
1.5
1.6
0.04
3.5
13. Định Hoá
0.3
0.4
0.7
14. Hàm Yên
0.04
0.6
0.6
15. Lạng Sơn
0.1
0.8
1.2
0.03
2.1
16. Hà Nội
0.1
0.03
0.03
0.2
17. Quỳ Hợp
0.4
0.3
0.7

18. Tây Hiếu
0.2
0.6
0.8
1.2. Tác hại và phương pháp phòng chống
Tác hại của sương muối là do nhiệt độ thấp. Khi nhiệt độ hạ xuống dưới 0 oC, nước trong thân
cây sẽ đóng băng lại và giãn nở thể tích, phá vỡ các tế bào, các ống dẫn nhựa cũng ngừng hoạt
động không vận chuyển được các chất dinh dưỡng ni cây. Vì vậy ngày hơm sau khi có sương
muối, cây trồng bắt đầu xuất hiện những vết “cháy táp” trên mặt lá. Ngọn cây khơ dần, lớp vỏ tróc
ra, cây héo úa rồi chết. Ngay cả khi sương muối chưa hình thành nhưng nếu nhiệt độ khơng khí
xuống rất thấp, các q trình sinh lý bị ngưng trệ gây ra hiện tượng héo sinh lý.
Để chủ động trong việc phòng chống sương muối, cần phải biết trước khả năng có thể xuất
hiện sương muối hay khơng, từ đó có những biện pháp thích hợp để hạn chế tác hại của sương
muối. Trong số các phương pháp dự báo sương muối, thì phương pháp Mikhailepski dễ áp dụng và
cho độ chính xác khá cao đối với loại sương muối bức xạ và sương muối hỗn hợp.
Cơng thức dự báo có dạng:
M = t’ – (t – t’).C

121


M’ = ť – (t – ť).2C
Trong đó : M : là nhiệt độ thấp nhất của khơng khí vào ban đêm.
M’: là nhiệt độ thấp nhất của bề mặt đất vào ban đêm.
t : là nhiệt độ đo được trên nhiệt kế khô và t’ nhiệt độ đo được trên nhiệt kế ướt.
C : là hệ số phụ thuộc vào độ ẩm của khơng khí (bảng 7.2.)
Trị số C trong bảng chỉ thích hợp khi lượng mây từ 4/10 – 7/10 bầu trời, nếu lượng mây trên
bầu trời < 4/10 thì trị số tính ra phải được cộng với số hiệu chính là âm 2.
Bảng 7.2. Quan hệ giữa hệ số C và độ ẩm tương đối của không khí
Độ ẩm


C

Độ ẩm

C

Độ ẩm

C

100

5,0

70

2,0

40

0,9

95

4,5

65

1,8


35

0,8

90

4,0

60

1,5

30

0,7

85

3,5

55

1,3

25

0,5

80


3,0

50

1,2

20

0,4

75

2,5

45

1,0

15

0,3

Nếu lượng mây > 7/10 bầu trời thì trị số tính ra phải được cộng thêm 2.
Nếu M và M’ đều < - 2 thì khả năng xuất hiện sương muối sẽ là 100%.
Nếu M và M’ đều > +2 thì khơng xuất hiện sương muối.
Nếu M > +2 và M’ < - 2 thì khả năng xuất hiện sương muối là 50%.
Lưu ý: Hệ số C phụ thuộc vào đặc điểm ở địa phương nên cần phải xây dựng bảng hệ số C phù
hợp cho từng nơi. Theo lý thuyết nêu trên, chúng ta có thể đề ra nguyên tắc chung của các biện
pháp phòng chống sương muối là giữ cho nhiệt độ mặt đất không xuống quá thấp (dưới 0 oC).

Những biện pháp thường dùng là:
- Hun khói: Dùng rơm rạ, cỏ ẩm chất thành những đống ở góc ruộng nơi đầu gió, đốt cháy âm
ỷ để tỏa ra nhiều khói nhằm hạn chế bức xạ hữu hiệu của mặt đất.
- Tưới nước: Nhằm làm đất ẩm thêm, tăng cường khả năng giữ nhiệt và độ dẫn nhiệt, nhờ đó
nhiệt từ trong lịng đất có thể truyền lên, làm tăng nhiệt độ mặt đất. Ở những nơi đất thấp có thể
bơm nước vào ruộng để hạn chế mặt đất bức xạ mất nhiệt.
- Phủ đất: Dùng rơm rạ, bèo, cỏ mục... phủ lên mặt đất để giảm khả năng bức xạ nhiệt khiến
cho đất đỡ lạnh đi. Những vật phủ phải là vật có độ dẫn nhiệt kém.
- Chọn giống có khả năng chịu lạnh cao, ít bị tác hại của sương muối.
- Xê dịch thời vụ gieo trồng tránh thời kỳ thường xuất hiện sương muối. Đối với cây vụ đơng,
bố trí sao cho giai đoạn ra hoa, đậu quả mẫn cảm với nhiệt độ thấp tránh được thời kỳ xuất hiện
sương muối.
- Trồng đai rừng phịng hộ chống hướng gió lạnh. Bố trí mật độ cây trồng hợp lý.
2. GIĨ FOHN KHƠ, NĨNG (gió Lào)
2.1. Điều kiện hình thành

