Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

An ninh quốc phòng - Bài thu hoạch cao cấp chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.27 KB, 25 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN XÂY DỰNG ĐẢNG
......................

BÀI THU HOẠCH
MƠN GIÁO DỤC QUỐC PHỊNG - AN NINH

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Học viên:
Mã học viên:
Lớp:
Đơn vị công tác:

HÀ NỘI - 2021


MỤC LỤC


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn vấn đề nghiên cứu
Sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và
lãnh đạo, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vấn đề độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội
được giữ vững. Thế trận quốc phịng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân
được củng cố; tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường, nhất là trên các
địa bàn chiến lược, xung yếu, phức tạp. Cơng tác giáo dục, bồi dưỡng kiến


thức quốc phịng, an ninh được triển khai rộng rãi. Sự phối hợp quốc phòng,
an ninh, đối ngoại được chú trọng hơn.
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục được củng cố, xây
dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, thực
sự là lực lượng tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; làm tốt vai trị tham
mưu, góp phần chủ động phịng ngừa, làm thất bại âm mưu “diễn biến hồ
bình”, hoạt động gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; đấu tranh
ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các hoạt động cơ hội chính trị, các loại tội
phạm hình sự, nhất là tội phạm nguy hiểm, có tổ chức, tội phạm ma tuý, tội
phạm có yếu tố nước ngồi, tội phạm lợi dụng cơng nghệ cao, sử dụng vũ khí
nóng, chống người thi hành cơng vụ; tham gia tích cực, có hiệu quả vào các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động cứu hộ, cứu nạn, phòng,
chống và khắc phục thiên tai.
Tuy nhiên, một số quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh chưa được triển khai thực hiện kịp thời. Nhận thức về
quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân của một số cán bộ, đảng viên trong
các ngành, các cấp chưa đầy đủ, sâu sắc, thiếu cảnh giác trước âm mưu “diễn
biến hồ bình” của các thế lực thù địch và “tự diễn biến”, “tự chuyển hố”
trong nội bộ. Cơng tác bảo vệ an ninh trong một số lĩnh vực cịn có những


2
thiếu sót; xử lý tình hình phức tạp nảy sinh ở cơ sở có lúc, có nơi cịn bị động,
tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở một
số địa bàn còn diễn biến phức tạp. Việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với
củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, đặc biệt là tại các vùng
chiến lược, biển, đảo cịn chưa chặt chẽ. Cơng nghiệp quốc phòng, an ninh
chưa đáp ứng yêu cầu trang bị cho các lực lượng vũ trang…
Vì vậy, tơi chọn đề tài: “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” làm báo cáo thu hoạch mơn học.

2. Mục đích nghiên cứu
Thơng qua việc tìm hiểu kinh nghiệm dựng nước, giữ nước của dân tộc
ta, quan điểm của Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ
Tổ quốc, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình hiện nay. Đồng thời thống nhất nhận thức để thực hiện các giải pháp
nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam. Qua đó mỗi cá nhân cùng tồn
Đảng, tồn dân, tồn qn, hệ thống chính trị nhất quán thực hiện tốt nhiệm
vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình hiện nay.
3. Kết cấu của bài thu hoạch
Ngoài mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung bao gồm 4
mục: (1) Kinh nghiệm dựng nước, giữ nước của dân tộc ta; (2) Quan điểm của
Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc; (3) Quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ Tổ quốc từ năm 1986 đến trước
Đại hội XII. (4) Mục tiêu và giải pháp bảo vệ Tổ quốc của Đảng CSVN trong
tình hình mới.


3
NỘI DUNG
1. Kinh nghiệm dựng nước, giữ nước của dân tộc ta
Phát huy truyền thống quý báu của ông cha trong công cuộc dựng nước
và giữ nước. Nhiều kinh nghiệm quý báu đã được đúc kết, kết tinh thành sức
mạnh dân tộc. Có thể nêu ra một số kinh nghiệm chủ yếu sau:
- Quyết tâm bảo vệ toàn vẹn cương vực lãnh thổ, chủ quyền quốc gia
và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Đây là điều thiêng liêng nhất, bất khả
xâm phạm, khơng ai có quyền mang đi đánh đổi hoặc để rơi vào tay kẻ thù.
Sự kiện lịch sử năm 179 trước CN, cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
nhà Triệu bị thất bại, nước ta liên tục bị các triều đại phong kiến phương Bắc
từ nhà Triệu, Hán, Lương nhà Tuỳ, Đường đô hộ (từ năm 179 tr CN đến năm
938). Đây là thời kỳ thử thách hết sức nguy hiểm đối với sự mất còn của dân

tộc ta. Nhưng cũng chính trong thời gian mất nước, nhân dân ta đã nêu cao
tinh thần bất khuất, kiên cường và bền bỉ, đấu tranh bảo tồn cuộc sống, giữ
gìn nền văn hố dân tộc và quyết đứng lên đấu tranh giành lại độc lập dân tộc.
Bám chặt vào làng xã, đoàn kết đùm bọc lẫn nhau, nhân dân ta đã đấu tranh
có hiệu quả chống lại chính sách nơ dịch và đồng hố của kẻ thù. Quyết tâm
bảo vệ Tổ quốc được thể hiện rõ trong bài thơ của Lý Thường Kiệt: “Nam
quốc sơn hà Nam đế cư; Tiệt nhiên định phận tại thiên thư; Như hà nghịch lỗ
lai xâm phạm; Nhữ đẳng hành khang thủ bại hư”. Trong Hịch tướng sỹ, Trần
Quốc Tuấn đã lên án gay gắt tội khơng chú ý đến việc giữ gìn quốc thể: “Nay
các ngươi nhìn chủ nhục mà khơng biết lo, thấy nước nhục mà không biết
thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu qn giặc mà khơng biết tức; nghe nhạc
thái thường để đãi yến ngụy xứ mà không biết căm...; chẳng những thân ta
kiếp này bị chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tên xấu cịn
lưu, mà thanh danh các người cũng khơng khỏi mang tiếng là tướng bại trận”.
Khi căn dặn sứ thần sang nhà Minh địi đất, Vua lê thánh Tơng đã chỉ rõ:
“Một thước núi, một tấc sông của ta lẽ nào lại nên vứt bỏ?. Ngươi phải kiên


4
quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ khơng nghe, cịn có thể sai sứ
sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một
thước, một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc thì tội phải tru di”.
- Lo giữ nước từ khi nước chưa nguy. Sau chiến thắng Bạch Đằng, đã
mở ra một kỉ nguyên độc lập, tự chủ của dân tộc. Các triều đại phong kiến đã
chú trọng chăm lo xây dựng đất nước, thực hiện giữ nước từ khi nước chưa
nguy. Điển hình là vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Trong
chiếu dời đô, Lý Công Uẩn viết “Thành Đại La ở giữa khu vực đất trời, có thế
rồng cuộn hổ ngồi, giữa ở nam, bắc, đơng, tây, tiện hình thế núi sơng sau
trước,... Làm như thế cốt để mưu việc lớn, chọn chỗ ở giữa làm kế cho con
cháu mn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân…”. Rời đô về Thăng

Long, không chỉ nhằm xây dựng kinh đô là trung tâm chính trị, kinh tế, văn
hóa ...mà đó là tầm nhìn bảo vệ đất nước của Lý Công Uẩn. Năm 1075, biết
tin nhà Tống chuẩn bị phát binh xâm lược Đại Việt. Nhà Lý đã dùng biện
pháp “tiên phát chế nhân”, đưa quân đánh sang Ung Châu, Khâm Châu và
Liêm Châu, phá chuẩn bị tiến công của giặc. Kế thừa tư tưởng của tiền nhân,
nhà Trần đã nhận thức sâu sắc mối đe dọa từ bên ngồi, do đó rất chăm lo việc
phòng bị đất nước. Tinh thần chủ động phòng giữ đất nước được thể hiện
trong thơ của Thái sư Trần Quang Khải: “…Thái bình tu chí lực; Vạn cổ thử
giang san” (Thái bình nên gắng sức; non nước mới ngàn thu). Tinh thần đó
được thể hiện trong ở “giảng võ đường”, “trường đua”, và diễn tập để nâng
cao sức chiến đấu cho quân đội và tinh thần cảnh giác của nhân dân.
-“Khoan thư sức dân” coi đó là kế sách lâu dài để giữ nước. Nhân dân
ta vốn có lòng yêu nước nồng nàn, và nhiều bậc hiền nhân đã quy tụ lòng dân
thành “thế trận” vững chắc, tạo nên sức mạnh tổng hợp giữ gìn non sơng.
Thời nhà Trần đã “khoan thư sức dân” coi đó là kế sách lâu dài để trị nước, đã
thực hiện “Chúng chí thành thành”, xây dựng thành lũy của lòng dân. Đã tạo
được bức trường thành vững chắc nhất trong lòng dân để giúp triều đình ba
lần đánh bại quân Nguyên, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Trong binh pháp của


5
Trần Quốc Tuấn đều chỉ rõ: lịng dân khơng chia, cả nước chung sức chống
giặc là nền tảng cho xây dựng lực lượng vũ trang thời nhà Trần. Mặt khác,
ông còn thấy rõ vai trò của nhân dân đối với sự phát triển tài năng của những
anh hùng xuất chúng. Theo ông, những vị anh hùng làm nên nghiệp lớn là dựa
vào sự giúp đỡ của nhân dân, bởi họ cũng từ nhân dân mà ra. Thời nhà Hậu
Lê, Nguyễn Trãi nhà quân sự, chính trị lỗi lạc của dân tộc đã có tư tưởng sâu
sắc về vai trị của nhân dân. Ơng nói: “Mến người có nhân là dân, mà chở
thuyền và lật thuyền cũng là dân”; “Việc thành bại của Nhà nước và nỗi vui
hay buồn của nhân dân, những việc ấy đều có liên quan đến nhau rất lớn”.

Đúng vậy, dựng nước và giữ nước là của dân, do dân, vì dân, nghĩa là dân là
chủ thể hoạt động của mọi lĩnh vực khinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa…Tư
tưởng đó của Nguyễn Trãi được rút ra từ thực tiễn cuộc sống lao động, sản
xuất của người dân và từ kinh nghiệm “hưng vong”, thành bại của các thời đại
trước và đặc biệt đã đánh giá đúng vai trị vị trí của “lịng dân”, “thế trận lòng
dân” trong lịch sử giữ nước của dân tộc. Do đó, Ơng và Lê Lợi đã động viên
nhân dân cả nước tiến hành khởi nghĩa vũ trang và phát triển thành chiến
tranh giải phóng, đồng thời coi đó là kế sách để xây dựng đất nước.
- Kết hợp chặt chẽ “Kiến quốc” với “Thủ quốc”. Bước vào thời kỳ độc
lập tự chủ, nhiều nhà nước phong kiến Việt Nam đã luôn thực hiện “dựng
nước đi đôi với giữ nước”, coi đó là quy luật sinh tồn của dân tộc. Vào thời
nhà Lý, thế nước Đại Việt khá vững mạnh là do công cuộc “kiến quốc” kết
hợp chặt chẽ với “thủ quốc”, trong đó điển hình là chính sách “ngụ binh ư
nông”. Xây dựng quân đội gắn liền với “tam nông” (nông nghiệp, nông dân,
nông thôn) dưới thời nhà Lý, nhà Trần, Hậu Lê, nhà Tây Sơn là một phương
thức kết hợp kinh tế với quốc phịng rất hiệu quả. Chính vì lẽ đó, quốc gia độc
lập, thống nhất, có nền kinh tế và văn hóa… ngày càng phát triển ngang hàng
với các nước trong khu vực. Ông cha ta đã thực hiện tốt kết hợp “kiến quốc”
với “thủ quốc”, để xây dựng “quốc phú, binh cường, nội yên, ngoại tĩnh”.