122


Gió fohn khơ, nóng là hiện tượng thời tiết xảy ra trong mùa hè ở nước ta, ảnh hưởng chủ yếu
tới các tỉnh ven biển miền Trung, nằm dọc theo dãy Trường Sơn từ Thanh Hóa đến Ninh Thuận.
Gió này có nguồn gốc từ vùng biển Nam Ấn Độ Dương, trên đường đi qua lục địa Thái Lan, Lào,
Campuchia và dãy Trường Sơn, khối khơng khí nguồn gốc biển nóng ẩm bị biến tính fohn trở nên
khơ và nóng (xem phần 3.3, chương 5). Gió fohn khơ, nóng thường có hướng Tây, Tây-Nam
thường được gọi là gió Lào.
Gió Tây Nam khơ nóng ảnh hưởng nhiều nhất ở các tỉnh Bắc Trung Bộ, vào tới Bình - Trị Thiên. Ở đồng bằng Nghệ An – Hà Tĩnh, trung bình hàng năm quan sát được 20 - 30 ngày. Trong
các vùng thung lũng phía Tây, tình trạng khơ nóng cịn biểu hiện nghiêm trọng hơn, mỗi năm có
đến 40 – 50 ngày, trong đó có 15 – 20 ngày khơ nóng cấp II.
Khu vực Thanh Hố và Ðồng bằng Bắc Bộ gió khơ, nóng ít hơn, khoảng từ 10 đến 20 ngày mỗi
năm. Vùng Tây Bắc cũng thường thấy gió Tây mà tính chất cũng tương tự như trên.

Bảng 7.3. Mức độ gió khơ nóng ở một số địa điểm vùng Bắc Trung Bộ
Địa điểm

Tháng
III

Tháng
IV

Thanh Hóa
Vinh
Hà Tĩnh
Đồng Hới
Cửa Tùng

0,2
0,3
0,5
0,6

0,4
1,2
1,0
1,5
1,9

Thanh Hóa
Vinh
Hà Tĩnh
Đồng Hới

Cửa Tùng

0.0
0,2
0,2
0,4
0,2

0,0
0,6
0,2
1,5
0,8

Tháng Tháng Tháng
V
VI
VII
Tần số khơ nóng cấp I
2,6
3,8
3,7
5,2
7,2
7,1
5,4
7,3
10,1
4,9
7,3

6,8
3,7
8,7
6,7
Tần số khơ nóng cấp II
0,0
0,3
0,3
1,8
2,1
2,7
0,6
0,9
1,2
3,1
0,7
1,8
1,0
3,0
1,0

Tháng
VIII

Tháng
IX

Tổng cộng

1,5

5,9
6,4
5,2
5,1

0,1
0,4
0,6
0,7
0,7

12,1
27,2
31,6
26,9
27,5

0,0
0,5
0,4
0,7
0,4

0,0
0,0
0,0
0,0
0,0

0,6

7,9
3,5
8,2
6,4

Các tỉnh Bình - Trị - Thiên cũng là vùng có nhiều gió Tây khơ nóng. Đặc biệt khu vực Quảng
Trị có đèo Lao Bảo, nơi thấp nhất của dãy Trường Sơn hút luồng gió Tây khơ nóng thổi thẳng
xuống vùng đồng bằng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất Nông Lâm nghiệp. Về cường độ và
tần số, trung bình mùa hè quan sát được 25 – 30 ngày khơ nóng cấp I, trong đó có 7 – 8 ngày khơ
nóng cấp II. Hai tháng nhiều gió Tây khơ, nóng nhất là tháng VI và VII, trung bình mỗi tháng có 7
– 9 ngày khơ nóng cấp I, trong đó 2 – 3 ngày khơ nóng cấp II.
Ngồi ra gió Tây Nam khơ nóng cịn hoạt động khá mạnh trên các vùng ven biển thuộc các tỉnh
Trung Trung Bộ (Nam đèo Hải Vân đến phía Bắc đèo Cả), mức độ khơ nóng có thấp hơn. Tuy vậy
cũng có những lúc gió Tây Nam khơ nóng đem lại nhiệt độ trên 400C và độ ẩm dưới 30%.
2.2. Tác hại và biện pháp phòng chống

123


Tác hại của gió Tây Nam khơ nóng (gió Lào) chính là nhiệt độ cao và độ ẩm khơng khí thấp.
Trong trường hợp tốc độ gió vừa phải (khoảng 2 - 3 m/s), nhiệt độ tối cao trong ngày tới 34 - 350C,
độ ẩm tối thấp dưới 55%. Gió Lào mạnh (tốc độ khoảng 5 - 10 m/s) có thể làm tăng nhiệt độ tới 37
- 400C, độ ẩm giảm xuống dưới 45%. Vì vậy khi có gió Tây Nam khơ nóng, độ thốt hơi nước của
cây rất lớn, lượng nước trong cây bị hao hụt không kịp bù lại, cây sẽ bị khơ héo và chết. Gió khơ
nóng kéo dài dễ gây ra khô hạn trên diện rộng, ảnh hưởng rất lớn đến mùa màng.
Những đợt gió khơ nóng đến sớm thường nguy hiểm cho lúa xuân đang thời kỳ trỗ bơng. Khi
gặp những đợt gió này, tỷ lệ hạt lép từ 20 – 50%. Đối với lúa mùa vào thời kỳ mạ, gió này làm cho
mạ bị già, khi cấy xuống khơng bén được rễ. Đặc biệt gió Tây Nam khơ nóng cịn là ngun nhân
gây ra cháy rừng. Trong những trường hợp gió mạnh, cây cỏ bị khô héo, dễ bị cháy rừng và lan
trên diện rộng. Mặt khác, tác động gián tiếp của các yếu tố khí tượng cịn kéo theo làm khơ kiệt