6
- Thực hiện “cử quốc nghênh địch”, phát huy sức mạnh của cả nước
để đánh giặc, trong đó lực lượng vũ trang làm nịng cốt. Ngay từ buổi bình
minh của lịch sử, nước ta đã phải chống lại những đội quân xâm lược hùng
mạnh đến từ phương Bắc để bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ của quốc gia.
Để đánh bại kẻ thù xâm lược, các triều đại phong kiến Việt Nam đã huy động
sức mạnh của nhân dân cả nước đánh giặc, thực hiện “cử quốc nghênh địch”.
Mỗi người dân là một người lính, đánh giặc theo cương vị, chức trách của
mình.. tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân liên hoàn, vững chắc làm cho địch

rơi vào trạng thái bị động, lúng túng và bị sa lầy). Thời nhà Tiền Lê, khi nhà
Tống phát binh xâm lược nước ta (năm 981), Lê Hoàn đã dựa vào sức mạnh
toàn dân để tổ chức kháng chiến, xây dựng hệ thống trận địa để chặn hướng
tiến công và đánh bại chúng. Thời nhà Lý, tư tưởng “cử quốc nghênh địch”
được thể hiện rõ trong cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ 2 (năm
1075-1077). Thời nhà Trần, đất nước ta đã phải 3 lần kháng chiến chống giặc
Nguyên - Mông (năm 1258, 1285,1288), tư tưởng “cử quốc nghênh địch” lại
phát triển lên một tầm cao mới làm cho kẻ địch ln bị động đối phó. Dựa
vào sức mạnh cả nước để đánh giặc, đồng thời rất chú trọng xây dựng lực
lượng vũ trang làm nòng cốt. Thời nhà Lý, nhà Trần, Hậu Lê, nhà Tây Sơn đã
xây dựng nhiều thứ quân và chú trọng chất lượng hơn số lượng.
- Thực hiện “bang giao hòa hiếu”, ngăn chặn “họa binh đao” cho đất
nước. Khát vọng hịa bình ln là ước mơ cháy bỏng trong tâm khảm của mỗi
người dân Đại Việt. Khát vọng đó được thể hiện rất rõ trong quá trình giữ
nước và dựng nước của các triều đại phong kiến Việt Nam. Khi đất nước bị
xâm lăng, mỗi người dân phải cầm vũ khí để tự vệ, nhưng vẫn thực hiện tư
tưởng “không đuổi cùng diệt tận những kẻ bại trận”, “mưu phạt cơng tâm”,
đánh vào lịng người để mn đời dập tắt chiến tranh. Khi đất nước hịa bình
thì thực hiện “bang giao hịa hiếu” để giữ n bờ cõi và cuộc sống thanh bình
cho mn dân. Tinh thần hòa hiếu để bảo vệ Tổ quốc được thế hiện khá đầy
đủ trong chủ trương của Lê Lợi, Nguyễn Trãi: “Nghĩ về kế lâu dài của nhà
nước; Tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh; Sửa hòa hiếu cho hai nước; dập tắt
muôn đời chiến tranh”.


7
2. Quan điểm của Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về bảo vệ Tổ quốc
Thời đại Mác-Ăng ghen, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên
ý tưởng khoa học và nó trở thành hiện thực năm 1917 khi cách mạng tháng

Mười Nga thành công. Kế thừa và phát triển tư tưởng của Mác-Ăng ghen, Lê
nin đã khẳng định: Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một đòi hỏi khách
quan của chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin chỉ rõ, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội
trước tiên ở một nước hoặc một số nước, làm cho giai cấp tư sản lo sợ cho số
phận của chủ nghĩa tư bản, cho đặc quyền kinh tế và chính trị của chúng,
chúng tìm mọi biện pháp để tiêu diệt chủ nghĩa xã hội. Do vậy, giai cấp công
nhân và nhân dân lao động phải tiến hành chiến tranh bảo vệ tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, đó là hợp lý và chính nghĩa. V.I.Lênin khẳng định: “Từ ngày 25
tháng 10 năm 1917, chúng ta là những người bảo vệ Tổ quốc… bảo vệ chủ
nghĩa xã hội với tính cách là Tổ quốc”. Vì vậy, Người tuyên bố: “Chúng ta tán
thành bảo vệ Tổ quốc, nhưng cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang đi
tới, là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Cống hiến
quan trọng của V.I.Lênin là ở chỗ, lần đầu tiên ông đã trình bày một cách hệ
thống học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Học thuyết bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa bao hàm những vấn đề cốt lõi nhất về mục tiêu, nhiệm vụ,
phương thức, lực lượng và sức mạnh bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, mối
quan hệ giữa bảo vệ với xây dựng tổ quốc… V.I.Lênin chỉ rõ nhiệm vụ bảo
vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải tiến hành ngay khi giai cấp vơ sản giành
được chính quyền, kéo dài đến hết thời kỳ q độ, cho đến khi khơng cịn
sự phản kháng của giai cấp tư sản. Người khẳng định: Khơng cầm vũ khí
bảo vệ nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa, thì chúng ta khơng thể tồn tại
được. Giai cấp thống trị khơng bao giờ nhường chính quyền cho giai cấp bị
trị. Nhưng giai cấp bị trị phải chứng minh trên thực tế rằng họ khơng những
có khả năng lật đổ bọn bóc lột, mà cịn có khả năng tự tổ chức, huy động
hết thảy để bảo vệ lấy mình.