nước trong đất, chua phèn và muối mặn ngấm lên mặt làm cho bộ rễ cây như bị ngâm trong các
dung dịch có nồng độ muối khống và a xít cao, cây trồng có thể bị chết.
Để đề phịng gió Tây Nam khơ nóng, đối với lúa xuân cần gieo cấy đúng thời vụ, chăm bón tốt
cho lúa mọc khỏe, trổ sớm, tránh được nhũng đợt gió khơ nóng đầu mùa. Đối với lúa mùa,
khi cấy cần giữ nước mặt ruộng cho mát gốc, bón thêm phân để làm tăng sức sống.
Các biện pháp phòng chống như phủ đất, trồng xen, vun gốc... có tác dụng làm giảm tác hại của
gió khơ nóng. Việc trồng rừng chắn gió có tác dụng hạn chế tác hại của gió khơ nóng vì một mặt
làm hạ thấp nhiệt độ, mặt khác tăng thêm độ ẩm của khơng khí.
Gió Lào làm cho sức khỏe của trâu, bị bị giảm sút, do đó ảnh hưởng đến năng suất lao động.
Vì thế cần chú ý chăm sóc trâu bị trong mùa gió Lào thơng qua việc bảo đảm cung cấp đầy đủ thức
ăn, nước uống, giờ giấc làm việc hợp lý. Trên những vùng đất trồng trọt và chăn nuôi cần tạo ra
nhiều hồ chứa nước và trồng rừng chắn gió. Vào thời kỳ cuối mùa đơng cần chọn một loại cây
trồng nào đó vừa chịu hạn vừa sinh trưởng nhanh chóng, tạo lớp phủ thực vật cho các cây trồng
khác có giá trị cao hơn khi bắt đầu vào mùa gió Lào.
3. HẠN HÁN
3.1. Điều kiện hình thành
Hạn là một hiện tượng tự nhiên được coi là thiên tai, bởi nó gây ra sự thốt hơi nước mặt lá và
bốc hơi mặt đất mạnh, phá vỡ cân bằng nước trong cây, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh trưởng,
phát triển của cây trồng. Dựa vào nguyên nhân gây ra hạn mà có thể chia ra làm hai loại là hạn đất
và hạn khơng khí
a) Hạn đất
Hạn đất xảy ra khi trời khơng có mưa một thờì gian dài, nhiệt độ cao kéo theo sự bốc hơi lớn
của mặt đất. Tình trạng trên gây ra sự mất cân đối giữa lượng nước cây cần với lượng nước được
cung cấp từ đất dẫn đến cây héo, năng suất cây trồng bị giảm sút hoặc có thể chết.
Hạn đất được xác định bởi thời tiết khơ, nóng kéo dài từ 15 – 20 ngày trở lên. Trong thời gian
đó trời khơng mưa hoặc chỉ có mưa nhỏ. Mức độ hạn được xác định bằng nhiều chỉ tiêu:
- Hạn đất tính theo chuẩn sai lượng mưa (∆R):
Chuẩn sai lượng mưa được tính theo công thức:

124



∆R = R – R
Trong đó:
∆R là chuẩn sai lượng mưa; R lượng mưa thực tế; R là lượng mưa trung bình nhiều năm.
Khi ∆R > 20%, (hụt trên 20% so với tiêu chuẩn) là mưa ít.
∆R > 30%: hạn trung bình
∆R > 50%: hạn nặng
∆R > 75%: hạn rất nặng
- Hạn đất tính theo hệ số thuỷ nhiệt của Sê-nia-ni-nốp HTC (Hydro- temperature Coefficient)
ΣR
HTC = --------∑t0C
Trong đó: ΣR là tổng lượng mưa
∑t0C là tổng lượng nhiệt
Khi HTC < 1 bắt đầu có dấu hiệu hạn
HTC = 0,5 – 0,6 hạn trung bình
HTC = 0,4 – 0,5 hạn nặng
HTC < 0,4 hạn rất nặng
Áp dụng công thức này ở Việt Nam, Trung tâm khí tượng nơng nghiệp đã đưa ra công thức:
∑R
0,16 ∑ t
Hệ số 0,16 là hệ số thực nghiệm thường dùng cho vùng nhiệt đới.
Nếu K = 1 – 2 thì khơng hạn, là những vùng ẩm ướt
K = 0,5 – 1,0 là vùng bắt đầu có dấu hiệu hạn
K< 0,5 là vùng hạn
K=

b) Hạn khơng khí
Hạn khơng khí xảy ra khi độ ẩm khơng khí q thấp, nhiệt độ cao và gió mạnh. Hạn khơng khí
thì đất có thể vẫn đủ ẩm nhưng các bộ phận của cây trên mặt đất thoát hơi nước nhiều dẫn đến bộ

rễ khơng kịp hút nước cung cấp cho q trình bốc hơi mặt lá và kết quả là cây bị khơ héo.
Để đánh giá hạn khơng khí có thể dùng chỉ số hạn khơng khí của Subebinler: Đối với hạn
khơng khí, để xác định cường độ hạn cần phải tính đến khả năng bốc hơi, độ ẩm tương đối, nhiệt
độ hoặc độ thiếu hụt bão hòa hơi nước (d) của khơng khí cũng như vận tốc gió. Khi nghiên cứu về
bản chất của hạn khơng khí, Subebinler nhận thấy rằng hạn khơng khí xảy ra khi d = 20 mb và đưa
ra bảng chỉ số hạn sau:
Bảng 7.4. Chỉ số khí tượng của các loại hạn khơng khí
Hạn khơng khí

Khả năng bốc hơi
(mm/ngày đêm)

Độ thiếu hụt bão hòa (d) lúc 13 h
Ứng với vận tốc gió Ứng với vận tốc gió >
< 10 m/gy
10 m/gy
20 – 32
13 – 27

Hạn nhẹ

3–5

Hạn trung bình

5-6

33 – 39

28 – 32


Hạn nặng

6–8

40 – 52

33 – 45

>8

≥ 53

≥ 46

Hạn rất nặng

125


Mức độ hại của hạn đối với cây trồng phụ thuộc vào thời gian kéo dài của hạn. Theo
Subebinler thì cây trồng có thể khơng bị hại sau 5 ngày hạn nhẹ và 1 – 2 ngày hạn rất nặng.
- Chỉ số hạn khơng khí tính theo nhiệt độ và lượng mưa:

S = ∆T ∆R
σ T −σ R
Ở đây : S là chỉ số hạn, ∆T và ∆R là chuẩn sai nhiệt độ và lượng mưa so với chuẩn trong thời kỳ
nghiên cứu, δT và δR là độ lệch chuẩn tương ứng.
Khi S ≥ 2,0 xuất hiện hạn khơng khí
S ≥ 3,0 hạn nặng