8
Xuất phát từ quan điểm cho rằng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa là hoạt động tự giác của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,

V.I.Lênin khẳng định Đảng Cộng sản là người lãnh đạo công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Như vậy, một nhiệm vụ cơ bản, trọng
yếu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động sau khi giành được chính
quyền nhà nươc là cùng với sự nghiệp xây dựng đất nước phải bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được, làm thất
bại mọi âm mưu và thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch cả bên trong
và bên ngồi.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc. Kế thừa tinh hoa của
dân tộc, vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa vào tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Các vua Hùng đã có cơng dựng nước, Bác cháu ta
phải cùng nhau giữ lấy nước”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương kiên quyết
bảo vệ chính quyền và chủ quyền dân tộc, thực hiện nguyên tắc “dĩ bất biến
ứng vạn biến”, hết sức tranh thủ thời gian hịa hỗn xây dựng lực lượng mọi
mặt cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Người đưa ra hàng loạt các biện pháp xây
dựng và củng cố chính quyền cách mạng, tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc
hội, thông qua Hiến pháp năm 1946; kiên quyết chống “giặc ngoại xâm, giặc
đói, giặc dốt”,…Trong Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946,
Người nói: “Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ... Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!...”.
Cách mạng tháng Tám thành công, đất nước ta phải đối phó với cả thù
trong giặc ngồi, nhiều khó khăn chồng chất như “ngàn cân treo trên sợi tóc”,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với Đảng ta chủ trương “vừa kháng chiến, vừa
kiến quốc”. Với đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ”, từng
bước tạo nên sự chuyển hoá cả về thế, thời và lực để đánh bại thực dân Pháp
xâm lược. Trong kháng chiến chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
đinh: Khơng có gì q hơn độc lập tự do; Hễ còn một tên xâm lược trên đất


9

nước ta, thì ta cịn phải tiếp tục chiến đấu qt sạch nó đi. Chủ tịch Hồ Chí
Minh hết sức coi trọng xây dựng các tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, xây dựng tinh thần kháng chiến của toàn dân. Đồng thời chú trọng xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân (bộ đôi chủ lực, bộ đội địa phương, dân
quân tự vệ). Tích cực thực hiện các biện pháp ngoại giao, tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cách mạng nước ta lúc đó. Trong
thư trả lời Tổng thống Mỹ R.Nichxơn ngày 25 tháng 8 năm 1969, Chủ tịch Hồ
Chí Minh một lần nữa tiếp tục khẳng định: Nhân dân Việt Nam rất u
chuộng hịa bình, một nền hịa bình chân chính trong độc lập và tự do thật sự.
Nhân dân Việt Nam quyết chiến đấu đến cùng không sợ hy sinh gian khổ, để
bảo vệ Tổ quốc và các quyền dân tộc thiêng liêng của mình.
Học thuyết Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa bao gồm một hệ thống các quan điểm về tính tất yếu, nhiệm vụ
và nội dung bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cùng với các biện pháp trong
xây dựng, củng cố quốc phịng, …để có thể đánh thắng thù trong, giặc ngoài,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ Tổ quốc từ
năm 1986 đến trước Đại hội XII
Sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, thực hiện thống nhất
nước nhà, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân cả nước tiến vào giai đoạn cách
mạng mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Kế thừa quan điểm
bảo vệ Tổ quốc của Đại hội lần thứ IV, V của Đảng, Đại hội lần thứ VI (15
-18/12/1986, đánh dấu công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh
đạo) chỉ rõ: “Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, phát huy sức mạnh tổng
hợp của đất nước và xã hội, quyết đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại
nhiều mặt, đồng thời có kế hoạch đối phó thắng lợi với mọi tình huống do
kẻ thù gây ra. Chúng ta phải thấu suốt và thực hiện đúng quan điểm: toàn
dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc; toàn quân bảo vệ Tổ quốc và
xây dựng đất nước…”.



10
Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (24 - 27/6/1991) chỉ
rõ: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc;
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, sự ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội,
quyền làm chủ của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các
thế lực đế quốc, phản động phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường
xuyên của toàn dân...Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc
phòng, an ninh với kinh tế trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội... Xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân với số quân thường trực thích hợp theo
hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; với lực lượng dự
bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu, có sức chiến đấu cao. Phát triển đường
lối và nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân trong hoàn cảnh mới…”.
Đại hội lần thứ VIII (28/6 - 01/7/1996) của Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định: “Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chúng ta không một chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”. Để thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta ln coi trọng sự nghiệp quốc phịng, an
ninh, và chỉ rõ: Phát huy sức mạnh tổng hợp của tồn dân, của cả hệ thống
chính trị, từng bước tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước,
xây dựng vững chắc nền quốc phịng tồn dân, thế trận quốc phịng tồn dân
gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân; nâng cao chất
lượng các lực lượng vũ trang, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa; ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động gây mất
ổn định chính trị xã hội, xâm phạm độc lập chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, gây
tổn hại cho cơng cuộc xây dựng và phát triển đất nước; ngăn chặn có hiệu quả
và nghiêm trị mọi loại tội phạm, bảo đảm tốt trật tự, an toàn xã hội. Kết hợp
chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kết hợp quốc
phòng, an ninh với kinh tế. Gắn chặt nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an

ninh, hai mặt có mối quan hệ khăng khít trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa...