Chỉ số hạn S còn được xác định theo diện, nếu ∆R, ∆T và S tính theo diện tích đạt tỷ số:
1 – 10%: Hạn cục bộ
11 – 20%: Hạn rộng
21 – 30%: Hạn rất rộng
31 – 50%: Hạn nghiêm trọng
> 50%: Hạn thiên tai
3.2. Phân bố hạn và biện pháp phịng chống.
Ở Miền Bắc, do tính thất thường của chế độ mưa nên hạn là hiện tượng khá thường xuyên. Ở
vùng đồng bằng Bắc Bộ, hạn hay xảy ra vào vụ Đông Xuân trùng với mùa ít mưa, lượng mưa trung
bình tháng chỉ khoảng 20 – 30 mm, có những giai đoạn liên tục nhiều ngày khơng có mưa. Trong
vụ mùa, vẫn có khả năng xảy ra hạn mặc dù là mùa mưa. Hạn ở thời điểm này gây thiệt hại nghiêm
trọng vì nhiệt độ cao, bốc hơi nước mạnh làm cho cây bị tàn lụi nhanh chóng.
Qua nghiên cứu cho thấy hạn vào thời kỳ lúa làm địng năng suất có thể giảm 30%, hạn vào
lúc lúa trổ bơng phơi màu, năng suất có thể giảm tới 40 – 50%, còn hạn vào lúc lúa đang ngậm sữa
năng suất giảm 10 – 15%.
Ở các tỉnh duyên hải miền Trung, hạn xảy ra vào cuối mùa xuân và trong suốt mùa hè, hạn
nặng vào tháng VI, VII. Thời kỳ bị ảnh hưởng của gió Lào khơ, nóng gây ra cả hạn đất và hạn
khơng khí, làm thất thu nghiêm trọng lúa vụ đông xuân và vụ hè thu. Nhiều tỉnh không trồng được
các loại rau màu, các chân đất màu mỡ, thích hợp với cây trồng cạn cũng bị bỏ hóa do khơng có
nước tưới.
Ở đồng bằng sông Cửu Long thường gặp hạn hán vụ đông xuân trong mùa khô, từ tháng XI
đến tháng IV. Vụ đông xuân năm 1992 – 1993, lượng mưa ở hầu hết các tháng đều thấp hơn
Bảng 7.5. Tần suất hạn hán trong mùa khô ở Quảng Ngãi (%)
Địa điểm

Tháng IV

Tháng V

Tháng VI


Tuần 1

Châu Ô
Trà Khúc
Quảng Ngãi

Tuần 2

Tuần 3

Tuần 1

Tuần 2

Tuần 3

Tuần 1

Tuần 2

Tuần 3

92
88
88

100
94
82


92
94
88

92
88
88

77
69
71

62
8
77

67
56
77

67
69
82

58
63
81

126



An Chỉ
88
88
94
88
71
65
65
77
53
Mộ Đức
88
94
88
77
71
88
77
88
71
Đức Phổ
100
88
100
100
77
100
88

82
82
Ghi chú: Tuần hạn có lượng mưa nhỏ hơn 30 mm
Nguồn: Võ Thị Kiều, Trạm khí tượng Quảng Ngãi
trung bình nhiều năm từ 75 – 90%. Hạn hán và sâu bệnh đã làm năng suất lúa giảm 6,2 tạ/ha, tổng
sản lượng thấp hơn 559.000 tấn so với vụ đông xuân 1991 – 1992.
Ở các tỉnh Tây Nguyên hạn hán cũng thường xảy ra trong mùa khô, ngay từ tháng III, tháng IV
nhiều vườn cà phê, cây ăn quả đã bị hạn làm cháy khô. Các ao, hồ, sông, suối và các mạch nước
ngầm đều cạn kiệt, không cịn nguồn nước phục vụ sản xuất.
Hạn hán cịn có nguyên nhân từ hoạt động của El Ninô (xem chương IX). Nghiên cứu về hạn
hán ở Việt Nam cho thấy, trong 50 năm hạn trên diện rộng vào vụ đông xuân chiếm 22%, vụ hè thu
chiếm 12%. Trong đó trên 60% hạn đông xuân và trên 80% hạn hè thu có liên quan đến El Ninơ.
Các vụ đơng xn 1962 – 1963, 1976 – 1977, 1982 – 1983, 1997 – 1998 và các vụ hè thu 1963,
1977, 1983, 1993 và 1998 là các năm có El Ninơ đặc biệt bị hạn nặng.
Để phòng chống hạn hán, biện pháp chủ yếu là bảo vệ nguồn nước và giữ ẩm cho đất ngay từ
đầu mùa khô. Vào đầu mùa khô cần triển khai một số biện pháp chống hạn như xới xáo đất để hạn
chế bốc hơi, che phủ cho đất bằng rơm rạ, cỏ mục, bèo hoặc nilon... để giữ ẩm.. Ở những nơi hạn
thường xuyên xảy ra trên diện rộng, nên trồng các đai rừng để cải thiện điều kiện khí hậu. Các đai
rừng có tác dụng cản gió, giảm bốc hơi của đất, hạ thấp nhiệt độ và tăng thêm độ ẩm. Theo kết quả
nghiên cứu của Lê Quang Vĩnh (2000), phía sau dải rừng ứng với khoảng cách bằng 30 – 40 lần
chiều cao của dải rừng, tốc độ gió giảm từ 20 – 60%, độ bốc hơi giảm 40%, nhiệt độ hạ thấp hơn
0,5 – 1,5oC và độ ẩm khơng khí cao hơn 0,5 – 1,5 mb so với khơng có rừng chắn. Bởi vậy, rừng có
tác dụng rất tốt trong việc chống hạn.
Ở các vùng đồi núi nên xây dựng các hồ tích chứa nước để chủ động trong việc tưới tiêu cho
các loại cây trồng. Những vùng hạn hán khá gay gắt như Tây Nguyên, ven biển Trung Trung Bộ,
Nam Trung Bộ... cần áp dụng các biện pháp bảo vệ nguồn nước ngay từ đầu mùa khơ như đắp đập
giữ nước, đóng cống tiêu nước kịp thời, che phủ nilon trên mặt hồ nước, sử dụng tiết kiệm các
nguồn nước... Vùng đồng bằng nên có hệ thống kênh mương hợp lý để có thể dẫn nhập được các
nguồn nước một cách thuận lợi, nhất là vào mùa khô hạn.
4. LŨ LỤT