11
Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (19 - 22/4/2001) chỉ
rõ: “Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc. Sức mạnh
bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh của khối đại đoàn kết tồn dân, của cả hệ thống
chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng,…Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc
phòng và an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Phối hợp quốc phòng, an ninh
với hoạt động đối ngoại. Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia
và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà
nước và tồn dân, trong đó Qn đội nhân dân, Cơng an nhân dân là lực
lượng nòng cốt. Xây dựng Quân đội nhân dân, Cơng an nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,…; có trình độ sẵn sàng chiến đấu và
sức chiến đấu ngày càng cao, thường xuyên cảnh giác, kịp thời đập tan mọi
âm mưu và hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc và an ninh quốc gia; ngăn chặn và đẩy lùi các tội phạm nguy hiểm và
các tệ nạn xã hội, bảo đảm tốt trật tự an toàn xã hội”.
Kế thừa các quan điểm trên, Đại hội lần thứ X của Đảng (18 25/4/2006) khẳng định: “Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã
hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn
hố và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn
định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu,
hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ...”. Đại hội lần thứ
XI (19/01/2011) của Đảng tiếp tục khẳng định: “Nhiệm vụ quốc phòng, an

ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời;
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn
định chính trị, trật tự, an tồn xã hội; chủ động ngăn chặn làm thất bại mọi âm


12
mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với
các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính tồn cầu, khơng để bị
động bất ngờ trong mọi tình huống”.
Như vậy, xuất phát từ tình hình thế giới, khu vực, trong nước ở từng
giai đoạn cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa kinh nghiệm của
dân tộc, vận dụng sáng tạo Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để
đề ra quan điểm bảo vệ Tổ quốc qua các kỳ đại hội. Những quan điểm đó đã
thể hiện ý chí, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc trên mọi phương diện của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân và được kế thừa, phát triển trong Văn kiện Đại hội
lần thứ XII của Đảng.
4. Mục tiêu và giải pháp bảo vệ Tổ quốc của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong tình hình mới
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc. Sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
là nguyên tắc được khẳng định trong Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, đồng thời cũng là kinh nghiệm được thực tiễn lịch sử khẳng
định. Đảng Cộng sản Việt Nam trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
không thông qua một khâu trung gian nào, được thực hiện rất chặt chẽ, khoa
học, đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới cơ sở. Trong tình hình mới, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ Tổ quốc được thể hiện:
4.1. Về mục tiêu bảo vệ Tổ quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam
Việt Nam luôn coi việc giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn
vẹn lãnh thổ và mơi trường hồ bình, ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội
để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất

nước, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi
ích cao nhất của đất nước. Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định
mục tiêu bảo vệ Tổ quốc là: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp cơng nghiệp hóa,


13
hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ
vững mơi trường hịa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội”. Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc thể hiện tư duy mới của Đảng trong bối
cảnh quốc tế và trong nước có những thay đổi nhanh chóng, đan xen cả thời
cơ và thách thức. Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam bao gồm cả biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng
biển, đất liền của Tổ quốc. Quyết không để cho kẻ địch xâm phạm từng tấc
đất thiêng liêng của Tổ quốc ta. Bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân, đây là
những yêu cầu của hệ thống chun chính vơ sản. Tập trung vào bảo vệ
đường lối quan điểm của Đảng, bảo vệ hiệu lực quản lý của nhà nước và bảo
vệ quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Bảo vệ chế độ xã hôị chủ nghĩa, công
cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bảo vệ sự ổn
định chính trị, mơi trường hồ bình, làm cơ sở cho sự phát triển kinh tế theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo sự đồng thuận trong nhân dân thực hiện
cơng cuộc đổi mới thành cơng. Do đó, cần thực hiện có hiệu quả mọi chủ
trương, chính sách của nhà nước, nhất là trong xử lý những vấn đề phức tạp
hiện nay trên tinh thần: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và đi liền với
đó là phải giữ vững được mơi trường hịa bình, ổn định để tranh thủ mọi
nguồn lực nhằm xây dựng, phát triển đất nước bền vững hơn.
Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc được cụ thể trên một số lĩnh vực chủ yếu sau:
- Về chính trị: Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với toàn xã hội. Bảo vệ mọi thành quả
cách mạng Việt Nam đã giành đươc; giữ vững ổn định chính trị đất nước, đảm
bảo cho sự thành công của công cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bảo vệ và phát huy khối đại đoàn kết dân tộc, làm thất bại mọi âm mưu, thủ
đoạn của các thế lực thù địch hịng chia rẽ, phá hoại khối đại đồn kết toàn
dân tộc, đoàn kết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; vơ hiệu hóa mọi âm
mưu, thủ đoạn tập hợp lực lượng, hình thức tổ chức chính trị đối lập.


14
- Về kinh tế - xã hội: Bảo đảm cho nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả; không ngừng nâng cao
đời sống nhân dân; thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Đẩy lùi nguy cơ tụt hậu và
tái khủng hoảng; hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường; đấu tranh
hiệu quả với các tội phạm kinh tế, tệ tham nhũng, gian lận thương mại; thực
hiện triệt để tiết kiệm, chống lãng phí. Phát triển kinh tế - xã hội phải ln coi
trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Nước ta có điều kiện phát triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang
đặt ra hết sức cấp thiết.
- Về tư tưởng, văn hóa: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của xã hội ta là chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường tuyên truyền, giáo
dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ
quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc phòng - an ninh, làm cho mọi người
hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
trong điều kiện mới. Bảo vệ và phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân
tộc Việt Nam; kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc
chủ nghĩa xã hội, phủ nhận lịch sử, tuyên truyền những giá trị tự do, dân chủ,
nhân quyền tư sản, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập của các thế lực chống
phá chủ nghĩa xã hội.

- Về đối ngoại: Bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc trong quá trình mở rộng hợp tác và
hội nhập quốc tế. Chủ động tạo thế đứng ngày càng vững chắc và nâng cao vị
thế của nước ta trong khối ASEAN, trong khu vực và trên thế giới; tranh thủ
điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
- Về quốc phòng, an ninh: Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ an ninh quốc gia trên mọi lĩnh vực: an ninh
chính trị, kinh tế, văn hóa, chủ quyền, lãnh thổ, dân cư, môi trường… của


15
quốc gia. Tăng cường xây dựng quốc phòng, an ninh và tạo thế chủ động
ngăn ngừa, đẩy lùi đập tan các mưu đồ hành động chống phá hoặc gây chiến
tranh xâm lược của địch; giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định lâu dài để
phát triển đất nước.
4.2. Giải pháp thực hiện quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
Bảo vệ Tổ quốc
Một là, nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, thực hiện
thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của đất nước
Đây là giải pháp then chốt để thực hiện có hiệu quả chiến lược bảo vệ
Tổ quốc trong thời kỳ mới. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 khóa XI, XII; tăng cường sự đồn kết, thống nhất trong Đảng ở tất cả
các cấp. Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng công tác cán bộ. Tăng cường
cơng tác bảo vệ Đảng, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ. Tăng cường sự lãnh
đạo của các cấp ủy đảng, quản lý của các cấp chính quyền đối với nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc, với lực lượng vũ trang. Thực hiện thắng lợi các kế hoạch
phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, chủ trương xố đói, giảm nghèo của Đảng,
Nhà nước, không ngừng chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Kiên quyết khắc phục các nguy cơ của đất nước có thể xảy ra: chệch hướng

xã hội chủ nghĩa; tụt hậu xa hơn về kinh tế; nạn tham nhũng, lãnh phí; suy
thối đạo đức, lối sống… Tăng cường giáo dục quốc phòng cho toàn dân, làm
cho mọi người dân nhận thức được trách nhiệm của mình trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Quá trình xây dựng đất nước phải kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh
tế, văn hóa - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại,
tạo tiền đề vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Phát triển kinh tế nhanh,
bền vững; giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài, giữa phát
triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Phát triển nền kinh tế đúng định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ hội
nhập; từng bước khắc phục và đẩy lùi các nguy cơ chệch hướng, tụt hậu xa


16
hơn về kinh tế, nguy cơ tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Tăng cường đảm bảo
an ninh phục vụ hội nhập, chống “diễn biến hịa bình” trên lĩnh vực kinh tế,
văn hóa, tư tưởng. Có cơ chế thẩm định các dự án đầu tư nước ngoài; xác định
đối tác, lĩnh vực đầu tư, quy hoạch… Đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng,
tội phạm kinh tế, bảo vệ đội ngũ cán bộ ở các cấp. Tăng cường công tác đấu
tranh lý luận, phản bác các quan điểm sai trái thù địch; xây dựng và bảo vệ
những giá trị chuẩn mực văn hóa xã hội chủ nghĩa. Xây dựng mơi trường văn
hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tể thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Hai là, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Nam, là nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, phải tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền, mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân đối với việc củng cố và phát huy sức mạnh khối
đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Nhà
nước tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa quan điểm, đường lối, chính sách của

Đảng về đại đồn kết dân tộc. Thực hiện có hiệu quả các cơ chế chính sách,
đảm bảo phát huy vai trị của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hết
sức năng nề, do đó phải xây dựng được nền quốc phịng tồn dân, an ninh
nhân dân thực sự vững chắc, có sức mạnh thực sự đủ sức răn đe và bảo vệ độc
lập, chủ quyền, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ cuộc sống yên bình và hạnh
phúc của nhân dân. “Xây dựng thế trận lịng dân”, có sức quy tụ lịng người,
quy tụ mọi lực lượng vật chất và tinh thần, tạo nên sức mạnh to lớn. Đó là
mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau giữa “thế trận lòng dân” và nền
quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân trong tình hình mới, là kinh nghiệm
“giữ nước từ khi nước chưa nguy” trong tình hình mới. Kiên quyết đấu tranh
với tệ quan liêu, ức hiếp, vi phạm quyên làm chủ của nhân dân và các hoạt