Lũ lụt là chỉ hiện tượng nước sông dâng lên do mưa lớn đầu nguồn, nước lũ đổ về mạnh
hoặc do vỡ đê, tràn đê làm ngập hết cả các vùng thấp. Lũ lụt gây ra hiện tượng úng đối với cây
trồng.
Úng cũng thường xảy ra trong mùa mưa, khi mưa quá nhiều hoặc mưa lớn tập trung trong
một thời gian ngắn, nước không kịp tiêu thốt, khi đó đất đã no nước, khơng hút thêm được nữa,
làm rễ cây thiếu khơng khí. Nói chung úng, lụt thường có liên quan với những hệ thống thời tiết
gây mưa lớn như bão, áp thấp nhiệt đới, front....
4.1. Tác hại của Lũ lụt
Thiên tai lũ lụt đã được loài người ghi chép trong nhiều sử sách. Ở lưu vực sông Misisipi
(Mỹ) lũ lụt tháng IV năm 1927 đã làm ngập lụt 10 triệu hecta, làm chết 500 000 người. Gần đây,

127


trận đại hồng thủy trên sông Trường Giang (Trung Quốc) năm 1998 đã gây thiệt hại hàng chục tỷ
Đôla Mỹ. làm chết 4150 người, hàng trăm triệu người bị ảnh hưởng trực tiếp.
Ở Việt Nam năm 1945, lũ lụt đã làm ngập úng 312 000 ha đất nông nghiệp, dẫn đến thiếu
lương thực, làm chết đói 2 triệu người. Năm 1971, do vỡ đê sông Đuống vùng đồng bằng Bắc Bộ
bị ngập lụt 250 000 ha lúa và hoa màu.
Bảng 7.6. Thiệt hại do lũ lụt gây ra ở miền Trung (Quảng Bình - Bình Thuận)
Năm

Số người chết

Diện tích lúa (ha)
Nhà bị hư hại Tổng giá trị bị hại
(1000 cái)
(1000 USD)
Bị ngập
Mất trắng

1994
445
241 904
29 144
784 405
259,8
1995
259
58 972
4 974
359 551
106,2
1996
624
293 326
97 463
1 227 107
720,0
1997
64
243 961
23 759
15 115
600,0
Nguồn: Trung tâm nghiên cứu KTTV (2000)
Tại miền Trung, năm 1999 do mưa lớn trên diện rộng đã gây ngập lụt các tỉnh từ Huế đến
Bình Định, làm nhiều người chết, nhiều người mất nhà cửa. Đồng bằng sông Cửu Long cứ 3 -4
năm lại xảy ra lụt lớn, điển hình lụt lớn như các năm 1961, 1966, 1978, 1996, 2000...
Úng gây thiệt hại cho mùa màng chủ yếu là do đất bão hoà nước, đất thiếu oxy, hạn chế các
quá trình hấp thụ của rễ, làm cho rễ cây bị ủng thối rồi chết. Nếu trong đất thiếu oxy, thì q trình

oxy hố bị ngừng trệ, q trình yếm khí chiếm ưu thế có thể tạo ra những chất độc đối với rễ. Lá và
thân cây bị ngập nước cũng làm tê liệt các chức năng quang hợp, hô hấp. Nước ngập lâu ngày, tuỳ
loại cây có thể bị chết hoặc giảm thu hoạch.
4.2. Đặc điểm lũ lụt ở nước ta và các biện pháp phòng chống lụt và úng.
Hàng năm mùa lũ diễn ra khác nhau ở các vùng. Tùy theo điều kiện địa lý tự nhiên và thời
tiết mà lũ đến sớm hay đến muộn. Mùa lũ ở các vùng thường xảy ra như sau:
• Vùng Bắc Bộ và Bắc Thanh Hóa: từ tháng VI đến tháng X.
• Vùng ven biển từ Nam Thanh Hóa đến Hà Tĩnh: từ tháng VII đến tháng XI.
• Vùng ven biển từ Quảng Bình đến Ninh Thuận: từ tháng IX đến tháng XI.
• Vùng Nam Bộ và Tây nguyên: từ tháng VII đến tháng XI.
Biện pháp căn bản để chống úng là điều tiết nước, làm thuỷ lợi tốt để chủ động được nước
tưới, rút nước kịp thời khi úng sẽ khắc phục được tình trạng thất thường của chế độ mưa.
Xây dựng cơng trình thuỷ lợi trên các sông lớn, xây hồ chứa nước, nạo vét lịng sơng, củng cố bờ
đê, đắp thêm một số đê phụ.
Ðối với kỹ thuật trồng trọt, phải chú ý đến độ cao luống đất, gieo hạt giống trên khu đất
cao thích hợp, bố trí giống cây ngắn ngày, gieo trồng đúng thời vụ để thu hoạch trước khi có úng
lụt, hoặc khi bị úng cây đã sinh trưởng tốt, có khả năng chịu ngập úng. Sau khi bị úng phải rửa đất
bùn, hoặc phù sa bám vào thân lá, tăng cường chăm sóc và phịng trừ sâu bệnh.
5. MƯA ĐÁ
Mưa đá là loại giáng thủy rắn dưới dạng những hạt nước đá có hình dạng, kích thước khác
nhau. Mưa đá thường xảy ra khi có dơng phát triển mạnh, dịng khơng khí trong mây bị cuốn lên