17
động chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tập trung giải quyết mâu thuẫn,
tranh chấp, khiêu kiện trong nội bộ nhân dân, không để xảy ra xung đột. Mặt
trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị - xã hội phải chủ động, tích cực tun
truyền, giáo dục lịng yêu nước, tự hào dân tộc. Vận động các tầng lớp nhân
dân thực hiện các chính sách đền ơn đáp nghĩa, chính sách hậu phương quân
đội, xây dựng khu vực phịng thủ vững chắc. Thực hiện tốt chính sách dân
tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Tăng cường quản lý nhà nước đối với
hoạt động dân tộc, tôn giáo. Làm tốt công tác vận động người Việt Nam ở
trong nước và nước ngoài thực hiện tốt mọi chủ trương, đường lối của Đảng
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đấu tranh làm thất bại âm mưu của các
thế lực thù địch chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, củng cố vững chắc nền quốc phịng tồn dân và an ninh nhân
dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, có sức chiến đấu
cao

Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước, coi trọng xây
dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, thế trận lòng dân. Kết hợp chặt chẽ thế trận
quốc phịng tồn dân với thế trận an ninh nhân dân. Tăng cường nguồn lực
cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị cho quốc phòng, an ninh.
Quan tâm phát triển khoa học - công nghệ; nghệ thuật quân sự, an ninh và ứng
dụng các thành tựu khoa học vào huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu, đấu tranh
phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội. Chuẩn bị chu đáo các phương án động
viên nhân tài, vật lực cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh khi cần thiết.
Chủ động nắm chắc tình hình, đánh giá và dự báo đúng các tình huống
phức tạp có thể xảy ra, đặc biệt trên các vùng biển, đảo, biên giới, các địa bàn
chiến lược. Phát hiện kịp thời các âm mưu, hành động của các thế lực thù địch
để chủ động có phương án ứng phó, ngăn chặn, đẩy lùi từ xa và tích cực
chuẩn bị lực lượng bảo đảm giành thắng lợi khi tình huống xấu xảy ra. Xây
dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả các phương án phòng chống bạo
loạn, gây rối, khủng bố…các đề án bảo đảm an ninh chính trị, an ninh tư


18
tưởng - văn hóa, kinh tế, an ninh thơng tin. Kịp thời phát hiện, vơ hiệu hóa sở
của các tổ chức phản động, ngăn chặn các hoạt động xâm nhập an ninh quốc
gia, hoạt động gián điệp, tình báo của nước ngồi. Đấu tranh có hiệu quả với
các hoạt động chống phá của phần tử cơ hội chính trị; giải quyết dứt điểm các
vụ việc phức tạp ngay tại cơ sở, khơng để lan rộng trở thành điểm nóng về an
ninh trật tự xã hội. Tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân và Cơng an nhân
dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nâng cao ý thức
trách nhiệm, lịng trung thành, bản lĩnh chính trị cho cán bộ, chiến sĩ quân đội.
Tiếp tục điều chỉnh tổ chức qn đội, cơng an để có cơ cấu cân đối, tinh, gọn,
cơ động, có sức mạnh chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình
hình mới.
Bốn là, các bộ, ngành, địa phương tích cực, chủ động cụ thể hóa

quan điểm của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Các bộ, ngành, địa phương phải tích cực, chủ động cụ thể hóa quan
điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới trên tinh thần tự lực, tự
cường, phát huy thế mạnh của từng đơn vị. Nghiên cứu cụ thể hóa quan điểm
của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong các chiến lược cơ bản, trọng yếu, mang
tính tổng hợp và tồn diện nhất của quốc gia (Chiến lược phát triển kinh tế xã hội và Chiến lược bảo vệ Tổ quốc), trên cơ sở đó khẩn trương xây dựng,
ban hành Chiến lược quốc phòng, Chiến lược ngoại giao, Chiến lược phát
triển cơng nghiệp quốc phịng...
Trước hết, mỗi bộ, ngành, địa phương phải hoàn thành tốt mọi nhiệm
vụ theo chức trách của mình, đồng thời tăng cường cơng tác thơng tin, tun
truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Nâng cao năng lực quản lý Nhà nước trong
xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch xây dựng, củng cố quốc phòng, an
ninh, kế hoạch phòng thủ đất nước, kế hoạch động viên quốc phòng. Tăng
cường sự quản lý tập trung thống nhất của chính quyền nhà nước các cấp
trong kiểm tra, thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường


19
sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với công tác quản lý biên
giới, hải phận, không phận; quản lý bí mật quốc gia; quản lý xây dựng lực
lượng vũ trang; quản lý xây dựng và phát triển cơng nghiệp quốc phịng; quản
lý xây dựng các tiềm lực quốc phịng, an ninh...Trong q trình cụ thể hóa
quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc phải gắn với cơng tác xây dựng các tổ
chức Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh, giữ vững và nâng cao sự lãnh
đạo của Đảng, phát huy được hiệu lực điều hành của Nhà nước và quyền làm
chủ của nhân dân. Các bộ, ngành, địa phương từ trung ương đến cơ sở cần
tiến hành công tác luyện tập, diễn tập và động viên quốc phòng theo tinh thần
các Nghị định 116, 119 của Chính phủ. Thường xuyên thanh tra, kiểm tra để
biểu dương, khen thưởng những đơn vị, cá nhân có việc làm đúng, làm tốt,

phát hiện những việc làm sai, những nơi làm chưa tốt để uốn nắn, chấn chỉnh
kịp thời. Cần tăng cường, thực hiện có nền nếp chế độ sơ kết, tổng kết, phát
hiện những vấn đề nảy sinh, kịp thời khắc phục hạn chế, khuyết điểm trong
thực tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh, góp phần
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
Thực hiện nhất quán đường lối đốỉ ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình hợp
tác và phát triển, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, là bạn, là đối tác tin cậy
và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Mở rộng quan hệ hợp
tác với các nước theo phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ,
“thêm bạn, bớt thù”, “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước”,...( ĐH
VIII) nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, đưa quan hệ hợp tác vào chiều
sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả trên cơ sở vừa hợp tác vừa đấu tranh nhằm
củng cố môi trường quốc tế ổn định, hịa bình phục vụ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục quán triệt triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị
quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) “Về hội nhập quốc tế”. Củng
cố phát triển quan hệ tốt với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, các
nước lớn, các nước bạn bè truyền thống. Củng cố, tăng cường quan hệ hữu


20
nghị hợp tác với các nước Đông Nam Á, nhất là trong cộng đồng ASEAN.
Coi trọng quan hệ và đan xen lợi ích chiến lược giữa các nước lớn. Chủ động,
tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phịng, an ninh trong khn
khổ pháp luật Việt Nam và quốc tế. Thúc đẩy quan hệ theo kênh đối ngoại
nhân dân. Đổi mới nội dung, hình thức nâng cao hiệu quả công tác thông tin
tuyên truyền đối ngoại.
Cùng với việc giữ vững ổn định chính trị bên trong, cần quan tâm và
tiến hành mọi hoạt động cần thiết để tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện chiến lược đối ngoại linh

hoạt, mềm dẻo, có nguyên tắc để thêm bạn, bớt thù, tăng đối tác, giảm đối
tượng chống phá Việt Nam. Thực tiễn cho thấy, trong những điều kiện nhất
định, thực hiện tốt cơng tác đối ngoại có thể tháo gỡ kịp thời “ngòi nổ” chiến
tranh, ngăn ngừa xung đột, chiến tranh từ sớm, từ xa. Cần thúc đẩy đối ngoại
quốc phịng, an ninh để góp phần tăng cường nguồn lực bảo vệ Tổ quốc, đồng
thời tăng cường sự tin cậy, với các nước đối tác và tranh thủ sự đồng tình, ủng
hộ của cộng đồng quốc tế đối với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


21
KẾT LUẬN
Trải qua hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã giành
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Chúng ta đã tranh thủ thời
cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là tác động tiêu cực
của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và tồn cầu, đẩy mạnh
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng
nhanh; bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện; đời sống nhân
dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đồn kết tồn dân
được củng cố, tăng cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
và chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội cơ bản
được giữ vững. Nhận thức về mục tiêu, yêu cầu bảo vệ Tổ quốc; về vị trí, vai
trị của quốc phịng, an ninh trong tình hình mới; về quan hệ đối tác, đối tượng
có bước phát triển. Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện
pháp phù hợp, bảo vệ được chủ quyền, biển, đảo, vùng trời và giữ được mơi
trường hịa bình, ổn định để phát triển đất nước. Quan hệ đối ngoại được mở
rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế được nâng cao. Những thành tựu đó đã tạo cho đất nước thế và lực

mới, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, nước ta vẫn đứng trước nhiều khó
khăn, thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp,
không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Bối cảnh cục diện thế giới diễn
biến phức tạp, khó đốn định. Cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 4, đã
tác động đến mọi mặt xã hội của con người. Đấu tranh dân tộc và giai cấp
vẫn diễn ra gay gắt nhưng với nội dung và hình thức mới hết sức phong
phú, đa dạng. Tồn cầu hóa trước hết về kinh tế vừa có tính tích cực và tiêu
cực đối với mọi quốc gia. Thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu bức


22
xúc như: chống khủng bố; chống biến đổi khí hậu toàn cầu; di dân tự do…
Thời cơ, vận hội phát triển mở ra rộng lớn, tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó
khăn, thách thức.
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là trách nhiệm
của toàn Đảng, toàn dân, các ngành, các cấp, lực lượng vũ trang nhân dân làm
nòng cốt. Để đảm bảo thắng lợi, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc phải quán triệt và
cụ thể hóa các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam vảo từng lĩnh vực cụ
thể của đất nước. Đồng thời, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc phải đặt dưới sự lãnh
đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý
tập trung, thống nhất của Nhà nước. Đó là vấn đề có tính ngun tắc, là nhân
tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tồ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới.


23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ VIII, Nxb CTQG, H 1996.
2. Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, Nxb CTQG, H 2001.

3. Đảng CS VN, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X, Nxb CTQG, H 2006.
4. Đảng CS VN, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, Nxb CTQG, H 2011.
5. Đảng CS VN, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII, Nxb CTQG, ST, H 2011.
6. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb khoa học xã hội. Hà Nội 1993
7. Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 7: Giáo dục quốc
phòng, an ninh, Nxb. L luận chính trị, H…
8. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình cao cấp lý luận chính
trị, Nxb CTQG, H 2018,
9. Hồ Chí Minh: Tồn tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
10. Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995,
11. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ X – XVII, Nxb Văn hóa, Hà Nội 1962
12. Hoàng Xuân Lãm, Lý Thướng Kiệt, Tập 1, Hà Nội 1994
13. Nguyễn Trãi Toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1976. tr 141 và 146
14. Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, Hà Nội 2004.
15.V.I Lênin, Toàn tập, tập, Nxb Tiến bộ, Matxkva, 1978, tr.145.
16. Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 51, Nxb CTQG - ST, Hà Nội 2007
17. Viện LSQS, Sự nghiệp và TT quân sự Hồ Chí Minh, Nxb QĐND, H.
1995.
18.Viện LSQS, Kế sách giữ nước thời Lý - Trần, Nxb QĐND, H.1994


×