128


rất cao tới 9-10 km hoặc hơn nữa. Do được hình thành ở điều kiện nhiệt độ thấp, những hạt băng
và hạt nước rất lạnh tồn tại đồng thời với nhau. Trong cơn dơng những dịng khơng khí thăng
mạnh, các hạt băng lớn lên, lúc đầu do hơi nước từ những hạt nước khác chuyển tới, về sau do sự
va chạm, chập lại với những giọt nước lạnh rồi đông đặc lại. Kết quả là hình thành những nhân
băng, các hạt nhân bị cuốn theo những dịng khơng khí bốc lên mãnh liệt, đưa lên đưa xuống nhiều

lần, nhân băng lớn lên mau chóng. Có thể đường kính hạt băng lên tới 5-10cm và nặng trên 0,5kg.
Thông thường hạt mưa đá có kích thước chừng 1cm và nặng vài gam.
Ðiều kiện để mưa đá xảy ra là khơng khí phải thăng mạnh và đỉnh mây đạt tới nhiệt độ giá lạnh.
Mưa đá thường xảy ra vào các tháng chuyển tiếp từ đông sang hạ (khoảng tháng IV, tháng V), đôi
khi xảy ra vào tháng X, XI. Vào mùa hạ, lớp khơng khí trên cao ít lạnh nên mưa đá ít xảy ra. Mưa
đá cũng không mấy khi quan sát thấy ở những vùng nhiều rừng, vì rừng rậm khơng là điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển của dông.
Diện mưa đá thường chỉ giới hạn trong phạm vi một vài trăm km 2, có khi thành một dải
hẹp, hoặc lác đác từng chỗ. Mưa đá có sức phá hoại rất mạnh, nhất là đối với lúa chiêm xuân. Mưa
đá còn gây tác hại nhiều đối với cây ăn quả, hoa màu. Hiện nay chưa có biện pháp hiệu quả để
ngăn chặn mưa đá. Một vài nơi người ta đã thí nghiệm dùng tên lửa mang theo những chất hoá học
bắn lên đám mây dơng có khả năng sinh ra mưa đá, phá tan mây trước khi hình thành hạt băng.
Tuy nhiên, kết quả chưa được xác nhận một cách đầy đủ. Sau khi mưa đá xảy ra, để cho cây trồng
hồi phục cần tích cực chăm sóc, dựng lại cây đổ, bón thêm phân và vun gốc.
6. DƠNG NHIỆT
Bắt đầu từ tháng III, tháng IV chiều tối thường có dơng xảy ra. Thời tiết trong dơng thường
thấy có sấm chớp kèm theo gió mạnh, mưa rào, đơi khi có mưa đá. Sấm sét trong dơng chính là sự
phóng điện của những đám mây dày đặc, phát triển rất cao gọi là mây dơng. Loại mây này có thể
hình thành do các ngun nhân sau:
- Do khơng khí nóng, ẩm bốc lên cao vì bị khơng khí lạnh, nặng hơn tràn tới ở bên dưới.
- Do khơng khí nóng, ẩm trượt lên theo sườn dốc đồi, núi. Trường hợp này gọi là dơng địa hình
- Do mặt đất bị nóng lên vì nhận nhiều bức xạ mặt trời, khơng khí gần mặt đất nóng, ẩm giãn nở
thể tích bốc lên cao. Loại này gọi là dông nhiệt, đây là loại dông thường thấy nhiều hơn cả, xảy ra
vào các buổi chiều mùa hè là lúc mặt đất bị đốt nóng nhiều nhất.
Ở nước ta, hàng năm có từ 50 đến 100 ngày có dơng, có vùng có nhiều ngày xảy ra 2-3 cơn
dông. Mùa dông bắt đầu từ tháng IV đến tháng X và tập trung vào khoảng từ tháng V đến tháng
VIII. Dơng ít xảy ra vào mùa lạnh vì nhiệt độ và độ ẩm đều thấp.
Dơng có thể gây tác hại đối với sản xuất nơng nghiệp do gió mạnh và mưa lớn kèm theo. Ðơi khi
gió trong cơn dơng rất mạnh có thể làm gãy cành hoặc đổ cây lớn. Bên cạnh tác hại, dơng cũng có
tác dụng cung cấp cho cây một lượng đạm đáng kể trong nước mưa.

7. BÃO VÀ ÁP THẤP NHIỆT ĐỚI
7.1. Điều kiện hình thành bão và áp thấp nhiệt đới
Bão là một nhiễu động sâu sắc nhất trong cơ chế gió mùa mùa hè. Đó là một vùng khí áp thấp
gần trịn, bán kính vào khoảng 200 – 300 km, các đường đẳng áp gần đồng tâm và dày xít nhau,
gây ra gió rất mạnh có thể lên tới trên 35 m/s, tức là trên 120 km/h. Trừ phần trung tâm của bão gọi

129


là mắt bão lặng gió, cịn tồn bộ hệ thống có chuyển động xốy đi lên rất mãnh liệt. Bão có trữ
lượng ẩm rất lớn, có năng lượng nội tại khổng lồ. Mây hình thành trong bão là những lớp mây rất
dày, cho mưa dữ dội trên một vùng rộng lớn. Riêng vùng trung tâm bão là một vùng gió yếu, thậm
chí lặng gió và thường rất ít mây, có khi quang mây. Bão được hình thành như thế nào cho đến nay
khoa học còn chưa khám phá hết những nguyên nhân của nó. Tuy nhiên, qua nghiên cứu lý thuyết
và thực tế người ta đã rút ra một số quy luật sau:
- Bão chỉ hình thành trên những vùng biển nhiệt đới, nhiều nhất trong đới vĩ độ 10 – 20 0 của cả
hai bán cầu. Về mùa hè khi nhiệt độ mặt nước biển đạt 27 – 28 oC, bộ phận khơng khí nóng và ẩm
trên mặt biển bốc lên cao hình thành một trung tâm khí áp thấp. Gradient khí áp có hướng từ rìa
vào trung tâm. Dịng khơng khí nóng, ẩm chuyển động chịu tác dụng của lực Coriơlit sẽ hình thành
xốy thuận. Trong đới vĩ độ 50 Bắc đến 50 Nam hầu như khơng có bão do lực Côriôlit quá nhỏ hoặc
bằng không mặc dù khơng khí rất nóng và ẩm. Ở các vĩ độ cao, lực Cơriơlit lớn nhưng khơng khí
trên mặt biển thường có nhiệt độ thấp và khơ nên dịng thăng yếu, cũng khơng hình thành bão.
- Bão thường hình thành trong dải hội tụ nhiệt đới, mùa bão là thời kỳ nhiễu động mạnh của dải
hội tụ nhiệt đới. Về mùa hè ở bán cầu Bắc, vị trí dải hội tụ nhiệt đới thường dịch lên phía Bắc so
với vị trí trung bình của chúng và nằm trong đới vĩ độ từ 10 – 20o Bắc. Đường đi của bão phụ
thuộc vào các điêù kiện nội lực và ngoại lực. Điều kiện ngoại lực tác động đến bão là hệ thống khí
áp, chủ yếu là lưỡi áp cao cận nhiệt đới Thái Bình Dương và lưỡi áp cao cực đới Bắc bán cầu.

Hình 7.1. Ảnh vệ tinh chụp cơn bão Andriu đổ bộ vào Florida (Mỹ) năm 1992
Tốc độ di chuyển của mắt bão khơng giống nhau, có cơn bão trong suốt q trình tồn tại hầu

như khơng di chuyển, có cơn bão di chuyển rất nhanh đến 40 km/giờ. Đặc biệt khi đi vào vùng ôn
đới, do ảnh hưởng của đới gió Tây Nam, bão có thể di chuyển với tốc độ 60 –70 km một giờ. Gió
bão gần như đối xứng qua tâm. Ở xa giới hạn ngoài của bão có tốc độ gió từ cấp 6 trở lên, càng tới
gần tâm bão, gió càng mạnh, mạnh nhất ở vùng cách tâm bão khoảng vài chục km (tốc độ gió có

130


thể lên tới 300 km/h). Phạm vi đường kính của khu vực tâm bão lặng gió rất khác nhau, thường từ
15 – 30 km, ở đó áp suất khơng khí khá thấp. Đa số các cơn bão có giá trị khí áp ở vùng trung tâm
là 930 – 990 milibar.
Mây trong bão được hình thành do khơng khí nóng, ẩm bốc lên mạnh mẽ, ở độ cao nhất định
chúng bị lạnh đi quá nhiều, hơi nước ngưng kết hình thành mây. Tiềm nhiệt ngưng kết được giải
phóng làm cho khơng khí xung quanh nóng thêm. Tốc độ dịng thăng của khơng khí trong cơn bão
tương đối lớn, có khi tới 2,5 – 3,5 m/s. Trên cao, có khi đến 8 –10 km hình thành những khối mây
lớn, dày đặc phát triển liên tục, gây mưa như trút nước. Đến một độ cao nào đó, dịng thăng của
khơng khí yếu đi, tỏa sang ngang tạo thành dịng thổi ra phía ngồi. Đỉnh các khối mây cũng tỏa ra
thành những màn mây mỏng vươn ra xa. Ở trung tâm bão một dòng khơng khí từ trên cao giáng
xuống làm cho mây tan đi, vì vậy thời tiết ở vùng trung tâm bão là lặng gió hoặc gió nhẹ, mưa lác
đác hoặc khơng mưa, ban ngày đơi khi hửng nắng cịn ban đêm có thể thấy trăng sao.

Hình 7.2. Sơ đồ các dịng khơng khí và sự phát triển của mây trong vùng bão
Bão phát sinh ở Thái Bình Dương thường đi theo quỹ đạo parabol, nhưng cũng có nhiều trường
hợp đường đi rất phức tạp. Nhìn chung, khi đi vào vùng biển nước ta thường các cơn bão theo
hướng Đông, Đông - Nam. Bão ảnh hưởng vào Việt Nam là những cơn bão được hình thành ở
vùng biển nhiệt đới Tây Thái Bình Dương hoặc biển Đơng. Trên biển Đơng, hàng năm trung bình
có 9 – 10 cơn bão hoạt động (theo số liệu 60 năm). Năm nhiều bão nhất lên tới 18 cơn (1964), năm
ít bão nhất là 3 cơn (1925). Số bão từ biển Tây thái Bình Dương đi vào biển Đơng chiếm 60%,
hình thành trên biển Đơng chiếm 40%. Trung bình mỗi năm nước ta chịu ảnh hưởng của trên 7 cơn
bão và áp thấp nhiệt đới, trong đó, bị ảnh hưởng trực tiếp của 3,15 cơn bão, 2,95 áp thấp nhiệt đới

và bị ảnh hưởng gián tiếp của 0,83 cơn bão và 0,42 áp thấp nhiệt đới (bảng 7.7). Nếu tác động trực
tiếp của các cơn bão thường gây ra những thiệt hại rất lớn, thì ảnh hưởng gián tiếp cũng không phải
là nhỏ, bão xa thường gây ra mưa trên diện rộng và kéo dài dễ gây ra úng lụt. Một trong những
nguyên nhân quan trọng gây ra bão và áp thấp nhiệt đới là hoạt động của El Ninô. El Ninô ảnh
hưởng đến hoạt động của gió mùa mùa hè ở Đơng Nam Á. Qua phân tích số liệu về số lượng cơn
bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến các khu vực vào các năm xuất hiện El Ninô và La Nina cho

131


thấy, các năm có El Ninơ trung bình có 5 cơn bão và áp thấp nhiệt đới, năm ít chỉ có 2 cơn (1957),
năm nhiều có tới 8 cơn (1965, 1983, 1993) ảnh hưởng đến nước ta.

Hình 7.3. Đường đi của các cơn bão vào Việt Nam qua các tháng
Vào các năm La Nina, số lượng bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến thời tiết nước ta nhiều
hơn, năm nhiều nhất 8,3 cơn, nhìn chung nhiều hơn so với trung bình khoảng 1 cơn. Đặc biệt, các
năm này thường xảy ra các đợt mưa lớn, diện phân bố rộng, kéo dài nhiều ngày gây ngập lụt
nghiêm trọng.
Bảng 7.7. Tần số bão, áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng trực tiếp (*) hoặc gián tiếp (**)
Đơn vị: Cơn bão
Loại

Tháng

Cả năm

3

4


5

6

7

8

9

10

11

12

0

0

0,05

0,25

0,40

0,50

0,70


0,80

0,40

0,05

3,15

0,05

0,03

0,03

0,38

0,30

0,63

0,65

0,53

0,25

0,10

2,95


0

0

0,03

0,08

0,10

0,12

0,10

0,15

0,15

0,10

0,83

ATNĐ (**)

0,03

0

0


0,08

0

0,10

0,08

0,05

0,08

0

0,42

Cộng

0,08

0,03

0,11

0,79

0,80

1,35


1,53

1,53

0,88

0,25

7,35

Bão (*)
ATNĐ (*)
Bão (**)

Nguồn: Số liệu khí tượng 1956 – 1995.
7.2. Hoạt động của bão và áp thấp nhiệt đới ở Việt Nam và biện pháp phòng tránh
Mùa mưa bão ở Việt Nam kéo dài từ tháng VI đến tháng XI, tùy từng khu vực bão hoạt động
sớm hay muộn:
- Khu vực từ Quảng Ninh đến Thanh Hóa: mùa bão từ tháng VI dến tháng IX, nhiều nhất là
tháng VIII.

132


- Khu vực từ Nghệ An đến Quảng Bình: mùa bão từ tháng VII đến tháng VIII, đến chậm hơn
so với khu vực trên, nhiều nhất là tháng X.
- Khu vực từ Quảng Trị đến Ninh Thuận: bão diễn ra phức tạp, từ tháng III đến tháng VI thỉnh
thoảng có bão, tháng VII, VIII rất ít bão nhưng từ tháng IX đến tháng XII bão và áp thấp nhiều
hơn.
- Khu vực từ Bình Thuận trở vào: bão và áp thấp nhiệt đới chủ yếu xảy ra vào tháng X và XI.

Đặc điểm của gió bão là giật mạnh và hướng thay đổi rất nhanh. Trước và sau trung tâm bão,
gió gần như trái chiều nhau nên sức phá hoại rất lớn, có thể làm đổ cây to, nhà cửa…
Khi có bão thường kèm theo mưa lớn. Khu vực trong vùng bão, lượng mưa ngày đêm 150 300 mm. Một đợt mưa bão kéo dài từ 2 – 4 ngày, mưa tập trung 1 – 2 ngày, lượng mưa đạt từ 200
– 400 mm, có trường hợp tới 500 – 600 mm.
Bão gây ra rất nhiều thiệt hại đối với sản xuất nơng nghiệp. Khi có bão cây trồng vừa chịu gió
bão. vừa chịu úng lụt nên mùa màng gần như mất trắng. Ở những vùng ven biển, bão còn gây ra
nạn nước biển dâng do gió dồn nước vào bờ, có thể cao tới 6 –7 m và tràn sâu vào trong đất liền
hàng chục kilômet. Nước biển dâng không những cuốn trơi cả hoa màu, nhà cửa mà cịn khiến
ruộng đồng bị nhiễm mặn.
Phịng chống gió bão đối với cây trồng chủ yếu là phịng gió mạnh, gió giật và gió đổi hướng.
Các loại cây lâu năm thường có tán rộng nên chặt bớt cành, tỉa bớt lá cho khỏi đổ, nếu cần, phải
cắm cọc chống. Đối với cây hoa màu nên vun gốc cho chắc và làm giàn chống đỡ. Một số cây như
mía, lúa có thể buộc lại thành cụm để giảm tác hại của gió bão.
Đi đơi với phịng chống gió, phải đề phịng úng lụt. Các loại cây trồng cạn nên vun luống cao,
khơi thêm rãnh cho dễ thoát nước. Ở các vùng ven biển, cần củng cố hệ thồng đê ngăn nước mặn,
tránh hiện tượng vỡ đê làm nước mặn tràn vào đồng ruộng.
Sau khi bão tan cần phải xới xáo phá váng, khơi tháo nước đọng mặt đất đồng thời xúc tiến
việc chăm sóc, bón phân để cây nhanh hồi phục.

8. CÂU HỎI ƠN TẬP

1. Hãy phân tích điều kiện hình thành, tác hại và biện pháp phòng chống sương muối ?
2. Thế nào là hạn đất, hạn khơng khí ? Các chỉ tiêu đánh giá hạn hán ? Nguyên nhân hình
thành, tác hại và biện pháp phịng tránh? Tình hình hạn hán ở nước ta ?
3. Hãy phân tích điều kiện hình thành gió fohn khơ nóng, Nêu quy luật hoạt động của gió fohn
khơ, nóng ở nước ta ? Phân tích tác hại và biện pháp phòng chống ?
4. Hãy phân tích điều kiện hình thành lũ, lụt, Nêu quy luật hoạt động của lũ lụt ở nước ta ?
Phân tích tác hại và biện pháp phòng chống ?
5. Hãy phân tích điều kiện hình thành bão và áp thấp nhiệt đới ? Nêu quy luật hoạt động của
bão và áp thấp nhiệt đới ở nước ta ? Phân tích tác hại và biện pháp phòng chống ?


133



×